Phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ (Thạch Lam)

Xuất bản: 22/05/2019 - Cập nhật: 19/04/2024 - Tác giả: Giangdh

Phân tích Hai đứa trẻ của Thạch Lam để làm rõ niềm xót thương của tác giả đối với những kiếp người sống cơ cực, quẩn quanh, bế tắc ở phố huyện nghèo trước cách mạng.

     Phân tích Hai đứa trẻ của Thạch Lam để thấy được niềm xót thương của tác giả dành cho những con người sống cơ cực, khổ hạnh trong một cái huyện nghèo trước cách mạng, đồng thời là sự trân trọng đối với những mong ước tuy còn mơ hồ của họ.

Phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ (Thạch Lam)

Hướng dẫn làm bài phân tích Hai đứa trẻ

1. Phân tích đề

- Yêu cầu về nội dung: phân tích nội dung, nghệ thuật của tác phẩm truyện ngắn Hai đứa trẻ.

- Phạm vi tư liệu, dẫn chứng: các chi tiết, hình ảnh, nhân vật,... có trong văn bản truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam.

- Phương pháp lập luận chính: phân tích.

2. Luận điểm chính

Luận điểm 1: Bức tranh phố huyện lúc chiều tàn

Luận điểm 2: Bức tranh phố huyện lúc đêm khuya

Luận điểm 3: Hình ảnh chuyến tàu và tâm trạng chờ mong chuyến tàu đêm của Liên và An

3. Sơ đồ tư duy phân tích Hai đứa trẻ

Sơ đồ tư duy phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ

Xem chi tiếtSơ đồ tư duy Hai đứa trẻ đầy đủ các dạng bài

4. Kiến thức cơ bản về tác giả, tác phẩm

a) Tác giả Thạch Lam

- Thạch Lam (1910 - 1942) sinh ra trong một gia đình công chức, gốc quan lại đã đến hồi sa sút. Tuy sinh ra và học tập tại Hà Nội nhưng thuở nhỏ sống ở phố huyện Cẩm Giàng, Hải Dương.

- Sau khi đỗ Tú tài, ông thôi học về làm báo với hai anh và gia nhập Tự lực văn đoàn.

- Ông là người thông minh, trầm tĩnh, điềm đạm, đôn hậu và rất tinh tế.

- Năm 1942, nhà văn Thạch Lam ra đi khi mới ở độ tuổi 32 vì mắc phải căn bệnh lao phổi.

- Quan điểm sáng tác: Theo Thạch Lam văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực, nó tác động sâu sắc đến tư tưởng, tình cảm của con người.

- Thạch Lam hướng ngòi bút về phía lớp người lao động bần cùng trong xã hội đương thời, các sáng tác của ông thường hướng vào cuộc sống cơ cực của những người dân thành thị nghèo và vẻ đẹp nên thơ của cuộc sống thường nhật.

- Các tác phẩm chính: Gió đầu mùa (1937), Nắng trong vườn (1938), Sợi tóc (1942), Ngày mới (1939), Theo dòng (1941), Hà Nội băm sáu phố phường (1943),...

b) Tác phẩm Hai đứa trẻ

- Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác: Tác phẩm được gợi lên từ những số phận và cảnh đời riêng nơi phố huyện nghèo Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương là quê ngoại của nhà văn với những kỉ niệm xưa cũ một thời tuổi thơ. Tác phẩm in trong tập Nắng trong vườn (1938).

- Bố cục

+ Phần 1 (từ đầu đến "...cười khanh khách"): cảnh phố huyện lúc chiều xuống.

+ Phần 2 (tiếp đến "...cảm giác mơ hồ không hiểu nổi"): cảnh phố huyện về đêm.

+ Phần 3 (còn lại): cảnh chuyến tàu đêm đi qua phố huyện.

- Tóm tắt nội dung truyện ngắn:

Truyện ngắn Hai đứa trẻ là văn bản kể về hai nhân vật Liên và An cùng những người dân trong một phố huyện nghèo. Liên và An đã từng có một cuộc sống đầy đủ vui vẻ ở Hà Nội. Do bố mất việc, gia đình sa sút, hai đứa trẻ phải về sống nơi phố huyện - một cuộc sống nghèo khổ, đơn điệu. Hai chị em được mẹ giao cho trông cửa hàng tạp hóa nhỏ bên bến tàu của huyện. Trong một buổi chiều tà, Liên cảm thấy nơi đây buồn tẻ, chị ngắm nhìn những đứa trẻ con đi nhặt nhạnh những đồ thừa. Nhìn cuộc sống tàn lụi của chị Tí, bác Siêu, vợ chồng bác Xẩm xung quanh. Thế nhưng chừng ấy người sống trong bóng tối vẫn hy vọng cái gì đó tươi sáng hơn. Mong ước ấy vẫn được thể hiện qua sự mong đợi chuyến tàu đêm chạy qua phố huyện của cả hai chị em và những người buôn bán về đêm. Nhưng chỉ thoáng qua đó, đoàn tàu rầm rộ đi tới, chẳng được bao lâu lại vụt qua và chỉ còn lại đêm khuya - đêm ở trong phố, tịch mịch và đầy bóng tối.

c) Một số nhận định về Thạch Lam và truyện ngắn Hai đứa trẻ

Trong quá trình phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ, các em có thể khéo léo đưa vào một số nhận định hay về tác giả hoặc tác phẩm để bài viết của mình thêm hấp dẫn, tăng sức thuyết phục đối với người đọc.

- Có thể thấy ở “Hai đứa trẻ’’ truyện của xung đột giữa bóng tối và ánh sáng, bóng tối hay nghèo nàn và cô đơn, ánh sáng chỉ là ước mơ thoáng qua.

(Đỗ Đức Hiếu)

- “Truyện Hai đứa trẻ có một hương vị thật là man mác. Nó gợi một nỗi niềm thuộc về quá vãng, đồng thời cũng dóng lên một cái gì còn ở tương lại. Đây là một mẩu sinh hoạt hàng ngày và kéo dài của hai chị em đứa trẻ thay mẹ trông nom một gian hàng vặt ở một cái phố huyện, gần một cái ga xép. Đêm đêm có những bóng người bình thường lù mù đi qua trước gian hàng. Những bóng người ấy cũng lù mù như nhiều chấm lửa ở những nguồn ánh sáng quanh quất nơi phố huyện. Trong cái bốn bề chìm chìm nhạt nhạt, bỗng có những tiếng động mạnh và những luồng ánh sáng mạnh của một chuyến xe lửa kéo qua hàng ngày. Hai chị em đứa trẻ ngày nào cũng chờ một chuyến tàu đêm kéo qua rồi mới chịu đóng cửa hàng. Nơi thế giới quan của đôi trẻ ở một phố quê, hình ảnh đoàn tàu và cái tiếng còi tàu đã thành một thói quen của cảm xúc và của ước vọng. Đọc Hai đứa trẻ, thấy bận bịu vô hạn về một tấm lòng quê hương êm mát và sâu kín”

(Nguyễn Tuân viết trong Thạch Lam - Dưới bóng hoàng lan, Nxb Kim Đồng, 2/2006, tr 283-284)

- Câu chuyện của Thạch Lam để lại trong tâm hồn ta những dư vị đằm thắm của quê hương và một sự cảm thương man mác những cuộc đời thầm lặng như những chấm sáng lù mù bị nhòe đi trong bóng tối dầy đặc của một vùng quê tù đọng.

(Phan Cự Đệ)

- Thạch Lam đã chủ động nhốt, nén, dồn ép nhân vật của mình vào bóng tối nghệ thuật để dễ bề thể hiện nỗi thèm khát ánh sáng của họ. Trong nỗi khát thèm ấy, ánh sáng cao giá hẳn lên.

(Nhà văn Trần Quốc Toàn)

- Nét hiện thực rõ nhất trong tác phẩm Thạch Lam là đời sống của những người dân nghèo thành thị và nông thôn là những dằn vặt đấu tranh và đời sống tình cảm rất phong phú nhưng cũng vô cùng phức tạp của những con người tiểu tư sản (Tân Chi)

- “Gấp truyện ngắn lại, tôi còn như trông thấy bé An từ trong gian hàng nóng nực và đầy muỗi đi ra. Thế rồi An ngồi xuống chiếc chõng tre, "chiếc chõng nan lún xuống và kêu cót két". Cuộc sống sớm dấn thân vào những lo toan vật chất thường ngày đã tác động tới tâm hồn trẻ thơ từ nhiều phía và làm cho chúng trở nên cằn cỗi, trở nên vị kỉ - trẻ thơ không còn là trẻ thơ nữa. Mà qui luật của cuộc đời lại vốn ngặt nghèo: hoa không mọc thì cỏ dại sẽ tươi tốt. Liệu chúng ta có thể dửng dưng?”

(PGS. TS. Phạm Quang Trung)

- Bao nhiêu băn khoăn về nghệ thuật, bao nhiêu tư tưởng cũng như tình cảm rung động, lúc nào cũng chứa chất dồi dào trong tâm trí, cái kho tàng cuộc sống bên trong ấy rất sẵn châu báu mà chỉ cầm đến bút, Thạch Lam thấy dàn xếp theo hình thể của lời.

(Thế Lữ)

- Sức hấp dẫn chủ yếu của những trang viết Thạch Lam là ở tâm hồn dân tộc. Cái ngữ điệu nhỏ nhẹ mà man mác thi vị, những cảm xúc tinh tế của một tâm hồn dễ rung động như cánh bướm non.

(Nhà nghiên cứu Văn Tâm)

Lập dàn ý phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ

I. Mở bài

- Đôi nét về Thạch Lam: Một trong những cây bút tiêu biểu của Tự lực văn đoàn, ông có thế mạnh về viết truyện ngắn, văn chương ông rất thích hợp để thanh lọc tâm hồn.

- Hai đứa trẻ là một truyện ngắn trữ tình đượm buồn, bài ca về quê hương, đất nước.

II. Thân bài phân tích nội dung truyện ngắn Hai đứa trẻ

1. Bức tranh phố huyện lúc chiều tàn

a. Bức tranh thiên nhiên nơi phố huyện lúc chiều tàn:

- Toàn bộ cảnh vật được cảm nhận qua cái nhìn của Liên

- Âm thanh: + Tiếng trống thu không gọi chiều về, tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng, tiếng muỗi vo ve.

- Hình ảnh, màu sắc: + “Phương tây đỏ rực như lửa cháy”, “Những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”.

- Đường nét: dãy tre làng cắt hình rõ rệt trên nền trời.

- Nhịp điệu chậm, giàu hình ảnh và nhạc điệu

⇒ Khung cảnh thiên nhiên đượm buồn, đồng thời thấy được sự cảm nhận tinh tế

b. Cảnh chợ tàn và những kiếp người nơi phố huyện

- Cảnh chợ tàn:

+ Chợ đã vãn từ lâu, người về hết và tiếng ồn ào cũng mất.

+ Chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía.

- Con người:

+ Mấy đứa trẻ con nhà nghèo tìm tòi, nhặt nhanh những thứ còn sót lại ở chợ.

+ Mẹ con chị Tí: với cái hàng nước đơn sơ, vắng khách.

+ Bà cụ Thi: hơi điên đến mua rượu lúc đêm tối rồi đi lần vào bóng tối.

+ Bác Siêu với gánh hàng phở - một thứ quà xa xỉ.

+ Gia đình bác xẩm mù sống bằng lời ca tiếng đàn và lòng hảo tâm của khách qua đường.

⇒ Cảnh chợ tàn và những kiếp người tàn tạ: sự tàn lụi, sự nghèo đói, tiêu điều của phố huyện nghèo.

c. Tâm trạng của Liên

- Cảm nhận rất rõ: “mùi riêng của đất, của quê hương này”.

- Nỗi buồn thấm thía trước cảnh ngày tàn và những kiếp người tàn tạ:

+ Thương những đứa trẻ nhà nghèo nhưng không có tiền mà cho chúng.

+ Xót thương mẹ con chị Tí: ngày mò cua bắt tép, tối dọn cái hàng nước chè tươi chả kiếm được bao nhiêu, xót thương bà cụ Thi điên

⇒ Tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, có lòng trắc ẩn, yêu thương con người. Đây cũng là nhân vật mà Thạch Lam gửi gắm tâm tư của mình

2. Bức tranh phố huyện lúc đêm khuya

a. Sự đối lập giữa “bóng tối” và “ánh sáng”

- Phố huyện về đêm ngập chìm trong bóng tối:

+ “Đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối”.

+ “Tối hết con đường thẳm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng càng sẫm đen hơn nữa”.

⇒ Bóng tối xâm nhập, bám sát mọi sinh hoạt của những con người nơi phố huyện.

- Ánh sáng của sự sống hiếm hoi, bé nhỏ: khe sánh, quầng sáng, chấm lửa nhỏ, hột sáng…⇒ ánh sáng yếu ớt, le lói như những kiếp người nghèo khổ nơi phố huyện.

- Ánh sáng và bóng tối tương phản nhau

⇒ Bóng tối bao trùm trong khi ánh sáng chỉ mong manh, nhỏ bé ⇒ kiếp người nhỏ bé sống leo lét, tàn lụi trong đêm tối mênh mông của xã hội cũ.

b. Đời sống của những kiếp người nghèo khổ trong bóng tối:

- Những công việc hằng ngày lặp đi lặp lại:

+ Chị Tí dọn hàng nước

+ Bác Siêu hàng phở thổi lửa.

+ Gia đình Xẩm “ngồi trên manh chiếu rách, cái thau sắt để trước mặt”, “Góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu bật trong im lặng”

+ Liên, An trông coi cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu.

⇒ Cuộc sống nhàm chán, quẩn quanh, đơn điệu không lối thoát.

- Những suy nghĩ cũng lặp đi lặp lại hằng ngày: Mong những người phu gạo, phu xe, mấy chú lính lệ vào hàng uống bát che tươi và hút điếu thuốc lào.

- Vẫn mơ ước: “chừng ấy người trong bóng tối đang mong đợi một cái gì tươi sáng cho cuộc sống nghèo khổ hàng ngày của họ” ⇒ mơ hồ, tội nghiệp

⇒ Giọng văn: chậm buồn, tha thiết thể hiện niềm cảm thương của Thạch Lam với những người nghèo khổ.

3. Hình ảnh chuyến tàu và tâm trạng chờ mong chuyến tàu đêm của Liên và An

- Liên và An thức bởi:

+ Để bán hàng

+ Để được nhìn chuyến tàu đêm đi qua - hoạt động cuối cùng của đêm khuya.

- Hình ảnh đoàn tàu xuất hiện với dấu hiệu đầu tiên:

+ Liên cũng trông thấy “ngọn lửa xanh biếc”

+ Hai chị em nghe thấy tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi.

- Khi tàu đến:

+ Các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường.

+ Những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng.

- Khi tàu đi vào đêm tối:

+ Để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt.

+ Chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre.

⇒ Đoàn tàu xuất hiện với âm thanh sôi động và ánh sáng rực rỡ, mang đến phố huyện nghèo một thế giới khác, đó là thế giới mà Liên luôn mong ước.

- Ý nghĩa của hình ảnh chuyến tàu đêm:

+ Chuyến tàu xuất hiện chớp nhoáng rồi biến mất trong sự đợi chờ, mong mỏi của người dân phố huyện, mang đến nơi đây một không gian hoàn toàn khác, khác xa với sự tĩnh lặng, nhàm chán và đầy bóng tối nơi phố huyện nghèo.

+ Đoàn tàu chính là tia hồi quang gợi nhớ lại trong hai chị em những tháng ngày sung sướng, ấm no, hạnh phúc xa xưa.

+ Đoàn tàu mang đến hơi thở của một thế giới giàu sang, sung túc và nhịp sống nhộn nhịp, phồn hoa rực rỡ, khác hoàn toàn với cuộc sống nghèo nàn, mòn mỏi, tăm tối quẩn quanh tại phố huyện nghèo nàn.

+ Đó là chuyến tàu chở theo khát vọng, chuyến tàu của những mơ ước tương lai muốn thoát khỏi cuộc sống nhàm chán, tẻ nhạt hiện tại và thay đổi bằng một thế giới mới, tươi đẹp hơn, đầy ánh sáng hơn.

+ Thể hiện giá trị nhân văn sâu sắc và tấm lòng thương cảm của Thạch Lam tới những kiếp người nghèo khổ trong xã hội.

III. Kết bài

- Khái quát những nét đặc sắc về nghệ thuật làm nên thành công của truyện ngắn:

+ Thạch Lam đã thể hiện một cách nhẹ nhàng mà thấm thía niềm xót thương với những cuộc sống cơ cực quẩn quanh, tăm tối ở phố huyện nghèo những ngày trước Cách mạng bằng cốt truyện đơn giản, bút pháp tương phản đối lập, miêu tả sinh động những biến đổi tinh tế của cảnh vật và tâm trạng của con người, ngôn ngữ giàu hình ảnh, tượng trưng, giọng điệu thủ thỉ, thấm đượm chất thơ chất trữ tình sâu sắc.

- Hai đứa trẻ là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách văn chương của Thạc Lam: kết hợp hai yếu tố hiện thực và lãng mạn, văn phong trong sáng, giản dị mà thâm trầm.

>> Có thể bạn cần: Tuyển tập các đề văn về truyện ngắn Hai đứa trẻ - Thạch Lam

TOP 15 bài văn hay phân tích truyện Hai đứa trẻ của Thạch Lam

Đọc tài liệu sẽ gửi đến các em một số bài văn mẫu phân tích Hai đứa trẻ hay nhất để các em tham khảo qua đó bổ sung thêm vốn từ ngữ áp dụng vào viết bài được tốt hơn.

Phân tích Hai đứa trẻ ngắn gọn mẫu số 1

Thạch Lam cây bút văn xuôi lãng mạn tiêu biểu của văn học 1930 - 1945, các sáng tác của ông tập trung đi sâu khai thác vào cuộc sống đời thường, bình dị. Với những tác phẩm thường “truyện không có truyện” nhưng lại để lại những dư âm sâu sắc trong lòng người đọc về vẻ đẹp cuộc sống, tâm hồn con người. Hai đứa trẻ là một tác phẩm mang trong mình vẻ đẹp giản dị, sâu lắng như vậy. Tác phẩm được xuất bản năm 1938 in trong tập Nắng trong vườn. Tác phẩm là lát cắt hiện thực cuộc sống nơi phố huyện nghèo từ khoảnh khắc chiều tàn cho đến đêm khuya. Nhưng với ngòi bút tinh tế, Thạch Lam đã đi sâu khám phá vẻ đẹp của con người, cuộc sống nơi đây.

Mở đầu tác phẩm là khung cảnh thiên nhiên hết sức nên thơ nhưng đượm buồn với tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng, tiếng trống thu không văng vẳng vang lên, tiếng muỗi vo ve khắp nơi. Nếu có âm thanh cất lên cũng không mang lại sự tươi vui, rộn rã, ngược lại chỉ gợi lên sự tĩnh mịch của cảnh và sự ảm đạm của không gian. Gam màu chủ đạo của khung cảnh là màu đỏ như lửa cháy: “Phương tây đỏ rực như cháy và những đám mây hồng như hòn than sắp tàn”. Những sắc màu này thường gợi lên sức sống, sự ấm nóng như với bức tranh của Thạch Lam lại chỉ gợi lên sự lụi tàn, mặt trời sắp lặn, những đám mây cũng như hòn than sắp tàn. Sự ảm đạm, buồn rầu bao trùm lên cảnh vật khi bóng chiều dần buông.

Trong không gian của buổi chiều tàn, bức tranh sinh hoạt của con người hiện lên cũng chẳng mấy sáng sủa hơn. Chỉ có một âm thanh duy nhất xuất hiện “tiếng ồn ào cũng mất” khi chợ đã họp và vãn từ lâu, trả lại cho phố huyện sự tĩnh lặng vốn có. Trên nền chợ chỉ còn lại vỏ thị, vỏ bưởi, lá nhãn,… những thứ người ta bỏ đi sau một buổi chợ phiên. Những đứa trẻ con nhà nghèo vẫn cố tìm tòi, nhặt nhạnh những thứ còn sót lại trên mặt đất. Cuộc sống ở đây không chỉ buồn mà còn nghèo nàn, xơ xác. Không gian ấy khiến ta không khỏi ám ảnh và cảm thương cho những số phận, sinh linh tội nghiệp đang phải sống những ngày mòn mỏi ở nơi đây.

Liên là một cô gái mới lớn, tinh tế và nhạy cảm, trong khoảnh khắc của ngày tàn đã nhanh chóng nắm bắt những biến chuyển của thiên nhiên. Em cảm nhận thấy mùi vị của quê hương trong phiên chợ đã tàn: “một mùi ẩm mốc bốc lên trộn lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá…” ấy là mùi vị đã thấm sâu trong tâm hồn em, tâm hồn của một người gắn bó tha thiết, sâu nặng với quê hương.

Khi màn đêm buông xuống, cuộc sống nơi phố huyện vẫn tiếp diễn. Liên sửa soạn, vội vàng “thắp đèn, xếp những quả sơn đen lại” và nhẩm tính những món hàng đã bán được trong ngày. Rồi lần lượt chị Tí, bác xẩm, gánh phở bác Siêu xuất hiện. Chị Tí dọn hàng nước chờ đợi những khách hàng quá quen thuộc đi qua vào uống chén trà. Gánh phở bác Siêu lại là món ăn xa xỉ với người dân phố huyện, bởi vậy lúc nào cũng vắng khách. Bác xẩm gảy lên “mấy tiếng đàn bầu bần bật trong yên lặng” thu nhập chẳng đáng là bao. Hình ảnh cụ Thi điên có lẽ đã gây biết bao ám ảnh với người đọc, cụ triền miên trong cơn say, bước đi lảo đảo, dường như cụ tìm đến với hơi men để lãng quên thực tại cuộc sống nhàm chán, tẻ nhạt, để quên đi những nỗi đau của thực tế. Những người dân phố huyện vẫn gắng gượng sống qua ngày, họ sống cuộc đời mòn mỏi, mà chưa thể tìm ra lối thoát cho chính mình. Họ cũng mang trong mình mơ ước “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì đó tươi sáng hơn…” nhưng đó chỉ là mơ ước mơ hồ, chập chờn, vu vơ, không có đích đến. Nhưng ước mơ đổi đời của những người dân phố huyện cũng được tác giả nâng niu, trân trọng.

Trong khoảnh khắc của ngày tàn, khi bóng tối đã ngập đầy mọi nơi, Thạch Lam một cách rất tinh tế đã tìm ra những khoảnh khắc đẹp đẽ, đầy lãng mạn của cảnh vật thông qua những cảm nhận nhạy bén của nhân vật Liên. Cô bé thích thú ngắm bầu trời đêm với ngàn sao lấp lánh, tưởng tượng đó là dòng sông ngân hà với hai con vịt đi theo chân thần nông. “Qua kẽ lá của cành bàng, ngàn sao vẫn lấp lánh; một con đom đóm bám vào dưới mặt lá, vùng sáng nhỏ xanh nhấp nháy rồi hoa bàng rụng xuống vai Liên khe khẽ…”. Liên quả là người có tâm hồn nhạy cảm và tinh tế, khi “đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối” em vẫn tìm thấy những nguồn sáng khác nhau từ thiên nhiên, cảm nhận cái rơi thật khẽ, thật êm của hoa bàng rụng. Liên tìm đến ánh sáng không phải là một điều ngẫu nhiên, ánh sáng ấy chính là mơ ước về một cuộc sống tốt đẹp hơn của Liên. Em tìm nguồn sáng xua tan đi bóng tối: khe sáng, hột sáng, quầng sáng… Nhưng những nguồn sáng ấy dù phong phú nhưng nhỏ bé, mong manh, yếu ớt, không đủ để xua đi bóng đêm. Đây đồng thời cũng là khao khát đổi đời để thoát khỏi cuộc sống quẩn quanh, bế tắc của thực tại.

Nhưng có lẽ đẹp nhất, rực rỡ nhất chính là khoảnh khắc khi đoàn tàu vụt qua phố huyện nghèo. Không ai ngủ, không ai về trước khi đoàn tàu đi qua, ai cũng cố thức để chờ đoàn tàu đến, không phải là để cố gắng bán thêm được thứ gì, vì hầu như không có ai mua, mà là bởi để thấy được chút ánh sáng của sự sống, của niềm tin, hi vọng. Cũng bởi vậy mà, mặc dù đã buồn ngủ nhưng An vẫn cố nhắc chị khi nào đoàn tàu đến hãy gọi em dậy, trong mong manh vô thức, An cũng có khao khát đổi đời như tất cả người dân nơi đây. Khi đoàn tàu xuất hiện, tiếng reo lên đầy vui sướng: “đèn ghi đã ra kia rồi”, hồi còi tàu hỏa kéo dài, làn khói sáng trắng xuất hiện từ phía xa. Đoàn tàu vụt qua mang đến biết bao âm thanh: “tiếng xe rít mạnh vào ghi”, “tiếng hành khách ồn ào khe khẽ”, “tiếng còi rít lên”, đó là sự náo nhiệt, ồn ã, đông vui trái ngược hẳn với sự tĩnh lặng của phố huyện. Trên các toa tàu sáng rực “các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường”, “đồng và kền lấp lánh” nó gắn liền với cuộc sống sang trọng, giàu có, trong phút chốc xua đi bóng tối, sự ảm đạm của cuộc sống nơi đây. Đoàn tàu đi qua, người ta vẫn cố nhìn theo đóm lửa xanh cho đến khi nó mất hẳn. Nếu đoàn tàu đi qua mang lại ánh sáng rực rỡ như sao băng thì giờ đây ở phố huyện chỉ còn lại vầng sáng nhỏ bé, leo lét, đêm tối lại bao bọc xung quanh. Đoàn tàu là hình ảnh của quá khứ, của Hà Nội, gợi về một thế giới thần tiên mà hai đứa trẻ từng được trải nghiệm, là biểu tượng của thế giới hạnh phúc mà hai đứa trẻ cũng như tất cả người dân phố huyện đang khao khát.

Cốt truyện đơn giản, hầu như không có cốt truyện nhưng giàu chất trữ tình đã ghi lại một cách chân thực và cảm động về mớ ước đổi đời của người dân phố huyện. Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên đặc sắc, với bức tranh nên thơ, lãng mạn mà đượm buồn. Ngôn ngữ nhẹ nhàng, tinh tế. Nghệ thuật tương phản đối lập giữa ánh sáng và bóng tối làm bật lên mơ ước đẹp đẽ của con người nơi đây. Nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng là điểm cần lưu ý, nhân vật Liên chú ý đi sâu miêu tả những trạng thái tình cảm, cảm xúc vừa cho thấy tâm hồn trong sáng, đẹp đẽ vừa cho thấy mơ ước về một cuộc sống khác ở em.

Bằng một truyện ngắn đậm chất trữ tình, Thạch Lam đã thể hiện niềm xót thương với những kiếp người nghèo nàn, sống quẩn quanh nơi phố huyện. Đồng thời tác phẩm cũng là sự nâng niu, trân trọng của nhà văn với những ước mơ đổi đời đẹp đẽ của con người nơi đây.

Phân tích Hai đứa trẻ học sinh giỏi mẫu số 2

Thạch Lam tên khai sinh là Nguyễn Tường Vinh, sau đổi thành Nguyễn Tường Lân, em ruột của hai nhà văn Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam) và Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long), xuất thân từ một gia đình công chức gốc quan lại. Ông nội nhà văn quê ở làng Cẩm Phô, Hội An, Quảng Nam, ra làm quan ở đất Bắc rồi sống luôn ngoài ấy. Thạch Lam sinh năm 1910, tại huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, quê mẹ. Lớn lên, ông học Trung học ở Hà Nội, rồi bỏ học đi làm báo, viết văn cùng các anh và trở thành một cây bút đắc lực của báo Phong hóa và Ngày nay. Sự nghiệp văn chương đang trên đà phát triển thì ông mắc bệnh lao và mất năm 1942, mới 32 tuổi.

Thạch Lam sáng tác không nhiều nhưng đủ để mọi người nhận thấy ông là một nhà văn có phong cách riêng trong sáng, giản dị mà thâm trầm sâu sắc. Mỗi truyện của ông giống như một bài thơ trữ tình, giọng điệu điềm đạm nhưng chứa đựng biết bao cảm xúc thương yêu con người và cảnh vật. Ông có nhiều đóng góp đáng quý cho sự nghiệp phát triển văn xuôi trước Cách mạng tháng Tám, đặc biệt trong thể loại truyện ngắn. Tác phẩm Thạch Lam để lại là truyện ngắn: Gió đầu mùa, Nắng trong vườn, Sợi tóc,… tiểu thuyết Ngày mới; bút kí Hà Nội 36 phố phường; tiểu luận: Theo dòng…

Truyện ngắn Hai đứa trẻ trích từ tập Nắng trong vườn (Nhà xuất bản Đời nay, Hà Nội, 1938). Cũng như những truyện ngắn khác, tác phẩm phản ánh những cảnh đời bề ngoài dường như không có gì đáng để ý, nhưng đi vào bên trong, nơi sâu lắng của tâm hồn thì mảnh đời nào, nhất là của tầng lớp nghèo khổ, cũng gợi lên bao nỗi xót xa, thương cảm, có lúc sâu sắc, tinh tế đến bất ngờ.

Hai đứa trẻ nói về hai chị em Liên và An. Chị độ mười hai, mười ba; em lên tám, lên chín. Gia đình trước ở Hà Nội, sau vì sa sút nên phải về quê ở phố huyện này. Mẹ bận làm hàng xay hàng xáo, giao cho hai chị em trông coi quầy hàng xén nhỏ xíu ở gần ga. Mẹ dặn phải thức cho đến khi xe lửa đi qua, may ra còn có người ở tàu xuống ghé mua hàng. Hai chị em ngồi trên chõng trước hiên chờ. Em buồn ngủ, ngả vào người chị nhưng vẫn nhắc hễ tàu đến thì đánh thức dậy. Chị ngồi nhìn quang cảnh xung quanh. Sự sống chỉ còn thu lại ở cái chõng hàng nước, một gánh phở, một gia đình nhà xẩm. Tất cả đều chìm trong bóng tối mênh mông, còn ánh sáng rực rỡ trên các toa tàu thì vun vút qua mau như từ một cõi nào xa lạ. Hai chị em trông theo làn ánh sáng ấy cho đến lúc nó khuất hẳn ở đằng xa mới đóng cửa đi ngủ.

Nội dung truyện chỉ có vậy nhưng cả một thế giới đã được gợi lên với niềm thương cảm sâu xa. Đó là một thế giới âm thầm, lặng lẽ trong bóng tối của đêm đen; bóng tối của sự nghèo nàn, khốn khó; trong im lìm quạnh quẽ của phố huyện xác xơ. Những đốm sáng lù mù, leo lét lại càng làm nổi rõ thêm màu sắc u ám của cuộc sống khốn cùng. Cũng như ánh sáng rực rỡ thoáng qua ở các toa tàu có vẻ như một ảo ảnh xa xôi không bao giờ dám mơ ước tới. Cái thế giới ấy hai đứa trẻ đã quen thuộc, hơn nữa, đã hòa nhập vào đó với tất cả tâm hồn.

Tác giả chia truyện ra làm ba phần theo trình tự chuyển biến của thời gian và không gian. Phần một là cảnh chợ chiều lúc vừa có tiếng trống thu không, hai chị em Liên đang còn loay hoay xếp dọn cửa hàng. Phần hai là quang cảnh phố huyện về đêm, bóng tối bao phủ khắp nơi. Dấu hiệu của sự sống chỉ còn là mấy ánh đèn. Phần ba là cảnh phố huyện lúc có chuyến tàu đêm vun vút chạy qua trong chốc lát cùng tiếng ồn và ánh sáng.

Câu chuyện diễn ra trong một khung cảnh thiên nhiên được cảm nhận ở cả hai chiều thời gian và không gian. Đó là khoảng thời gian rất ngắn, không gian có sự thay đổi từ cảnh chiều tàn cho đến khi màn đêm buông xuống và đất trời về khuya. Màu sắc của cảnh vật thì từ nhờ nhờ chuyển sang đen sẫm. Màu của cuộc sống ban đêm càng khuya càng tăm tối. Trên cái nền ấy nổi lên một số cảnh tình cứ xoáy mãi vào lòng người đọc. Đó là cảnh ngày tàn nơi phố huyện nhỏ bé, một phiên chợ tàn, một góc chợ đơn sơ, một quán nước nghèo nàn, những kiếp người cơ cực và hình ảnh đoàn tàu vụt qua trong đêm tối.

Mở đầu truyện là hình ảnh phố huyện lúc hoàng hôn được tác giả miêu tả bằng những câu văn có nhịp điệu thong thả, chậm rãi, cùng với những âm thanh, hình ảnh báo hiệu đã hết một ngày: Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời. Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve. Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen; đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị; Liên không hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn.

Các hình ảnh trên đều gợi cảm giác bâng khuâng, man mác.. Gọi là phố huyện nhưng là huyện nhỏ, hiệu lệnh phát ra từ một cái chòi chứ không phải là một tháp canh. Cái chòi bé tí lại lẩn vào dãy tre làng đang đen lại, vào lúc trời tây đỏ rực nhưng sắp tàn. Ngoài cánh đồng, tiếng ếch nhái kêu ran theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng của chị em Liên, tiếng muỗi vo ve. Liên bỗng dưng thấy cái buồn của ngày tàn thấm thìa vào tâm hồn khi ngồi bên cạnh những quả thuốc sơn đen, đôi mắt ngập đầy dần bóng tối.

Trong bức tranh chiều tàn nơi phố huyện có sự hoà trộn giữa hai loại hình ảnh: hình ảnh êm đềm, thi vị và hình ảnh gợi sự nghèo khổ, bần cùng. Chẳng hạn: tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều là thơ mộng; còn tiếng ếch nhái kêu ran, tiếng muỗi vo ve… thì đã gợi ra cuộc sống nghèo nàn nơi thôn dã. Thật ra, cũng khó mà nói cho rạch ròi nỗi buồn từ cảnh vật thấm vào lòng người hay nỗi buồn trong tâm hồn thơ ngây của hai chị em lan tỏa ra, nhuốm vào cảnh vật. Chỉ biết ở đây có một cái gì đó thật nhịp nhàng, hòa hợp giữa cảnh với người. Đoạn văn mở đầu vừa giàu hình ảnh, nhạc điệu, vừa uyển chuyển, tinh tế. Nó không những khiến người đọc hình dung ra cảnh vật mà còn khơi gợi tình cảm, xúc cảm trước thiên nhiên gần gũi, bình dị của quê hương.

Sau một ngày làm lụng cực nhọc, cái chờ đợi mọi người chỉ là bóng tối và sự vắng lặng, quạnh hiu. Cảnh chợ chiều đã vãn bộc lộ rõ cái nghèo: rác rưởi vung vãi trên nền chợ và những đứa trẻ lom khom tìm kiếm những gì có thể dùng được cho cuộc sống nghèo khổ của gia đình chúng. Đó là mặt trái, là một thứ bóng tối của chợ. Bấy nhiêu chi tiết đều tập trung vào xu thế thu nhỏ lại, lụi tàn đi của những cảnh vật ban ngày trước cái thế chiếm lĩnh, tràn dâng mỗi lúc một mạnh của những cảnh tình ban đêm mà bóng tối dần dần ngự trị. Mở đầu truyện là bóng tối, chấm dứt truyện cũng là bóng tối. Bóng tối mênh mang, phủ trùm lên tất cả cảnh vật và con người.

Lúc còn tranh tối tranh sáng, tuy các nhà đã lên đèn nhưng những nguồn sáng ấy không thể xua tan bóng tối, khiến những hòn đá nhỏ hãy còn một bên tối. Bắt đầu đêm thì đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối. Bác hàng phở lom khom nhóm lửa thì bóng bác mênh mang ngả xuống đất một vùng và kéo đến tận đàng xa. Chị em Liên ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc bàng với cái tối chung quanh. Toàn là bóng tối. Tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại đen sẫm hơn nữa. Trống cầm canh cũng đánh tung lên một tiếng ngắn rồi chìm ngay vào bóng tối. Lúc này, các cửa hàng cơm ở ga cũng im lặng, tối đen như ngoài phố. Con tàu với ánh đèn sáng trưng đi qua rồi thì đêm tối lại bao quanh, màn đêm của đất quê, của đồng ruộng mênh mang và im lặng. Chị em Liên cũng đi vào giấc ngủ tịch mịch và đầy bóng tối.

Bóng tối át cả ánh sáng. Vài ánh sáng thưa thớt, mờ nhạt khiến bóng tối lại càng dày đặc. Vệt sáng của những con đom đóm bay là là trên mặt đất hay len vào cành cây, cũng như hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh trên nền trời… Thứ ánh sáng xa vời ấy là sản phẩm của đêm, hòa tan trong bóng đêm. Đáng chú ý là ngọn đèn le lói trên chõng hàng nước của mẹ con chị Tí, bếp lửa thấp thoáng nơi gánh phở của bác Siêu, ánh đèn yếu ớt trong quầy hàng của chị em Liên và từ cái đèn lồng trong tay người nhà hiệu khách, từ chiếc đèn ghi xanh lét của nhà ga. Ngọn đèn trên chõng hàng nước của chị Tí chỉ là một quầng sáng nhỏ nhoi giữa mặt đất ngập tràn bóng đêm, dưới một bầu trời bao la thăm thẳm đầy bí mật. Bếp lửa của bác Siêu chỉ là một chấm lửa nhỏ và vàng, lơ lửng đi trong đêm tối, thoáng hiện, thoáng mất, chỉ làm cho bóng bác mênh mang. Ánh đèn trong cửa hàng chị em Liên thì thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên nứa. Ánh đèn lồng thì lung lay cái bóng đen dài của người cầm đèn. Chiếc đèn ghi thì lửa xanh biếc như ma trơi. Trong khi đó, chung quanh những điểm sáng leo lét ấy là cả một bóng tối đen kịt, mênh mông, vô tận. Những hột sáng, những chấm lửa ấy chỉ làm cho bóng đêm thêm dày đặc, âm u.

Trang sách nhuộm đầy bóng tối là để gắn vào cái khung tối tăm ấy những mảnh đời không kém tối tăm. Trong cảnh ngày tàn, chợ tàn, hiện lên những kiếp người tàn tạ, những kẻ kiếm sống ban ngày với phiên chợ như mấy bà bán hàng về muộn, mấy đứa trẻ nhặt rác, chị em Liên. Những người kiếm sống ban đêm quanh góc chợ và sân ga xép như mẹ con chị Tí, bà cụ Thi, bác phở Siêu, gia đình bác xẩm… Họ có chung cuộc sống tối tăm, nghèo đói, chung cảnh ngộ tẻ nhạt, buồn chán. Tuy vậy, trong tâm hồn họ vẫn ánh lên vẻ đẹp của tình người, tình quê hương và le lói một niềm hi vọng vào một ngày mai tươi sáng.

Sau khi phiên chợ chiều đã vãn, bóng tối chưa buông xuống nhưng những cuộc đời bóng tối đã hiện ra. Đó là mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ tranh nhau nhặt nhạnh tất cả những gì có thể dùng được, một thanh nứa, thanh tre hay bất kì cái gì. Đó là cuộc sống cùng khổ của chúng với những thứ mà người ta đã vứt đi.

Vào đêm thì có cuộc đời của mẹ con chị Tí với cái hàng nước đơn sơ. Ban ngày thì hai mẹ con mò cua bắt tép; từ chập tối cho đến đêm thì bán nước chè tươi, điếu thuốc lào cho dăm ba phu gạo, phu xe, mấy chú lính trong huyện hay người nhà thầy thừa, thầy lục, có khi chờ mãi mà chẳng thấy ai ra. Hai mẹ con vừa xách, vừa vác trên lưng, vừa đội trên đầu… vậy mà chỉ vẻn vẹn có cái chõng tre, vài mặt ghế, cái ấm mấy cái chén, chiếc điếu cày, nắm đóm… Thằng con loay hoay nhóm lửa nấu nồi nước chè. Nước, thuốc đã sẵn sàng. Chị Tí luôn tay phe phẩy túm lá chuối khô, bất giác thốt lên nỗi nóng lòng sốt ruột trước cảnh ế ẩm: Giờ muộn thế này mà họ chưa ra nhỉ? Dù rằng chị đã biết trước: Ối chao, sớm với muộn thì có ăn thua gì! Câu nói ngẫu nhiên mà giúp người đọc hình dung tận đáy cảnh sống của mẹ con chị, đã cơ cực mà chỉ còn trông cậy vào sự rủi may, một sự trông chờ cầm chắc là chẳng mấy hi vọng.

Nhưng mẹ con chị Tí vẫn có một chiếc ghế để ngồi, một ngọn đèn để soi sáng; còn gia đình bác xẩm thì nằm ngồi ngổn ngang ngay trong chiếc chiếu rách trải trên mặt đất. Thằng con nhỏ bò ra đất, cái thau sắt trắng chờ tiền thưởng trống trơn để trước mặt. Im lìm như một gia đình bò sát, nếu không có mấy tiếng đàn bầu bần bật nổi lên góp chuyện. Rồi sau đó không khách, không hát, không tiền, họ lăn ra ngủ luôn trên đất. Còn cảnh sống bí hiểm của bà cụ Thi, một bà cụ già hơi điên. Bà đến quán của chị em Liên với tiếng cười khanh khách quen thuộc, mua cút rượu (xị rượu), khen Liên rót đầy rồi ngửa cổ uống cạn sạch, lảo đảo bước đi, lẩn vào bóng tối và tiếng cười khanh khách nhỏ dần.

Ba cảnh đời trên của lũ trẻ ven chợ, của mẹ con chị Tí, của gia đình bác xẩm đều bị bóng tối của sự nghèo nàn, khốn khó phủ lên đen ngòm. Sự thê thảm lồ lộ, chẳng ẩn giấu chút gì. Riêng bà cụ Thi vẫn có tiền uống rượu, vẫn nói năng ôn tồn, âu yếm với cô bé bán hàng nhưng rượu thì nốc một hơi, lại cười khanh khách, không biết vì duyên cớ gì? Đêm đêm, chỉ thấy bà từ trong làng đi ra rồi lại lẩn vào bóng tối phía làng. Oan ức gì chăng? Buồn khổ gì chăng? Không rõ, nhưng chắc chắn bóng tối đã đè nặng lên cuộc đời bà, góp thêm một hình ảnh vừa lạ lùng vừa đáng sợ vào những cảnh đời - bóng tối ở phố huyện này.

Bác Siêu bán phở không xa nhưng cũng không gần các cảnh đời kia. Bác như dấu gạch nối giữa hạng người bần cùng với những hạng người khác trong phố huyện. Họ thấp thoáng ở nơi có người cầm đèn lồng đi đón bà chủ ở ga về, nơi có hội bài tổ tôm sát phạt nhau hàng chục bạc mà hạng người khốn khổ nằm mơ cũng không thấy nổi, nơi có lính tráng đánh trống thu không và mõ cầm canh. Cuộc sống khá giả của họ như tấm phông làm nổi bật những cảnh đói nghèo, như ánh sáng tương phản với bóng tối.

Trong bối cảnh của truyện, nét nào cũng tối đen: lũ trẻ ven chợ như loài dơi chờ xẩm tối mới mò ra, tìm cái sống ở bất cứ cái gì người ta vứt đi. Mẹ con chị Tí hàng nước kiếm sống ở sự chờ đợi rủi may. Gia đình nhà xẩm hầu như sắp lẩn mình vào đất. Bà cụ Thi hơi điên chứa chất một góc tối om trong sâu kín tâm hồn. Nhập chung lại thì toàn là những cảnh đời - bóng tối. Liệu còn le lói chút uớc mong nào không? Khung cảnh phố huyện giờ đây thu nhỏ lại nơi hàng nước của chị Tí, bởi ở đó còn có ngọn đèn tù mù, trong khi cả phố tối om. Chừng ấy con người trong bóng tối mong đợi một cái gì đó tươi sáng cho cuộc sống nghèo khổ của họ.

Trong bức tranh phố huyện lúc đêm về có một sự hòa trộn đầy dụng ý giữa ánh sáng và bóng tối. Ánh sáng thì chỉ là khe sáng, chấm sáng, hột sáng,… mà bóng đêm thì vừa dày đặc vừa mênh mông. Tối hết cả con đường ra sông, con đường vào làng, các ngõ càng thẫm đen hơn nữa. Tối đến mức dường như tiếng đàn bầu của bác xẩm và tiếng trống cầm canh của phố huyện tưởng chừng cũng không vang lên được. Điều này khiến người đọc phần nào hình dung ra những kiếp sống chìm khuất, mỏi mòn gần như bị bỏ quên nơi ga xép của phố huyện nghèo nàn, đồng thời gợi một niềm thương cảm sâu xa.

Diễn biến tâm trạng hai đứa trẻ trước khung cảnh thiên nhiên và bức tranh đời sống nơi phố huyện được nhà văn Thạch Lam miêu tả tỉ mỉ và ẩn chứa nhiều ý nghĩa. Chưa nói tới dụng ý của tác giả khi xây dựng hình tượng hai đứa trẻ và lấy đó làm nhan đề cho tác phẩm; hãy cứ biết đó là hai đứa trẻ với những đặc điểm của lứa tuổi thiếu nhi. Chị đã biết quý mến và hãnh diện với cái dây xà tích bạc vì nó tỏ ra chị là người con gái lớn và đảm đang. Như thế thì chưa hẳn là lớn mà vẫn vương chút trẻ con. Biết thay mẹ tính toán tiền nong, sắp xếp hàng họ, biết thương em, đó mới thật là cô gái lớn ngoan hiền.

Ngồi trước cửa hàng, Liên lặng lẽ cảm nhận khung cảnh chiều quê, tuy buồn bã nhưng thân thuộc, gần gũi và cảm thông, chia sẻ với những con người sống lay lắt nơi phố huyện nghèo. Hai chị em trước đây sống ở Hà Nội cùng gia đình, nhưng vì cảnh nhà sa sút nên mới dọn về đây. Mẹ mở một quán tạp hoá nhỏ xíu giao cho hai chị em trông nom. Ban ngày bán hàng, ban đêm đóng cửa cài then cẩn thận. Chập tối, mẹ ghé qua thăm, dặn các con phải thức đến lúc xe lửa đi qua mới được ngủ. Vì thế nên hai chị em Liên đã quen thuộc với con người và cảnh vật trong phố huyện, đã hòa nhập vào cuộc sống nơi này một cách hồn nhiên.

Trước hết là quen với bóng tối. Hà Nội nhiều đèn quá, một vùng sáng rực và lấp lánh, còn ở đây thì ngược tại. Màn đêm buông xuống, mắt Liên ngập dần bóng tối và Liên không hiểu sao, thấy buồn. Dần dần, Liên quen không sợ bóng tối mà còn chú ý đến những gì diễn ra và chứa đựng trong đó: thấy những hòn đá nhỏ trên đường một bên sáng một bên tối; cảm nhận mùi âm ẩm lẫn mùi cát bụi lúc chợ đã vãn mà tưởng là mùi riêng của đất này. Nhìn lũ trẻ nghèo nhặt nhạnh bất cứ cái gì trên nền chợ mà hai chị em động lòng thương. Khi mẹ con chị Tí mang vác cả hàng nước ra, Liên lặng lẽ quan sát từng cử chỉ một. Nghe tiếng cười khanh khách là Liên nhận ngay ra bà cụ Thi. Nhìn bọn trẻ nô đùa, An cũng muốn nhập bọn nhưng sợ trái lời mẹ dặn. Thấy một chấm lửa hiện ra rồi mất đi là hai chị em biết gánh phở bác Siêu thấp thoáng đằng xa. Lúc mọi nơi đều đã tối đen, ánh sáng từ ngọn đèn trong quán toả ra chỉ là vài hột sáng lọt qua phên nứa, thì hai chị em đã buồn ngủ ríu cả mắt. Khi đoàn tàu đã đi qua thì hai tâm hồn trẻ thơ ấy cũng rơi vào giấc ngủ tịch mịch và đầy bóng tối, giống như mọi người nghèo khổ khác ở phố huyện này.

Đêm nào Liên và An cũng cố thức cho tới giờ xe lửa chạy qua theo đúng lời mẹ dặn, nhưng còn vì một lí do đặc biệt khác. Có phải là các em chỉ đơn giản muốn được nhìn chuyến tàu, một hoạt động cuối cùng của đêm khuya? Không phải! Còn có cái gì đó sâu xa hơn nhiều đối với hai chị em và đám người khốn khổ ở phố huyện này. Với hai đứa trẻ, đoàn tàu là một thế giới khác hẳn với cuộc sống tù túng, tẻ nhạt hằng ngày của chúng.

Có lẽ chính vì vậy mà hình ảnh chuyến tàu được Thạch Lam tập trung miêu tả một cách tỉ mỉ, kĩ lưỡng qua tâm trạng chờ mong và cảm nhận của hai chị em Liên và An. Cách quan sát, miêu tả của Thạch Lam tinh tế và giàu tính nghệ thuật. Tác giả quan sát, miêu tả hình ảnh đoàn tàu đêm từ Hà Nội về theo trình tự từ xa đến gần bằng nhiều giác quan, bằng sự đan xen giữa hồi ức và thực tại.

Đoàn tàu chưa tới nhưng đã được báo trước bằng ánh đèn của người gác ghi và tiếng còi tàu từ xa vẳng lại. Liên trông thấy ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như ma trơi, rồi nghe thấy tiếng còi xe lửa trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió. Sau đó, nghe thấy tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi, kèm theo một làn khói bừng sáng trắng lên đằng xa… Thế rồi tàu rầm rộ đi tới, các toa đèn sáng trưng, những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh. Cuối cùng là cảnh đoàn tàu đi xa dần, mất hút trong đêm tối mênh mông, để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt, cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre…

Có một sự tương phản nổi bật giữa hình ảnh đoàn tàu - một thế giới khác mà chuyến tàu đêm mang qua phố huyện trong chốc lát và hình ảnh của sự trở về trạng thái lặng lẽ, tối tăm, không thay đổi nơi phố huyện. Một bên là sự hoạt động nào nhiệt cuối cùng của đêm và một bên là sự im lặng mênh mông của đêm tối, trong giấc ngủ và cả trong sự lãng quên. Chuyến tàu đêm sáng rực, vui vẻ và huyên háo, đầy hấp dẫn nhưng lại chỉ thoáng qua trong chốc lát rồi lại trả cuộc sống phố huyện về trạng thái mênh mang, yên lặng và đầy bóng tối. Điều đó dường như làm cho nỗi buồn càng thêm thấm thía trong tâm hồn hai đứa trẻ; để lại cho chúng sự khát khao, nuối tiếc khôn nguôi. Gần như đã thành nếp, những người dân nơi phố huyện chỉ chấm dứt hoạt động của một ngày khi chuyến tàu đêm đã đi xa.

Đối với chị em Liên, đoàn tàu đến từ Hà Nội gợi lại những kỉ niệm đẹp, nơi hai chị em đã sống thời thơ ấu êm ấm và sung sướng. Đó là cuộc sống ở một thời chưa xa, hoàn toàn khác với cuộc sống ở phố huyện buồn tẻ và nghèo nàn này. Đoàn tàu còn là hình ảnh của tương lai, nó khiến những người nghèo khổ hình dung ra một thế giới giàu sang, nhộn nhịp, đầy âm thanh và ánh sáng. Đối với người đọc, vẻ đẹp của đoàn tàu và thái độ háo hức, sung sướng đến lặng người của hai đứa trẻ khi ngắm đoàn tàu không chỉ đem đến một thoáng vui mà còn gợi thật nhiều bâng khuâng, thương cảm.

Đúng là hai đứa trẻ vui vì niềm khao khát, đợi chờ vừa được thỏa mãn. Nhưng đoàn tàu ấy lại thuộc về một thế giới quá xa xôi và nó càng sáng rực, vui vẻ, huyên náo thì càng làm cho khung cảnh nơi phố huyện trở nên tăm tối, buồn tẻ và chìm lặng. Chỉ có hình ảnh đoàn tàu lướt qua hằng đêm mà những người dân phố huyện ai cũng nôn nao chờ đợi. Người đọc cùng Thạch Lam thông cảm với tâm trạng của lớp người sống lầm lũi trong tăm tối, nghèo khổ. Tuy thế, truyện cũng nhen nhóm trong lòng người đọc hi vọng vượt lên sự tẻ nhạt, tầm thường của cuộc sống hằng ngày.

Nghệ thuật miêu tả và giọng văn của Thạch Lam trong truyện Hai đứa trẻ thật độc đáo. Tác giả miêu tả rất tinh tế sự biến đổi của cảnh vật và diễn biến tâm trạng của nhân vật. Cách miêu tả này góp phần quan trọng tạo nên không khí cho tác phẩm. Có sự tương ứng giữa thế giới ngoại cảnh (bức tranh phố huyện) với thế, giới nội tâm nhân vật (tâm trạng cô bé Liên) trong từng thời khắc: cảnh chiều buông thì người buồn man mác; cảnh đêm xuống thì người đợi chờ khắc khoải; cảnh đêm khuya, chuyến tàu đi qua thì người buồn tiếc, mơ tưởng, khát khao,… Tuy nhiên, ở một vài đoạn văn, tác giả miêu tả thế giới ngoại cảnh và thế giới nội tâm không thuần nhất mà có sự pha trộn vui buồn khó tả. Những hình ảnh êm đềm thi vị hoà trộn với hình ảnh nghèo nàn lam lũ; ánh sáng hoà trộn vào bóng tối; cái huyên náo chốc lát hoà vào cái im lặng mênh mông… Tất cả những cái đó kết hợp với nhau thật hài hoà, tự nhiên, làm nổi bật tâm trạng của nhân vật. Giọng văn Thạch Lam nhẹ nhàng, khách quan nhưng ẩn chứa một tình cảm xót thương thực sự đối với những con người nghèo khổ. Tình cảm nhân đạo của tác giả rất đáng trân trọng. Ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật của tác giả tinh tế mà vẫn rất tự nhiên, khiến người đọc khó quên.

Truyện ngắn Hai đứa trẻ là lời gợi nhắc về tình cảm gắn bó với nguồn cội, quê hương, với những kí ức đẹp mà buồn. Đó là tấm lòng nhân ái của nhà văn đối với những kiếp người nghèo khổ sống lam lũ, quẩn quanh, đơn điệu, mỏi mòn; là niềm trân trọng đối với từng mong ước nhỏ nhoi của những con người bất hạnh bị bỏ quên nơi ga xép của những chuyến tàu thời gian vô định.

Phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ, ta thấy đằng sau vẻ chân chất, dung dị lại là sự tinh vi, sâu sắc, rất đúng với phong cách Thạch Lam. Đi vào tác phẩm của Thạch Lam là đi vào thế giới tâm tình. Tình tiết của truyện đơn sơ nhưng chính những cảm nghĩ chân thành của nhà văn đối với những mảnh đời khốn khó khiến cho người đọc xúc động. Nhà văn Nguyễn Tuân đã nhận xét: Truyện “Hai đứa trẻ" có một hương vị thật là man mác. Nó gợi một nỗi niềm về quả vãng, đồng thời cũng dóng lên một cái gì còn ở trong tương lai… Nơi cái thế giới quan của một đôi trẻ ở một phố quê, hình ảnh đoàn tàu và tiếng còi tàu đã thành một thói quen của cảm xúc và của ước vọng. Đọc “Hai đứa trẻ" thấy bận bịu vô hạn về một tấm lòng quê hương êm mát và sâu kín. (Tuyển tập Thạch Lam, NXB Văn học - Hà Nội - 1998)

Phân tích Hai đứa trẻ (Thạch Lam) mẫu số 3: Bức tranh phố huyện – Sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối

Người đọc hẳn đã từng ám ảnh bởi bức tranh “xóm ngụ cư” mà Kim Lân đã vẽ ra trước mắt trong tác phẩm “Vợ nhặt” của mình. Một xóm ngụ cư với hiện thân đầy đủ của sự nghèo đói, chết chóc. Cũng đã từng bị ám ảnh bởi không gian làng Vũ Đại giữa buổi trưa hè nắng gắt với sự im lặng đến đáng sợ. Đến khi tìm hiểu truyện ngắn “Hai đứa trẻ” Thạch Lam dẫn người đọc tới một không gian khác, khung cảnh khác. Đó là khung cảnh của một phố huyện nghèo chìm trong bóng tối với những con người sống leo lét giống như thứ ánh sáng yếu ớt lúc ẩn, lúc hiện. Không gian Thạch Lam lựa chọn cho câu chuyện của mình, có phải chăng chính là vùng quê ông từng sống: Cẩm Giàng - Hải Dương.

Mở đầu tác phẩm, bằng sự cảm nhận từ nhiều giác quan khác nhau, tác giả đã mở ra cho người đọc thấy bức tranh phố huyện trong một buổi chiều tàn với những âm thanh, cảnh sắc của thiên nhiên nơi đây: tiếng trống thu không kéo dài từng hồi xa vọng để gọi buổi chiều. Động từ “gọi” đi với “từng tiếng một vang ra “của tiếng trống không làm người đọc cảm nhận sự náo nhiệt, tươi vui mà ngược lại có cái gì đó não nề, cứ như là đang đánh thức sự buồn tẻ của vùng quê này. Trong bức tranh của khoảng thời gian chiểu tà ấy, người ta còn nghe thấy âm thanh văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng, tiếng muỗi vo ve liên hồi, tiếng võng nan cót két, tiếng chó cắn... Biết bao thanh âm đã được tái hiện, đều là những thanh âm quen thuộc với làng quê Việt Nam, những phố huyện nghèo. Tất cả, được nhìn qua đôi mắt ngay thơ của cô bé Liên. Qua lăng kính của một cô bé 8 tuổi, không gian buổi chiều, một buổi chiều “êm ả như ru” đã được gợi ra một cách rất hoàn hảo. Thạch Lam đã sử dụng bút pháp lấy động tả tĩnh như trong thơ ca phương Đông để khắc họa nên một bức tranh làng quê nghèo tĩnh mịch, yên ả, bình dị mà nên thơ. Có đôi khi, những dòng văn Thạch Lam để lại khiến người đọc dễ dàng có liên tưởng tới một đoạn thơ trữ tình.

Trời đang ngả tối, có hoàng hôn nào đẹp bằng hoàng hôn quê mình. Cô bé Liên vẫn đang ở đây và ngắm nhìn khung cảnh bình yên đến vậy. Nét vẽ bóng tối hiện lên bằng nét ngược sáng của hoàng hôn với bóng tối đen sẫm của tre làng in trên nền trời. Những nguồn sáng chiếu ra ngoài phố chỉ còn là những vệt sáng lấm tấm lên cát lấp lánh từng chỗ trên con đường nhấp nhô một bên sáng, một bên tối. Nét vẽ ấy rất giản dị, chân thực mà lột tả được cái thần và hồn của bức tranh phong cảnh làng quê Việt Nam. Chính bức tranh thiên nhiên hết sức chân thực này đã giúp Thạch Lam xây dựng thành công những xúc cảm tâm hồn trong lòng cô gái nhỏ. Em bé ấy đang ở đây, nơi phố huyện nghèo này, mang trong mình những tâm sự, nỗi niềm của một đứa trẻ trưởng thành trước tuổi. Chính nơi phố huyện với những điều quẩn quanh này, khiến cho tâm trí của Liên thực sự không nghĩ được gì nhiều ngoài việc để cho những tháng năm dài chảy trôi như vậy.

Ngòi bút của Thạch Lam thật tài tình trong việc tả cảnh. Trong một buổi chiều tàn hiện lên cảnh một phiên chợ tàn đã vãn từ lâu: “người về hết và tiếng ồn ào cũng mất”. Cảnh chợ tàn góp phần thể hiện sự nghèo nàn, xơ xác của phố huyện. Ống kính cần mẫn của nhà văn lia qua phố huyện: trên đất chỉ còn “rác bưởi, bỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”. Cảnh còn được miêu tả bởi khứu giác tinh tế của nhà văn “một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Sự cảm nhận thật tinh tế! Mùi đất, mùi quê hương! Liên nghe từ những mùi vị tưởng chừng “không dễ chịu”. Nhưng đối với Liên, đó lại là mùi vị quen thuộc thấm vào trong suy nghĩ của chị. Liên vẫn luôn là một cô gái có trái tim nhạy cảm như vậy!

Những ám ảnh về ánh sáng - bóng tối là những ám ảnh người đọc gặp khá nhiều trong những tác phẩm văn học. Sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối nơi ngục tù trong cảnh cho chữ (Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân); sự đối lập giữa đêm tối và ánh đèn dầu trong tác phẩm “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân, mỗi bối cảnh, mỗi câu chuyện lại đem đến cho bản thân người đọc những ấn tượng khác nhau. Trong “Hai đứa trẻ”, Thạch Lam không biết vô tình hay hữu ý lại khiến người đọc thêm một lần nữa có những liên tưởng về sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối.

Những con người nhỏ bé nơi phố huyện dường như chìm nghỉm vào bóng tối nhiều như lúc này, phố huyện nơi đây chỉ bao trùm một màu đen cứ quẩn đi quẩn lại trong một tác phẩm. Màu đen ấy hiện lên rải rác ở mọi ngóc ngách: “Dãy tre làng trước mặt đen lại, đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối, tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa. Một tiếng trống cầm canh ở huyện đánh tung lên một tiếng ngắn, khô khan không vang động ra xa, rồi cũng chìm ngay vào bóng tối,...”. Tối hết cả không gian, bóng tối nhấn chìm những khung cảnh làng quê quen thuộc, nhấn chìm cả những mảnh đời leo lét trong số phận quẩn quanh của mình.
Hiện trên nền cảnh của một buổi chiều tàn, phiên chợ tàn và những kiếp người tàn. Dường như ngoài bóng tối ra, thì “tàn” cũng chính là từ để mặc định sự buồn tẻ, quẩn quanh nơi này. Những con người sống ở phố huyện này, họ đã làm thế nào, sống ra sao trong sự buồn tẻ như vậy? Thạch Lam đã không đi miêu tả chi tiết: nguồn gốc, xuất thân, số phận... Bởi lẽ thế mà họ chỉ xuất hiện thoáng qua như một cái bóng thế nhưng, vẫn đủ để ghi lại ấn tượng trong lòng đọc giả.

Là mẹ con chị Tí chiều tối nào cũng lễ mễ dọn hàng. Với họ cái chõng trên đầu và cả thảy đồ đạc lỉnh kỉnh trên tay là tất cả cửa hàng của chị. Ngày chị đi mò cua bắt tép, tối đến chị mới dọn cái hàng nước này dưới gốc cây bàng. Có điều gì khiến chúng ta phải sững lại khi nghe câu trả lời của chị và câu hỏi của tác giả “Sớm với muộn mà có ăn thua gì”, “để bán cho ai? ”... Là hình ảnh bà cụ Thi hơi điên thỉnh thoảng vẫn ghé sang mua rượu ở cửa hàng Liên, một ngụm rượu ti với tiếng cười khanh khách nhỏ dần cùng cụ đi vào bóng tối. Là hình ảnh của gia đình bác Xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau trắng trước mặt trống trơn không có một đồng nào vì chưa có khách nghe, thằng con bò ra đất, nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát. Là hình ảnh của bác Siêu cùng với gánh phở ế ít người ăn. Người đọc cũng đâu thể quên đi hình ảnh của chị em Liên với cái quầy tạp hóa nhỏ xíu, thuê lại của bà móm, ngăn ra bằng một tấm phé nứa dán giấy nhật trình,...

Chừng ấy con người sống trong bóng tối hy vọng về một điều gì đó tươi sáng hơn cho cuộc đời này. Có thể thấy rằng, dù sống trong lặng lẽ, tăm tối nhưng họ không hề thiếu vắng tình người, lòng yêu thương, sự cảm thông cho nhau. Điều này được thể hiện qua những lời trao đổi và những cử chỉ thân mật ta nhận ra được mối quan tâm, gắn bó. Và tất cả bọn họ đều hiền lành, nhân hậu dẫu cuộc sống có đơn điệu, nhàm chán. Thạch Lam đã rất tinh tế khi khắc họa lặng lẽ, điềm tĩnh vô cùng, ngòi bút chuyên tả tỉ mỉ những cái rất nhỏ và rất đẹp ấy cho ta cảm nhận được ánh sáng của tình người nơi đây.

Thế nhưng, trong hết thảy những con người xuất hiện ở chốn tiêu điều này, nhà văn đặc biệt chú ý đến chị em Liên. Chị em Liên cũng chính là hình ảnh trung tâm trong bức tranh đời sống của phố huyện nghèo, các khía cạnh về cảnh sắc, vạn vật ở đây đều được tác giả cảm nhận thông qua nhân vật Liên. Liên chỉ mới là một đứa trẻ tầm 8 tuổi, nhận thức và kinh nghiệm sống trong em còn non nớt, vậy mà khi buổi chiều tàn buông xuống, em đã cảm nhận nó qua “đôi mắt ngập đầy dần bóng tối và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị“, rồi “lòng buồn man mác, trước cái cảnh sắc của ngày tàn”.

Qua đôi mắt của Liên, bạn đọc cũng có thể nhìn thấy le lói những giọt ánh sáng, hạt ánh sáng hiếm hoi dường như đang bị bóng tối nhấn chìm. Đó có thể là ngọn đèn con của chị Tí, lửa từ gánh phở của bác Siêu, của hiệu sách cũ, ánh sáng đẹp đẽ của những vì sao trên bầu trời đêm...
Bức tranh phố huyện với một vài điểm sáng nhỏ leo lét, những con người chìm khuất trong bóng tối thế nhưng, còn có một thứ ánh sáng khác “huy hoàng” hơn, thứ ánh sáng mà cả thảy những con người nơi đây phải khắc khoải chờ đợi đó là ánh sáng của đoàn tàu. Nó làm Liên nhớ về một Hà Nội nhiều đèn quá, Hà Nội chỉ là “một vùng sáng rực và lấp lánh“, Hà Nội huyên náo - cả một vùng trời tuổi thơ diễn ra trong trí nghĩ phút chốc bị thu bé lại bằng sự im lặng, tối đen như ở ngoài phố. Đoàn tàu đến mang theo thứ ánh sáng huyên náo, thế nhưng khi tàu đi, cảnh sắc của phố huyện vẫn phải trở về với phố huyện, trở về với “đêm tối vẫn bao bọc chung quanh, đêm của đất quê, và ngoài kia, đồng ruộng mênh mang và im lặng”.

Tôi đang chưa kịp vui hết cho điều kì diệu đã xảy đến thì lại phải chùn lòng xuống vì cảnh tượng của phố huyện sau đó. Lần này, phố huyện thật sự hết náo động, chỉ còn đêm khuya, gió đã thoáng lạnh và đom đóm không còn nữa chỉ còn tiếng trống cầm canh và tiếng chó cắn. Liên chìm vào giấc ngủ yên tĩnh, trong giấc ngủ ấy Liên không mơ về đoàn tàu ban nãy mà nghĩ về cái sự tĩnh mịch, yên tĩnh đầy bóng tối của nơi này.
Tới đây, tôi không biết là mình đã tìm ra được câu trả lời chính xác cho bản thân mình chưa, nhưng tôi đã thấm thía được phần nào điều mà Thạch Lam luôn tâm niệm: “Văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly hay sự quên, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”. Có lẽ vậy, nên dẫu nhân vật của ông không được thoát khỏi “bóng tối” hay chính ông đã không giải thoát cho nhân vật của mình thì tôi vẫn luôn cảm nhận được sự sâu cay và thâm thúy mà nhà văn muốn gửi gắm đến độc giả. Không ồn ào, không nút thắt đỉnh điểm, câu chuyện của Thạch Lam như một cơn gió mát thổi vào hồn độc giả, mang tới những rung cảm mãnh liệt nơi con tim. Đó là những ấn tượng về một phố huyện nghèo với những con người đang quẩn quanh, bế tắc trong chính cuộc đời của mình.

Bức tranh phố huyện hiện lên tuy ảm đạm, hẻo lánh, đầy bóng tối nhưng không khiến cho lòng người đọc mang trong mình một nỗi u buồn. Vì trong bức tranh này, ta vẫn thấy le lói đâu đây những thứ ánh sáng đẹp đẽ như mong đợi, ánh sáng mơ hồ của những vì sao đêm trong ánh mắt của Liên. Những con người ấy, những tâm hồn ấy, khiến cho tôi liên tưởng tới mặt hồ phẳng lặng ở thành phố nước Nga vào mùa thu. Tâm hồn của họ trong lành và bình yên đến vậy, nhưng lại mang trong mình một nỗi sầu quẩn quanh. Giữa bức tranh phố huyện với khung cảnh, con người. Thạch Lam lại đánh động trong lòng người đọc biết bao nhiêu cảm xúc bâng khuâng rồi!

(Nguồn: Sổ tay Văn học - Minh Hiên)

Phân tích Hai đứa trẻ mẫu số 4: Cả thế giới ngưng đọng trong “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam

Nhà văn Amatop từng nói: “Tác phẩm chân chính không kết thúc ở trang cuối cùng, không bao giờ hết khả năng kể chuyện khi câu chuyện về các nhân vật đã kết thúc”. Thật vậy! Khi ta đọc một tác phẩm chân chính mang đầy giá trị, ta sẽ có những ấn tượng, những cảm xúc mạnh mẽ bởi những điều độc đáo, đặc sắc trong tác phẩm ấy mà nhà văn sáng tạo nên. Có rất nhiều tác phẩm văn chương hay mang đậm giá trị nhân văn sâu sắc nhưng có lẽ ít có tác phẩm nào khiến người đọc ấn tượng và lưu luyến nhiều như “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam bởi khi đọc những dòng văn dịu dàng ấy, ta cảm thấy như “cả thế giới ngưng đọng lại” thời gian ngừng trôi chảy và cảm xúc thì vẫn cứ mãi dạt dào da diết.

Chắc hẳn ai trên đời cũng sẽ có một giây phút nào đó cảm thấy nhịp sống như dừng lại, dòng chảy thời gian nhưng đọng lại trong một khoảnh khắc nào đó. “Cả thế giới ngưng đọng” không phải là khi đồng hồ ngừng quay, vạn vật đứng yên không chuyển động mà đó là khi không gian và thời gian xung quanh khiến ta cảm thấy lòng mình như lắng xuống, tĩnh lặng. Cảm giác quả thật là một thứ mơ hồ và khó diễn tả. Trong văn Thạch Lam, điều đó lại càng khó diễn tả hơn nữa. Thường thì đối với cuộc sống con người, cảm giác mọi thứ như dừng lại là khi con người đang trong một cảm xúc ở một khoảnh khắc nào đó rất đặc biệt, mang những cảm xúc cũng đặc biệt, mãnh liệt. Còn trong tác phẩm văn chương, việc tạo nên những bối cảnh, khoảnh khắc mà người đọc cảm nhận được “cả thế giới ngưng đọng lại” quả thật là điều không dễ dàng.

Xây dựng không gian và thời gian trong tác phẩm là một yếu tố quan trọng làm nên chiều sâu cho sáng tác của người nghệ sĩ. Không gian và thời gian trong tác phẩm nói lên những tâm tư, suy nghĩ, cảm xúc của nhân vật mà nhà văn muốn ngầm bộc lộ. Nếu như không gian chật hẹp, tù túng thể hiện những cảm xúc mãnh liệt, rõ ràng, không gian có phần mênh mông, rộng mở, cảm xúc của nhân vật sẽ đong đầy, da diết. Chọn thời gian phù hợp cũng sẽ tạo nên cảm xúc trong lòng người đọc, tùy vào thời điểm sáng, trưa, chiều, tối hoặc bốn mùa xuân, hạ, thu, đông mà tác giả lựa chọn để vẽ nên bối cảnh cho tác phẩm.

Mỗi tác phẩm có một điểm nhấn khác nhau nhưng có lẽ lựa chọn không gian, thời gian cho tác phẩm của mình mà khiến “cả thế giới như ngưng đọng” thì quả thật không phải ai cũng làm được như Thạch Lam. Con người Thạch Lam rất đôn hậu, hiền hào có lẽ vì vậy mà văn Thạch Lam cũng rất đỗi dịu dàng và nhẹ nhàng như thế. Nó như một mặt hồ trông có vẻ rất yên bình, phẳng lặng nhưng thực chất lại có muôn vàn những con sóng nhỏ lăn tăn không ngừng nghỉ. Các tác phẩm của Thạch Lam mặc dù êm ái, dịu dàng quá đỗi nhưng luôn chứa những cảm xúc rất dạt dào khiến trái tim người đọc rung động và thổn thức. “Hai đứa trẻ” là một tác phẩm mang những cảm xúc nồng nàn như thế, từng câu chữ trong “Hai đứa trẻ” đều thấm đẫm chất thơ, chất trữ tình, cách lựa chọn bối cảnh không gian, thời gian tuy không có gì là quá lạ lẫm và đặc biệt nhưng lại đem đến ấn tượng sâu sắc khiến người đọc cảm giác như cả thế giới ngưng đọng trong tác phẩm của Thạch Lam.

Người đọc bồi hồi trước một khung cảnh phố huyện lúc chiều tà thật buồn và nhẹ nhàng. Buổi chiều muộn đó được bắt đầu bằng “tiếng trống thu không” trên chòi canh vọng lại giữa một vùng không gian đang ngả bóng tối. Buổi chiều ở khu phố huyện yên ắng đến mức có thể nghe được tiếng ếch nhái từ đồng ruộng, tiễng muỗi vo ve trong gian hàng. Mọi biến chuyển của cảnh vật được nhân vật Liên cảm nhận rõ nét qua từng giác quan. Thạch Lam đã vẽ nên một bức tranh cảnh phố huyện lúc chiều tà có động mà như đang tĩnh bởi đó là những thay đổi rất nhẹ, rất khẽ nơi cảnh vật. Không gian rộng mở, từ dãy núi, rặng tre, cánh đồng đến gian hàng bé nhỏ của chị em Liên. Ta cảm thấy thời gian đang trôi chầm chậm và cảnh vật cũng thay đổi từ từ theo biến chuyển của thời gian. Mọi sắc thái xung quanh được thu lại vào trong tầm mắt của cô bé Liên với ánh nhìn đượm buồn. Đọc đoạn văn này, người đọc bỗng trào lên một nỗi buồn, nỗi cô đơn nhưng lại có gì đó êm đềm và bình lặng. Cảm xúc như lắng đọng, cảnh vật cũng lắng đọng, chẳng có lẽ mới mở đầu thiên truyện mà Thạch Lam đã khiến người đọc có một thứ cảm xúc hỗn độn như vậy chỉ vì những cảnh vật đang nhuốm màu của ngày tàn kia và điều này cũng thể hiện được cho người đọc thấy rằng một dòng cảm xúc xuyên suốt tác phẩm này sẽ là man mác và hỗn độn như thế.

Thạch Lam xây dựng truyện ngắn “Hai đứa trẻ” bằng những tình tiết rất chậm, thậm chí ta cảm thấy có lúc không gian như dừng lại cho chúng ta nhìn ngắm những khung cảnh trong tác phẩm. Trước cảnh ngày tàn như thế, Liên đã mải mê ngồi nhìn ngắm cảnh phố huyện lúc vãn chợ vào chiều tàn mà quên cả dọn hàng cho mẹ. “Chợ họp đã vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất”, phố huyện đã hết những tiếng huyên náo của người mua, người bán, thay vào đó là sự im lặng, buồn bã. Mọi thứ như ngưng đọng lại qua con mắt của Liên. Đó là những “rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía trên đất”, đó là mùi âm ẩm của đất bốc lên, mùi của quê hương, của nơi mà Liên đang sống. Liên còn trông thấy những người bán hàng về muộn đang thu xếp hàng hóa nhưng còn đứng nói chuyện với nhau ít câu. Nhịp sống thật chậm rãi, có gì đó thoáng buồn, nỗi buồn của cái nghèo, cái đói, nỗi buồn của sự thương cảm cho những kiếp người cùng khổ. Ta cảm thấy mọi thứ như dừng lại nhưng thực ra thời gian đang trôi chảy, có lẽ bởi Thạch Lam đưa người đọc vào những cảm xúc êm đềm quá, sâu lắng quá khiến ta chẳng còn bận tâm đến thời gian nữa. Liên ngồi ngắm nhìn phố và thấy mọi thứ như một thước phim quay chậm, bắt đầu từ cảnh vật nhuốm màu của đêm tối đến con người làm việc cũng chậm rãi, từ từ.

Trong cả tác phẩm, có rất nhiều lần Liên đã trầm tư suy ngẫm nhìn ngắm cảnh vật và mỗi lần như thế là một lần thế giới như ngưng đọng lại. Trong toàn bộ thiên truyện, đoạn mang những cảm xúc sâu sắc nhất, khó diễn tả nhất và cũng là đoạn cho thấy cả thế giới như ngưng đọng lại thực sự có lẽ là đoạn hai chị em dọn hàng xong và ngồi đợi chuyến tàu đêm chạy qua nơi phố huyện. Trên chiếc chõng tre đã cũ, ngồi xuống đã nghe tiếng ọp ẹp, Liên và An đã ngồi bên nhau nhìn ngắm phố huyện khi trời đã bắt đầu về đêm. Đọc đoạn văn này, tôi xao xuyến và nhớ lại những ngày còn bé được ở với bà. Vào những đêm bố mẹ tôi bận việc, tôi ngủ cùng bà, nhà bà cách xa đường phố, ở một khu dân cư nghèo gần đồi nương. Những đêm sáng trăng, bà và tôi ngồi hóng gió ngoài hiên nhà, ngửi hương hoa ngọc lan thơm ngào ngạt và chỉ cho tôi thấy những vì sao lấp lánh trên bầu trời. Khi đọc đến đoạn này của “Hai đứa trẻ”, Thạch Lam thực sự đã cho tôi sống lại những kí ức tươi đẹp đó.

Thạch Lam cứ nhẹ nhàng và dịu dàng như thế nên chẳng có gì khó hiểu khi người đọc lại dâng trào những cảm xúc bâng khuâng đến vậy. Ngay cái cách Thạch Lam đi vào vấn đề cũng rất nhẹ nhàng, nó như một bàn tay ấm áp khẽ nắm lấy một bàn tay khác đang run lên vì quá lạnh. “Trời đã bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng gió mát”. Câu văn thật chậm, dường như mọi thứ đã dừng lại trong con mắt của Liên. Cách tả của Thạch Lam cũng thật gợi cảm: “một đêm mùa hạ êm như nhung”, có cái gì đó rất êm đềm và quá đỗi yên bình. Hiện lên trước mắt người đọc một bức tranh với gam màu tối sẫm, đường phố và những con ngõ nhỏ bị bao trùm bởi một bức màn đen huyền bí. Ở con phố nhỏ hẹp ấy, các nhà đã đóng cửa im ỉm hết trừ một vài nhà hàng còn thức, buồn và thật ảm đạm. Cả thế giới thu lại trong con mắt ngây thơ của hai chị em Liên và An, trong ánh mắt ấy hiện lên hình ảnh của những kiếp người lầm lũi đang đi về trong đêm tối, từ từ, chầm chậm, hiện lên hình ảnh những đứa trẻ con họp nhau ở ngoài thềm, cười nói vui vẻ và một nền tối sẫm phủ lên vạn vật nơi phố huyện.

Trên cái chõng tre ọp ẹp ấy, chị em Liên đã thu vào tầm mắt một không gian lấp lánh đầy sao lung linh trên bầu trời. Người đọc tưởng tượng ra một bức tranh thật đẹp với hai đứa trẻ đang ngước đầu và chỉ tay lên bầu trời đầy sao. Hai đứa trẻ lặng im nhìn các vì sao để tìm sông Ngân Hà và con vịt theo sau ông Thần Nông. Có gì đó thật ngây thơ và trong sáng. Thạch Lam làm dậy lên trong ta những kí ức tuổi thơ thật sống động và đẹp đẽ. Chị em Liên ngồi trên chõng tre mà nhìn ngắm vũ trụ bao la, rộng lớn kia. Vũ trụ ấy thăm thẳm, bao la và đầy bí ẩn còn lòng trẻ thơ thì non nớt, khờ dại. Chúng nhìn bầu trời và nghĩ điều gì đó mông lung lắm, không rõ là gì nữa và người đọc bất giác cũng bâng khuâng, bồi hồi theo dòng cảm xúc mơ hồ ấy. Bầu trời ấy tối đen thăm thẳm làm “mọi ý nghĩ” của chúng cũng như tương lai phía trước thật mờ mịt và vô định khiến cả hai chị em không muốn nghĩ đến nữa. Hết ngắm nhìn bầu trời, Liên và An cúi nhìn về mặt đất, ngừng lại những mơ tưởng xa xăm. Liên và An trở lại với thực tại buồn tẻ với “quầng sáng thân mật chung quanh ngọn đèn lay động trên chõng hàng của chị Tí”. Có chút gì thoáng buồn nhưng cái buồn đó không dữ dội, không rõ ràng, nó chỉ thoang thoảng, cảm xúc cũng rất mơ hồ. Trong một khoảng không gian xung quanh chiếc chõng tre nhỏ ấy, cùng một khoảng thời gian trôi chầm chậm ấy, dường như mọi thứ đã ngưng đọng lại, không một âm thanh, tiếng động, không gian hoàn toàn tĩnh lặng, chỉ có những khoảng sáng tối đan xen nhau.

Thạch Lam không tạo nên những xung đột dữ dội mà ông tạo điểm nhấn cho tác phẩm của mình bằng những đoạn văn có chiều sâu lắng đọng trong lòng người đọc như thế. Cả thiên truyện, ồn ào nhất có lẽ là cảnh đoàn tàu chạy qua phố huyện cũng là đoạn nhiều âm thanh, ánh sáng nhất nhưng lại chỉ xảy ra thoáng chốc, vụt đến rồi lại vụt đi. Trước đó, không gian được tác giả đưa ra chỉ xoay quanh gian hàng nước bé nhỏ của chị Tí, manh chiếu của gia đình bác Xẩm và ngọn đèn của Liên. Chừng ấy kiếp người lầm lũi trong bóng tối của đêm và nghèo đói, lạc hậu. Còn hai chị em Liên và An thì ngồi lặng im trên chõng không chỉ để cảm nhận mọi biến chuyển của vạn vật trong không gian mà còn mơ tưởng về những hồi ức tươi đẹp trước kia.

Thạch Lam đã dành một đoạn văn để viết về những suy nghĩ của Liên, những lắng đọng trong tâm hồn Liên trước cảnh đêm tối buồn tẻ ở phố huyện. Người đọc như cũng bị cuốn theo những hoài niệm mông lung ấy, những cảm xúc đầy tiếc nuối và mơ hồ. Trước cảnh sống nghèo khổ, thiếu thốn, tù túng, Liên nhớ về những tháng ngày vàng son sung túc khi ở Hà Nội, được hưởng những “thức quà ngon lạ”, “được đi chơi bờ hồ”, “uống những cốc nước lạnh xanh đỏ”. Trong tâm trí cô bé hiện lên hình ảnh Hà Nội sầm uất và nhiều đèn sáng lấp lánh. Người đọc cảm thấy lòng trùng xuống, buồn và tiếc nuối khi đặt mình vào dòng suy tưởng của Liên bấy giờ. Không gian nhỏ hẹp, thời gian cứ trôi mà chẳng xác định được là mấy giờ vì bóng tối vẫn cứ bao phủ như thế. Cảnh sống tù đọng, Thạch Lam đã tạo nên từng chút buồn, từng chút lưu luyến, từng chút tiếc nuối giữa sự ngưng đọng đó như vòi nước bị gỉ cứ từng giọt, từng giọt và chẳng mấy chốc đã ứ đầy.

Theo dòng hồi tưởng của Liên, người đọc tiếp tục lắng lòng với sự im lặng của cô bé khi đoàn tàu đã đi qua phố huyện. Thạch Lam tiếp tục vẽ nên một bức tranh nữa mà trong bức tranh đó nổi lên hình ảnh hai đứa trẻ nắm tay nhau trong màn đêm tối tăm đang nhìn về phía một đốm sáng dần khuất sau lũy tre làng. Có gì đó thật sự lắng lại! Liên đã không đáp lại câu hỏi ngô nghê của em: “Tàu hôm nay không đông chị nhỉ?” mà lặng im “theo mơ tưởng”. Cô đang nghĩ về Hà Nội xa xăm “Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo”. Không chỉ Liên mà người đọc cũng cảm nhận được rằng chuyến tàu đi qua mang một thế giới hoàn toàn khác với âm thanh, ánh sáng khác hẳn với thực tại nơi phố huyện. Rõ ràng đây là nỗi buồn, là sự tiếc nuối và có phần chán nản thực tại khi Liên lại quay về với đêm tối của đất quê “và ngoài kia đồng ruộng mênh mang và yên lặng”. Liên vẫn lắng tai nhưng không nghe thấy tiếng vang động của tàu hỏa nữa. Sao trên trời vẫn sáng lấp lánh, đêm đã khuya, gió “đã thoáng lạnh và đom đóm không còn nữa”. Kết thúc truyện vẫn là sự im lặng và bóng tối ngập đầy.

“Hai đứa trẻ” là truyện ngắn thấm đẫm chất thơ, chất trữ tình. Thạch Lam cứ thủ thỉ, cứ tâm tình khiến cho lòng ta hoài xao xuyến, bồi hồi và cho đến khi tác phẩm đã kết thúc, người đọc vẫn không thể thoát khỏi trạng thái bâng khuâng, mơ hồ. Tạo điểm nhấn cho tác phẩm của mình bằng việc xây dựng những chi tiết, những đoạn văn đầy cảm xúc và suy tư, chẳng có gì khó hiểu khi nói rằng “Cả thế giới ngưng đọng trong Hai đứa trẻ của Thạch Lam” cả.

Có một điều không thể phủ nhận rằng lần nào đọc “Hai đứa trẻ” tôi đều cảm thấy buồn, tiếc nuối và trộn lẫn những cảm xúc hết sức khó tả. Không những cả không gian và thời gian trong truyện ngưng đọng mà ngay khi tôi thưởng thức truyện ngắn này, tôi cũng cảm thấy mọi thứ cũng ngưng đọng lại. Chính vì điều này mà “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam xứng đáng trở thành tác phẩm tạo nhiều cảm xúc và ấn tượng nhất trong lòng người đọc.

Phân tích Hai đứa trẻ cảnh đợi tàu mẫu số 5

Trở về những năm 30 - 45 của thế kỉ trước, trào lưu văn học lãng mạn dường như đã khẳng định được vị thế của mình trên văn đàn văn học Việt Nam với hàng loạt những cây bút tên tuổi. Ta đã từng bắt gặp một Nhất Linh đau khổ, dằn vặt trên con đường đi tìm lý tưởng, hạnh phúc; một Khái Hưng sôi nổi yêu đời để hòa mình vào những ảo tưởng đẹp đẽ và ngây thơ hay một Thanh Tịnh mang trong mình vẻ đẹp đằm thắm, trong trẻo đậm chất lãng mạn thì Thạch Lam lại hiện lên như một thiên sứ mang một sứ mệnh đặc biệt với phong cách hoàn toàn mới lạ. Người con của tự lực văn đoàn không đưa ta đến những chân trời phiêu du, mộng tưởng của những tình yêu, khát vọng thường thấy trong trào lưu lãng mạn mà dắt ta đi vào giữa cõi đời ta đang sống. Con người dịu dàng nhân ái ấy đã nguyện gắn ngòi bút của mình với những kiếp người đau khổ, vẫn luôn trân trọng sự sống nơi trần gian. Ông từng nói rằng: “Cái đẹp man mác trong vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi vật tầm thường. Công việc của nhà văn là phát hiện cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật”. Và có lẽ nhờ vào khát khao đi tìm cái đẹp ấy đã là nguồn cảm hứng để ông sáng tác truyện ngắn “Hai đứa trẻ” - áng văn xuôi đặc sắc của nền văn học Việt Nam trước Cách mạng. Đặc biệt trong tác phẩm, cảnh đợi chuyến tàu đêm của hai chị em Liên chính là nơi kết tinh những giá trị nghệ thuật sâu sắc và tiến bộ được Thạch Lam thể dưới ngòi bút đầy nhân đạo và trữ tình.

Câu chuyện không có một tình huống thật li kì, một mâu thuẫn thắt nút cần giải quyết như nhiều truyện ngắn khác. Cái làm nên sức hấp dẫn của truyện ngắn Thạch Lam là những rung động tinh vi, những biến động thầm lặng mà mãnh liệt trong diễn biến tâm trạng của nhân vật Liên đã gieo vào lòng người đọc nỗi băn khoăn, day dứt về kiếp người, về những thân phận bé mọn luôn khát khao được thay đổi. Thạch Lam không chọn một điểm nhìn bên ngoài, ông quan sát từ bên trong nội tâm nhân vật bằng cách hóa thân vào Liên - một cô bé mới lớn, nhạy cảm, nhân hậu và giàu mơ ước. Dưới lăng kính hiện thực, phố huyện hiện lên trong thời gian ngắn ngủi bắt đầu từ lúc chiều tàn cho đến lúc đêm khuya, sự tương phản giữa tĩnh và động, tối và sáng, giữa nếp sống ảm đảm nơi phố huyện nghèo với khoảnh khắc huyên náo khi đoàn tàu qua giúp cho chủ đề của tác phẩm được thể hiện một cách ấn tượng.

Thạch Lam đã dồn bút lực để tạo dựng tình tiết cuối cùng của thiên truyện. Đó chính là điểm sáng nhân văn tạo nên giá trị của tác phẩm. Dù khắc khoải, buồn bã với kiếp sống quẩn quanh, Liên cũng như biết bao con người trong bóng tối, trong cái phố huyện nghèo nàn kia vẫn luôn có một niềm hy vọng mơ hồ, họ mong đợi một cái gì đó tươi sáng hơn cho cuộc sống ảm đạm hằng ngày của họ. Niềm hy vọng mong manh được Thạch Lam khéo léo gửi gắm qua chuyến tàu cuối cùng từ Hà Nội chạy qua phố huyện để lại trong ta biêt bao xúc cảm.

Không chỉ có chị em Liên mà tất cả những người dân nơi phố huyện nghèo đều đợi chuyến tàu đêm đi ngang qua. Với những người dân trong phố huyện, họ chờ tàu để bán hàng, để thêm vào cuộc sống mưu sinh hằng ngày vài đồng lẻ ít ỏi, nhưng với Liên và An, chúng thức chờ tàu vì nguyên nhân sâu xa hơn. Trước hết đây là những đứa trẻ ngoan ngoãn biết vâng lời, chúng làm theo đúng lời mẹ dặn, cố thức đợi tàu để xem có ai mua gì nữa không. Nhưng Liên “không trông mong còn ai đến mua nữa. Với lại, đêm họ chỉ mua bao diêm hay gói thuốc là cùng”, dường như việc chờ tàu hằng đêm của Liên và An không hoàn toàn xuất phát từ nhu cầu của đời sống vật chất mà hầu như chỉ xuất phát từ nhu cầu của đời sống tinh thần. Hai đứa trẻ buồn ngủ ríu cả mắt, An trước khi ngủ còn dặn với chị đánh thức trước khi tàu đến bởi lẽ với chúng, đoàn tàu có một ý nghĩa vô cùng đặc biệt. Nó là “sự hoạt động cuối cùng của đêm khuya”, hoạt động ấy có khả năng khuấy động mạnh liệt nhịp sống tẻ nhạt, tù đọng nơi “ao tù phẳng lặng” (Tỏa nhị kiều - Xuân Diệu), đem lại cho phố huyện nghèo phút chốc bừng tỉnh sau giấc ngủ dài. Cả một ngày dài leo lét, quẩn quanh chỉ có chuyến tàu mang đến cho chị em Liên một sự khác biệt, một thế giới hoàn toàn khác với thực tại tựa như có phép màu lướt qua nơi đây.

Chuyến tàu hiện lên qua cảm nhận của Liên từ xa đến gần rồi cứ thế xa mãi trong tầm mắt của chị. Cảnh chuyến tàu sắp đến dường như mang một sức sống kỳ diệu, cả phố huyện giờ đây mới thực sự bắt đầu động đậy. Khi tiếng còi xe lửa ở xa vang lại, Liên liền đánh thức em dậy: “Dậy đi An, tàu sắp đến rồi”, còn bác Siêu thì nghển cổ nhìn ra phía ga rồi mừng rỡ: “Đèn ghi đã đến kia rồi”. Những lời giục giã, những tiếng reo thoảng thốt trong mừng rỡ vì nếu chậm sẽ không được nhìn thấy đoàn tàu nữa. Thạch Lam không dùng từ ngữ nào để miêu tả sự háo hức của người dân phố huyện mà sự háo hức ấy vẫn hiện lên sống động và đầy chất nhân văn.

Đoàn tàu còn ở phía xa, Liên đã trông thấy ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như ma trơi, những âm thanh huyên náo “tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại, trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi”, “tiếng hành khách ồn ào khe khẽ”, “tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi”, “tiếng tàu rít lên và tàu rầm rộ đi tới”. Những âm thanh ấy hoàn toàn khác với thứ âm thanh ảo não cuả tiếng trống thu không hay tiếng trống cầm canh khô khan, của tiếng ếch nhái, tiếng muỗi vo ve hay tiếng đàn bầu rung lên bần bật trong yên lặng. Một thế giới khác được đoàn tàu đem tới cho phố huyện nghèo, Liên và An say mê ngắm nhìn “các toa đèn sáng trưng…những toa trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng”, dường như ánh sáng rực rỡ của đoàn tàu đã xua tan đi cái “bóng tối” đang gặm nhấm phố huyện từng khắc một. Ánh sáng ấy không tù mù, leo lét như quầng sáng từ ngọn đèn chị Tí, từ khe sáng hé ra nơi cánh cửa của các nhà trong phố, hay vệt sáng nhỏ nhoi, yếu ớt của những con đom đóm. Cư dân phố huyện như choáng ngợp bởi sự náo động của đoàn tàu và cứ thế họ dần mơ về một thế giới thật đẹp đẽ và rực rỡ…

Thực ra, đó là chuyến tàu không đông đúc như mọi khi, “thưa vắng người và hình như kém sáng”, vậy mà nó vẫn đem đến cho hai đứa trẻ biết bao xúc động. Con tàu đi qua sẽ chẳng có gì đặc biệt trong nhận thức của con người, có chăng Tế Hanh đã từng thốt lên:

“Tôi thấy tôi thương những con tàu
Ngày đời không đủ sức đi mau
Có chi vương víu trong hơi máy
Với những toa đầy nặng khổ đau”

Nhưng với chị em Liên thì hoàn toàn khác, chuyến tàu mà hai đứa trẻ hằng mong đợi không phải để chở đi những đau khổ của kiếp người mà nó là ánh sáng, là hi vọng cuối cùng của phố huyện này có thể bấu víu vào. Khi An cố hỏi chị một câu hỏi gì đó nhưng Liên không đáp, dường như chị lặng người theo những mơ tưởng về một thế giới khác mà đoàn tàu vừa đem tới. Hai chữ Hà Nội ngân nga trong lòng cô bé nghèo: “…họ ở Hà Nội về!… Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo” Đoàn tàu mang đến cho chị em Liên một niềm mơ tưởng xa xăm mà rất êm đềm về quá khư tươi đẹp tại chốn mỹ lệ Hà Nội “băm mươi sáu phố phường”.

Quả là “Ngày vui ngắn chẳng tày gang”, niềm vui của người dân phố huyện chỉ hiện lên trong chốc lát và ngay sau đó là nỗi buồn ập đến một cách thấm thía. Đoàn tàu giống như một tia chớp, một ngôi sao băng rạch qua bầu trời nơi phố huyện nghèo rồi mất hút vào đêm tối. Liên và An đứng lặng người dù chuyến tàu đã đi qua, hai chị em nhìn theo cái chấm đỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa mỗi rồi khuất sau rặng tre. Đêm nào cũng vậy, cả phố huyện đều khắc khoải mong ngóng, kiên nhẫn chờ đợi chuyến tàu đi qua rồi mới chìm vào bóng tối thăm thẳm quen thuộc của mình: chị Tí và bác Siêu về làng, gia đình bác xẩm ngủ ngục trên manh chiếu rách bên đường còn chị dần ngập vào giấc ngủ yên tĩnh. Rồi chi tiết cuối cùng gây ám ảnh đến người đọc về một cuộc sống bế tắc “Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ”, dường như những cảnh đời nơi phố huyện chứa đầy bóng tối. Bóng tối ấy không phải là của vũ trụ mà là bóng tối của sự nghèo nàn, khốn khó.

Cuộc sống ấy là vậy, đơn điệu, tẻ nhạt, kém sức sống và lặp đi lặp lại như cỗ máy được lập trình sẵn giống như thơ Huy Cận từng viết:

“Quanh quẩn mãi với vài ba dáng điệu
Tới hay lui vẫn chừng ấy mặt người
Vì quá thân nên quá đỗi buồn cười
Môi nhắc lại chỉ có ngần ấy chuyện”

Chuyến tàu đêm khẳng định một khát vọng chân chính của con người. Với chị em Liên, đoàn tàu như một kí ức vui, một khát vọng mơ hồ, nó chẳng khác nào ảo ảnh nhưng lại mang niềm vui trong sáng cho những đứa trẻ ngây thơ. Với người dân phố huyện, chuyến tàu như một ước mơ cổ tích giúp họ thêm niềm tin để cho họ tiếp tục chờ đợi để sống. Suy cho cùng, chuyến tàu mà nơi phố huyện nghèo ấy mong đợi tựa chiếc phao tinh thần để cứu rỗi cuộc sống nghèo nàn, bế tắc trong tăm tối. Dưới ngòi bút Thạch Lam, chuyến tàu tường chừng bình thương nhưng ẩn sâu trong đó là tấm lòng nhân đạo của nhà văn. Ông nâng niu, trân trọng niềm vui nhỏ bé, hiếm hoi của con người và đó chính là điểm sáng trong giá trị nhân đạo của tác phẩm. Tuy bức tranh phố huyện được vẽ lên từ những gam màu hiện thực song Thạch Lam không quên điểm tổ vào bức tranh của mình những khát vọng cao đẹp hướng tới cuộc sống, giúp con người dần tự ý thức giá trị bản thân, qua đó để họ vươn tới cuộc sống có nghĩa và xứng đáng hơn cũng như nhà văn Nga Sôlôkhôp: “Đối với con người, sự thực đôi khi nghiệt ngã, nhưng bao giờ cũng dũng cảm củng cố trong lòng người đọc niềm tin ở tương lai. Tôi mong muốn những tác phẩm của tôi sẽ làm cho con người tốt hơn, tâm hồn trong sạch hơn, thức tỉnh tình yêu đối với con người và khát vọng tích cực đấu tranh cho lí tưởng nhân đạo và tiến bộ của loài người”.

Quả thực ta đã từng day dứt trước một lối văn sắc lạnh, khách quan, tỉnh táo của Nam Cao, hả hê bất ngờ trước những trang viết châm biếm của Nguyễn Công Hoan và khóc cùng những giọt nước mắt trong văn Nguyên Hồng. Giờ đây đọc văn Thạch Lam, ta thấy yêu cái nét đẹp nhã nhặn, bình dị, đượm buồn phảng phất phát chút gì đó tựa bài thơ trữ tình “thoang thoảng hương hoàng lan được chưng cất từ nỗi đời đau khổ”.

Có người từng nói rằng: “Thạch Lam là nhà văn ngắt câu bằng màu, chấm câu bằng nốt nhạc, chuyển đoạn bằng hình” bởi lẽ vậy “Hai đứa trẻ” hiện lên như một bức tranh dệt bằng cảm giác”, giản dị mà sâu lắng, man mác mà thấm thía. Câu chuyện soi tỏ những bí ẩn thi vị mà cao đẹp trong tâm hồn cô bé Liên để rồi bộc lộ những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Thạch Lam không có tham vọng tạo ra những tình huống truyện éo le, nghịch cảnh. Vậy nhưng ông vẫn đạt đến độ toàn thiện, toàn mĩ của một truyện ngắn nhiều dư âm. Người đọc được dẫn đi trong một thế giới nhân vật và không gian bàn bạc nỗi buồn, lặng lẽ suy ngẫm nhưng triết lý nhân sinh và những thông điệp cuộc sống giàu ý nghĩa. Đặc biệt, cảnh đợi chuyến tàu đêm đã ánh lên những tia hy vọng rất đời, rất người mà Thạch Lam bằng cả tài năng, tâm huyết xây dựng!

Phân tích Hai đứa trẻ cảnh phố huyện về đêm mẫu số 6

Tác giả Thạch Lam, có tên thật là Nguyễn Tường Vinh, sinh năm 1910  và mất năm 1942, sinh ra trong một gia đình gia giáo, làm công chức có gốc quan lại trong giai đoạn đất nước có nhiều sa sút, thay đổi. Tuy nhiên, sau đó vì cha mất, nhà lại đông con nên gia đình Thạch Lam rơi vào cảnh khốn khó. Sau khi hết học bậc tú tài, ông bắt đầu tham gia làm báo cùng các anh trai.

Độc giả biết đến nhà văn Thạch Lam với phong cách viết thiên về tình cảm và sự lãng mạn. Qua ngòi bút của ông, người đọc cảm nhận rõ được niềm thương xót của nhà văn trước những số phận hẩm hiu, bất hạnh, nghèo khổ và đặc biệt là những người phụ nữ bị đói xử bất công trong xã hội cũ. Ngoài ra, ông cũng dành ngòi bút của mình để miêu tả lại vẻ đẹp của quê hương đất nước như trong tác phẩm Hà Nội ba sáu phố phường…

Đặc biệt, tác phẩm “Hai đứa trẻ” được Bộ Giáo dục mang vào giảng dạy trong chương trình Ngữ văn 11. Đây là truyện ngắn rất được nhiều bạn đọc yêu thích và say mê. Ở tác phẩm, ngoài ấn tượng đến từ các nhân vật có cuộc sống hẩm hiu còn có nổi bật bởi bức tranh phố huyện về đêm rất sinh động và độc đáo. Nhờ cảnh tưởng đó mà tác phẩm đã để lại trong lòng độc giả nhiều dấu ấn sâu sắc.

Mở đầu tác phẩm, nhà văn Thạch Lam đã gây ấn tượng bởi khung cảnh chiều tàn đầy vắng lặng, hắt hiu, êm ả những chứa đựng nỗi buồn man mác. “Tiếng trống thu không trên cái chợ của huyện nhỏ; từng tiếng một vang xa để gọi buổi chiều. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời. Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve”.

Độc giả có thể thấy, buồi chiều tàn nơi phố huyện hiện rõ lên qua những âm thanh, đường nét, hình ảnh vô cùng quen thuộc của một làng quê nhưng lại khơi gợi biết bao xúc cảm. Một bức họa làng quê được khắc hoạt một cách sống độngv à chân thực như một thước phim quay chậm đang diễn ra trước mắt độc giả. Nhà văn Thạch Lam mở đầu tác phẩm bằng thời gian ngày tàn. Đó là khoảng thời gian để kết thúc một ngày và bắt đầu mở ra một màn đêm với nhiều nỗi niềm, nỗi buồn. Kết hợp với thời gian là không gian êm đềm, thanh tĩnh của buổi hoàng hôn đang dần chuyển về đêm. Lúc này màu sắc của bức tranh phố huyện như dần nhòe đi, còn “bóng tối” như một điều gì đó ghê sợ đã bắt đầu hoạt động và bắt đầu xâm nhập, xâm chiếm bao trùm lên mọi vật. Bởi thế “dãy tre làng đen lại”, “cửa hàng hơi tối, muỗi bắt đầu vo ve”…

Bức tranh phố huyện lúc chiều tàn có chút ánh sáng xuất hiện, nhưng nó vô cùng ít ỏi. Nó chỉ như những “hộ sáng” li ti, không đủ sức mạnh để xua đi bóng tôi đang bao trùm. Điều đó càng khiến cho không gian phố huyện lúc sắp về đêm trở nên chợp chờn, mờ ảo, mênh mông…

Phân tích bức tranh phố huyện lúc về đêm, độc giả không thể không nói đến thanh âm vang lên ở phố huyện lúc chiều tàn. Đó là thứ âm thanh vang vọng, cố thu nhỏ lại “tiếng trống thu không từng tiếng một vang xa”. Thể hiện một khung cảnh buồn bã, thưa thớt và chậm rãi. Bên cạnh đó là âm thanh “văng vẳng tiếng ếch nhái, tiếng côn trùng kêu ran”. Đó là thứ thanh âm náo động, rộn ràng nhưng lại vang vọng, khơi gợi sự hoang vắng, heo hút. Trong khi đó “tiếng muỗi vo ve”, “chõng nan cót két” lại mang tới một bức tranh tăm tối và một cuộc sống thật tù đọng, bần cùng và nghèo nàn. Có thể nói, những thanh âm ấy không làm cho bức tranh trở nên nhộn nhịp tươi đẹp hơn mà càng nhấn mạnh hơn sự buồn tẻ, lụi tàn, trống vắng của phố huyện, và càng khiến con người trở nên buồn xót. Qua đây, độc giả có thể thấy, trước khi phố huyện vào đêm, thì phố huyện đã trải qua một khung cảnh buổi chiều tàn thật ảm đạm. Mặc dù chỉ trong một đoạn văn mở đầu ngắn ngủi nhưng nhà văn đã sử dụng tới tận 5 từ “chiều”, 2 từ “tối”, 2 từ “tàn”, 2 từ “buồn”. Có thể nói, mỗi câu văn, mỗi từ đều khơi gợi trong lòng độc giả một xúc cảm buồn mênh mang khó quên. Khung cảnh chiều tàn nơi phố huyện trong “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam khiến chúng ta chợt nhớ tới câu ca cổ của thi sĩ Bà Huyện Thanh Quan “Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn/ Tiếng ốc xa đưa vắng trống dồn”. Những hình ảnh trong văn Thạch Lam cũng chính là bức tranh đậm chất hồn làng quê ở Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 20.

Nếu như bức tranh phố huyện khi chiều tàn đã ảm đạm bao nhiêu thì lúc về đêm càng trở buồn chán và tẻ nhạt, hẩm hiu bấy nhiêu. Không gian bức tranh về đêm của phố huyện được bao trùm bởi bóng tối, những tia sáng yếu ớt hắt ra từ ngọn đèn của gánh hàng không đủ sức để phá tan màn đêm dữ dội. Thứ ánh sáng ấy xuất hiện đi xuất hiện lại tận 7 lần trong tác phẩm. Điều đó trở thành nỗi ám ảnh ghê gớm vào tâm trí của người đọc lẫn những phận người nơi phố huyện nghèo. Ánh đèn ấy như hình tượng biểu trưng cho kiếp người nơi phố huyện nghèo thu nhỏ, đó là kiếp người sống leo lắt, nhỏ nhoi lẻ loi trong bóng đêm u ám. “Trời đã bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát. Đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối. Các nhà đã đóng im ỉm, trừ một vài cửa hàng còn thức, nhưng cửa chỉ để hé ra một khe ánh sáng. Trẻ con tụ họp nhau ở thềm hè, tiếng cười nói vui vẻ, khiến An thèm muốn nhập bọn với chúng để nô đùa, nhưng sợ trái lời mẹ dặn phải coi hàng, nên hai chị em đành ngồi yên trên chỏng, đưa mắt theo dơi những bóng người về muộn, từ từ đi trong đêm. Vòm trời hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh, lẫn với vệt sáng của những con đom đóm bay là trên mặt đất hay leo vào cành cây”.

Nhà văn Thạch Lam vô cùng tinh tế khi lấy ánh sáng để miêu tả bóng tối. Ông càng miêu tả chi tiết sự ít ỏi yếu ớt của ánh sáng qua những hình ảnh như quầng sáng, hột sáng, khe sáng, vầng sáng… thì càng bộc lộ thấy màn đêm nơi phố huyện càng đậm đặc, u tối. Trong khi đó, nhà văn lại miêu tả thứ ánh lấp lánh lại nhanh chóng vút qua từ những toa tàu. Bởi đó là thứ ánh sáng ở nơi thế giới khác, không phải trong bức tranh của phố huyện. Bởi đó là thứ ánh sáng của những người giàu có, là cuộc sống sung túc náo nhiệt ở nơi Hà Nội huyên náo. “Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua, các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường. Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng. Rồi chiếc tàu đi vào đêm tối, để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt”. Qua đây, độc giả có thể thấy, ở bức tranh phố huyện lúc về đêm ấy, thế giới của người nghèo và thế giới của người giàu không bao giờ hòa hợp. Đồng thời, qua sự đối lập giữa bóng tối và ánh sáng đã khơi gợi nên cho độc giả cảm nhận rõ “cuộc sống tối tăm nơi phố huyện chôn vùi những kiếp người nhỏ bé”. Bức tranh phố huyện về đêm đã cho độc giả thấy nơi đây đúng là một vùng quê nghèo đói với những phận người thật mong manh, nhỏ bé. Dường như không có thứ ánh sáng nào đủ sức xua đi sự tăm tối trong màn đêm cũng như trong chính cuộc đời của những kiếp người nơi đây.

Bức tranh phố huyện lúc về đêm còn được thể hiện qua nhịp sống tẻ nhạt, lặp đi lặp lại của những người dân nơi đây. Đó là những hoạt động quen thuộc, âm thanh quen thuộc như chị Tí dọn hàng, bác phở Siêu thổi lửa, gia đình bác xẩm với cái thau trước mặt, bà cụ Thi điên… Và bên cạnh họ là những suy nghĩ và mong ước và một cuộc sống tốt đẹp hơn như hàng ngày. Mặc dù trong thâm tâm họ, vẫn nuôi hy vọng, mơ ước về một cuộc sống tươi sáng trong tương lai nhưng vẫn không rõ ràng và vô cùng mơ hồ.

Qua quá trình phân tích bức tranh phố huyện lúc về đêm, nhà văn Thạch Lam đã mang tới cho độc giả những xúc cảm khó quên. Bởi đó là bức tranh đã gây ra ám ảnh với độc về khung cảnh chiều tàn đầy ảm đạm, sự đối lập giữa ánh sáng nhỏ bé và màn đêm u tối của phố huyện. Đó là cũng thứ ánh sáng leo lắt như những phận người hẩm hiu nơi đây và bóng đêm bao trùm mạnh mẽ như cuộc sống tù túng, không lối thoát. Qua đây, độc giả cũng cảm nhận được niềm xót thương của nhà văn Thạch Lam dành cho những kiếp người nghèo khổ, lẻ loi và nhỏ nhoi. Với ngòi bút hiện thực và lãng mạn, nhà văn Thạch Lam đã phác họa thành công bức tranh phố huyện thật độc đáo buồn man mác và gây nhiều xúc cảm.

Phân tích Hai đứa trẻ cảnh chiều tàn mẫu số 7

Khác với các nhà văn đương thời cố đi tìm những điều mới mẻ hoặc lớn lao, khác thường, Thạch Lam một mình lặng lẽ tìm về với những giá trị nguyên sơ vốn bị chìm khuất trong cuộc đời tàn lụi. Ông cũng không cố công kết cấu những câu chuyện hoàn chỉnh, bởi với Thạch Lam, cuộc đời chưa bao giờ là hoàn chỉnh. Truyện của ông thường không có cốt truyện đặc biệt. Mỗi truyện là một bài thơ trữ tình đượm buồn. Phong cách ấy thể hiện rõ nét trong tác phẩm Hai đứa trẻ. Bức tranh phố huyện và hình ảnh những số phận con người lầm lũi trong hiu hắt ngày tàn được gợi lên thật cảm động.

Thạch Lam thường đi sâu khai thác đời sống nội tâm nhân vật với những cảm xúc, cảm giác mơ hồ, mong manh nhưng rất tinh tế. Ông rất chậm rãi và nhẹ nhàng đi vào thế giới nội tâm sâu thẳm của nhân vật như sợ gây ra tiếng động làm đổ vỡ thế giới ấy. Ông chắt chiu từng chút một, đúng ngắm nhìn thật lâu một trạng thái, một chuyển biến cho đến khi nó dứt hẳn mới thôi. Bởi thế, đọc truyện Thạch Lam, người ta chỉ cảm nhận bằng tâm hồn, bằng tất cả các giác quan, chứ ít khi có thể tóm tắt mạch lạc toàn bộ diễn biến của cốt truyện.

Hai đứa trẻ có kết cấu thật đơn giản. Đơn giản ở chi tiết và kết cấu nhưng lại phức tạp ở chiều sâu suy nghĩ. Truyện chỉ kể lại hình ảnh hai đứa trẻ ngồi trên chiếc chõng nát ngắm nhìn phố xá chìm dần vào đêm tối, tuy “đã buồn ngủ ríu cả mắt” nhưng vẫn cố thức để đợi chuyến tàu đêm đầy ánh sáng vụt qua rồi mới khép cửa hàng đi ngủ. Ai có tâm hồn hời hợt hẳn sẽ không thích cái kiểu kể chuyện lòng vòng, nhạt nhẽo ấy. Thế nhưng, tác phẩm đã gây được sự chú ý và làm rung động biết bao tâm hồn. Điểm cốt yếu đó là, Thạch Lam đã khéo léo nắm bắt tâm hồn người đọc ngay khi họ mới chạm bước chân đầu tiên vào thế giới trong truyện. Dưới ngòi bút Thạch Lam, Hai đứa trẻ không hề nhạt nhẽo, trái lại rất ám ảnh, thấm thía, đầy dư vị với cảm xúc buồn thương và giọng thủ thỉ trầm lắng, thiết tha.

Tác phẩm mở đầu bằng một bức tranh chiều quê phố huyện sinh động như một bài thơ về quê hương quen thuộc mà rất thi vị. Buổi chiều không tàn đi mà đọng lại trong từng chữ, từng câu, bám chặt lấy mặt đất, dẫn bước con người vào thế giới thanh bình của cảnh vật. Ngòi bút tinh tế và tạo hình của Thạch Lam chỉ chấm phá vài nét mà đã vẽ được một bức tranh rất sinh động với đủ đường nét, màu sắc, âm thanh, hương vị, đưa độc giả trở về khung cảnh đầy linh hồn êm ả, thị vị mà đượm buồn, thân thiết của quê hương, làng mạc, của nông thôn Việt Nam muôn đời. Nó khơi gợi trong tâm hồn con người một tình cảm gắn bó thiết tha với miền quê lam lũ. Nơi ấy không chỉ có những cảnh sắc thanh bình, thơ mộng, êm đềm mà còn có cả những mảnh đời lam lũ, tăm tối.

Sức dồn nén của một tác phẩm truyện ngắn là ở những chi tiết nghệ thuật đầy sức nặng. Thạch Lam lại làm một cuộc đảo ngược đầy thú vị. Ông lặng lẽ tìm tòi trong ngổn ngang chất liệu mà người ta không màng để tâm đến. Nhà văn ấy đã lặng lẽ mỉm cười khi phát hiện ra những hạt bụi vàng trong ngổn ngang đất đá. Hai đứa trẻ không có những tình tiết ly kỳ, gay cấn nhưng ít có những người dám cam đoan thấy tâm hồn nhẹ tênh, vô hồn, không cảm xúc khi một lần bước qua thế của cái phố huyện nghèo và lặng lẽ ấy.

Hai đứa trẻ trong truyện ngắn của một ngày từ chiều ta tới đêm khuya. Khung cảnh của câu chuyện chỉ vận động qua ba mảng màu sáng - tối: chiều tàn - chợ tan - đêm tối. Ấy vậy nó vẫn để lại trong lòng độc giả biết bao thế hệ những ám ảnh đến lạ lùng. Như thế, sức hấp dẫn của thiêng truyện này đâu phải được tạo ra từ những chi tiết nghệ thuật ly kỳ, lôi cuốn. Cái lực hấp vô cùng trong Hai đứa trẻ hóa ra lại thoát ra từ chính hơi ấm của tình người lan tỏa trong truyện.

Ai có thể cầm lòng không cảm xúc khi đọc những dòng văn như thế: “Chiều, chiều rồi. Một buổi chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran từ ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen; đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn Buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị. Liên không sao nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”.

Hóa ra, tâm trạng của nhân vật Liên trong buổi chiều tàn nơi phố huyện cũng chính là của chúng ta trước khoảnh khắc sự sống ban ngày bắt đầu tàn lụi, ánh sáng nhường chỗ cho bóng tối, chia ly nhường chỗ cho sum họp, tha hương nhường chỗ cho Trở Về… văn chương giúp níu giữ trong ta những xúc cảm của tình người; giúp Đánh thức phần sâu thẳm của tâm hồn mà bấy lâu ta không thể thốt lên. Hai đứa trẻ dù không có cốt truyện hấp dẫn nhưng vẫn đủ sức thu hút người đọc là bởi nó giúp níu giữ và đánh thức những phần hồn như thế.

Như một vị khách bộ hành bền bỉ kiếm tiềm, gom nhặt và kết nối thành những vần thơ từ cuộc đời bình dị, Thạch Lam đã khẽ khàng nhắn nhủ tới tất cả chúng ta một thông điệp: Cái đẹp của cuộc sống có thể bắt gặp từ những cảnh vật, những con người rất đỗi bình thường mà chúng ta không hề để ý. Cảnh vật của buổi chiều tàn lụi làm đọng lại trong ta dư vị của nỗi u hoài thường trực. Nhưng quan trọng hơn, nhói lòng ta mãi bâng khuâng thương nhớ một miền quê có “tiếng trống thứ không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một văng ra Để gọi buổi chiều. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây anh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và các hình rõ rệt trên nền trời”.

Quê hương nước Việt muôn đời nay vẫn đẹp dịu dàng êm ả và yên tĩnh như tâm hồn Liên, một cô gái mới lớn tinh tế và nhạy cảm đầy sự trân trọng và nâng niu một mảnh hồn của làng quê thân thuộc. Tiếng ếch nhái, tiếng muỗi kêu vo ve như một dàn đồng ca hòa mình vào thinh không, nhắc nhở mỗi chúng ta về sự trân trọng và níu giữ tình yêu với quê hương, xứ sở.

Làng quê trong hai đứa trẻ nghèo nàn, vắng người, vắng tiếng nhưng vẫn khơi dậy trong lòng ta những cảm xúc chân thành: “Trời bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm ru như nhung và thoảng qua gió mát. Vòm trời hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh, lẫn với vệt sáng của những con đom đóm bay là là trên mặt đất hay len vào những cành cây. An và Liên lặng ngước mắt lên nhìn các vì sao để tìm sông Ngân Hà và con vịt theo sau ông Thần Nông. Vũ trụ thăm thẳm, bao la đối với tâm hồn hai đứa trẻ như đầy bí mật và xa lạ và làm mỏi trí nghĩ, nên chỉ một lát hai chị em lại cúi nhìn về mặt đất, về vầng sáng thân mật chung quanh ngọn đèn lay động trên chõng hàng của chị Tý”.

Thạch Lam đã làm thức dậy trong mỗi chúng ta về một miền kí ức xa xăm trong tuổi thơ diệu vợi. Ngắm bầu trời đêm, tìm sông Ngân Hà, dõi theo con vịt bước sau ông Thần Nông,… liệu có ai đã không từng có những kỉ niệm tuổi thơ êm đềm và đẹp đẽ như thế? Hai đứa trẻ đánh thức trong ta ấn tượng về cái đẹp thăng hoa từ những hình ảnh bình thường, nhỏ nhặt. Nó nhắn nhủ tất cả chúng ta hãy trân trọng và níu giữ hồn quê. Bởi đó cũng chính là hồn người, hồn nước, hồn của những con người mãi chung tình với quê hương, xứ sở.

Đọc Hai đứa trẻ, những tâm hồn đa sầu, đa cảm, nặng lòng với đất, với người, với quê hương sẽ không khỏi cảm thấy bồi hồi, thổn thức. Một miền quê với bức tranh nhân thế hắt hiu, với những kiếp người mỏi mòn như tiếng mọt kêu thổn thức trong buổi chiều tàn tạ, nhưng in đậm trong lòng người đọc bởi một trái tim nồng ấm yêu thương.

Phân tích Hai đứa trẻ cảnh đêm khuya mẫu số 8

Trong văn học, thơ ca, phong cách riêng của mỗi nhà văn, nhà thơ chính là điểm thu hút người đọc và tạo nên thành công cho riêng mình, nhà văn Linta là một trong những ví dụ như vậy. Một tác phẩm tiêu biểu tiêu biểu cho phong cách hành văn của Tucklin, tác phẩm góp phần không nhỏ vào thành công của nhà văn là “Hai đứa trẻ”, ngoài hai nhân vật chính, độc giả còn rất ấn tượng về hai nhân vật chính. Ở một quận lỵ vào ban đêm, tác giả đã đặt rất nhiều tâm huyết vào đó.

Được in trong cuốn “Ánh nắng trong vườn” xuất bản năm 1938, “Hai đứa trẻ” có thể nói là một trong những tác phẩm thành công nhất của nhà văn Carrie Lam. Không giống như nhiều nhà văn khác luôn tập trung vào một hoặc nhiều nhân vật chính trong tác phẩm của mình, trong “Hai đứa trẻ”, Tucklin không tập trung vào việc xây dựng cốt truyện cho nhân vật chính mà là khắc họa nhân vật chính. Cảnh là chính nên trong toàn bộ tác phẩm ta thấy rõ cảnh phố huyện nơi hai chị em sống trong những thời kỳ khác nhau. Và khi tia nắng cuối cùng trong ngày vụt tắt, cuộc sống của bà con cộng đồng không ngừng nghỉ. Nhưng cuộc sống về đêm không sôi động, náo nhiệt như chúng ta tưởng tượng, ngược lại có chút trầm buồn, nổi bật hơn là nhịp sống bình dị, tấp nập của người dân phố huyện.

Ngay từ dòng đầu tiên của câu chuyện, thach lam đã thể hiện kỹ năng quan sát ban đầu và ngòi bút tài tình của mình cho độc giả qua một bức tranh đơn giản nhưng đẹp đến ngỡ ngàng. Những gì chúng ta nhìn thấy hàng ngày, nhưng qua những trang sách tha thướt, bỗng dường như là khung cảnh của một câu chuyện cổ nào đó, kèm theo đó là tiếng “trống trận trong chòi của cộng đồng; từng tiếng một chiều Tây, đỏ như tiếng gầm rú lửa cháy, mây hồng như than sắp tàn; hàng tre làng trước mặt tôi đã nhuộm đen, cắt rõ bầu trời. “Chữ” chiều “được viết rất hàm ý, tạo cho người ta cảm giác Một cảm giác bóng tối lan nhanh hơn nhưng thấm sâu vào tâm hồn em bé và giọng hát “êm đềm như lời ru, văng vẳng tiếng ếch nhái ngoài đồng” dấy lên trong lòng cô gái “nỗi buồn man mác trước ngày tàn”. .

Khuya rồi, lâu lắm rồi tôi mới ở đó, “mọi người đã về, nhịp sống hối hả cũng không còn nữa”, và đó là “rác, vỏ bưởi, vỏ chợ, nhãn, lá dứa”, "và" mùi hơi ẩm bốc lên". Rõ ràng là chợ cộng đồng nhưng khung cảnh hoang tàn và quá thô sơ càng làm nổi bật thêm sự nghèo khó, lam lũ của người dân nơi đây. Đặc biệt là những đứa trẻ nghèo đi loanh quanh, tìm kiếm, mong bắt được những thứ giá trị còn sót lại sau phiên chợ ấy càng khiến người đọc quan tâm và xúc động hơn.

Để rồi sự nghèo nàn, đơn sơ của vùng đất này được thể hiện rõ nét nhất khi tác giả lần lượt miêu tả những hình ảnh về con người nơi đây. Đó là bức ảnh hai mẹ con gánh một điếu thuốc nhỏ và đứng trên chiếc chõng tre để xối nước dù chẳng kiếm được bao nhiêu. Chắc chắn sẽ có độc giả nghĩ rằng nếu không kiếm được lợi nhuận từ việc đó thì tại sao không bỏ đi và tìm một công việc khác, dù bán nước không kiếm được nhiều tiền nhưng ít nhất đó cũng là một nghề. Nhưng hai mẹ con có thể dựa vào anh ta để kiếm cơm ăn, áo mặc rồi bỏ anh ta đi, họ không biết phải làm gì trong một cộng đồng nghèo khó như vậy. Tiếp theo, chúng ta có thể thấy hình ảnh gia đình bác Xẩm ngồi trên chiếu, bát trắng để trước mặt, hay phở bác Siêu là một thứ xa xỉ đối với chị Liên. Khó thế nào mà một tô phở mà chúng ta tưởng chừng rất đỗi bình thường lại có thể trở nên xa xỉ như vậy?

Không chỉ dừng lại ở đó, chúng ta còn bắt gặp hình ảnh một bà cụ có phần điên rồ vẫn đang mua rượu trong cửa hàng, bà cụ vẫn tươi cười bước vào đêm tối. Phong cách đồng quê nhỏ. Có lẽ, chính vì những vất vả, nhọc nhằn của cuộc sống mà một bà cụ đáng tuổi con mình mới rơi vào hoàn cảnh đáng thương như vậy. Những nhân vật này chỉ đại diện cho một phần nhỏ của cuộc sống bất hạnh trong thị trấn, cuộc sống tăm tối của họ, giống như màn đêm ở đó.

Thông qua tài năng và tình yêu thương con người của mình, Thạch Lam đã thành công trong việc miêu tả khung cảnh tĩnh lặng, thơ mộng về đêm nơi phố huyện nhưng lại làm nền cho những mảnh đời bất hạnh của con người. Người ở đây vì thế đã để lại trong lòng người đọc bao nỗi niềm bồi hồi, xúc động.

Phân tích Hai đứa trẻ cảnh đoàn tàu đi qua mẫu số 9

Truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam in trong tập Nắng trong vườn (Nhà xuất bản Đời nay, Hà Nội, năm 1938). Đây là một kiểu truyện ngắn trữ tình có nhiều chi tiết ngỡ như vụn vặt, vô nghĩa, nhưng kì thực đã được tác giả chọn lọc và sắp xếp một cách chặt chẽ để diễn tả tâm trạng nhân vật.

Nội dung tác phẩm đi sâu miêu tả những cảnh đời thường, những số phận nghèo khổ, tối tăm trong xã hội cũ. Qua đó, tác giả gửi gắm một cách kín đáo, nhẹ nhàng nhưng không kém phần thấm thía tư tưởng nhân đạo đáng quý. Truyện có nhiều cảnh: cảnh ngày tàn, chợ tàn và những kiếp người tàn. Hình ảnh chuyến tàu đêm chạy qua phố huyện có ý nghĩa sâu sắc khiến người đọc xúc động. Hình ảnh đoàn tàu đêm là thế giới ước mơ, khát vọng của người nghèo.

Hai đứa trẻ là chị em Liên và An, chị khoảng mười hai mười ba, em độ lên bảy lên tám. Các nhân vật khác như những đứa trẻ bới rác, mẹ con chị Tí hàng nước, bà cụ Thi điên say rượu, bác phở Siêu, vợ chồng con cái nhà xẩm mù... góp phần tô đậm bức tranh cuộc sống khốn khó và tẻ nhạt. Thời gian là từ xẩm tối cho đến nửa đêm. Bối cảnh của truyện là một phố huyện nhỏ nghèo nàn, hiu hắt nằm ở giữa thôn xóm và cánh đồng, có đường xe lửa chạy qua.

Buổi chiều nơi phố huyện với những âm thanh và hình ảnh báo hiệu một ngày tàn: tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời. Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào, ánh mặt trời sắp tắt, tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng, tiếng muỗi vo ve trong bóng tối.

Sau một ngày làm lụng cực nhọc, cái chờ đợi mọi người là bóng tối và sự yên lặng quạnh hiu. Cảnh chợ chiều đã vãn càng làm nổi rõ cái nghèo: rác rưởi vung vãi trên nền chợ và những đứa trẻ lom khom tìm kiếm những gì có thể dùng được cho cuộc sống nghèo khổ của gia đình chúng. Bên cạnh cảnh ngày tàn, chợ tàn là những kiếp người tàn tạ: chị Tí với hàng nước sơ sài, bác Siêu với gánh phở bập bùng ánh lửa, gia đình bác xẩm mù với mảnh chiếu trải ra đất... Tất cả đều thoáng hiện, đơn điệu, lặng lẽ, rồi bị nhấn chìm trong bóng tối. Cảnh chiều buông, đêm đến được tác giả miêu tả để làm nền cho hình ảnh đoàn tàu xuất hiện.

Tác giả miêu tả hình ảnh đoàn tàu và thói quen đón đợi đoàn tàu của hai đứa trẻ thật chi tiết, tỉ mỉ. Lí do chờ đợi tàu của hai đứa trẻ bao gồm cả việc chờ tàu đến để bán hàng cho khách xuống tàu và cái chính là để thỏa mãn niềm khao khát, mong mỏi được nhìn ngắm đoàn tàu. Hai chị em Liên và An đã sống qua một ngày mệt mỏi và tẻ nhạt. Chúng chỉ bán được vài món hàng rẻ tiền như bao diêm, gói thuốc lào, bánh xà phòng... Đến tối thì kiểm hàng và đếm lại số tiền nhỏ nhoi. Hai đứa trẻ trơ trọi trong bóng tối, trên chiếc chõng cũ sắp gãy giữa không khí oi bức và tiếng muỗi kêu ran. Chỉ có một người đến với các em, đó là bà cụ Thi, một bà già hơi điên tối tối thường ghé mua rượu uống.

Các em chờ đoàn tàu đêm chạy ngang qua trong tâm trạng vô cùng háo hức. Sự xuất hiện của hàng nước chị Tí, gánh phở bác Siêu... là cái mốc để các em đo đếm thời gian đang xích lại gần với chuyến tàu. Cả hai chị em đều buồn ngủ ríu cả mắt nhưng vẫn cố thức để chờ. Cho đến khi An khôn thể thức được nữa, gối đầu lên đùi chị, mi mắt sắp sửa rơi xuống, còn dặn với: Tàu đến chị đánh thức em dậy nhé. Hai chị em cố thức chỉ vì muốn được nhìn chuyến tàu đó là sự hoạt động cuối cùng của đêm khuya. Với hai đứa trẻ, con tàu đâu chỉ đơn thuần là con tàu mà là cả một thế giới khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu. Có lẽ chính vì vậy mà hình ảnh chuyến tàu được Thạch Lam tập trung miêu tả một cách tỉ mỉ, kĩ lưỡng theo trình tự thời gian, qua tâm trạng chờ mong của hai nhân vật Liên và An.

Đoàn tàu chưa tới nhưng đã được báo trước từ xa với ánh đèn của người gác ghi và tiếng còi tàu theo gió vẳng lại. Tiếp theo là Liên trông thấy ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như ma trơi, rồi nghe thấy tiếng còi xe lửa trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi. Sau đó, hai chị em nghe thấy tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi, kèm theo một làn khói bừng sáng trắng lên đằng xa, tiếp đến tiếng hành khách ồn ào khe khẽ. Thế rồi, tàu rầm rộ đi tới, các toa đèn sáng trưng, những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh. Cuối cùng là cảnh tàu đi xa dần mất hút trong đêm tối mênh mông, để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt, cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre...

Cách quan sát, miêu tả của Thạch Lam rất tinh tế và giàu tính nghệ thuật. Tác giả quan sát, miêu tả hình ảnh đoàn tàu đêm từ Hà Nội về theo trình tự lúc tàu từ xa, lúc tàu đến rồi xa dần bằng nhiều giác quan cùng với rất nhiều sắc thái cảm giác; bằng sự đan xen giữa hồi ức và thực tại. Chuyến tàu đi qua phố huyện chỉ trong một khoảng thời gian rất ngắn nhưng đã để lại cho hai đứa trẻ bao nhiêu cảm xúc và nuối tiếc. Phố huyện rầm rộ, ồn ào lên trong chốc lát rồi lại chìm sâu vào bóng đêm yên tĩnh. Gần như đã thành nếp, những người dân phố huyện chỉ chấm dứt hoạt động khi chuyến tàu đêm đã đi xa.

Đối với chị em Liên, đoàn tàu đến từ Hà Nội gợi lại những kỉ niệm đẹp. Liên lặng lẽ mơ tưởng đến Hà Nội xa xăm..., nơi hai chị em đã sống thời thơ ấu êm ấm và sung sướng khi thầy chưa mất việc. Đó là cuộc sống ở một thời chưa xa, hoàn toàn khác với cuộc sống ở phố huyện buồn tẻ và nghèo nàn này.

Đoàn tàu còn là hình ảnh của tương lai, nó khiến người ta hình dung ra một thế giới giàu sang, đông đúc, nhộn nhịp, đầy âm thanh và ánh sáng. Việc Liên và An đón đợi đoàn tàu xuất phát từ nhu cầu bức thiết về tinh thần muốn thoát khỏi cuộc sống buồn chán hiện tại và được sống trong một thế giới mới tươi đẹp hơn. Đối với người đọc, vẻ đẹp của đoàn tàu và thái độ háo hức, sung sướng đến lặng người của hai đứa trẻ khi ngắm đoàn tàu không chỉ đem đến một thoáng vui mà còn gợi thật nhiều bâng khuâng, thương cảm.

Đúng là hai đứa trẻ vui vì niềm khao khát, đợi chờ vừa được thỏa mãn. Nhưng đoàn tàu ấy lại thuộc về một thế giới quá xa xôi và nó càng sáng rực, vui vẻ, huyên náo bao nhiêu thì càng làm cho cảnh sống nơi phố huyện trở nên tăm tối, buồn tẻ và chìm lặng bấy nhiêu. Chỉ có hình ảnh đoàn tàu lướt qua hằng đêm mà những người dân phố huyện ai cũng nôn nao chờ đợi. Người đọc cùng Thạch Lam thông cảm với tâm trạng của lớp người sống lầm lũi trong tăm tối, nghèo khổ. Tuy thế, truyện cũng nhen nhóm trong lòng người đọc hi vọng vượt lên sự tẻ nhạt, tầm thường của cuộc sống hằng ngày.

Truyện ngắn Hai đứa trẻ đi sâu vào phản ánh thế giới tâm hồn của những con người cùng khổ trong xã hội cũ. Hình ảnh đoàn tàu chỉ xuất hiện thoáng qua rồi vụt tắt nhưng nó vẫn là ánh sáng của niềm vui. Như một niềm an ủi, một nỗi khát khao, một mơ ước không bao giờ tắt, một chút tươi sáng cho cuộc đời tăm tối triền miên của những số phận hẩm hiu, bất hạnh nhưng vẫn hi vọng vào một ngày mai tươi sáng hơn.

Có thể bạn quan tâmPhân tích diễn biến tâm trạng chờ tàu của nhân vật Liên

Phân tích truyện Hai đứa trẻ mẫu số 10: Hai đứa trẻ là một bài thơ trữ tình đầy xót thương

Trên văn đàn văn học Việt Nam trước cách mạng tháng tám, Thạch Lam chưa được xếp ở vị trí số một nhưng cũng là một tên tuổI rất đáng coi trọng và khẳng định, Thạch Lam tuy có viết truyện dài nhưng sở trường của ông là truyện ngắn, bởi ở đó tài năng nghệ thuật được bộc lộ một cách trọn vẹn, tài hoa. Nguyễn Tuân viết: “Nói đến Thạch Lam người ta vẫn nhớ đến truyện ngắn nhiều hơn là truyện dài”. Đóng góp của Thạch Lam không chỉ ở nghệ thuật mà nó còn giúp ta thanh lọc tâm hồn: “Mỗi truyện là một bài thơ trữ tình đầy xót thương”. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam cũng là “một bài thơ trữ tình đầy xót thương” như thế.

Thạch Lam tuy có chân trong Tự lực Văn đoàn nhưng tư tưởng thẩm mĩ lại theo một hướng riêng. Ông xây dựng cho mình một thế giới nhân vật khác. Ông lặng lẽ hướng ngòi bút của mình về phía những người nghèo khổ với tấm lòng trắc ẩn chân thành? (Phong Lê). Thế giới nhân vật là những lớp người nghèo khổ cơ cực bế tắc nói chung, những nhân vật của Thạch Lam thật nhỏ bé và tội nghiệp: Họ thường nép mình trong bóng tối của một không gian hẹp thường là nơi phố huyện tiêu điều, xơ xác hoặc những xóm nghèo ngoại ô Hà Nội. Nhân vật của ông chủ yếu là con người thân phận, họ thường tìm kiếm nơi ẩn nấu trong gia đình, giữa bốn bức tường hoặc trong sân vườn, có nghĩa là tách khỏi cuộc đời, nơi xã hội đầy bất trắc bên ngoài. Có lẽ như thế con người mới cảm nhận hết về mình và về cuộc sống xung quanh. Dường như họ thu mình trước thực tại để xót mình và thương người, để bâng khuâng man mác khi hồi tưởng về quá khứ? Không dám nhìn về tương lai, mang nặng một mặc cảm mờ mịt trong lòng khi nghĩ về mai sau.

Cảm quan trong truyện của Thạch Lam có thể gói gọn trong ba chữ đó là niềm xót thương. Những con người nhỏ bé ấy bao giờ cũng được nhà văn học trong một không khí trữ tình đầy mến thương tỏa ra một cách dịu dàng từ tấm lòng tác giả. Truyện của Thạch Lam không có cốt truyện đặc biệt, giọng điệu và ngôn ngữ nhiều chất trữ tình: MỗI truyện ngắn của Thạch Lam có cấu tứ và giọng điệu như một bài thơ trữ tình, gợi sự thương xót trước số phận của những con người nhỏ bé bất hạnh. Một giọng văn bình dị mà tinh tế. Âm điệu man mác bao trùm hầu hết truyện ngắn và thiên nhiên cũng trữ tình. Văn cứ mềm mại, uyển chuyển, giàu hình ảnh, nhạc điệu. Đó chính là chất thơ trong truyện ngắn Thạch Lam, “có cái dịu ngọt chăng tơ ở đâu đây” khiến ta vương phải.

Truyện “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam là một mẩu chuyện sinh hoạt kéo dài của hai chị em đứa trẻ thay mẹ trông nom một gian hàng vặt ở một phố huyện gần một cái ga xép. Đêm đêm những bóng người bình thường cũng lù mù đi qua trước gian hàng. Những bóng ngườI ấy cũng lù mù như nhiều chấp lửa ở những nguồn sáng quanh quất nơi phố huyện. Trong cái bốn bề chìm chìm nhạt nhạt, bỗng có tiếng động mạnh và những luồng sáng mạnh của một chuyến xe lửa kéo qua hàng ngày. Hai chị em ngày nào cũng chờ một chuyến tàu đêm kéo qua ra mới chịu đóng cửa hàng. Nguyễn Tuân đã tóm tắt truyện như thế.

Đúng vậy, truyện này tưởng như không có cốt truyện, không có biến cố. Nó chỉ là biến diễn của một thời gian ngắn, từ khoảng năm giờ chiều khi “phương tây đỏ rực như lửa cháy” đến chín giờ tối “đêm tối bao bọc chung quanh”; nó chỉ là diễn biến bên trong “tâm hồn ngây thơ của hai chị em Liên, An trong một buổi tối của thường ngày tưởng như “tẻ nhạt”, “không có gì”… Song vượt lên trên cái thường ngày, Thạch Lam bằng con đường nghệ thuật riêng với thế giới nghệ thuật riêng, một thờI gian riêng, không gian riêng, nhân vật riêng, ngôn ngữ riêng đã tạo nên khí vị nhẹ nhàng, buồn man mác, đậm đà hương vị đồng quê; nhiều bóng tối mà chói sáng mối tình thương yêu hiền hòa, nhân hậu, xót thương chân thành, phảng phất thơ tỏa lên từ quê hương. Truyện không có cốt truyện như chất chứa biết bao cảnh đời, bao tâm trạng, tâm cảnh sâu lắng tinh tế.

Diện mao phố huyện được Thạch Lam tái hiện là một khung cảnh buồn, là cảnh chiều tàn đi dần vào đêm khuya. Hàng ngày, những cái ồn ào của buổi sáng làm không khí bị nhòe đi trong nắng nhưng đến chiều thì cái bộ mặt thật của phố huyện hiện ra với tất cả những cái tiêu điều, xác xơ, tàn lụi. “Chiều chiều rồi” như là một lời thảng thốt, bàng hoàng, như một tiếng thở dài. Thế là một buổi chiều nữa lại đến, chiều là buồn. Ấn tượng về buổi chiều khá sâu đậm. Thạch Lam đã chọn một phiên chợ tàn để nói lên được tất cả bộ mặt của phố huyện. Chợ là nơi biểu hiện sức sống của một làng quê, biểu hiện thuần phong mĩ tục của làng quê. Người ở nông thôn thường trông chờ vào ngày chợ phiên đông vui tấp nập. Thạch Lam đã chọn ngày chợ phiên để nói cái xác xơ tiêu điều của phố huyện. Mặc dù không tả buổi chợ phiên nhưng ông đã tả những phế phẩm còn lại của buổi chợ, đó cũng là cách biểu hiện sức sống đầy hay vơi của phố huyện. Tả những con người cuối cùng trao đổi với nhau rồi bước vào các ngõ tối. Rác chỉ là những thứ phế thải vớ vẩn “rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và bã mía, những thanh nứa thanh tre…". Lũ trẻ vẫn còn ra bòn mót, nhặt nhạnh. Ngày chợ phiên như thế thì sức sống đã kém lắm, đã yếu lắm rồi. Người bán trông vào người mua và ngược lại nhưng chỉ là sự vô vọng, luẩn quẩn, trông chờ vào sự vô vọng. Mùi vị tỏa ra trong không gian này là một thứ mùi đặc trưng để nói tới sự nghèo nàn. Đó là mùi bã mía, vỏ bưởi, vỏ thị, đất ẩm, mùi khói, mùi cỏ, mùi phân trâu nồng nồng ngai ngái… Cái mùi vị ấy cũng góp phần làm cho khung cảnh thêm phần tàn tạn héo úa, lụi dần.

Có thể thấy xung đột giữa bóng tối và ánh sáng khá mạnh mẽ. Ánh sáng và bóng tối đang giao tranh nhau. Ánh sáng yếu dần ban đầu là “bầu trờI đỏ rực như lửa cháy, mây ánh hồng như hòn than sắp tàn” sau đó là bóng tối hiện dần ở bóng xẩm trên ngọn tre và cuối cùng bao trùm lên khu phố huyện là cái bóng tối mênh mông của nó, tín hiệu là ngọn đèn Hoa Kỳ của chị Tí. Ở đây ánh sáng và bóng tối còn mang ý nghĩa tượng trưng, ánh sáng là ước mơ, bóng tối là nghèo nàn và cô đơn; mở đầu chuyện ánh sáng tắt dần, bóng tối chiếm lĩnh. Chính cái ánh sáng cuối cùng ấy báo hiệu rõ màn đêm - màn đêm vừa sâu vừa dày sẽ diễn ra tiếp đó. Ánh sáng càng ngày càng thu nhỏ phạm vi hoặc ở xa manh mảnh, li ti như ánh sáng của ngôi sao trên bầu trời hoặc yếu ớt ảm đạm lọt qua khe cửa khép hờ hoặc tỏa trên cái chõng tre của chị Tí. Ánh sáng ấy biểu hiện một sự tàn lụi ở cường độ thấp và khả năng thu hẹp của nó. Tiếng trống thu không rời rạc, chậm, lẻ tẻ và cứ tắt lịm dần. Nhưng âm thanh nhỏ nhất như tiếng muỗi vo ve gợi cảm giác về sự ngưng đọng. Nó rơi tỏm vào trong không gian đang chết lặng. Đó là những âm thanh không có hồi âm, nó chỉ nhấn mạnh thêm cái buồn tẻ đến rợn người của phố huyện lúc chiều tối. Tất cả hô ứng, qui tụ để cho người đọc thấy rõ được khung cảnh thật của phố huyện một ngày tàn. Thạch Lam miêu tả nhận xét một cách tinh tế, sâu xa bước đi thời gian của nơi phố nghèo. Người đọc dường như thấy được bước chuyển biến của thời gian rung lên bằng ngôn ngữ riêng. Sức rung động của câu văn có khả năng đánh thức con người hãy cảm nhận thật tinh tế khung cảnh phố huyện và tâm sự của Thạch Lam.

Trên cái nền ấy, những cảnh đời, những con người, đúng hơn là những phiến cảnh về cuộc đời, về con người bé mọn, hoàn toàn không có ước vọng, khát khao được khắc họa rõ nét. Họ nói chuyện với nhau nhưng dường như chẳng có nội dung. Họ có đi lại, ăn nói với nhau nhưng chỉ thấy họ vừa lòng thỏa mãn với cảnh chật hẹp. Mua chịu nửa bánh xà phòng, bán đong hơn một ngấn rượu trong chiếc cút bé nhỏ… Chị Tí là điển hình cho người dân phố huyện với nhịp sống quẩn quanh: ban ngày mò cua bắt tép, ban tối chị mới mở cái hàng bán nước. Cái đáng sợ là vẫn biết bán không được gì “sớm muộn mà có ăn thua gì?” mà vẫn cứ ra. Đây không phải là sự sống thực sự mà là sự sống cầm chừng cầm cự với cuộc sống, giao tranh, tranh giành với cái đói, cái chết trông chờ vào những người trên tàu là quá bấp bênh có khác gì trông chờ vào những người khách ấy để sống.

Cách chị Tí trả lời câu hỏI của Liên: không trực tiếp trả lời ngay mà còn làm thêm để chõng xuống đất, bày biện các bát uống nước mãi rồI mới chép miệng trả lờI: “Ối chao, sớm muộn mà có ăn thua gì”. Câu văn cho ta thấy nhịp sống chậm chạp, luẩn quẩn của nhân vật. Bác phở Siêu có vẻ khá hơn nhưng nguy cơ lại lớn hơn vì thứ mà bác bán là thứ quà xa xỉ mà ngay cả chị em Liên cũng không dám ăn. Bác Xẩm góp tiếng đàn run bần bật trong đêm tối, mà không hề có tiếng động nào của một đồng xu. Bà cụ là một con người bị tàn lụi, héo úa và cho ta cảm giác rợn người, kinh hoàng. Bà là kiếp người đáng sợ ở chi tiết vừa đi vào bóng tối vừa cười khanh khách. Cách xưng hô vớI Liên “chị” đã kéo xa khoảng cách tình cảm giữa con người với con người vốn rất cần trong hoàn cảnh cầm chừng này. Cụ Thi điên là một nạn nhân đầy đủ nhất của kiếp ngườI, như một cái cây đã tàn lụi quá nhiều - kiếp người héo hắt – tàn lụi. Cụ Thi xuất hiện chỉ trong mấy dòng truyện ít ỏI nhưng đã ám ảnh người đọc, thức dậy trong ta lòng trắc ẩn chân thành.

Ở vị trí tiền cảnh của bức tranh đời buồn thảm, héo tàn, mờ mờ lay động bóng hai chị em nhỏ tuổi cũng âm thầm không kém với cái “cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu” mà khách hàng là những người khốn khổ có khi không đủ tiền mua nổi nửa bánh xà phòng hoặc chỉ đủ tiền cho cút rượu nhỏ “uống một hơi cạn sạch”. Liên xót xa cho những kiếp ngườI lay lắt nhưng cuộc sống của Liên cũng cầm chừng không kém. Nỗi khổ của Liên có lẽ còn cao hơn nỗI khổ vật chất của những người khác, đó là bi kịch tinh thần bởi họ khổ mà không biết mình khổ còn Liên đã thực sự thấm thía cảnh sống tẻ nhạt tù hãm và đơn độc hết ngày này sang ngày khác. Biện pháp duy nhất để khuây khỏa nỗI hắt hiu, đơn điệu chỉ là đêm nào cũng mỏi mắt cố gắng chờ đợi một chuyến tàu đi qua: “đó là hoạt động cuối cùng của đêm khuya”.

Ánh sáng của đoàn tàu là mảng ánh sáng rực rở, mạnh mẽ song ở ánh sáng này cũng chỉ vụt lóe lên nhanh như một vì sao băng để rồI vĩnh viễn tắt lịm trong màn đêm khiến ta phảI ngơ ngác, bàng hoàng. Dường như “Hai đứa trẻ” là truyện của những nguồn ánh sáng, hồi tưởng của Liên cũng là hồi tưởng về ánh sáng. Lần đầu tiên Liên “nhớ lại” Hà Nội, một kí ức không rõ rệt, Hà NộI là một vừng sáng rực lấp lánh “và” Hà Nội nhiều đèn quá. Lần thứ hai, Liên mơ tưởng “Hà Nội xa xăm”, “Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo”. Cái cảnh tượng của quá khứ đẹp đẽ ấy tương phản gay gắt với cái tối mịt mù dưới gốc bàng của hiện tại đang diễn ra. Quá khứ và hiện tại, ánh sáng và bóng tối, lãng mạn và hiện thực, giấc mơ nghèo và sự thật nghèo khổ, tất cả tạo nên biến động sâu kín trong tâm hồn Liên. Ánh sáng của đoàn tàu là ánh sáng của mơ ước, nó chỉ thoáng qua, tắt lịm và để rồI tất cả lại chìm trong bóng tối mênh mông, buồn tẻ.

Tất cả các nhân vật đó đã hiện ra dưới cái nhìn xót thương của ngườI tái hiện. Và nỗi thương cảm của Liên đốI với mấy đứa trẻ đi nhặt rác, với chị Tí, với bác Siêu, với cụ Thi điên cũng là cảm xúc của chính Thạch Lam. Thạch Lam đã hóa thân vào nhân vật để nói cái cảm quan xót thưong của mình. Đoàn tàu với thoáng sáng vụt qua rất nhanh rồi tắt lịm đã thay đổi một chút ít không khí của thế giới hiện tại, phải chăng đó là khát vọng thoát khỏi cuộc sống tù đọng dù chỉ trong chốc lát của Thạch Lam. Nhà văn day dứt về một kiếp sống tàn lụi, héo úa, đơn điệu, hư vô chứ không chỉ có xót thương thông thường. Chính vì vậy mà ông trình bày hiện thực của phố huyện mang ý nghĩa khái quát lớn của xã hộI Việt Nam về sự trì trệ. Nếu đặt trong dòng thời sự văn học buổi ấy, ta thấy Thạch Lam phản ánh khá rõ nét một hoàn cảnh, tâm lí thời đại mà Nam Cao đã phải từng thốt lên: “Cuộc đời đang cùn đi, gỉ đi, nổi váng lên”…

“Hai đứa trẻ” là một truyện ngắn như một bài thơ trữ tình bởi cấu từ, giọng điệu, ngôn ngữ của nó, giống như một bài thơ. Cấu tứ của truyện là cấu tứ vòng tròn xoay quanh hình ảnh bóng tối được lặp đi lặp lại nhiều lần (không dưới ba mươi lần). Khi miêu tả cảnh trờI phố huyện cũng như cảnh đời những con người phố huyện, tác giả đặc biệt có ý sử dụng một cách công phu yếu tố nghệ thuật: hình ảnh bóng tối bao trùm cảnh vật và con người mà tác giả dụng công miêu tả từ nhiều thời điểm, từ nhiều góc nhìn, từ nhiều tâm cảnh khác nhau. Bóng tối như một ám ảnh, như một sự hăm dọa, như một quái vật đè nặng lên cảnh vật và con người. Tác giả nhắc đến bóng tốI nhiều lần dưới những cách nói hình ảnh từ ngữ tuy có khác nhau: “buổi chiều hòn than sắp tàn”, “mặt đen lại”, “chiều, chiều rồI”, “bóng tối ngập đầy”, “bước của buổi chiều”, “ngày tàn”. Tác giả miêu tả rất nhiều trạng thái khác nhau của bóng tối đến với tiếng trống thu không từ trên chòi cao, bóng tối sắp đến vớI những đám mây hồng như hòn than sắp tàn, bóng tối đến với dãy tre làng đen lại, bóng tối đến với cánh muỗi vo vo, bóng tối đến với những viên đá nhỏ trên con đường mấp mô, bóng tối bao trùm lên đường phố và các ngõ huyện…

Nói tóm lạI, bóng tối được lặp đi lặp lại đầu và cuối chuyện. Bóng tối như một cái gì hãi hùng đang hoạt động, đang thâm nhập, đang len lỏi, luồn lách, bám sát vào mọi cảnh vật, mọi trạng thái hoạt động âm thầm của mọi sinh vật. Nó như cái nền không gian nghệ thuật của tác phẩm và không gian xã hội của con người. Bởi tối là lúc chị Tí xuất hiện “tối đến chị mớI dọn cái hàng dưới gốc cây bàng”; về đêm bác phở Siêu mớI xuất hiện như một chấm lửa nhỏ và vàng lơ lửng đi trong đêm tối, mất đi rồi lại hiện ra… bóng tối là nơi cụ Thi mang đến và mang đi “một tiếng cười khanh khách nhỏ dần”, một cụ Thi cuộc đờI không rõ ràng nhưng rõ ràng là đang chứa ẩn một nỗI lòng u uất cứ chìm trong bóng tốI; vợ chồng bác Xẩm thu gọn trên mảnh chiếu chật hẹp. Với chị em Liên, tác giả kể tỉ mỉ hơn nhưng tâm trạng, những suy nghĩ của hai đứa trong đêm tối: đêm tối ngập đầy đôi mắt của Liên, Liên thích ngồi yên lặng ngắm nhìn trong đêm tối, về khuya, Liên ngồi yên lặng trong đêm chờ đón đoàn tàu, khi tàu vụt qua, Liên nhập dần vào giấc ngủ yên tĩnh như đêm ở trong phố tịch mịch và đầy bóng tối…

Lặp đi lặp lại gián tiếp hay trực tiếp hình tượng bóng tối cũng chính là cách để tác giả bộc lộ chủ đề tác phẩm qua cảm quan xót thương và tạo cho truyện có âm hưởng, cấu tứ như một bài thơ trữ tình. Mặt khác, việc miêu tả những cảm giác thiên nhiên rất hiếm trong hiện thực phê phán nhưng trong “Hai đứa trẻ”, Thạch Lam luôn luôn miêu tả khi có cơ hội. Thiên nhiên bao bọc truyện với nhiều trạng thái phong phú. Tác giả còn chú ý khắc họa được cảm giác mơ hồ về giờ khắc của ngày tàn và về vũ trụ thăm thẳm bao la rất gần gũi mang sắc thái dân tộc, cũng chính vì vậy mà nhân vật chính của câu chuyện là Liên cứ mang theo vẻ hồn man mác.

Chất thơ còn được thể hiện ở ngữ điệu nhỏ nhẹ, man mác thú vị ở lờI văn, ở những cảm xúc tinh tế của một tâm hồn dễ rung động. Truyện cứ trải dài ra như một bài thơ, lắng sâu thanh lọc hồn ta. Chất nhạc thấm trong từng câu văn thấm thía. Một giọng văn bình dị mà tinh tế, đầy ưu ái. Có thể nói “Hai đứa tẻ” là một bài thơ trữ tình trọn vẹn của Thạch Lam.

Khi nói “Mỗi truyện là một bài thơ trữ tình đầy xót thương” thì ngườI nói muốn nhấn mạnh cả về nội dung lẫn hình thức của truyện. Nội dung thể hiện hình thức và ngược lại. Nó là sự gắn bó hài hòa để tạo nên tác phẩm. Văn phong của Thạch Lam được thể hiện đặc trưng trong “Hai đứa trẻ”, và tôi muốn kết thúc bài viết này bằng ý kiến của Nguyễn Tuân: “Ngày này đọc lại Thạch Lam, vẫn thấy đầy đủ cái dư vị và cái nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học.”.

Phân tích truyện Hai đứa trẻ mẫu số 11

 Hai đứa trẻ là truyện ngắn tiêu biểu trong tập Nắng trong vườn (1938) của nhà văn Thạch Lam - một cây bút xuất sắc đa tài năng. Tác phẩm phản ánh những cảnh đời thường bình dị, nhưng đi vào bên trong, nơi sâu lắng của tâm hồn thì mảnh đời nào, nhất là của tầng lớp nghèo khổ, cũng gợi lên bao nỗi xót xa, thương cảm, có lúc sâu sắc, tinh tế đến bất ngờ.

Truyện được kể dưới đôi mắt ngây thơ của hai chị em Liên và An khi hai đứa trẻ theo mẹ về sống ở góc phố huyện nghèo. Mở đầu câu chuyện, người đọc bắt gặp ngay một khung cảnh của buổi chiều tà ảm đạm, u tối. Nơi hai chị em Liên ở là một phố huyện nghèo hay nói đúng hơn đó giống như một cái chợ xép nhỏ. “Chợ họp giữa phố văn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và bã mía. Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này.” Dường như những gì còn sót lại sau phiên chợ tàn càng tô đậm thêm sự cơ cực, vất vả, khốn khổ nơi đây. "Chúng nhặt nhạnh thanh nứa thanh tre hay bất cứ thứ gì có thể dùng được của những người bán hàng để lại” như một biểu hiện rõ nét nhất của sự khốn cùng.

Nổi bật trên khung cảnh tàn tạ của phố huyện là hình ảnh về những kiếp người tù túng, tàn tạ không lối thoát. Đó là đôi vợ chồng với tiếng đàn bầu thê lương. Đó là hình ảnh mẹ con chị Tý ngày ngày mò cua bắt ốc, tối đến lại thêm việc bán hàng nước ven đường, là gánh hàng của bác phở Siêu, là hình ảnh bà cụ Thi điên nghiện rượu,... Những thân phận héo mòn như những cái bóng khổng lồ ngày ngày vật vờ, lay lắt, mong manh chống chọi lại với cuộc đời. Một cuộc sống đơn điệu, lặp đi lặp lại buồn tẻ, tẻ nhạt xung quanh những con người nơi phố huyện mà chị em Liên đang ngày ngày chứng kiến. Tất cả họ dường như đang mong chờ một làn gió mới, một sự thay đổi mới cho cuộc đời đầy tối tăm thường lệ.

Trong bầu trời ngập màu đen đặc, hình ảnh những ngọn đèn dầu lóe lên những tia sáng mong manh được tác giả lặp lại như một niềm tin, hi vọng về một tương lai tươi sáng. Đó là “ngọn đèn lay động trên chõng hàng của chị Tí”, “ngọn đèn của Liên, ngọn đèn vặn nhỏ, thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên nứa”. Ngọn đèn dầu le lói, với những ánh sáng chơi vơi, cố từng tia sáng dường như không đủ sức để phá tan sự nặng nề của màn đêm u tối. Những cây đèn dầu còn là biểu tượng về những kiếp người nhỏ nhoi, vô danh vô nghĩa, về một kiếp sống bé nhỏ không tương lai giữa cuộc đời rộng lớn. Cuộc sống ấy, hình ảnh ấy, số phận ấy cứ đè nặng lên đôi vai mỗi con người nơi phố huyện nghèo.

Không chỉ khắc họa cuộc sống nơi mà trải dài trong toàn tác phẩm, nhà văn Thạch Lam còn dành một tình cảm và sự chú ý đặc biệt đến nhân vật Liên. Mặc dù cô bé Liên chỉ mới là một cô bé mới lớn nhưng trong cô gái ấy chứa chan những suy nghĩ, cảm xúc sâu sắc, chân thực đẹp đẽ đáng trân trọng. Sống trong góc phố huyện tăm tối, Liên cũng có đôi lúc buồn bã, tư lự, nó trái ngược hoàn toàn với những năm tháng tươi đẹp khi cô sống ở Hà Nội “một vùng sáng rực và lấp lánh”. Khi mà “mẹ Liên nhiều tiền - được đi chơi bờ hồ uống những cốc nước lạnh xanh đỏ”. Dù vậy nhưng Liên không ghét bỏ cuộc sống hiện tại, cô cảm nhận được những vẻ đẹp gần gũi, thân thuộc nơi đây đem lại cho cô. Liên và An chỉ biết lặng lẽ ngắm nhìn những vì sao, quan sát cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của những kiếp người nhỏ nhoi nơi phố huyện với cái nghèo, cái đói, cái khổ cứ bao quanh họ.

Những ánh sáng hiu hắt của những ngọn đèn dầu có thể không đủ để xua đi sự tăm tối, ảm đạm của cuộc sống. Và nhà văn Thạch Lam đã chọn hình ảnh về chuyến tàu đêm rực rỡ ánh đèn như một cách gieo một niềm tin, một hy vọng về tương lai cho những con người khốn khổ nơi đây. Chuyến tàu đêm vụt qua phố huyện cũng là niềm vui duy nhất trong ngày của chị em Liên và những cư dân. Với ánh sáng xa lạ, với những âm thanh náo nức, tiếng ồn ào, vội vã của hành khách,... đối lập, trái ngược với nhịp điệu cuộc sống im lìm, buồn tẻ, nhạt nhòa ở góc phố huyện. Chuyến tàu ở Hà Nội về chở đầy ắp những ký ức, kỉ niệm tuổi thơ của hai chị em Liên, nó như đánh thức những ngày tháng vui vẻ, đủ đầy mà chị em cô đã từng được sống. Sự đến và đi vội vã của những chuyến tàu đêm đã thắp sáng trong Liên những ước mơ, sự mong chờ và cả sự ý thức về cuộc đời.

Hình ảnh của những chuyến tàu đêm là có ý nghĩa sâu sắc. Nó biểu tượng cho một cuộc sống giàu sang và rực rỡ ánh sáng, đối lập với cuộc sống mòn mỏi, nghèo nàn, tối tăm và quẩn quanh với người dân phố huyện. Qua tâm trạng của Liên tác giả muốn thắp sáng những suy nghĩ tích cực của những người đang buồn chán, sống quẩn quanh, lam lũ và hướng họ đến một tương lai tốt đẹp hơn. Bên cạnh đó, chuyến tàu cũng là biểu tượng cho một cuộc sống sôi động, nhộn nhịp, vui vẻ, hiện đại. Dù chỉ trong giây lát nó cũng đưa cả phố huyện thoát ra khỏi cuộc sống tù đọng, u ẩn, bế tắc.

Tác phẩm hấp dẫn trong lòng người đọc không chỉ nhờ giá trị tư tưởng sâu sắc, tình cảm nhân đạo nồng nàn mà bên cạnh đó phải kể đến những yếu tố nghệ thuật mang đậm phong cách nhà văn Thạch Lam. Không cần cốt truyện li kì, độc đáo, không cần những tình huống gay cấn, chỉ đơn giản là những cảm xúc chân thực, những chi tiết, sự việc nhỏ nhặt chắp nối nhau qua từng suy nghĩ cùng với bút pháp tương phản đổi lập đã tạo nên thành công của nhà văn Thạch Lam trong quá trình kể chuyện. Đó là sự đối lập của tia sáng leo lét của những ngọn đèn dầu với bóng tối màn đêm bao phủ hay là sự đối lập giữa khung cảnh ảm đạm, tẻ nhạt, hắt hiu với sự ồn ào, náo nhiệt, rực rỡ của những chuyến tàu đêm. Bên cạnh đó, chúng ta không thể quên được hình ảnh nhân vật Liên với diễn biến tâm trạng thay đổi liên tục phù hợp với diễn biến câu chuyện. Ngoài ra, phải ca ngợi nhà văn Thạch Lam với cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh linh hoạt, giọng điệu thủ thỉ, thấm đượm chất thô chất trữ tình sâu sắc. Tất cả hòa quyện làm nên một tác phẩm đánh dấu tên tuổi của nhà văn Thạch Lam

Sử dụng cuộc sống của con người làm chất liệu để dệt nên những trang văn, độc đáo trong từng hình thức thể hiện, một lần nữa đã được nhà văn Thạch Lam thể hiện thành công qua "Hai đứa trẻ". Truyện ngắn đã thu hút rất nhiều tình cảm trong lòng người đọc và nhà văn Thạch Lam mãi là một cây bút vàng trong làng văn học Việt Nam.

Phân tích truyện Hai đứa trẻ mẫu số 12: Khát khao đổi đời của con người phố huyện nghèo

Hai Đứa Trẻ được Thạch Lam viết năm 1938, trích ra từ tập Nắng Trong Vườn. Tác phẩm kể về thời gian từ chiều đến đêm khuya nơi phố huyện, cảnh sinh hoạt của con người nơi đây. Tác giả đã đi sâu vào cảm xúc từng nhân vật, và cuộc sống, niềm hy vọng của họ.

Tác phẩm bắt đầu với âm thanh tiếng trống thu không, báo hiệu mặt trời đã về chiều. Bức tranh thiên nhiên thật lãng mạn, trữ tình, đậm chất làng quê Việt Nam. Mặt trời lúc này trong mắt tác giả như hòn than sắp tàn, không còn vai trò soi sáng cho không gian. Buổi chiều im ắng với “văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve”. Phố huyện tĩnh lặng đến mức có thể nghe được muỗi, ếch nhái kêu từ xa.

Phân tích tác phẩm Hai đứa trẻ để thấy bức tranh thiên nhiên Việt Nam buổi chiều hoàng hôn đẹp đẽ, tuy nhiên những âm thanh trên không làm thêm sự rộn ràng nơi làng quê nghèo, vẫn thật buồn tẻ. Âm thanh nhỏ bé làm nổi bật hơn không gian yên tĩnh, đơn điệu nơi đây. Bức tranh thiên nhiên lúc chiều dưới ngòi bút của Thạch Lam là sự lụi tàn, tan tác, buồn tẻ. Như vậy, dưới cảnh chiều tàn buồn man mác, con người nơi đây cũng chưa thấy vui vẻ hơn. Chiều tàn, chợ tan, không còn tiếng ồn ào, trò chuyện của bất cứ ai. Tiếng trống gõ rồi thôi, không gian im ắng đến đáng sợ, làm con người thêm não nề.

Hoạt động sinh hoạt về chiều của người dân phố huyện cũng không mấy náo nhiệt. “Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và bã mía”. Sau một ngày hoạt động, mọi thứ đọng lại chỉ còn lại những rác rưởi. Ngày tàn, chợ cũng tàn, những kiếp người nơi đây thật tàn tạ. Họ không có lấy một việc làm kiếm nhiều tiền để thay đổi cuộc sống, các gian hàng bán đều ế ẩm. Chiều về, trả lại cho phố huyện sự tĩnh lặng đến lạ thường, nhưng rất đỗi quen thuộc. Tuy nhiên, chợ tàn là lúc những đứa bé chưa có khả năng lao động tự kiếm ăn. Chúng “cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre, hay bất cứ cái gì có thể dùng được của các người bán hàng để lại”. Chỉ là một đứa trẻ, nhưng chúng phải học cách sinh tồn, kiếm ăn, lượm bất cứ gì sử dụng được.

Thông qua việc phân tích tác phẩm Hai đứa trẻ, chúng ta thấy rõ hoàn cảnh bi đát của người dân. Khi phố huyện bị bao trùm hoàn toàn bởi bóng tối. Đầu tiên là Liên, nhân vật là một cô gái mới lớn. Cô ý thức được cuộc sống hiện tại của mình, đặc biệt nhạy cảm với mọi thứ xung quanh. Trong khoảnh khắc ngày tàn, cô cảm giác buồn man mác. Liên gắn bó với quê hương từ nhỏ, đã quen với mùi đất, hương vị nơi đây. Khi bóng đêm bao phủ, liên nhanh tay “thắp đèn, xếp những quả sơn đen lại, trong lúc An đi tìm then để cài cửa cho chắc chắn”. Tiếp theo, cô tổng kết doanh thu sau một ngày bán hàng. An là em gái của Liên, luôn đồng hành, hỗ trợ chị mọi việc trong ngày.

Hình ảnh chị Tí “ngày chị đi mò cua bắt tép; tối đến chị mới dọn cái hàng nước này dưới gốc cây bàng, bên cạnh cái mốc gạch”. Chị làm mọi việc để trang trải lo cho con, gia đình. Bác Xẩm hành nghề ca hát, hy vọng người qua đường cho chác chút đỉnh. Tuy nhiên, nơi đây con người quá nghèo nàn, để có tư tưởng thưởng thức âm nhạc. Tiếp theo là bác Xiêu với gánh phở đầy, nhưng đối với phố huyện đây là “là một thứ quà xa xỉ, nhiều tiền”. Một tô phở cũng là quá xa xỉ, họ không đủ khả năng kinh tế để ăn, cái nghèo thật xơ xác.

Tiếp đến là cụ Thi, đây là nhân vật để lại ấn tượng với người đọc sâu sắc. Cụ suốt ngày uống rượu và chìm trong cơn say, bước chân đi không vững. Đây cũng là cách mà cụ chọn để làm cho cuộc sống đặc biệt, bớt nhàm chán. Người dân nơi đây vẫn hoạt động sôi nổi cả ban ngày lẫn ban đêm để sống tốt mỗi ngày, mặc dù rất khắc nghiệt. Họ chưa tìm ra một lối đi mới, thay đổi cuộc sống. Cuộc sống của người dân phố huyện hiện tại là chuỗi ngày lặp lại. Tuy nhiên, họ luôn có ước mơ, hy vọng, cố gắng để mong có tia hy vọng.

Chỉ khi phân tích tác phẩm Hai đứa trẻ mới thấy được rõ cảm xúc của Liên và An khi đợi tàu. Đoàn tàu đi qua phố huyện mỗi đêm khuya muộn là chi tiết đắt giá nhất tác phẩm Hai đứa trẻ. Tuy nhiên, đoàn tàu chỉ đi ngang không hề dừng lại, không ban phát một thứ gì về mặt vật chất, nhưng lại mang ý nghĩa đặc biệt cho tầm hồn hai đứa trẻ Liên và An. Ban đầu, Liên và An đợi tàu vì mẹ dặn, để mục đích bán hàng. Tuy nhiên, lý do chính để chị em Liên luôn háo hức, mong chờ tàu đến là vì mang lại cho chúng những thứ mà phố huyện không hề có. Hầu như, cả phố huyện đều thức và cố chờ đến thời điểm tàu đến, đi qua hẳn mới ngủ. Họ chờ tàu không phải vì để bán hàng kiếm tiền, được nhận thứ gì mà vì họ thấy được ánh sáng nơi chốn phồn hoa đô thị. Chính vì vậy, dù An và Liên buồn ngủ tít mắt, nhưng vẫn cố thức, An còn nói “tàu đến chị đánh thức em dậy nhé”. Không chỉ Liên, An cũng muốn thay đổi cuộc sống.

Liên đợi tàu cả thanh xuân, tàu đến báo hiệu cô rất rõ. “Liên cũng trông thấy ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất, như ma trơi. Rồi tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại, trong đêm khuya kéo dài ra theo gió xa xôi. Liên đánh thức em”. Tàu chỉ đến và “vụt qua” trong thoáng chốc, nên cần phải tập trung nhìn. Liên gọi em dậy để kịp xem khoảnh khắc quý báu khi tàu đến.

Tàu đến, âm thanh từ còi, người trên tàu cười cười nói nói, tiếng ma sát với đường ray, ánh sáng từ tác toa tỏa ra. Một sự vui vẻ, náo loạn chỉ có đoàn tàu mới có, khác hoàn toàn với không gian lặng lẽ nơi phố huyện. Ánh sáng, tiếng ồn chỉ đến và đi trong chốc lát, nhưng lại được chờ đợi suốt một ngày dài. Tàu qua, Liên và An vẫn lưu luyến, chăm chút đến khi mất hút đằng sau rặng tre. Lúc này bỗng tâm trạng Liên trĩu nặng, buồn lặng lẽ. Đoàn tàu là hình ảnh đại diện cho ước mơ đổi đời, tham vọng thay đổi cuộc sống con người phố huyện nghèo.

Phân tích tác phẩm Hai Đứa Trẻ để thấy được bức tranh phố huyện nghèo. Tác giả đi vào sâu tâm lí nhân vật, từng chi tiết một, làm nổi bật lên nét riêng mỗi người. Qua tác phẩm, chúng ta thấy con người cần có ước mơ, động lực sống để tốt hơn mỗi ngày.

Phân tích truyện Hai đứa trẻ của học sinh chuyên văn mẫu số 13

Đã mấy mươi năm trôi qua, người đọc vẫn không quên một dáng hình khiêm nhường, từ tốn, rất mực đôn hậu bước những bước thật nhẹ vào làng văn hiện đại Việt Nam, mang theo những trang văn nồng nàn hồn thơ. Đúng như Nguyễn Tuân nói, “sáng tác của Thạch Lam đem lại một cái gì đó nhẹ nhõm, thơm tho và mát dịu”. Ta bắt gặp những cảm xúc ấy không chỉ ở “Dưới bóng hoàng lan”, “Gió lạnh đầu mùa” hay “Cô hàng xén”, “Hai đứa trẻ” lại một lần nữa dắt ta vào thế giới trẻ thơ với những cảm xúc êm nhẹ, buồn thương.

Đến với “Hai đứa trẻ”, trước hết ta được thấm cảm bức tranh thiên nhiên và đời sống con người nơi phố huyện qua cái nhìn tinh nhạy của cô bé Liên – nhân vật chính trong truyện. Bức tranh thiên nhiên gói gọn trong hay từ “êm ả” và “đượm buồn”. Có âm thanh của tiếng trống thu không đánh lên từng hồi xa vọng, âm thanh của tiếng ếch kêu ran gợi tĩnh lặng một miền quê, âm thanh của tiếng muỗi vo ve đậm tô sự nghèo nàn. Không gian mở ra bởi màu “đỏ rực” của phương Tây, màu “ánh hồng” của mây trời, màu “đen sẫm” của tre làng. Có chút thanh bình, êm ả, nhưng cũng không ít thê lương, ảm buồn, nó đưa ta vào một miền không gian nửa lạ nửa quen, nửa quê nửa tỉnh, với những xúc cảm giăng mắc nhẹ nhàng.

Nơi phố huyện được nới rộng ra theo không gian của một phiên chợ tàn: “Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn lại rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”. Không còn là “lao xao chợ cá làng ngư phủ”, phiên chợ buổi vãn chiều thưa thoáng người, vắng sự náo nhiệt, tô đậm thêm sự lụi tàn.

Hiện lên trên nền cảnh của một buổi chiều tàn, một phiên chợ tàn là những kiếp người tàn. Không phải những người nông dân bị rượt đuổi bởi sưu cao thuế nặng, đồng tiền bát gạo như trong sáng tác của Ngô Tất Tố, Nam Cao. Không phải những ông quan Tây học, cô gái thôn quê sống an nhàn dưới nếp khói lam chiều như trong sáng tác của Nhất Linh, Hoàng Đạo. Phận người mà Thạch Lam quan tâm là những kiếp người bé mọn vô danh, sống lụi tàn trong một xã hội đen tối mịt mùng.

Thạch Lam đã viết về họ bằng tất cả niềm ai hoài cảm thương rung lên từ “chân cảm” của mình. Đó là những đứa trẻ nhà nghèo “cúi lom khom” nhặt nhạnh những thanh tre thanh nứa còn sót lại trên nền chợ, là mẹ con chị Tí với quán hàng bán chẳng được bao nhưng đêm nào cũng dọn, là bà cụ Thi với tiếng cười ghê rợn đi lần vào trong bóng tối, là bác Siêu với gánh phở ế ít người vào ăn, là gia đình bác xẩm với tiếng đàn bầu run bần bật trong đêm. Họ đều là những phận người nhỏ bé, sống lê lết từng ngày trong sự tù đọng quẩn quanh trên cái “ao đời phẳng lặng”. Viết về những kiếp người vô danh ấy, Thạch Lam bày tỏ một mối quan hoài sâu sắc về cuộc sống của hai đứa trẻ. Giữa lứa tuổi mà đáng lẽ thơ ngây còn chưa hết, Liên và An đã phải lo toan cho cuộc sống gia đình. Hai chị em trông coi hàng giúp mẹ ở một gian hàng nhỏ thuê lại của bà lão móm, ngăn ra bằng phên nứa dán giấy nhật trình. Thức hàng cũng chỉ là vài quả sơn đen hay mấy bánh xà phòng. Cơ cực đã đành, nhưng điều làm ta xa xót hơn là đời sống tinh thần của hai đứa trẻ ấy dường đang dần ngưng trệ. Chúng ngày ngày phải giam mình trong không gian u tối của phố huyện, tự cầm cố tuổi xuân và sức trẻ, và có thể sẽ chẳng bao giờ biết đến thế giới xa xăm ngoài kia.

Nhưng vốn là người “yêu mến và trang trọng trước sự sống”, Thạch Lam sẽ không bao giờ muốn dừng lại ở việc phản ánh hiện thực cuộc sống dẫu hiện thực ấy có chân thật đến đâu. Cố tìm mà hiểu chất ngọc sáng ẩn tàng nơi mỗi con người, khơi sâu “cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới”, đó mới là điều Thạch Lam luôn muốn làm. Có người nói, Thạch Lam sinh ra là để hóa giải hai khuynh hướng sáng tác, có lẽ điều ấy thể hiện rõ nhất là ở những vẻ đẹp trong tâm hồn cô bé Liên được nhà văn viết bằng cảm hứng lãng mạn. Giữa một phố huyện nghèo nàn xơ xác vẫn sáng lên những xúc cảm tinh nhạy của một cô bé biết rung động trước thiên nhiên. Liên nghe tiếng chiều buông xuống mà lòng tự thốt lên: “Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru”, chị thấy ở đó sự yên bình, và thấy cả lòng “buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”. Nghe hương ẩm từ nền chợ bốc lên mà tưởng như đó là “mùi riêng của đất, của quê hương này”. Trong cuộc sống lụi tàn, có mấy ai cảm được từ “một đêm mùa hạ êm như nhung” những gợn gió thoảng qua, thổi mát tâm hồn, mấy ai để tâm đến hoa bàng rụng xuống vai khe khẽ từng loạt một? Vậy mà những chứng tích của một tâm hồn mới lớn đã gọi về hết thảy những cảm xúc ấy: vừa rung động trước cái đẹp nhẹ nhàng, vừa buồn thoáng qua trước yên bình tĩnh lặng.

Không chỉ có một tâm hồn tinh nhạy, ở Liên còn có một niềm trắc ẩn sâu sắc, một mối đồng cảm nồng hậu với những kiếp người nhỏ bé quanh mình. Cuộc sống chẳng khá hơn họ, nhưng không vì thế mà Liên khép lại lòng thương đối với những đứa trẻ nghèo, hay bớt đi lời quan tâm với mẹ con chị Tí. Chị cũng chẳng ngại rót đầy cốc rượu cho bà cụ Thi, chẳng thờ ơ với gánh phở bác Siêu, gia đình bác xẩm. Sự động lòng và niềm bao dung đối với những người xung quanh phải chăng là lòng đồng cảm yêu thương mà Thạch Lam đã gửi gắm gián tiếp qua nhân vật của mình?

Trân trọng, yêu thương và không ngừng tin tưởng, Thạch Lam còn nhìn thấy ở những đứa trẻ kia một khát vọng luôn thường trực mà chúng tự nhen lên ngay trong cuộc sống bế tắc của mình. Sinh thời, Thạch Lam từng tâm niệm: “Xét cho cùng, ở đời ai cũng khổ. Người khổ cách này, người cách khác. Bí quyết là biết tìm cái vui trong cái khổ.” Hai đứa trẻ đã tự tìm cho mình niềm vui ở những lần chúng ngược dòng tâm tưởng, trở về quá khứ, miên man trong những tháng ngày vui vẻ ở Hà Nội nơi chúng từng được vui chơi, uống những cốc nước lạnh xanh đỏ. Hay những lần chúng ngước lên bầu trời đầy sao, tìm kiếm dòng sông Ngân Hà và con vịt theo sau ông Thần Nông, cũng chính là lúc chúng để cho lòng mình lặng theo mơ tưởng. Nhưng có lẽ khao khát vẹn tròn nhất, ước mơ đủ đầy nhất, hai đứa trẻ gửi cả vào đoàn tàu. Không chỉ hai chị em Liên mà “từng ấy người trong bóng tối trông đợi một cái gì tươi sáng hơn cho sự sống nghèo khổ của họ”, và có lẽ đoàn tàu chính là nguồn sáng mãnh liệt nhất.

Đoàn tàu – hoạt động cuối cùng của một ngày – trong con mắt Liên và những người dân nơi phố huyện lại chính là động lực cho họ cố bám bíu vào cuộc sống này. Đoàn tàu xuất hiện bắt đầu bằng tiếng reo của bác Siêu: “Đèn ghi đã ra kia rồi”. Đoàn tàu mang theo ánh sáng rực rỡ, mang theo âm thanh náo nhiệt, chứ không tù đọng như không gian phố huyện, không leo lét như ngọn đèn của chị Tí hay ánh lửa của bác Siêu. Chị em Liên cố thức chờ tàu không phải vì để bán được dăm ba món hàng, mà để được chìm đắm trong những cảm xúc mãnh liệt nhất về một “Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo”. Hà Nội ấy từng đựng đầy những kỉ niệm thân thương về một thời gia đình còn khấm khá, Hà Nội ấy trong tâm thức hai đứa trẻ là miền không gian đẹp vô tận và bạt ngàn niềm vui.

Vì lẽ đó mà đoàn tàu vừa như một tia hồi quang đưa hai chị em ngược dòng về quá khứ, vừa như một tia vọng quang thắp sáng cả tương lai. Nhưng nhìn ở một góc nào, phải chăng chính đoàn tàu lại càng tô đậm cuộc sống bế tắc của người nông dân, khi mà niềm vui lớn nhất trong ngày của họ chỉ là chờ tàu, chẳng thể làm gì hơn để vượt thoát khỏi không khí tù đọng cứ ôm trùm ấy. Qua đây, nhà văn muốn gửi một thông điêp: Cần phải thay đổi xã hội để cho những con người vô danh kia không phải sống vô nghĩa.

Hấp dẫn ta ở thiên truyện không chỉ bởi những nội dung tư tưởng sâu sắc thấm thía, tình cảm nhân đạo nồng nàn, mà còn ở những yếu tố nghệ thuật mang đậm phong cách Thạch Lam. Không xây dựng một cốt truyện bề thế hay một tình huống độc đáo li kì, “Hai đứa trẻ” chỉ như một “bài thơ trữ tình cảm thương” với những dòng tâm trạng đan xen, những chi tiết nhỏ lẻ, đủ gợi dư âm dư ảnh trong lòng bạn đọc. Tình huống Thạch Lam xây dựng không phải tình huống nhận thức, tình huống hành động, mà là tình huống tâm trạng – những dòng tâm trạng men theo lối chữ mà trải đều ra trên trang giấy. Nhân vật vì thế cũng là nhân vật tâm trạng. Liên hiện lên là một cô bé có những xúc cảm mong manh mơ hồ, chứ không phải những dòng tâm lí phức tạp như nhân vật của Nam Cao. Giọng văn vì thế cũng chỉ là giọng tâm tình thủ thỉ, ngôn ngữ nồng nàn chất thơ, mang đúng “cái tạng” của Thạch Lam.

Nghệ thuật chân chính là nghệ thuật vì con người, vì cuộc đời, nghệ thuật đích thực là nghệ thuật biết lấy chất liệu từ cuộc sống và con người để dệt nên những trang văn sâu sắc trong tư tưởng, độc đáo trong hình thức thể hiện. Một lần nữa Thạch Lam đã làm được điều đấy qua “Hai đứa trẻ”. Thạch Lam mãi là nhà văn đáng được yêu thương và trân trọng nhất trong làng văn học hiện đại Việt Nam.

Xem thêmPhân tích ý nghĩa đoàn tàu trong Hai đứa trẻ (Thạch Lam)

Phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ đạt điểm cao mẫu số 14

Nhắc đến Thạch Lam là nhắc đến một nhà văn lớn của khuynh hướng văn học lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930-1945. Tác phẩm của ông chủ yếu khai thác thế giới nội tâm của nhân vật với những cảm xúc mong manh, mơ hồ. Nhà văn Nguyễn Tuân khi nhận xét về Thạch Lam từng viết: “Xúc cảm của nhà văn Thạch Lam thường bắt nguồn từ những chân cảm đối với con người ở tầng lớp dân nghèo. Thạch Lam là nhà văn luôn quý mến cuộc sống, trân trọng sự sống của mọi người xung quanh”. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” chính là minh chứng tiêu biểu nhất cho phong cách nghệ thuật của Thạch Lam.

Hai đứa trẻ” được rút trong tập truyện ngắn “Nắng trong vườn” (1938). Nhân vật chính của tác phẩm là hai chị em Liên và An. Do gia đình xảy ra biến cố, hai đứa trẻ theo mẹ về quê ngoại ở một phố huyện nghèo. Ngày ngày hai chị em Liên và An trông coi căn hàng xén nho nhỏ với vài ba bao thuốc, dăm bánh xà phòng… và chờ đợi đoàn tàu đi ngang phố huyện. Qua con mắt ngây thơ của Liên, cuộc sống nơi phố huyện hiện lên chân thực, sống động. Đó là mảng màu u tối trong không gian chật hẹp, tù túng với những con người chậm chạp, vô hồn và nghèo đói. Truyện ngắn thể hiện niềm cảm thương chân thành của Thạch Lam đối với những kiếp sống nghèo khổ, chìm khuất trong mòn mỏi, tăm tối, quẩn quanh nơi phố huyện trước cách mạng và sự trân trọng với những mong ước nhỏ bé, bình dị mà tha thiết của họ.

Như đã nói, làm nên truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là cảnh ngày tàn và những kiếp người tàn. Mở đầu câu chuyện, đập vào giác quan người đọc là khung cảnh chiều tàn, ảm đạm và u tối. Thời gian được khắc họa trong tác phẩm ngắn ngủi, mọi sự việc diễn ra được kể từ lúc chiều tối cho đến đêm. Cảnh chiều tàn, trước hết qua con mắt của người nghệ sĩ, vẫn mang vẻ đẹp vô cùng yên ả, bình dị và thơ mộng. “Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời. Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”. Thế nhưng, bức tranh ấy tuy đẹp nhưng ẩn chứa sau nó là cả một nỗi buồn mà người vẽ đã cố ý che đi bằng những mảng màu rực rỡ. Có người đã nhận xét, văn Thạch Lam vừa chất chứa hiện thực vừa giàu tính lãng mạn. Điều đó hoàn toàn đứng khi đặt vào truyện ngắn “Hai đứa trẻ”. Bởi khuất lấp sau nhiều tầng lớp ngôn từ, điều Thạch Lam gửi gắm đó là cuộc sống mòn mỏi, tăm tối vây hãm con người.

Nơi chị em Liên ở là một phố huyện nghèo và thực chất nó là cái chợ xép nhỏ. “Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và bã mía. Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này.” Chỉ cần nhìn vào những gì còn sót lại sau phiên chợ cũng đủ để thấy cuộc sống cư dân ở đây khổ cực như thế nào. Những người bán hàng về muộn đứng nói chuyện với nhau ít câu như để trao lại cho nhau những nỗi tẻ nhạt cuộc sống mưu sinh. Những đứa trẻ nhà nghèo đang lúi húi sinh nhai trên đống phế phẩm của phiên chợ quê nghèo. Chúng “cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa thanh tre hay bất cứ thứ gì có thể dùng được của những người bán hàng để lại”. Đây là hiện thân đầy đủ nhất của sự khốn cùng. Tất cả như đang cố sức để sống và hi vọng nhưng sự cố gắng thì đã quá sức còn hi vọng vốn quá mong manh.

Nổi bật trên nền cảnh tàn tạ, hắt hiu của phố huyện là hình ảnh những kiếp người tàn, quẩn quanh, tù túng không lối thoát. Đó là vợ chồng bác xẩm với tiếng đàn bầu thê lương, trên manh chiếu rách, thằng con bò ra đất ngoài manh chiếu, nghịch nhặt rác bẩn. Đó là mẹ con chị Tí, ngày mò cua bắt ốc, tối đến lại dọn hàng nước ven đường “chả kiếm được bao nhiêu, nhưng chiều nào chị cũng dọn hàng, từ chập tối cho đến đêm”. Đó là bác phở Siêu với gánh hàng vốn là thứ quà xa xỉ đối với người dân phố huyện, là bà cụ Thi điên nghiện rượu, là những đứa trẻ con nhà nghèo và chính cả hai chị em Liên… Thân phận tàn tạ đang héo mòn, con người hoà lẫn cùng bóng tối như những cái bóng vật vờ lay lắt, mong manh đang trôi theo thời gian. Cuộc sống ấy cứ đều đều, đơn điệu, lặp đi lặp lại buồn tẻ, nhàm chán đối với người dân phố huyện. Tất cả họ đang mong đợi một cái gì đó tươi mát thổi vào cuộc đời họ.

Nét vẽ âm thanh, ánh sáng, con người của bức tranh phố huyện tưởng chừng rời rạc, nhưng nó hoà quyện cộng hưởng trong hệ thống u buồn, trầm mặc, xót xa. Điểm thêm vào cuộc sống ấy là ngọn đèn dầu cùng bóng tối bao phủ, càng ngợi sự nghèo khổ lay lắt đến tội nghiệp.

Cảnh ngày tàn được miêu tả ảm đạm, tù túng với những kiếp người tàn. Và, sự tẻ nhạt, tăm tối như được nâng lên gấp nhiều lần khi Thạch Lam miêu tả cảnh phố huyện lúc đêm khuya. Trong tác phẩm có đến hơn hai mươi lần từ “tối” được lặp lại. “Đường phố và các con ngõ dần dần chứa đầy bóng tối”, “tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại sẫm đen hơn nữa”, “đêm ở trong phố, tịch mịch và đầy bóng tối”. Bóng tối bao trùm tất cả, tràn ngập trong tác phẩm, tạo nên một bức tranh u tối, một không gian tù đọng, gợi cảm giác ngột ngạt. Bóng tối được miêu tả nhiều trạng thái khác nhau, có mặt suốt từ đầu đến cuối tác phẩm. Gợi cho người đọc thấy một kiếp sống bế tắc, quẩn quanh của người dân phố huyện nói riêng và nhân dân trước cách mạng tháng Tám nói chung. Đó cũng là biểu tượng của những tâm trạng vô vọng, nỗi u hoài trong tâm thức của một kiếp người.

Không chỉ là không gian, cảnh vật, cuộc sống của những cư dân nơi phố huyện cũng phủ  đầy đêm tối. Họ hoạt động, mưu sinh trong bóng tối mịt mù. Tối đến, mẹ con chị Tí dọn hàng nước. Đêm về, bác phở Siêu xuất hiện. Trong bóng tối, gia đình bác hát Xẩm kiếm ăn. Khi bóng tối tràn ngập là lúc bà cụ Thi điên đến mua rượu uống rồi sau đó “đi lần vào đêm tối”. Còn Liên và An đêm nào cũng ngồi lặng ngắm phố huyện và chờ đoàn tàu. Cuộc sống lặp đi lặp lại đơn điệu, buồn tẻ với những động tác quen thuộc, những suy nghĩ mong đợi như mọi ngày. Họ cùng mong đợi “một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày”.

Trong bóng tối đen đặc ấy, hình ảnh ngọn đèn dầu được nhắc hơn mười lần như một chút hi vọng mong manh Thạch Lam muốn gieo vào lòng con người. Đó là “ngọn đèn lay động trên chõng hàng của chị Tí”, “ngọn đèn của Liên, ngọn đèn vặn nhỏ, thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên nứa”. Tất cả không đủ chiếu sáng, không đủ sức phá tan màn đêm, mà ngược lại nó càng làm cho đêm tối trở nên mênh mông hơn, càng ngợi sự tàn tạ, hắt hiu, buồn đến nao lòng. Ngọn đèn dầu, mặt khác cũng là biểu tượng về kiếp sống nhỏ nhoi, vô danh vô nghĩa, lay lắt. Một kiếp sống leo lét mỏi mòn trong đêm tối mênh mông của xã hội cũ, không hạnh phúc, không tương lai, cuộc sống như cát bụi. Cuộc sống ấy cứ ngày càng một đè nặng lên đôi vai mỗi con người nơi phố huyện. Cả một bức tranh đen tối. Những hột sáng của ngọn đèn dầu hắt ra chỉ như những lỗ thủng trên một bức tranh toàn màu đen càng bi đát, tối tăm.

Trong toàn bộ tác phẩm, nhân vật mà Thạch Lam chú ý nhiều nhất là nhân vật Liên. Mặc dù Liên chỉ là một cô bé mới lớn nhưng ở em có những suy nghĩ, cảm xúc chân thực, đẹp đẽ đáng trân trọng. Ở đây, trước cảnh tăm tối, tù túng nơi phố huyện, tâm trạng của Liên cũng trở nên buồn bã, tư lự. Liên nhớ lại những tháng ngày tươi đẹp ở Hà Nội, “một vùng sáng rực và lấp lánh”. Khi ấy “mẹ Liên nhiều tiền – được đi chơi bờ hồ uống những cốc nước lạnh xanh đỏ”. Đó là cuộc sống khác hẳn với cảnh sống tăm tối, tù túng nơi phố huyện. Tuy nhiên, với cuộc sống hiện tại, cảm nhận của Liên tuy buồn nhưng thân thuộc, gần gũi. Liên không ghét bỏ hay từ chối cuộc sống hiện tại. Liên và An lặng lẽ ngắm các vì sao, lặng lẽ quan sát những gì diễn ra ở phố huyện và xót xa cảm thông, chia sẻ với những kiếp người nhỏ nhoi sống lay lắt trong bóng tối của cơ cực đói nghèo, tù đọng trong bóng tối của họ.

Một chút ánh sáng của những ngọn đèn có thể không đủ để xua đi cái tăm tối, ảm đạm, quẩn quanh của cuộc sống. Tuy nhiên, Thạch Lam không dập tắt hi vọng của những con người khốn khổ ấy. Ông mang đến cho họ niềm vui, hi vọng lớn lao hơn dù nó chỉ diễn ra trong chốc lát, đó là chuyến tàu đêm rực rỡ ánh đèn. Chuyến tàu đêm qua phố huyện là niềm vui duy nhất trong ngày của chị em Liên và những cư dân phố huyện. Nó mang đến một thế giới khác: ánh sáng xa lạ, âm thanh nao nức, tiếng ồn ào của khách… và đối lập với nhịp điệu buồn tẻ nơi phố huyện. Chuyến tàu ở Hà Nội về chở đầy ký ức tuổi thơ của hai chị em Liên, mang theo một thứ ánh sáng duy nhất, như con thoi xuyên thủng màn đêm, dù chỉ trong chốc lát cũng đủ xua tan cái ánh sáng mờ ảo nơi phố huyện.

Việc chờ tàu trở thành một nhu cầu như cơm ăn nước uống hàng ngày của chị em Liên. Liên chờ tàu không phải vì mục đích tầm thường là đợi khách mua hàng mà vì nhiều mục đích khác. Liên hi vọng được nhìn thấy những gì khác với cuộc đời mà hai chị em Liên đang sống. Con tàu mang đến một kỷ niệm, đánh thức hồi ức vui vẻ, đủ đầy mà chị em cô đã từng được sống. Chuyến tàu cũng giúp Liên nhìn thấy rõ hơn sự ngưng đọng tù túng của cuộc sống phủ đầy bóng tối hèn mọn, nghèo nàn của cuộc đời mình. Có thể nói, Liên là người giàu lòng thương yêu, hiếu thảo và đảm đang. Nỗi buồn cùng bóng tối đã tràn ngập trong đôi mắt Liên, nhưng trong tâm hồn cô bé vẫn dành chỗ cho một mong ước, một sự đợi chờ trong đêm. Cô là người duy nhất trong phố huyện biết ước mơ có ý thức về cuộc sống. Cô mỏi mòn trong chờ đợi.

Trong tác phẩm, hình ảnh chuyến tàu đêm là một biểu tượng có ý nghĩa sâu sắc. Nó là đại diện của một thế giới thật đáng sống với sự giàu sang và sự rực rỡ ánh sáng. Nó đối lập với cuộc sống mòn mỏi, nghèo nàn, tối tăm và quẩn quanh với người dân phố huyện. Qua tâm trạng của Liên tác giả muốn lay tỉnh những người đang buồn chán, sống quẩn quanh, lam lũ và hướng họ đến một tương lai tốt đẹp hơn. Đó là giá trị nhân bản của truyện ngắn này. Bên cạnh đó, chuyến tàu cũng là biểu tượng cho một cuộc sống sôi động, nhộn nhịp, vui vẻ, hiện đại. Dù chỉ trong giây lát nó cũng đưa cả phố huyện thoát ra khỏi cuộc sống tù đọng, u ẩn, bế tắc.

Để làm nên thành công của tác phẩm, bên cạnh giá trị nội dung sâu sắc, không thể không kể đến tài hoa nghệ thuật của Thạch Lam. Cốt truyện đơn giản, nổi bật là những dòng tâm trạng chảy trôi, những cảm xúc, cảm giác mong manh, mơ hồ trong tâm hồn nhân vật. Đọc “Hai đứa trẻ”, người đọc hoàn toàn có thể nhận ra câu chuyện gần như không có cốt truyện, tất cả chỉ đơn giản là những mảnh cảm xúc, những chi tiết, sự việc nhỏ nhặt chắp nối với nhau qua suy nghĩ, cảm nhận của nhân vật Liên. Bút pháp tương phản đối lập cũng được xem là một thành công của Thạch Lam trong quá trình kể chuyện. Đó là sự đối lập giữa bóng tối đậm đặc với ánh đèn dầu leo lét, là sự đối lâp giữa cuộc sống quẩn quanh, ảm đạm của người dân phố huyện với cuộc sống ồn ã, sôi động trên chuyến tàu đêm. Với sự đối lập này, Thạch Lam hướng đến nhấn mạnh, tô đậm cuộc sống tăm tối, tù túng, vô vọng của những cư dân nơi phố huyện. Bên cạnh đó, chúng ta cũng có thể dễ dàng nhận ra khả năng miêu tả sinh động những biến đổi tinh tế của cảnh vật từ bóng tối đến ánh sáng và tâm trạng của con người mà đặc biệt là nhân vật Liên. Đó có thể là buồn bã, cảm thông hay nuối tiếc… tất cả đều tinh tế và phù hợp với diễn biến câu chuyện. Ngoài ra, cũng có thể kể đến hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh, tượng trưng và giọng điệu thủ thỉ, thấm đượm chất thỏ chất trữ tình sâu sắc. Tất cả đã góp phần làm nên chất văn của Thạch Lam, đặc sắc và đầy thu hút.

Tóm lại, truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là tiếng nói xót thương đối với những kiếp người nghèo đói cơ cực, sống quẩn quanh bế tắc, không ánh sáng, không tương lai, cuộc sống như cát bụi ở phố huyện nghèo trước cách mạng tháng Tám. Qua những cuộc đời đó Thạch Lam làm sống dậy những số phận của một thời, họ không hẳn là những kiếp người bị áp bức bóc lột, nhưng từ cuộc đời họ Thạch Lam gợi cho người đọc sự thương cảm, sự trân trọng ước mong vươn tới cuộc sống tốt đẹp hơn của họ. Vì vậy tác phẩm vừa có giá trị hiện thực vừa có giá trị nhân đạo sâu sắc.

Bài văn ngắn phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ mẫu 15

Hai đứa trẻ là truyện ngắn được nhà văn Thạch Lam viết vào những năm 1937 - 1938 khi mà xã hội Việt Nam ở vào một trong những thời kì đen tối nhất. Đây là truyện mang đậm phong cách của Thạch Lam, cốt truyện không có những nút thắt nổi bật độc đáo nhưng khi đọc xong luôn ám ảnh lòng người. Một trong những thành công của truyện là tác giả đã tái hiện lại bức tranh sinh động về đời sống ở một ga xép khi màn đêm buông xuống mà qua đó nhà văn đã gửi gắm tình cảm của mình với những cảnh đời khác nhau.

Tác phẩm Hai đứa trẻ được bắt đầu bằng cảnh chiều tà trên phố huyện. Văn học xưa nay khi tả cảnh chiều thường có những hình ảnh chim về tổ, người đi xa nhớ nhà, nỗi buồn hoàng hôn… Ở Hai đứa trẻ ta không bắt gặp hình ảnh đó nhưng cảnh chiều vẫn thấm thía một nỗi buồn và trong cái buồn nhà văn vẫn phát hiện nét đẹp thi vị mang chút hoang sơ của làng quê "Phương Tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn… Chiều, chiều rồi, một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào".

Cùng với cảnh chiều tà là chợ tàn với hàng loạt những hình ảnh phơi bày vẻ nghèo xơ xác ở chốn này: "Chợ họp giữa phố đã vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đấ chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía. Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này". Ngay sau cảnh chợ tàn là cảnh bóng tối bao phủ. Dưới con mắt của Liên thì giờ đây tất cả đã ngập đầy bóng tối. Thạch Lam miêu tả bóng tối thật kì diệu. Có đến 30 lần tác giả nhắc đến bóng tối. Bóng tối đến từ nhiều phía: từ đám mây sắp tàn, từ rặng tre đã đen kịt, từ tiếng muỗi vo ve trong góc nhà, tiếng ếch kêu ngoài đồng để rồi nó bao trùm lên đường phố và các ngõ hẻm: "Tối hết cả từ con đường khấp khểnh ra sông…, các ngõ hẻm vào làng thì càng tối đen hơn nữa"

Với cách miêu tả này người đọc sẽ cảm nhận bóng tối như một cái gì đó rất hãi hùng, như một sự hăm dọa. Nó luồn lách mọi nơi, nó thâm nhập vào cảnh vật. Nó trùm lên và đè nặng lên cuộc sống ngột ngạt ở phố huyện nghèo nàn này.

Trong chuyện cũng có những chi tiết nói về ánh sáng ấy vừa leo lét tù mù, yếu ớt không đủ sức xua đi bóng tối mà trái lại lại còn gây cảm giác bóng tối càng đậm đặc hơn. Cứ tối đến thì bóng những con người bắt đầu xuất hiện khiến người đọc liên tưởng đến những loài chim ăn đêm lặn lội. Mặt khác ta cũng nghĩ ngay đến cảnh đời tăm tối trong đêm đen của chủ nghĩa thực dân phong kiến.

Cách miêu tả với từng gương mặt cụ thể, mỗi người có một đời sống riêng: chị Tí cứ nhá nhem tối là xuất hiện. Sau một ngày mò cua bắt tép vất vả, mặc dù biết là chẳng kiếm được bao nhiêu nhưng tối nào chị cũng dọn hàng. Hình ảnh ngọn đèn leo lét chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ ở quán nước của chị lại khiến ta liên tưởng tới cuộc sống tù mù, leo lét

Khi bác phở Siêu xuất hiện với một chấm lửa nhỏ và lơ lửng trong đêm tối, chập chờn như ma trơi. Từ khi dọn hàng cho tới lúc về bác không bán được đồng nào. Bà cụ Thi điên từ trong bóng tối đi ra với tiếng cười khanh khách. Sau khi uống cạn cút rượu, tiếng cười của cụ lại chìm vào bóng tối. Ở nhân vật này ẩn chứa một sự tội nghiệp u uất đầy bí ẩn.

Nhưng cảnh ám ảnh nhất là hình ảnh vợ chồng bác Xẩm mà nhà văn đã ba lần nhắc đến họ. Họ xuất hiện với tiếng đàn bầu run bần bật trong đêm tối rồi với đứa con bò lê trên đất cát trong bóng tối và khi về đếm về khuya thì họ ngủ gục trên manh chiếu tự bao giờ.

Sau khi miêu tả từng gương mặt tác giả khái quát lại "Chừng ấy con người trong bóng tối như mong đợi một cái gì tươi sáng cho cuộc sống nghèo khổ hàng ngày của họ". Rõ ràng nhà văn đã thấu hiểu đồng cảm sâu sắc với những cảnh đời trong bóng tối và chính Thạch Lam cũng mong đợi được đổi đời.

Tuy chuyện không nêu nên những vấn đề gay gắt mà tác giả chỉ lặng lẽ vẽ ra bức tranh phố huyện nghèo nhưng người đọc lại cứ bị ám ảnh mãi bởi những hình ảnh con người tác tác giả chọn lựa đưa vào câu chuyện. Tác phẩm đã thể hiện lòng cảm thông của Thạch Lam với những người nghèo, nhà văn trăn trở những khao khát rất bình dị của họ.

Qua tác phẩm, Thạch lam cũng thể hiện niềm tin và sự ca ngợi phẩm chất của người lạo động. Dù trong hoàn cảnh nào họ vẫn cứ cần cù, cứ lầm lũi sống, cứ âm thầm khao khát cuộc sống tươi sáng cho mình. Tuy tác phẩm nói nhiều về bóng tối nhưng người đọc vẫn thấy ánh lên một niềm tin: những con người ở đây sẽ khống cam chịu sự quẩn quanh, tù túng và họ luôn cố gắng hướng tới cái gì đó tươi sáng hơn.

Quả thật văn của Thạch Lam mang một phong cách rất độc đáo riêng biệt dù không cao trào, không mẫu thuẫn thế nhưng lại để lại những ấn tượng sâu lặng trong lòng người đọc và làm nên một một bản sắc văn học rất riêng có tên gọi Thạch Lam.

Tham khảo:

----------

Trên đây là 15 mẫu bài văn phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam là những bài văn hay nhất mà Đọc tài liệu đã tổng hợp được. Hy vọng bài viết sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em tham khảo trong quá trình viết bài. Ngoài ra, các em có thể tìm đọc thêm nhiều bài văn mẫu 11 khác được cập nhật thường xuyên tại doctailieu.com để luyện tập, củng cố kĩ năng làm văn. Chúc các em học tốt!

Bạn còn vấn đề gì băn khoăn?
Vui lòng cung cấp thêm thông tin để chúng tôi giúp bạn
Hủy

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM