Phân tích ý nghĩa chi tiết nồi cháo cám trong Vợ nhặt để thấy được những giá trị nhân văn vô cùng sâu sắc mà tác giả Kim Lân đã mang đến trong tác phẩm Vợ Nhặt.
Tóm tắt ý nghĩa chi tiết nồi cháo cámtrong Vợ nhặt
Nồi cháo cám là một chi tiết đắt giá và có ý nghĩa trong truyện Vợ nhặt:
- Thể hiện tình trạng cùng cực của người dân lao động trong nạn đói 1945; lên án, tố cáo thực dân, phong kiến.
- Thể hiện tình người cao đẹp đã cưu mang đùm bọc lẫn nhau giúp họ vượt qua được bóng tối đang bao trùm; đồng cảm, xót xa với các số phận bất hạnh.
- Khát vọng sống mãnh liệt của con người dù trong hoàn cảnh khắc nghiệt nhất.
- Khát khao hạnh phúc, mái ấm gia đình.
Dàn ý phân tích ý nghĩa chi tiết nồi cháo cám trong truyện Vợ nhặt
1. Mở bài
- Giới thiệu truyện ngắn Vợ nhặt của tác giả Kim Lân
- Dẫn dắt giới thiệu hình ảnh nồi cháo cám - chi tiết đặc sắc trong truyện Vợ nhặt.
2. Thân bài
* Vị trí, tình huống xuất hiện chi tiết nồi cháo cám
- Vị trí: Chi tiết nồi cháo cám xuất hiện trong bữa cơm đầu tiên khi gia đình bà cụ Tứ đón người con dâu mới là Thị - vợ Tràng.
- Tình huống: Nồi cháo cám là "món quà cưới" đặc biệt mà bà cụ Tứ chuẩn bị cho các con của mình.
* Ý nghĩa chi tiết nồi cháo cám trong Vợ nhặt
- Ý nghĩa tả thực:
+ Cháo cám là loại thức ăn vốn không dành cho con người.
+ Là hiện thân cho cái đói khát, thê thảm của con người trong nạn đói.
- Ý nghĩa biểu tượng: Nồi cháo cám biểu tượng cho tình yêu, tấm lòng của người mẹ dành cho con trai và con dâu của mình
- Hình ảnh nồi cháo cám còn góp phần bộc lộ những vẻ đẹp đáng quý bên trong mỗi nhân vật:
+ Bà cụ Tứ: Nồi cháo cám là một món quà đặc biệt mà bà cụ đã chuẩn bị để chào đón cô con dâu mới => Thể hiện tình thương con, sự quan tâm, trân trọng dành cho người con dâu, quan tâm đến những giá trị tinh thần của con.
+ Tràng: Chín chắn, trưởng thành và có trách nhiệm hơn với gia đình.
+ Thị: Bình tĩnh ăn từng miếng cháo cám, nói chuyện để xua đi không khí nặng nề của bữa cơm => Chủ động vun vén hạnh phúc gia đình.
3. Kết bài
- Khẳng định lại ý nghĩa của chi tiết nồi cháo cám trong truyện Vợ nhặt: phản ánh hiện thực nạn đói năm 1945, thể hiện tinh thần nhân văn sâu sắc.
TOP 3 bài văn phân tích ý nghĩa chi tiết nồi cháo cám trong truyện Vợ Nhặt
Ý nghĩa chi tiết nồi cháo cám trong Vợ nhặt mẫu số 1
"Một chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn", đó là một khẳng định của Macxim Gorki. Thật sự, giá trị của một tác phẩm không chỉ phản ánh qua cốt truyện hấp dẫn và nội dung tư tưởng sâu sắc mà còn do những tình tiết đắt giá mà tác giả đã mang vào trong tác phẩm của mình. Nhờ những tình tiết nhỏ ấy, người nghệ sĩ có thể truyền đạt những giá trị lớn, chủ đề, tư tưởng hoặc thông điệp ý nghĩa cho toàn bộ tác phẩm. Truyện ngắn "Vợ nhặt" của Kim Lân cũng đã xây dựng một tình tiết đắt giá như vậy, đó chính là hình ảnh nồi cháo cám của bà cụ Tứ.
Nồi cháo cám xuất hiện trong bữa cơm đầu tiên khi gia đình của bà cụ Tứ và anh cu Tràng chào đón cô con dâu mới một. Đó là một tình huống vô cùng đặc biệt. Mâm cơm trong những ngày đói thật là thê thảm: "giữa cái mẹt rách chỉ có độc một lùm rau chuối thái rối và một đĩa muối ăn với cháo". Trong bầu không khí vui vẻ sum họp, cảnh nghèo khó và đói kém hiện ra thật khiến người ta cảm thấy xót xa và đau lòng.
Bà cụ Tứ đã tự tay chuẩn bị "món quà cưới" cho các con của mình đó chính là nồi cháo cám đặc biệt này. Trong bữa cơm, cụ Tứ hào hứng giới thiệu "Tao có món này hay lắm cơ" và bà "lật đật chạy xuống bếp, lễ bễ bưng ra một cái nồi bốc lên nghi ngút". Bà cụ Tứ đặt tên cho nồi cháo cám là "Chè khoán đây, ngon đáo để cơ". Sự xuất hiện của nồi cháo cám trong mâm cơm gia đình cụ Tứ là hiện thân cho cơn đói khát đáng sợ của con người trong hoàn cảnh nạn đói thê thảm: phải ăn những thức ăn vốn không phải dành cho con người. Tuy nhiên, thông qua lời giới thiệu của cụ Tứ, nồi cháo cám trở thành một món ăn đặc biệt. Trong bối cảnh khốc liệt của nạn đói, khi con người đối diện với ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết, món cháo cám đại diện cho sự cố gắng mới có được và cũng là tấm lòng của người mẹ dành cho con.
Không chỉ gợi liên tưởng về hiện thực thê thảm của con người ngày đói, nồi cháo cám còn bộc lộ vẻ đẹp của những nhân vật trong truyện, từ bà cụ Tứ, anh cu Tràng cho đến người vợ nhặt. Bằng việc chuẩn bị món "quà cưới" và động viên các con trong bữa cơm, bà cụ Tứ đã khám phá sâu sắc tấm lòng yêu thương con của mình. Dù đang chịu đựng cảnh đói, bà vẫn quan tâm đến những giá trị tinh thần. Hành động chuẩn bị nồi cháo cám thể hiện sự trân trọng và yêu thương của bà cụ Tứ dành cho người con dâu mới. Nồi cháo cám trở nên đặc biệt không chỉ vì giá trị hay hương vị của nó, mà là bởi tình yêu thương và tấm lòng bao la của một người mẹ. Đến đây, người đọc không thể không cảm nhận được sự xúc động và lòng bồi hồi. Trong hoàn cảnh đói khát cực độ, tình yêu của người mẹ dành cho con vẫn không bao giờ thay đổi. Hơn nữa, người mẹ ấy còn gieo trồng niềm tin và hy vọng cho các con về một tương lai tươi sáng "ai giàu ba họ, ai khó ba đời".
Trải qua một sự thay đổi lớn, anh Tràng không còn là người đàn ông ngờ nghệch, vô tâm như trước đây nữa mà trở nên trưởng thành, chín chắn hơn rất nhiều. Trong bữa cơm ngày đói, khi ăn miếng cám "đắng chát và nghẹn ứ ở cổ", Tràng vẫn thể hiện sự điềm tĩnh và cách ứng xử khéo léo, tế nhị để không làm cho bữa cơm trở nên u ám bởi sự ám ảnh của đói khát. Bên cạnh đó, từ sự trầm tư của Tràng, ta có thể thấy rằng anh đã hiểu được hoàn cảnh gia đình, và bắt đầu nhận thức trách nhiệm của mình đối với vợ, mẹ và gia đình nhỏ của anh.
Thông qua chi tiết nồi cháo cám, ta có thể nhìn thấy một sự thay đổi đáng ngạc nhiên của người vợ nhặt. Cô không còn là một người lỗ mãng với những lời nói khó nghe, sự cứng cỏi như khi còn ở chợ huyện, mà khi trở thành dâu mới, cô trở nên dịu dàng và chuẩn mực hơn. Cô đã bị ngạc nhiên trước nồi cháo cám, nhưng cô không muốn làm mẹ chồng buồn lòng, vì vậy cô cố gắng nuốt miếng cháo đắng vào trong. Để làm tan đi không khí u ám trong bữa cơm, Thị đã tự ý kể về câu chuyện về việc phá kho thóc của người dân mạn Thái Nguyên, Bắc Giang. Có thể thấy rằng người vợ nhặt đã coi bà cụ Tứ và anh Tràng như gia đình, như người thân của mình. Mọi hành động và lời nói của Thị đều xoay quanh việc vun vén hạnh phúc gia đình và có lẽ cô đã sẵn sàng cùng gia đình vượt qua những khó khăn trong tương lai.
Có thể khẳng định rằng "nồi cháo cám" là một chi tiết vô cùng đắt giá trong truyện ngắn Vợ Nhặt. Không chỉ đóng góp vào sự phát triển của cốt truyện, tái hiện sống động về cuộc sống nghèo khó, túng quẫn của con người trong thời kỳ khó khăn mà nó còn chứa đựng giá trị nhân văn vô cùng sâu sắc. "Nồi cháo cám" giúp bộc lộ những phẩm chất cao quý bên trong các nhân vật, đó là vẻ đẹp của tình thương, khao khát sống và mong muốn hạnh phúc. Ngay cả khi đối mặt với ranh giới sống chết, đứng bên bờ vực của tử thần, con người vẫn dành cho nhau những tình cảm tốt đẹp, không ngừng hi vọng vào một tương lai tươi sáng.
Ý nghĩa chi tiết nồi cháo cám trong Vợ nhặt mẫu số 2
Đôi khi trong những tác phẩm lớn, người đọc sẽ không thể nào nhớ hết các tình tiết trong chuyện mà họ chỉ nhớ đến một chi tiết đắt giá đã là đủ rồi. Trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân, hình ảnh nồi cháo cám để để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả.
“Vợ nhặt” là một bức tranh toàn cảnh về cuộc sống khổ cực, thê thảm của người nông dân trong nạn đói lịch sử 1945. Điển hình cho những người dân trong thời kỳ này là gia đình anh Tràng. Trong hoàn cảnh nghèo đói đến vậy, việc anh lấy vợ đã gây lên sự ngạc nhiên cho nhiều người. Bởi giữa cảnh đói nghèo không lo được cho mình mà anh còn “rước cái của nợ ấy về”. Chính vì thế trong bữa cơm đón nàng dâu mới, hình ảnh nồi cháo cám khiến cho người ta không khỏi xót xa và thương cảm cho những số phận cùng khổ ấy. Qua chi tiết này, nhà văn muốn thể hiện tình yêu thương với con người và mơ ước về một tương lai tươi sáng, tốt đẹp hơn.
Trong khung cảnh nghèo đói của xã hội lúc bấy giờ, cả nhà lại ngồi với nhau bên nồi cháo cám. Bà cụ Tứ sợ con dâu buồn nên đã phân trần: “kể ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy nhưng nhà mình nghèo quá, cũng chả ai chấp nhặt gì lúc này”. Tình cảnh khốn khó ấy khiến cho người đọc không khỏi nghẹn ngào với bữa cơm đón nàng dâu thực sự thê thảm: “giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành”. Cả bà cụ Tứ, anh cu Tràng, vợ anh và cả người đọc đều hiểu bữa cơm như vậy không hề ngon một chút nào. Tuy nhiên cả ba người đều “ăn rất ngon lành” là vì nấy đều muốn thể hiện sự vui vẻ trong hoàn cảnh này.
Nhưng có lẽ đây cũng là niềm vui thực sự khi 3 con người ấy luôn muốn vượt lên trên cái nghèo đói hiện diện trước mắt để trân trọng niềm hạnh phúc đời thường. Bà cụ Tứ là một người mẹ đầy nhân hậu và bao dung, khi trong cảnh nghèo đói vẫn vui vẻ chấp nhận cô con dâu mới. Có lẽ vì điều này nên trong bữa cơm sáng, bà cụ đã nói toàn chuyện vui, chuyện tương lai để động viên các con: “Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà…. ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem…”. Những câu chuyện mà bà cụ nói đều là những điều tốt đẹp để hy vọng có một tương lai sẽ rộng mở hơn. Đây cũng là mong ước của tất cả mọi người trong thời kỳ khó khăn ấy.
Trong không khí vui vẻ của bữa cơm gia đình, bà cụ “lật đật chạy xuống bếp bưng ra một cái nồi bốc lên nghi ngút. […] vừa khuấy vừa nói: Chè đây! Chè khoán đây!”. Nhưng thực chất đó lại là một nồi cháo cám. Hình ảnh này được xem là một chi tiết đắt giá, nó vừa gợi lên cái nghèo đói cùng cực, vừa cho thấy tình người cao đẹp trong đó. Trong hoàn cảnh là nạn đói năm 1945, nhiều người không có nổi cám mà ăn, thì nồi cháo cám lại được xem là một món ăn cứu đói, là món ăn xa xỉ đối với nhiều người khác. Chính vì thế, mặc dù có chút thất vọng nhưng cả ba người không một ai chê trách. Cả 3 đều rất vui vẻ tiếp nhận nồi cháo cám. Mẹ Tràng thì đon đả khen “ngon đáo để”. Tràng dù cảm thấy nghẹn ứ nơi cổ họng nhưng vẫn cố gắng ăn để mẹ vui lòng. Còn người vợ thì “điềm nhiên và vào miệng”. Chi tiết này cũng cho thấy vợ Tràng đã chấp nhận hoàn cảnh, không còn trở nên đỏng đảnh như trước và thị đã thực sự sẵn sàng cùng gia đình vượt qua những tháng ngày khó khăn sắp tới. Có được những điều này có lẽ là do cả ba người cùng tin vào một tương lai sẽ tốt đẹp hơn sẽ đến với họ.
Có thể nói rằng, hình ảnh nồi cháo cám đã để lại những ấn tượng đậm nét trong lòng người đọc. Chi tiết này vừa có giá trị hiện thực lại vừa có giá trị nhân văn, nhân văn sâu sắc. Qua hình ảnh nồi cháo cám, người đọc hiểu hơn về tình cảnh nghèo đói, khốn khó của đồng bào ta trong nạn đói 1945. Tuy nhiên trong hoàn cảnh chết chóc nghèo đó, người ta vẫn thấy được tình người, tình yêu thương và lòng ham sống vô bờ bến. Tưởng chừng trong bờ vực của cái chết lay lắt ấy, người ta chỉ nghĩ đến những đau khổ, bất hạnh, nhưng không, ở hoàn cảnh ấy người đọc vẫn bắt gặp tình thương của một người mẹ dành cho con, tình cảm của người vợ đối với chồng và trách nhiệm của một người chồng đối với gia đình của mình. Tất cả đều cùng hướng đến một tương lai hạnh phúc và no đủ hơn.
Qua bút pháp tả thực cùng mới việc sử dụng những từ ngữ, hình ảnh dân dã và tượng trưng đã góp phần thể hiện sự thành công của tác phẩm. Những tài hoa trong nghệ thuật viết truyện của nhà văn Kim Lân cũng giúp người đọc hiểu và thông cảm cho những con người ở thời kỳ đó. Đồng thời, ta cũng thấy được tình cảm chân thành và tác giả đã dành cho những nhân vật của mình.
Ý nghĩa chi tiết nồi cháo cám trong Vợ nhặt mẫu số 3
Khả năng chạm đến trái tim người đọc của một tác phẩm văn học không chỉ dựa trên ngôn từ trau chuốt, mượt mà hay sử dụng từ ngữ đắc địa. Trên thực tế, một tác phẩm có thể làm cho người đọc ngấm và có những cảm nhận sâu sắc là nhờ có những "chi tiết đắt giá", điểm sáng làm bừng lên chủ đề của tác phẩm. Nam Cao đã đem đến chi tiết "bát cháo hành" đậm tính nhân văn trong truyện ngắn "Chí Phèo" và Kim Lân đã thành công khi đưa hình ảnh "nồi cháo cám" vào tác phẩm Vợ Nhặt trong bối cảnh nạn đói năm 1945 hoành hành. Chi tiết "nồi cháo cám" trong tác phẩm "Vợ Nhặt" có thể coi là dụng ý nghệ thuật và mang tính nhân văn sâu sắc.
Truyện tái hiện lại cuộc sống thê thảm, cùng cực của những con người đối mặt với nạn đói năm 1945. Kim Lân đã thành công trong việc khắc họa sống động hình ảnh bà cụ Tứ, anh cu Tràng và người vợ nhặt. Nhưng điều đặc biệt đáng chú ý là chỉ cần một chi tiết "nồi cháo cám" rất nhỏ ở giữa truyện đã có thể đẩy cao trào của sự đói khổ lên đỉnh cao và cũng đẩy tình yêu thương và lòng vị tha của người mẹ lên cao. Khi đọc xong tác phẩm truyện, người đọc không thể quên được chi tiết này và cảnh tượng nạn đói năm 1945 bỗng tràn ngập trước mắt người đọc khiến họ như bị ám ảnh.
Chi tiết "nồi cháo cám" đã được tác giả lựa chọn một cách khéo léo để đưa vào câu chuyện nhặt vợ của anh cu Tràng. Thời điểm này đã nói lên tất cả nỗi cơ cực, đường cùng của những nạn nhân năm 1945 và cũng qua đó mới thấy được tình thương yêu bao la, vô bờ bến của người mẹ. Mặc dù đang đối diện với cảnh đói khát, tình yêu thương vẫn không hề giảm đi, nó vẫn rực cháy, đôi khi ngấm ngầm chảy trong người.
Trong truyện, "nồi cháo cám" không xuất hiện trong một bữa ăn bình thường mà xuất hiện trong buổi sáng đầu tiên của "lễ ra mắt con dâu". Thực ra, như bà cụ Tứ đã nói "kể ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy nhưng nhà mình nghèo quá, cũng chả ai chấp nhặt gì lúc này". Tình cảnh đáng thương của sự khốn khổ và nghèo đói năm 1945 đã gợi lên trong lòng mọi người sự xót xa và đau đớn nghẹn ngào khôn tả.
Giữa thời kỳ đói nghèo, bữa cơm đón dâu thực sự là một cảnh tượng thê thảm: "giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành". Tuy nạn đói bao trùm nhưng mọi người đều nén trong lòng, không thể hiện nỗi đau ấy ra bên ngoài. Tâm trạng bà cụ Tứ trong bữa cơm ngày đói này có sự khác biệt so với bình thường. Nếu như ngày thường bà buồn bã, ủ rũ thì ngày hôm nay bà chỉ kể những câu chuyện vui và nói những điều thú vị. Đây có thể coi là sự thay đổi tâm lí đột ngột của một người phụ nữ nghèo khó. Dù đời sống của bà luôn đầy khó khăn nhưng bà luôn biết cách yêu thương và chiều chuộng con cái, kể cả khi gia đình có thêm một cô con dâu mới giữa hoàn cảnh đói khổ. Có thể nói những lời của bà cụ Tứ đã tạo nên hy vọng vào một tương lai tươi sáng của con người và đất nước.
Nhưng có một chi tiết chuyển biến để nhấn mạnh hình ảnh "nồi cháo cám" khiến người đọc không kìm nổi xúc động "bà lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi bốc lên nghi ngút. Bà lão đặt cái nồi xuống bên cạnh mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuấy vừa nói". Sau đó chính là lời thoại của chính bà cụ Tứ, lời thoại chan chat, nghẹn ứ ở trong lòng như chính "nồi cháo cám" ấy:
"Chè khoai đấy, ngon đáo để" và "Cám đấy mày ạ, xóm mình còn có khối người không có cám mà ăn ấy chứ". Một chi tiết thật đắt giá, một chi tiết gợi lên cái đói, cái nghèo đến cùng cực. Mặc dù ăn cháo cám nhưng ba mẹ con không ai than hay chê trách, ai cũng ăn một cách ngon lành. Bởi đây là nồi cháo yêu thương, nồi cháo đong đầy tình mẹ và nồi cháo của sự yêu thương và lòng vị tha. Người đọc sẽ thấy được rằng giữa cái đói nghèo cùng cực nhưng tình mẹ vẫn luôn bất diệt, luôn vĩnh cửu không bao giờ thay đổi. Bởi rằng trong suy nghĩ của bà cụ Tứ thì "Ai giàu ba họ, ai khó ba đời" nên bà vẫn luôn vạch ra trước mắt của hai đứa con một viễn cảnh tươi sáng nhất.
Chi tiết "nồi cháo cám" không chỉ mang giá trị hiện thực mà còn chạm đến trái tim người đọc, thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc. Về mặt hiện thực, "nồi cháo cám" tái hiện cuộc sống nghèo khó, khốn khổ đến cùng cực trong thời kỳ nạn đói năm 1945. Trong khung cảnh đó hiện lên những con người nghèo khổ đến tận cùng của xã hội, tưởng rằng sẽ không còn một lối thoát nào cho tương lai. "Nồi cháo cám" vẫn ám ảnh tâm trí người đọc cho đến ngày hôm nay, nó mang trong mình một sức mạnh ám ảnh khó lường. Bên cạnh đó, giá trị nhân văn của "nồi cháo cám" còn thể hiện ở tấm lòng của một người mẹ nghèo thực sự đáng quý trọng. Mặc dù cuộc sống đói khổ nhưng bà cụ Tứ luôn dành trọn trái tim yêu thương và sự chăm sóc ân cần nhất cho con cái.
Bên cạnh giá trị nội dung, chi tiết "nồi cháo cám" còn mang trong mình giá trị nghệ thuật vì nó là một chi tiết nghệ thuật mà tự nó đã mang trong mình giá trị đặc biệt. Nó làm cho cả truyện ngắn trở nên tươi sáng và ấm áp hơn ngay trong khung cảnh đói nghèo, khốn khó. Khi gấp trang sách lại, hình ảnh "nồi cháo cám" Lân vẫn mãi quẩn quanh trong tâm trí của người đọc. Nó thực sự là một sự ám ảnh, có sức mạnh lôi cuốn khó tin. Nạn đói năm 1945 và những con người trong thời kỳ đó đã vượt qua mọi khó khăn bằng tình yêu thương và lòng nhân ái tuyệt vời.
-/-
Trên đây là top 3 bài văn mẫu 12 hay nêu ý nghĩa chi tiết nồi cháo cám trong Vợ nhặt - một trong những chi tiết đắt giá mà Kim Lân đã xây dựng để khắc họa rõ nét tình cảnh nghèo đói, khốn khó của đồng bào ta trong nạn đói 1945. Mong rằng nội dung này sẽ là nguồn tài liệu hữu ích cho các em trong quá trình học văn lớp 12. Chúc các em làm bài tốt và đạt kết quả cao !