Phân tích Vợ nhặt của Kim Lân

Xuất bản: 01/09/2020 - Cập nhật: 21/05/2024 - Tác giả: - Tham vấn bởi:

Hướng dẫn phân tích Vợ Nhặt, sơ đồ tư duy và tham khảo bài văn mẫu hay phân tích nội dung truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân.

Tài liệu hướng dẫn phân tích Vợ nhặt do Đọc Tài Liệu tổng hợp và biên soạn gồm các mục nội dung phân tích tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân chi tiết nhất và bài văn mẫu tham khảo giúp em hiểu sâu hơn ý nghĩa, giá trị của tác phẩm trong nền văn học Việt Nam.

I. Giới thiệu tác giả Kim Lân và truyện ngắn Vợ nhặt

1. Nhà văn Kim Lân

a) Tiểu sử cuộc đời

- Kim Lân (1920 - 2007) tên thật là Nguyễn Văn Tài, sinh ra trong một gia đình có hoàn cảnh khó khăn ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, Bắc Ninh.

- Do hoàn cảnh gia đình khó khăn nên chỉ mới học hết tiểu học, Kim Lân đã phải đi làm rất nhiều công việc khác nhau để kiếm sống như thợ sơn guốc, khắc tranh bình phong,...

- Năm 1944, ông tích cực tham gia vào các phong trào cách mạng và gia nhập Hội văn hóa cứu quốc.

- Sau Cách Mạng tháng Tám, ông tiếp tục viết văn, làm báo, đóng kịch hay đóng phim để phục vụ kháng chiến và cách mạng.

- Bút danh Kim Lân được lấy từ tên của nhân vật Đổng Kim Lân do ông đóng trong Tuồng Sơn Hậu.

- Năm 2007, ông qua đời tại Bệnh viện Hữu Nghị Hà Nội sau một thời gian dài chống chọi với căn bệnh hen suyễn.

b) Sự nghiệp văn chương

- Kim Lân bắt đầu viết truyện ngắn vào năm 1941 và được đăng trên các báo Tiểu thuyết thứ bảy Trung Bắc chủ nhật.

- Ông là một cây bút truyện ngắn vững vàng, chuyên viết về cuộc sống và con người ở nông thôn bằng tình cảm, tâm hồn của một người vốn trưởng thành từ đồng ruộng.

- Trước Cách mạng Tháng Tám, các tác phẩm của ông chủ yếu xoay quanh nếp sống sinh hoạt, trò chơi dân gian tao nhã vô cùng phong phú và sinh động ở thôn quê như đánh vật, chọi gà, thả chim,...

- Sau Cách mạng Tháng Tám, Kim Lân ghi được dấu ấn lớn và được nhiều người biết đến, thành công vượt trội với thể loại thể truyện ngắn viết về làng quê Việt với những tình cảm, tâm hồn của người nông dân.

- Tiêu biểu nhất là truyện ngắn Vợ nhặtLàng đã được đưa vào giảng dạy trong sách giáo khoa tại Việt Nam.

- Nǎm 2001, ông được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.

- Ngoài sáng tác văn học, Kim Lân còn tham gia đóng phim và kịch, một số vai tiêu biểu như Lão Hạc (phim Làng Vũ Đại ngày ấy), Lý Cựu (phim Lý Cựu), Lão Pẩu (phim Con Vá)...

c) Phong cách sáng tác

- Kim Lân là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam thế kỉ XX, chuyên viết truyện ngắn về làng quê Việt Nam, về những sinh hoạt văn hóa phong phú ở thôn quê.

- Ông là người có phong cách viết văn theo chủ nghĩa hiện thực nhờ vào sự am hiểu về phong tục và đời sống làng quê Bắc Bộ với văn phong giản dị, mộc mạc nhưng dễ hiểu, sống động và hấp dẫn.

- Ngôn ngữ văn của Kim Lân mang đậm màu sắc làng quê Việt Nam, gần gũi với những giao tiếp thường ngày.

- Trong văn của Kim Lân, cái đặc sắc, xúc động nhất là hồn cốt của tình người chứ không phải là những kịch tính hay xung đột dữ dằn.

- Không thể phủ nhận tính chuyên nghiệp rất cao, sự thuần thục bậc thầy về cấu trúc và ngôn ngữ truyện ngắn của Kim Lân thông qua các tác phẩm của ông.

- Đặc biệt Kim Lân có biệt tài miêu tả tâm lí nhân vật, quá trình đấu tranh, diễn biến trong suy nghĩ của nhân vật vô cùng xuất sắc.

d) Các tác phẩm tiêu biểu

Tuy không có kho tàng sáng tác đồ sộ nhưng Kim Lân đã tạo ra cho mình nhiều thành công vang dội, giá trị và gây ấn tượng mạnh mẽ thông qua các tác phẩm như:

- Đứa con người vợ lẽ

- Đứa con người cô đầu

- Cô Vịa

- Đôi chim thành

- Con mã mái

- Chó săn

- Nên vợ nên chồng (1955)

- Làng (1948)

- Vợ nhặt (1962)

- Con chó xấu xí (1962)

- ...

e) Đóng góp cho nền văn học Việt Nam

- Kim Lân là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học hiện thực Việt Nam - người có công xây dựng Hội Nhà văn Việt Nam từ những ngày đầu với những đóng góp quan trọng trong việc xây dựng hình tượng người nông dân trong văn học.

- Các tác phẩm của ông mang giá trị nhân văn sâu sắc, góp phần khẳng định giá trị của con người và tình yêu thương trong cuộc sống, nêu tấm gương cao đẹp về lòng yêu nước, gắn bó mật thiết với cách mạng và kháng chiến, kiên định, vững vàng về bản lĩnh.

- Ông đã để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm sâu sắc về cuộc sống và con người thôn quê, có sức sống lâu dài, làm giàu thêm văn chương Việt, tâm hồn Việt.

2. Truyện ngắn Vợ nhặt

- Hoàn cảnh sáng tác: Tác phẩm Vợ nhặt được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công nhưng còn dang dở và bị mất bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại (1954), Kim Lân dựa vào một phần truyện cũ để viết truyện ngắn này.

- Xuất xứ: Truyện có tiền thân là tiểu thuyết Xóm ngụ cư được in trong tập Con chó xấu xí.

- Nội dung chính: Vợ nhặt là một tác phẩm văn học viết về thời kỳ xảy ra nạn đói năm 1945. Truyện đã khắc họa tình cảnh thê thảm của người nông dân Việt Nam trong nạn đói khủng khiếp năm 1945 cướp đi sinh mạng của hơn hai triệu đồng bào ta.

- Đặc sắc nghệ thuật: Tình huống truyện độc đáo, nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, bút pháp miêu tả tâm lí, thế giới nội tâm nhân vật tinh tế, ngôn ngữ gần gũi, giản dị, mộc mạc.

- Ý nghĩa nhan đề:

+ Vợ: biểu tượng cho tổ ấm, hạnh phúc gia đình, mang ý nghĩa trọng đại và lớn lao

+ Nhặt: hành động rẻ rúng, tầm thường

+ “Vợ nhặt”: nghĩa là nhặt được vợ, thể hiện giá trị hiện thực của truyện đó là sự rẻ rúng, bèo bọt của thân phận con người, tình cảnh thê thảm của con người trong nạn đói 1945.

=> Nhan đề “Vợ nhặt” bao quát được tình huống của truyện, đồng thời đó cũng là bản án đanh thép của Kim Lân đối với chế độ thực dân đã đẩy người nông dân rơi vào tình cảnh nghèo khổ, người thì “chết như ngả rạ”. Nhan đề “Vợ nhặt” cũng mang tính khái quát cao, hoàn cảnh của Tràng cũng chỉ là một trong những người đó. Qua nhan đề này, nhà văn đã bộc lộ sự đồng cảm xót xa cho số phận của những người nông dân trong nạn đói năm 1945.

Nhan đề “Vợ nhặt” và nội dung câu chuyện có mối quan hệ mật thiết với nhau bởi nó đã nói lên nội dung tư tưởng của tác phẩm. Đó là thân phận rẻ rúng, bần cùng của con người có thể “nhặt” ở bất kỳ đâu, là sự khốn cùng của hoàn cảnh khi Tràng “nhặt” được vợ và mang về nhà, bắt đầu một cuộc sống hôn nhân.

3. Bối cảnh ra đời tác phẩm Vợ nhặt

a) Bối cảnh lịch sử

- Nạn đói năm 1945 là một trong những thảm họa khủng khiếp nhất trong lịch sử Việt Nam đã khiến hàng triệu người chết đói, đẩy đồng bào ta vào cảnh khốn cùng, tuyệt vọng.

- Chính chính sách vơ vét bóc lột tàn bạo của phát xít Nhật, việc ép buộc nhổ lúa trồng đay… là nguyên nhân trực tiếp nhất gây nên hậu quả thảm khốc này.

b) Bối cảnh xã hội

- Xã hội Việt Nam thời kỳ này đầy biến động, khó khăn, người nông dân phải đối mặt với đói nghèo, bệnh tật, áp bức bóc lột dưới ách Pháp, Nhật.

- Người dân phải sống trong những căn nhà tạm bợ, xóm ngụ cư tồi tàn, phải vật lộn để kiếm sống qua ngày, thậm chí phải làm những việc trái với luân thường đạo lý như ăn xin, ăn trộm...

- Nạn đói đã dẫn đến sự tha hóa về nhân phẩm, khiến con người đánh mất những giá trị đạo đức truyền thống.

=> Bối cảnh lịch sử và xã hội trên đã tạo nên sức nặng và tính hiện thực cho tác phẩm, giúp tác giả phản ánh chân thực và sâu sắc số phận của người nông dân trong nạn đói, đồng thời khẳng định sức sống mãnh liệt của tình người và khát vọng sống.

    So do tu duy phan tich truyen ngan Vo nhat

    Tham khảo đầy đủ hệ thống sơ đồ tư duy Vợ nhặt với các dạng bài khác nhau do Đọc tài liệu tổng hợp, biên soạn.

    4. Nhận định về Kim Lân và tác phẩm Vợ nhặt

    Kim Lân là nhà văn một lòng đi về với "đất" với "người" với "thuần hậu nguyên thuỷ" của cuộc sống nông thôn.

    (Nguyên Hồng)

    "Nhà văn dùng "Vợ nhặt" để làm cái đòn bẩy để nâng con người lên trong tình nhân ái. Câu chuyện "Vợ nhặt" đầy bóng tối nhưng từ trong đó đã loé lên những tia sáng ấm lòng".

    (Nhà giáo Trần Đồng Minh)

    “Vợ nhặt dường như đã mang nét mới của thời đại, vượt lên trên chủ nghĩa nhân văn trong dòng văn học hiện thực trước Cách mạng tháng Tám 1945”.

    (Vũ Dương Quỹ)

    “Kim Lân là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Kim Lân đã tạo được cách viết độc đáo. Phải nói rằng Kim Lân viết không nhiều nhưng những sáng tác của ông đã gây ấn tượng với bạn đọc”.

    (Trích “Nhà văn nói về tác phẩm”, Hà Minh Đức)

    "Chỉ với ba truyện ngắn Làng, Vợ Nhặt , Con chó xấu xí nhà văn Kim Lân đã đường hoàng ngồi chiếu trên trong làng văn Việt Nam"

    (Nguyễn Khải)

    Phân tích tác phẩm Vợ nhặt chi tiết

    1. Phân tích chủ đề, ý nghĩa của tác phẩm Vợ Nhặt

    a) Chủ đề của tác phẩm

    - Viết về đời sống của những con người bần cùng, lương thiện, trong cảnh đói kém khủng khiếp do bọn thực dân phong kiến gây ra.

    - Thể hiện niềm tin vào cuộc sống và tình yêu thương đùm bọc lẫn nhau giữa những con người nghèo khổ dù trong hoàn cảnh khắc nghiệt.

    b) Ý nghĩa của tác phẩm

    - Vợ nhặt của Kim Lân không chỉ phản ánh sự khốn khổ của nhân dân trong nạn đói năm 1945 mà còn tôn vinh tinh thần chiến đấu và lòng yêu nước của họ.

    c) Tình huống truyện

    - Trong bối cảnh thê thảm của nạn đói 1945, Tràng - một người xấu trai, nghèo khổ, sống ở xóm ngụ cư, tính ngốc ngếch, vì nghèo mà không lấy được vợ nhưng bỗng dưng “nhặt” được vợ (theo về không).

    => Tình huống vừa éo le, vừa độc đáo, bất ngờ nhưng cũng hết sức hợp lí, thể hiện giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc.

    2. Phân tích các nhân vật và mối quan hệ giữa các nhân vật

    a) Phân tích nhân vật Tràng

    * Lai lịch và ngoại hình

    - Xuất thân: con nhà nghèo, nhà có hai mẹ con, là dân xóm ngụ cư, làm nghề kéo xe thuê.

    - Ngoại hình: xấu xí, “dáng người thô kệch, cái cười khềnh khệch”, “lưng Tràng như con gấu”, “quai hàm bạnh ra”...

    * Tính cách

    - Tràng là người vô tư, nông cạn:

    + Tràng là người hầu như không biết tính toán, không ý thức hết hoàn cảnh của mình.

    + Thích chơi với trẻ con vào mỗi buổi chiều khi trên đường đi làm về, Tràng với lũ trẻ con như anh em, bè bạn, cái xóm ngụ cư ấy mỗi chiều lại xôn xao lên.

    + Chuyện quan trọng cả đời như lấy vợ, Tràng cũng chỉ quyết định trong chốc lát: Lần đầu gặp mặt, người đàn bà đang đói bám lấy Tràng để được ăn bánh, Tràng cũng vui vẻ chấp nhận. Lần thứ hai, ả tới ăn vạ, Tràng chấp nhận đưa về nhà để thành... vợ chồng.

    - Tràng là người tốt bụng, phóng khoáng, nhân hậu:

    + Thấy người đàn bà đói, Tràng cho ăn.

    + Thấy thị quyết theo mình thì vui vẻ chấp nhận.

    => Tràng lấy vợ trước hết vì lòng thương đối với một con người đói khát hơn mình.

    - Tràng là người khao khát hạnh phúc gia đình, sống có trách nhiệm:

    + Khi đã có vợ, Tràng đã ý thức chăm sóc gia đình hơn: mua cho thị cái thúng con, ra hàng cơm đánh một bữa no nê, mua 2 hào dầu thắp phòng cho sáng sủa.

    + Trân trọng, nâng niu hạnh phúc mà mình có được, quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả đói khát ghê gớm đang đe doạ, quên cả những tháng ngày trước mặt.

    • Xăm xăm bước vào dọn dẹp, thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu bàn tay của đàn bà. -> Hành động ngượng nghịu nhưng chân thật, mộc mạc.
    • Khi bà cụ Tứ chưa về, Tràng có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng người vợ sẽ bỏ đi vì gia cảnh quá khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay.
    • Sốt ruột chờ mong bà cụ Tứ về để thưa chuyện. => Biểu hiện của đứa con biết lễ nghĩa ngay cả trong hoàn cảnh nghèo đói.
    • Thưa chuyện với bà cụ Tứ một cách trịnh trọng, biện minh lí do lấy vợ là “phải duyên”, căng thẳng mong mẹ vun đắp.
    • Khi bà cụ Tứ tỏ ý mừng lòng Tràng thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.

    + Sau khi có vợ, Tràng trở thành một người sống có trách nhiệm:

    • Tràng thấy mình đổi khác “trong người êm ái, lửng lơ như người từ giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ như không phải”.
    • Tràng thấy thương yêu và gắn bó với căn nhà; “Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như tổ ấm che mưa che nắng… Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, thấy hắn có bổn phận phải lo cho vợ con sau này…”
    • Tràng muốn dự phần tu sửa căn nhà. “Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà”.

    -> Tràng là một người có tâm hồn thuần hậu, hiền lành, chất phác, tâm hồn lạc quan, yêu đời, tấm lòng nhân hậu, luôn khát khao về một cuộc sống hạnh phúc ngay cả trong hoàn cảnh nghèo khó.

    * Sự thay đổi tâm lý, hành động

    Từ khi nhặt được vợ, cuộc sống của Tràng đã có sự biến đổi theo chiều hướng tốt đẹp.

    - Trước khi nhặt vợ: Tràng chỉ là một anh phu xe cục mịch, chỉ biết việc trước mắt, sống vô tư

    - Sau khi nhặt vợ: Tràng đã biết quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội, có trách nhiệm hơn với gia đình, có ý chí vươn lên khao khát đổi đời, bắt đầu nghĩ đến tương lai, đến việc xây dựng một gia đình hạnh phúc.

    + Tràng nhận thấy sự thay đổi kì lạ của ngôi nhà (sân vườn, ang nước, quần áo, ...). Tràng nhận ra vai trò và vị trí của người đàn bà trong gia đình. Cũng thấy mình trưởng thành hơn, có trách nhiệm hơn với gia đình, với mẹ và vợ.

    + Lúc ăn cơm trong suy nghĩ của Tràng là hình ảnh đám người đói và lá cờ bay phấp phới. Đó là hình ảnh báo hiệu sự đổi đời, con đường đi mới, phướng hướng mới để thoát khỏi cảnh nghèo khổ hiện tại.

    => Qua sự biến đổi này, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp tình người của những con người trong cái đói, họ không nghĩ đến cái chết mà luôn nghĩ đến sự sống, tin tưởng vào tương lai.

    b) Phân tích nhân vật Thị

    - Lai lịch: không tên tuổi, quê quán hay họ hàng, từ đầu đến cuối tác phẩm chỉ được gọi bằng “thị” -> Thị là nạn nhân của nạn đói, phải rời khỏi quê hương, gia đình, sống trong cảnh rẻ rúng.

    - Ngoại hình không mấy dễ nhìn: “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt”, “áo quần rách như tổ đỉa”, “cái nón cà tàng che nửa khuôn mặt”, “cái ngực gầy tẹp lép nhô lên”

    - Tính cách, phẩm chất:

    + Trước khi làm vợ Tràng:

    • ăn nói “chao chát”, “chỏng lỏn”, cong cớn, sưng sỉa, vô duyên
    • ăn thật nhá…”, “sà xuống ăn một chặp bốn bát bánh đúc”, “ăn xong cầm dọc đũa quệt ngang miệng “Hà! Ngon!

    -> Cái đói khổ không chỉ làm biến dạng ngoại hình mà cả nhân cách con người.

    + Sau khi làm vợ Tràng:

    • Ý tứ, nết na, hiền thục, đảm đang: thị đi sau Tràng ba bốn bước, cái nón rách che nghiêng, “rón rén, e thẹn” , ngượng nghịu,“chân nọ bước díu cả vào chân kia”, sáng hôm sau dậy sớm, quét tước, dọn dẹp cho căn nhà khang trang, sạch sẽ.
    • Có khát vọng sống mãnh liệt, có niềm tin vào tương lai: thị tỏ ra am hiểu về thời sự khi kể cho mẹ và chồng về câu chuyện ở Bắc Giang người ta đi phá kho thóc của Nhật.

    * Sự thay đổi tâm lý, hành động

    - Khi mới gặp gỡ Tràng:

    + Khi nghe câu hò vui của Tràng, thị vui vẻ giúp đỡ -> sự hồn nhiên vô tư của người lao động nghèo.

    + Khi được mời ăn tức thì ngồi sà xuống, mắt sáng lên, “ăn một chặp bốn bát bánh đúc”

    + Khi nghe Tràng nói đùa “đằng ấy có về với tớ... cùng về”, thị đã theo về thật dù không biết gì về Tràng, chấp nhận theo không về không cần sính lễ

    -> Cơ hội để thị bấu víu lấy sự sống trong cái đói khổ.

    - Trên đường về:

    + Rón rén, e thẹn đi sau Tràng

    + Đầu hơi cúi xuống

    => Thị ngại ngùng cho thân phận vợ nhặt của mình.

    - Về đến nhà:

    + Tràng đon đả mời ngồi, chị ta cũng chỉ dám ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng.

    -> Sự ý tứ khi chưa xác lập được vị trí trong gia đình.

    + Khi gặp bà cụ Tứ, ngoài câu chào, Thị chỉ cúi đầu, “hai tay vân vê tà áo đã rách bợt” -> sự lúng túng, ngượng nghịu.

    - Sáng hôm sau:

    + Thị dậy sớm quét tước nhà cửa

    + Hiền hậu, đúng mực chứ không còn cái vẻ “chao chát, chỏng lỏn” nữa.

    + Lúc ăn cháo cám, mới nhìn “mắt thị tối lại” nhưng vẫn điềm nhiên và vào miệng -> Sự nể nang, ý tứ trước mẹ chồng, không muốn làm bà buồn.

    + Kể chuyện phá kho thóc trên Thái Nguyên, Bắc Giang -> Thắp lên hi vọng cho Tràng và cả gia đình.

    -> Sau khi về làm vợ Tràng, thị đã có sự thay đổi tính cách: khép nép, hiền hậu, ngoan ngoãn, thu vén cho gia đình, có niềm tin vào tương lai.

    => Cái đói có thể cướp đi nhân phẩm trong khoảnh khắc nào đó chứ không vĩnh viễn cướp đi được tâm hồn con người.

    c) Vẻ đẹp tình người qua nhân vật bà cụ Tứ

    - Hoàn cảnh: một người mẹ nghèo khổ, chịu nhiều thiệt thòi, sống cùng con trai.

    - Ngoại hình:

    + “dáng người lọng khọng”, chậm chạp, run rẩy

    + “vừa đi vừa húng hắng ho vừa lẩm bẩm tính toán”.

    => Dáng vẻ của người mẹ nông dân nghèo khó với những nét cơ cực, lam lũ vì sương gió cuộc đời.

    - Tâm hồn, tính cách:

    + Tấm lòng nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha.

    + Lạc quan, có niềm tin vào tương lai, hạnh phúc tươi sáng.

    => Trong tác phẩm, bà cụ Tứ hiện lên là một người đàn bà nông dân hồn hậu và có một cuộc đời thật nhiều thương cảm, nhà nghèo, góa bụa, sống gian khổ, thầm lặng.

    * Diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ

    - Khi vừa về đến nhà:

    + Ngạc nhiên trước sự đon đả của đứa con trai ngờ nghệch

    + Ngạc nhiên trước sự xuất hiện của người đàn bà lạ.

    -> Bà băn khoăn, tỏ ý không hiểu khi thấy Tràng dẫn người đàn bà lạ về nhà.

    - Khi hiểu ra cơ sự:

    + “mắt bà nhoèn đi

    + Vừa đau đớn, tủi cực, vừa xót xa xen lẫn vui mừng:

    • Xót xa vì thương con phải lấy "vợ nhặt" trong cảnh đói khát, lo lắng không biết liệu các con có lo nổi cho nhau hay không, thương người đàn bà xa lạ kia, phải đến bước như thế này thì người ta mới lấy con mình.
    • Vui mừng vì con đã có vợ

    - Sáng hôm sau:

    + Bà dậy sớm cùng nàng dâu mới chăm bẵm vườn tược, chăm lo cho ngôi nhà của mình

    + “gương mặt bủm beo, u ám ngày thường rạng rỡ hẳn lên

    + Trong bữa cơm, bà nói về tương lai với niềm lạc quan, bảo ban các con làm ăn,...

    -> Bà luôn nhen nhóm niềm tin vào tương lai cho các con, tin tưởng ở tương lai về một viễn cảnh thoát đói nghèo.

    => Bà cụ Tứ là người mẹ hiền từ, chất phác, nhân hậu, tình mẫu tử cao đẹp, tiêu biểu cho vẻ đẹp tình người và lòng nhân ái. Qua đó để lại niềm cảm động sâu sắc về hình ảnh người mẹ Việt Nam tần tảo, giàu lòng yêu thương.

    d) Mối quan hệ giữa các nhân vật

    Điểm chung giữa các nhân vật trong truyện ngắn “Vợ nhặt” là những con người nghèo khổ, sống chật vật giữa nạn đói nhưng có khát khao hạnh phúc.

    - Mối quan hệ giữa Tràng và thị là minh chứng cho sức sống mãnh liệt của tình người trong hoàn cảnh khó khăn.

    - Mối quan hệ giữa Tràng và bà cụ Tứ (mẹ Tràng) là tình mẫu tử thiêng liêng, cao cả đã giúp Tràng có thêm sức mạnh để vượt qua khó khăn và xây dựng gia đình.

    - Mối quan hệ giữa bà cụ Tứ và thị thể hiện sự gắn kết, đùm bọc trong gia đình, là nguồn động lực giúp họ vượt qua khó khăn.

    phân tích vợ nhặt: người con gái lấy mà Tràng tình cờ nhặt được

    3. Phân tích các chi tiết tiêu biểu trong tác phẩm Vợ Nhặt

    a) Chi tiết nồi chè khoán (nồi cháo cám)

    - Chi tiết nồi chè khoán được nhắc đến trong tác phẩm chính là nồi cháo cám trong bữa ăn đón nàng dâu mới.

    - Ý nghĩa của chi tiết nồi chè khoán

    + Tái hiện lại một cách chân thực cuộc sống nghèo khổ, túng quẫn đến cùng cực của nạn đói năm 1945

    + Thể hiện tình người cao đẹp, cưu mang đùm bọc lẫn nhau vượt qua được bóng tối đang bao trùm, đồng cảm, xót xa với những số phận bất hạnh.

    + Tố cáo tội ác của bọn thực dân, phát xít gây ra nạn đói khủng khiếp năm 1945.

    + Khát vọng sống mãnh liệt, khát khao hạnh phúc, mái ấm gia đình của con người dù trong hoàn cảnh khắc nghiệt.

    + Thể hiện tấm lòng đôn hậu của người mẹ thương con khi bà cụ Tứ đã cố gắng tạo niềm vui dù là mỏng manh cho hai con với nồi cháo cám.

    + Qua chi tiết này, tính cách, phẩm chất của các nhân vật cũng được bộc lộ:

    • Bà cụ Tứ: người mẹ đảm đang, yêu thương con hết lòng.
    • Tràng: khéo léo trong cách cư xử, hiểu gia cảnh nhà mình.
    • Người vợ nhặt: trở nên ý tứ và biết chấp nhận hoàn cảnh nhà chồng.

    b) Chi tiết nụ cười của Tràng

    - Hình ảnh nụ cười của Tràng được nhà văn nhắc đến nhiều lần:

    + Khi đẩy xe bò thóc, anh vuốt mồ hôi trên mặt cười

    + Trên đường dẫn người vợ nhặt về: anh tủm tỉm cười, hai con mắt sáng lên lấp lánh

    + Khi lũ trẻ con trêu chọc, Tràng bật cười "Bố ranh"

    + Khi người vợ nén tiếng thở dài trước quang cảnh của nhà Tràng, hắn “quay lại nhìn thị cười cười”

    + Bà cụ Tứ về, Tràng tươi cười mời mẹ ngồi lên giường...

    - Ý nghĩa của chi tiết:

    + Góp phần khắc họa tính cách, tâm lí tính cách thuần phác, nhân hậu, yêu đời của gã trai quê mùa, thô kệch

    + Thể hiện niềm hạnh phúc, sung sướng của con người trong tận cùng đói khát vẫn không thôi khao khát tình yêu, tổ ấm gia đình.

    + Giống như cơn gió mát lành làm dịu đi cái căng thẳng ngột ngạt, cái đắng cay của con người ngày đói, thể hiện cái nhìn lạc quan, niềm hi vọng vào cuộc sống của tác giả.

    + Gửi gắm thông điệp rằng "Chỉ có tình yêu thương mới có thể mang đến niềm vui, nụ cười hạnh phúc cho con người".

    c) Chi tiết giọt nước mắt bà cụ Tứ

    - Chi tiết giọt nước mắt bà cụ Tứ xuất hiện 2 lần trong 2 hoàn cảnh khác nhau

    + Khi hiểu ra cơ sự nhặt vợ của con “kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”.

    + Khi lo lắng cho cảnh ngộ đói khát của chúng thì “bà cụ nghẹn lời không nói, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”.

    - Ý nghĩa của chi tiết:

    + Chứng minh cho tình mẫu tử đầy thiêng liêng, nỗi xót xa của người mẹ trước cảnh ngộ của con, thấy tấm lòng chan chứa yêu thương con của người mẹ.

    + Phơi bày tình cảnh xã hội những năm trước cách mạng, trong nạn đói 1945.

    + Là lời tố cáo tội ác chiến tranh, kết án sâu sắc thực dân Pháp, phát xít Nhật đã đẩy dân ta đến thảm cảnh cùng cực, lầm than.

    + Bày tỏ sự cảm thông thương xót; trân trọng ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn người mẹ.

    d) Chi tiết bốn bát bánh đúc

    - Hoàn cảnh xuất hiện chi tiết: Lần thứ hai gặp lại, Tràng thấy thị “gầy sọp đi, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Sau những câu nói tầm phơ tầm phào, Tràng đã mời thị ăn. Tràng vỗ vỗ vào Túi: Rích bố cu. Thế là thị sà xuống ăn thật. Thị ăn một chặp bốn bát bánh đúc. Ăn xong, thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng…”

    - Ý nghĩa của chi tiết bát bánh đúc:

    + Phản ánh hiện thực đau lòng về nạn đói ở nước ta năm 1945, trong đó con người bị coi như cọng rơm cái rác, giá trị của con người trở nên rẻ mạt.

    + Bày tỏ niềm cảm thông với nỗi khổ của con người qua đó tố cáo, lên án những những chính sách tàn bạo của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã đẩy nhân dân ta vào thảm cảnh nạn đói thảm khốc.

    + Ca ngợi vẻ đẹp của tình người ở người lao động trong hoàn cảnh còn nhiều khó khăn.

    + Là chi tiết quan trọng góp phần thúc đẩy cốt truyện, khắc họa số phận, phẩm chất, tính cách của nhân vật.

    e) Chi tiết tiếng trống thúc thuế

    - Hoàn cảnh xuất hiện chi tiết: Trong bữa cơm ngày đói đầy thảm hại, khi không khí bữa ăn trầm lại vì miếng cháo chát đắng nghẹn nơi cổ, bên ngoài tiếng thúc thuế vang lên dồn dập...

    - Ý nghĩa của chi tiết tiếng trống thúc thuế:

    + Là một trong những chi tiết đặc sắc, nguồn ánh sáng soi sáng tâm hồn Tràng, nhận thức được sự đấu tranh của nhân dân vì cuộc sống ấm no, yên bình.

    + Đập tan không khí ảm đạm trong bữa cơm gia đình, mở ra một tương lai đầy hy vọng, báo hiệu sự thức tỉnh của người nông dân đi theo cách mạng để được giải phóng.

    g) Chi tiết lá cờ đỏ sao vàng

    - Hoàn cảnh xuất hiện: Phân tích đoạn kết Vợ nhặt sau khi nghe người vợ nhặt kể về phong trào phá kho thóc Nhật, hình ảnh “đám người đói và lá cờ đỏ” hiện lên trong tâm trí Tràng.

    - Ý nghĩa của chi tiết lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới:

    + Gợi ra những tín hiệu, triển vọng sáng sủa của cách mạng, của hiện thực tăm tối.

    + Sự nhận thức, giác ngộ với cách mạng, mở ra một kỉ nguyên về đọc lập tự do, khơi gợi niềm tin.

    + Hình ảnh lá cờ đỏ gắn với những ước mơ, đó là những dấu hiệu về một tương lai tươi sáng với sự thắng thế của cách mạng.

    Giá trị nội dung và nghệ thuật của Vợ Nhặt

    1. Giá trị về nội dung

    a) Giá trị hiện thực

    - Phản ánh chân thực tình cảnh thê thảm, rẻ rúng người nông dân trong nạn đói năm 1945 - hệ quả của những chính sách hà khắc, vô nhân tính của bọn thực dân Pháp và phát xít Nhật (đằng thì bắt đóng thuế, đằng thì bắt nhổ lúa trồng đay, dân ta lâm vào cảnh một cổ hai tròng áp bức do sự đê hèn, đốn mạt của thực dân Pháp.)

    b) Giá trị nhân đạo

    - Tố cáo mạnh mẽ tội ác của kẻ thực dân, phát xít

    - Tố cáo tội ác của bọn thực dân phát xít.

    - Đề cao tình cảm giữa con người với con người

    - Bày tỏ lòng cảm thông sâu sắc đối với số phận con người trong nạn đói.

    - Ca ngợi sự sống, tình thương, sự cưu mang, đùm bọc, khát vọng hạnh phúc.

    - Con đường giải phóng cho những con người nghèo khổ chỉ có thể là đi theo cách mạng để tự giải phóng, để thoát khỏi đói nghèo cơ cực.

    - Phản ánh bản chất tốt đẹp và sức sống mãnh liệt của con người luôn hướng đến sự sống, hi vọng, tin tưởng ở tương lai.

    2. Giá trị về nghệ thuật

    - Về ngôn ngữ: gần gũi, giản dị, mộc mạc mang đậm dấu ấn của vùng nông thôn Bắc Bộ

    - Về kết cấu: Kết cấu truyện đặc sắc

    - Về cách kể chuyện: gần gũi, tự nhiên, ngôn ngữ kể chuyện phong phú

    - Các yếu tố nghệ thuật khác:

    + Tình huống truyện độc đáo, éo le vừa nghịch lí lại vừa hợp lí.

    + Nghệ thuật đối thoại, độc thoại nội tâm làm nổi rõ tâm lí của từng nhân vật

    + Bút pháp phân tích tâm lí nhân vật tinh tế, sâu sắc

    + Kết hợp nhuần nhuyễn hai yếu tố hiện thực và nhân đạo.

    >>> Tham khảo thêm:

    TOP bài văn mẫu hay phân tích Vợ nhặt của Kim Lân

    Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim Lân - một nhà văn hiện thực có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người một lòng đi về với "thuần hậu phong thủy" ấy. Ngay sau cách mạng, ông đã bắt tay vào viết ngay tiểu thuyết Xóm ngụ cư. Khi hòa bình lập lại (1954), nỗi trăn trở tiếp tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy.

    Và cuối cùng, truyện ngắn Vợ nhặt đã ra đời. Trong lần này, Kim Lân đã thật sự đem vào thiên truyện của mình một khám phá mới, một điểm sáng soi chiếu toàn tác phẩm. Đó là vẻ đẹp của tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống của những người nông dân nghèo tiêu biểu như Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Thiên truyện thể hiện rất thành công khả năng dựng truyện, dẫn truyện và đặc sắc nhất là Kim Lân đã có khám phá ra diễn biến tâm lý thật bất ngờ.

    Trong một lần phát biểu, Kim Lân từng nói: "Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hy vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người".

    Và điểm sáng mà nhà văn muốn đem vào tác phẩm chính là ở chỗ đó. Đó chính là tình người và niềm hy vọng về cuộc sống, về tương lai của những con người đang kề cận với cái chết. Bằng cách dẫn truyện, xây dựng lên tình huống "nhặt vợ" tài tình kết hợp với khả năng phân tích diễn biến tâm lý nhân vật thật tinh tế và sử dụng thành công ngôn ngữ nông dân, ngôn ngữ dung dị, đời thường nhưng có sự chọn lọc kỹ lưỡng ấy, nhà văn đã tái hiện lại trước mắt ta một không gian năm đói thật thảm hại, thê lương.

    Trong đó ngổn ngang những kẻ sống người chết, những bóng ma vật vờ, lặng lẽ, giữa tiếng hờ khóc và tiếng gào thét kinh hoàng của đám quạ. Bằng tấm lòng đôn hậu chân thành nhà văn đã gửi gắm vào trong không gian tối đen như mực ấy những mầm sống đang cố vươn đến tương lai, những tình cảm chân thành, yêu thương bình dị nhưng rất đỗi cao quý ấy và nhà văn đã để những số phận như anh Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ được thăng hoa trước ngọn cờ đỏ phấp phới cùng đám người đói phá kho thóc Nhật ở cuối thiên truyện.

    Có thể nói rằng, Kim Lân đã thật xuất sắc khi dựng lên tình huống Nhặt vợ của anh cu Tràng. Tình huống ấy là cánh cửa khép mở để nhân vật bộc lộ nét đẹp trong tâm hồn mình. Dường như trong đói khổ người ta dễ đối xử tàn nhẫn với nhau khi miếng ăn của một người chưa đủ thì làm sao có thể đèo bồng thêm người này người kia. Trong tình huống ấy, người dễ cấu xé nhau, dễ ích kỉ hơn là vị tha và người ta rất dễ đối xử tàn nhẫn, làm cho nhau đau khổ. Nhưng nhà văn Kim Lân lại khám phá ra một điều ngược lại như ở nhân vật anh cu Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ.

    Chúng ta từng kinh hãi trước "xác người chết đói ngập đầy đường", "người lớn xanh xám như những bóng ma", trước "không khí vẩn lên mùi hôi của rác rưởi và mùi ngây của xác người", từng ớn lạnh trước "tiếng quạ kêu từng hồi thê thiết" ấy nhưng lạ thay chúng ta thật không thể cầm lòng xúc động trước nghĩa cử cao đẹp mà bình thường, dung dị ấy của Tràng, bà cụ Tứ và cả người vợ của Tràng nữa. Một anh thanh niên của cái xóm cư ngụ ấy như Tràng, một con người - một thân xác vạm vỡ, lực lưỡng mà dường như ngờ nghệch, thô kệch và xấu xí ấy lại chứa đựng biết bao nghĩa tình cao đẹp.

    "Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào", vậy mà Tràng vẫn đèo bồng thêm một cô vợ trong khi anh không biết cuộc đời phía trước mình ra sao. Tràng đã thực liều lĩnh. Và ngay cô vợ Tràng cũng thế. Hai cái liều ấy gặp nhau kết tụ lại thành một gia đình. Điều ấy thật có lý và xót thương vô cùng.

    Và dường như lúc ấy, trong con người của Tràng kia đã bật lên niềm sống, một khát vọng yêu thương chân thành. Và dường như hắn đang ngầm chứa đựng một ao ước thiết thực về sự đầm ấm của tình cảm vợ chồng, của hạnh phúc lứa đôi.

    Hành động của Tràng dù vô tình, không có chủ đích, chỉ tầm phơ tầm phào cho vui nhưng điều ấy cũng hé mở cho ta thấy: tình cảm của một con người, biết yêu thương, biết cưu mang, đùm bọc những người đồng cảnh ngộ. Như một lẽ đương nhiên, Tràng đã rất ngỡ ngàng, hắn đã "sờ sợ", "ngờ ngợ", "ngỡ ngàng" như không phải nhưng chính tình cảm vợ chồng ấy lại củng cố và nhen nhóm ngọn lửa yêu thương và sống có trách nhiệm với gia trình trong hắn.

    Tình nghĩa vợ chồng ấm áp ấy dường như làm cho Tràng thay đổi hẳn tâm tính. Từ một anh chàng ngờ nghệch, thô lỗ, cộc cằn, Tràng đã sớm trở thành một người chồng thật sự khi đón nhận Hạnh phúc của gia đình. Hạnh phúc ấy như một cái gì đó cứ "ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ sống lưng".

    Tình yêu, hạnh phúc ấy khiến "Trong một lúc Tràng dường như quên đi tất cả, quên cả đói rét đang đeo đuổi, quên cả những tháng ngày đã qua". Và Tràng đã ước ao hạnh phúc. Mạch sống của một người đàn ông trong Tràng đã trở dậy. Hắn có những thay đổi thật bất ngờ nhưng rất hợp lôgich. Những thay đổi ấy không gì khác ngoài tâm hồn đôn hậu, chất phác và giàu tình yêu thương hay sao?

    Trong con người của Tràng khi trở dậy sau đó khi chào đón hạnh phúc ấy thật khác lạ. Tràng không là anh Tràng ngày trước nữa mà giờ đây đã là một người con có hiếu, một người chồng đầy trách nhiệm dù chỉ trong ý nghĩ thấy mẹ chồng nàng dâu quét tước nhà cửa, hắn đã bừng bừng thèm muốn một cảnh gia đình hạnh phúc, "Hắn thấy hắn yêu thương căn nhà của hắn đến lạ lùng", "Hắn thấy mình có trách nhiệm hơn với vợ con sau này". Hắn cũng xăm xăm ra sân dọn dẹp nhà cửa.

    Hành động, cử chỉ ấy ở Tràng đâu chỉ câu chuyện bình thường mà đó là sự biến chuyển lớn. Chính tình yêu của người vợ, tình mẹ con hòa thuận ấy đã nhen nhóm trong hắn ước vọng về hạnh phúc, niềm tin vào cuộc sống sẽ đổi thay khi hắn nghĩ đến đám người đói và lá cờ đỏ bay phất phới. Rồi số phận, cuộc đời của hắn, của vợ hắn và cả người mẹ của hắn nữa sẽ thay đổi. Hắn tin thế.

    Nạn đói ấy không thể ngăn cản được ánh sáng của tình người. Đêm tối ấy rồi sẽ qua đi để đón chờ ánh sáng của cuộc sống tự do đang ở phía trước, trước sức mạnh của cách mạng. Một lần nữa, Kim Lân không ngần ngại gieo rắc hạnh phúc, niềm tin ấy trong các nhân vật của mình. Người vợ nhặt không phải ngẫu nhiên xuất hiện trong thiên truyện. Thị xuất hiện đã làm thay đổi cuộc sống của xóm ngụ cư nghèo nàn, tăm tối ấy, đã làm cho những khuôn mặt hốc hác, u tối của mọi người rạng rỡ hẳn lên, từ con người chao chát chỏng lỏn đến cô vợ hiền thục, đảm đang là một quá trình biến đổi.

    Điều gì đã làm thị biến đổi như thế? Đó chính là tình người, là tình thương yêu, thị tuy theo không Tràng về chỉ qua bốn bát bánh đúc và hai câu nói tầm phơ tầm phào của Tràng nhưng chúng ta không khinh miệt thị. Nếu có trách thì chỉ có thể hướng vào xã hội thực dân phong kiến kia bóp nghẹt đời sống con người, thị xuất hiện không tên tuổi, quê quán, trong tư thế "vân vê tà áo dài đã rách bợt", điệu bộ trông thật thảm hại nhưng chính con người lại gieo mầm sống cho Tràng, làm biến đổi tất cả, từ không khí xóm ngụ cư đến không khí gia đình.

    Thị đã đem đến một luồng sinh khí mới, nguồn sinh khí ấy chỉ có được khi trong con người thị dung chứa một niềm tin, một ước vọng cao cả vào sự sống, vào tương lai, thị được miêu tả khá ít song đó lại là nhân vật không thể thiếu trong tác phẩm. Thiếu thị Tràng vẫn chỉ là anh Tràng của ngày xưa, bà cụ Tứ vẫn lặng trầm trong đau khổ, cùng cực.

    Kim Lân cũng thật thành công khi xây dựng nhân vật ấy để góp thêm tiếng lòng ca ngợi sức sống của vẻ đẹp, tình người, niềm tin ở cuộc đời phía trước trong những con người đói khổ ấy. Và thật ngạc nhiên, khó nói về ước vọng ở tương lai, niềm tin vào hạnh phúc, vào cuộc đời người ta dễ nghĩ đến tuổi trẻ như Tràng và người vợ nhưng Kim Lân lại khám phá ra một nét độc đáo vô cùng tình cảm, ước vọng ở cuộc đời ấy lại được tập trung miêu tả khá kỹ ở nhân vật bà cụ Tứ.

    Đến nhân vật này, Kim Lân tỏ rõ ngòi bút vững vàng, già dặn của mình trong bút pháp miêu tả tâm lý nhân vật. Bà cụ Tứ đến giữa câu chuyện mới xuất hiện nhưng nếu thiếu đi nhân vật này, tác phẩm sẽ không có chiều sâu nhân bản. Đặt nhân vật bà cụ Tứ vào trong tác phẩm, Kim Lân đã cho chúng ta thấy rõ hơn ánh sáng của tình người trong nạn đói.

    Bao giờ cũng thế, các nhà văn muốn nhân vật nổi bật, có cá tính của mình thường đặt nhân vật vào một tình thế thật căng thẳng. Ở đó dĩ nhiên phải có sự đấu tranh không ngừng không những giữa các nhân vật mà độc đáo hơn là ngay chính trong nội tâm của nhân vật ấy. Bà cụ Tứ là một điển hình. Việc Tràng lấy vợ đã gây một chấn động lớn trong tâm thức người mẹ nghèo vốn thương con ấy.

    Bà ngạc nhiên ngỡ ngàng trước sự xuất hiện của một người đàn bà trong nhà mình mà lâu nay và có lẽ chưa bao giờ bà nghĩ đến. Hết ngỡ ngàng, ngạc nhiên và cụ đã "cúi đầu nín lặng". Cử chỉ hành động ấy chất chứa bao tâm trạng. Đó là sự đan xen lẫn lộn giữa nỗi tủi cực, nỗi lo và niềm vui nỗi buồn cứ hòa lẫn vào nhau khiến bà thật căng thẳng.

    Sau khi thấu hiểu mọi điều bà nhìn cô con dâu đang "vân vê tà áo đã rách bợt" mà "lòng đầy thương xót". Bà thiết nghĩ "Người ta có gặp bước khó khăn này, người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có được vợ". Và thật xúc động, bà cụ đã nói, chỉ một câu thôi nhưng sâu xa và có ý nghĩa vô cùng: "Thôi, chúng mày phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng". Đói khổ đang vây lấy gia đình bà, cuộc sống của bà sẽ ra sao khi mình đang ngấp nghé trước vực thẳm của cái chết. Nhưng trong tâm thức người mẹ nghèo ấy, đói khổ không phải là vật cản lớn nữa. Đói rét thật nhưng trong lòng bà cụ vẫn sáng lên tấm lòng yêu thương chân thành. Bà thương con, thương dâu và thương cho chính bản thân mình. Bà cụ Tứ từ những nỗi lo, nỗi tủi cực về gia cảnh vẫn không bùng cháy lên ngọn lửa của tình người.

    Bà đã dang tay đón nhận đứa con dâu, lòng đầy thương xót, trong tủi cực nhưng vẫn ngầm chứa một sức sống thật mãnh liệt. Chính ở người mẹ nghèo khổ ấy, ngọn lửa của tình người, tình thương yêu nhân loại ấy bùng cháy mạnh mẽ nhất. Trong bóng tối của đói nghèo đang hùng hổ vây quanh, bà lão vẫn gieo vào lòng những đứa con niềm tin về cuộc sống. Bà nhắc đến việc Tràng nên chuẩn bị một cái phên nuôi gà, rồi việc sinh con đẻ cái, bà lão nói toàn chuyện vui trong bữa cơm ngày đói thật thảm hại ấy. Bà đã đón nhận hạnh phúc của các con để tự sưởi ấm lòng mình. Đặc biệt, chi tiết nồi chè cám ở cuối thiên truyện thể hiện khá rõ ánh sáng của tình người, nồi chè cám nghẹn ứ cổ và đắng chát ấy lại là món quà của một tấm lòng đôn hậu chất chứa yêu thương.

    Bà lão "lễ mễ" bưng nồi chè và vui vẻ giới thiệu "Chè khoán đây - ngon đáo để cơ". Ở đây nụ cười đã xen lẫn nước mắt. Bữa cơm gia đình ngày đói ở cuối thiên truyện không khỏi làm chạnh lòng chúng ta, một nỗi xót thương cay đắng cho số phận của họ song cũng dung chứa một sự cảm phục lớn ở những con người bình thường và đáng quý ấy.

    Kim Lân bằng nghệ thuật viết văn già dặn, vững vàng đã đem đến một chủ đề mới trong đề tài về nạn đói. Nhà văn đã khẳng định ánh sáng của tình người thật thành công ở ba nhân vật. Điều làm chúng ta trân trọng nhất chính là vẻ đẹp của tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống một cách mạnh mẽ nhất ở những thân phận nghèo đói, thảm hại kia.

    Ba nhân vật: Tràng, vợ Tràng và bà cụ Tứ cùng những tình cảm, lẽ sống cao đẹp của họ chính là những điểm sáng mà Kim Lân từng trăn trở trong thời gian dài để thể hiện sao cho độc đáo một đề tài không mới. Tác phẩm đã thể hiện thành công nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật, khả năng dựng truyện và dẫn truyện của Kim Lân - một nhà văn được đánh giá là viết ít, nhưng tác phẩm nào cũng có giá trị là vì lẽ đó.

    “Cái đẹp cứu vớt con người” (Đô-xtôi-ep-ki). Vâng, Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân thể hiện rõ sức mạnh kỳ diệu ấy. Ánh sáng của tình người, lòng tin yêu vào cuộc sống là nguồn mạch giúp Kim Lân hoàn thành tác phẩm, ông đã đóng góp cho văn học Việt Nam nói chung, về đề tài nạn đói nói riêng một quan niệm mới về lòng người và tình người. Đọc xong thiên truyện, dấu nhấn mạnh mẽ nhất trong tâm hồn bạn đọc chính là ở điểm sáng tuyệt vời ấy.

    Nghe bài văn mẫu phân tích bài Vợ nhặt

    Tài liệu tham khảo thêm

    - https://vi.wikipedia.org/wiki/Kim_L%C3%A2n

    - https://daidoanket.vn/kim-lan-qua-goc-nhin-cua-nguoi-duong-thoi-10173605.html

    - https://dangcongsan.vn/tu-tuong-van-hoa/nha-van-kim-lan-cay-but-doc-dao-cua-lang-que-viet-nam-568012.html

    Xem thêm một số bài viết cùng chủ đề

    -/-

      Trên đây là những gợi ý cơ bản cho cách làm bài văn phân tích truyện ngắn Vợ nhặt (Kim Lân) cùng bài văn mẫu phân tích Vợ nhặt hay do Đọc Tài Liệu tổng hợp và biên soạn. Hi vọng bài viết này cùng với chuyên mục Văn mẫu 12 của chúng tôi sẽ giúp các em học sinh lớp 12 ôn tập, rèn luyện kỹ năng làm văn tốt hơn để chuẩn bị cho các kì thi, kiểm tra sắp tới. Chúc các em học tốt!

      Bạn còn vấn đề gì băn khoăn?
      Vui lòng cung cấp thêm thông tin để chúng tôi giúp bạn
      Hủy

      TẢI VỀ

      CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM