Phân tích vẻ đẹp của Cô Tô qua văn bản Cô Tô (Nguyễn Tuân)

Xuất bản: 17/03/2019 - Cập nhật: 19/01/2021 - Tác giả:

Phân tích vẻ đẹp Cô Tô qua tác phẩm cùng tên của nhà văn Nguyên Tuân, cách phân tích bài kí Cô Tô và phân tích vẻ đẹp non nước qua ngòi bút của tác giả

Để viết được bài văn phân tích vẻ đẹp của Cô Tô hay và đủ ý, đừng bỏ qua những gợi ý làm bài của Đọc Tài Liệu ngay sau đây cùng với những bài văn mẫu hay phân tích vẻ đẹp Cô Tô trong văn bản cùng tên của Nguyễn Tuân.

Phan tich ve dep cua Co To qua tac pham Co To cua Nguyen Tuan

Phân tích vẻ đẹp của Cô Tô qua đoạn trích Cô Tô của Nguyễn Tuân

I. Khái quát vẻ đẹp Cô Tô trong tác phẩm Cô Tô

- Cô Tô là một quần đảo trong Vịnh Bắc Bộ thuộc vùng đất tỉnh Quảng Ninh, Việt Nam.

- Tác phẩm Cô Tô của nhà văn Nguyễn Tuân đã ghi lại cảnh thiên nhiên và sinh hoạt của con người trên vùng đảo Cô Tô thật trong sáng và tươi đẹp.

- Vẻ đẹp của Cô Tô được Nguyễn Tuân miêu tả lại trong văn bản "Cô Tô" thông qua ba luận điểm chính đó là:

+ Luận điểm 1: Cảnh đẹp Cô Tô sau khi bão đi qua

+ Luận điểm 2: Cảnh Cô Tô buổi bình minh tráng lệ, hùng vĩ

Luận điểm 3: Cảnh sinh hoạt buổi sáng trên đảo Cô Tô

II. Lập dàn ý phân tích vẻ đẹp của Cô Tô trong văn bản Cô Tô

1. Mở bài phân tích vẻ đẹp Cô Tô

- Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm

Nguyễn Tuân (1910 - 1987) là nhà văn nổi tiếng, có sở trường về thể tùy bút và kí với những tác phẩm thể hiện phong cách độc đáo, tài hoa, sự hiểu biết phong phú về nhiều mặt và vốn ngôn ngữ giàu có, điêu luyện.

+ Đoạn trích “Cô Tô” là phần cuối của bài kí Cô Tô ghi lại những ấn tượng về thiên nhiên, con người lao động ở vùng đảo Cô Tô mà tác giả thu nhận được trong chuyến ra thăm đảo.

- Khái quát vẻ đẹp của Cô Tô được miêu tả trong đoạn trích: Cảnh thiên nhiên và sinh hoạt của con người trên vùng đảo Cô Tô hiện lên thật trong sáng và tươi đẹp.

2. Thân bài phân tích vẻ đẹp Cô Tô

a) Vẻ đẹp trong sáng, rạng rỡ của cảnh vật sau cơn bão

- Cảnh vật sau cơn bão:

+ Một ngày trong trẻo, sáng sủa

+ Cây trên núi đảo lại thêm xanh mượt

+ Nước biển lam biếc đậm đà hơn

+ Cát lại vàng giòn hơn

+ Lưới nặng mẻ cá giã đôi

-> Các hình ảnh chọn lọc, tiêu biểu, đặc sắc, dùng hàng loạt tính từ chỉ màu sắc, ánh sáng để gợi tả, làm nổi bật vẻ đẹp tươi sáng của cảnh vật, diễn tả tinh tế các trạng thái của sự vật.

=> Cảnh vật Cô Tô hiện lên trong trẻo, tinh khiết, tràn đầy sức sống sau cơn bão.

=> Tác giả cảm nhận vẻ đẹp Cô Tô sau ngày bão hoàn toàn tinh khiết, lắng đọng

b) Cảnh mặt trời lên trên đảo Cô Tô

- Cảnh được miêu tả theo trình tự thời gian từ lúc mặt trời mọc và trên nền cảnh không gian rộng lớn của bầu trời, mặt biển.

- Điểm nhìn: từ những hòn đá đầu sư, sát mép nước

- Miêu tả cảnh mặt trời mọc:

+ Chân trời, ngấn bể sạch như tấm kính lau hết mây bụi

+ Mặt trời nhú lên dần dần

+ Tròn trĩnh, phúc hậu như một quả trứng thiên nhiên đầy đặn

+ Quả trứng hồng hào... nước biển ửng hồng

+ Y như một mâm lễ phẩm

-> Nghệ thuật so sánh kép với hình ảnh so sánh vừa gần gũi, quen thuộc, dễ hình dung; sử dụng từ ngữ chính xác, tinh tế, độc đáo; sử dụng nhiều từ ngữ miêu tả giàu tính tạo hình và sắc thái biểu cảm, in đậm dấu ấn sáng tạo của tác giả.

=> Hình ảnh mặt trời trên biển huy hoàng, rực rỡ với tài quan sát tinh tế, cảnh mặt trời mọc ở Cô Tô được thể hiện trong sự giao thoa hân hoan giữa con người với thế giới.

c) Cảnh sinh hoạt buổi sáng trên đảo Cô Tô

- Quanh giếng nước ngọt: vui nhộn như một cái bến và đông đúc như một cái chợ, gợi ra cảm giác đậm đà, mát mẻ.

-> Đó là cái đậm đà của cuộc sống thanh bình giữa đảo khơi, cái mát mẻ của dòng nước ngọt và của không khí buổi sáng mai trên vùng biển, khác với cái tấp nập, ồn ào, có khi ngột ngạt của những cái chợ trong đất liền.

- Chỗ bãi đá: bao nhiêu là thuyền của hợp tác xã đang mở nắp sạp...

- Thùng và cong và gánh nối tiếp đi đi về về.

-> Cảnh lao động của người dân trên đảo khẩn trương, tấp nập.

- Đó là cuộc sống thanh bình: Trông chị Châu Hòa Mãn địu con... lũ con hiền lành.

=> Tác giả thể hiện sự đan quyện cảm xúc giữa người và cảnh, đồng thời thể hiện tình yêu Cô Tô của riêng Nguyễn Tuân.

3. Kết bài phân tích vẻ đẹp Cô Tô

- Khái quát vẻ đẹp của Cô Tô thông qua bài văn: Cảnh thiên nhiên và sinh hoạt của con người trên vùng đảo Cô Tô hiện lên thật trong sáng và tươi đẹp.

- Cảm nhận của em: Bài văn cho ta hiểu biết và yêu mến một vùng đất của Tổ quốc - quần đảo Cô Tô.

III. Top 10+ bài văn hay tuyển chọn phân tích vẻ đẹp của Cô Tô qua tác phẩm cùng tên của Nguyễn Tuân

Dưới đây là tổng hợp những bài văn phân tích vẻ đẹp của Cô Tô hay do Đọc Tài Liệu tổng hợp giúp các em tham khảo mở rộng vốn từ cho bài văn của mình thêm hay và hấp dẫn hơn.

1. Vẻ đẹp của Cô Tô bài phân tích số 1

Nguyễn Tuân là một trong những tác giả lớn của văn học Việt Nam. Các tác phẩm của ông luôn thể hiện một cái nhìn mới mẻ, độc đáo về con người và thiên nhiên đặc biệt là trong các bài kí. Bài kí Cô Tô là một trong những tác phẩm viết về vẻ đẹp kì thú của một huyện đảo thuộc vịnh Bắc Bộ - huyện đảo Cô Tô. Đoạn trích Cô Tô trong sách giáo khoa đã cho thấy cái nhìn tinh tế, nhạy cảm của Nguyễn Tuân về con người và thiên nhiên nơi đây.

Đoạn trích ghi lại những khoảnh khắc của Cô Tô ở ba khung cảnh khác nhau: Cô Tô sau cơn bão, cảnh mặt trời mọc và khung cảnh sinh hoạt trên đảo. Ở mỗi lớp cảnh, Nguyễn Tuân lại cho thấy cách quan sát tinh tế, tài hoa và nghệ thuật điều khiển từ ngữ tài ba của mình.

Mở đầu là khung cảnh Cô Tô sau cơn bão, Nguyễn Tuân bắt đầu điểm nhìn của mình từ bầu trời, đó là một ngày “trong trẻo, sáng sủa” khi mây đen và bụi bẩn đã bị xua tan hết. Điểm nhìn tiếp tục di chuyển xuống hàng cây, mặt nước và xa hơn là cả trong lòng biển mênh mông, rộng lớn: “Cây trên núi đảo lại thêm xanh mượt”, “nước biển lại lam biếc đậm đà hơn”, “cát lại vàng giòn hơn nữa”. Chỉ trong một câu văn ngắn Nguyễn Tuân đã sử dụng hàng loạt các tính từ chỉ màu sắc (xanh, lam, vàng), cùng với nghệ thuật chuyển đổi cảm giác (cát vàng giòn) cho ta thấy thiên nhiên đẹp đẽ, tinh khôi, trong trẻo và giàu sức sống.

Điều đặc biệt để làm nổi bật vẻ đẹp thiên nhiên Cô Tô, Nguyễn Tuân đã tỏ ra vô cùng tinh tế trong cách xử lí ngôn từ. Sự kết hợp các từ ngữ vô cùng độc đáo, những từ chỉ màu sắc luôn đi kèm thêm một tính từ khác: xanh đi cùng mượt, lam biếc kết hợp với đậm đà, vàng kết đôi với giòn. Với sự kết hợp từ ngữ linh hoạt Nguyễn Tuân đã cho người đọc hình dung đầy đủ, rõ nét hơn về vẻ đẹp của Cô Tô. Qua đó còn cho thấy khả năng quan sát tinh tế, tình yêu thiên nhiên tha thiết của ông. Bởi nếu không có tình yêu sâu đậm với thiên nhiên nơi đây thì Nguyễn Tuân sẽ không thể nào nhận ra những vẻ đẹp tiềm ẩn của chúng.

Sau đó tác giả cùng với mọi người quay gót ngắm toàn cảnh Cô Tô, ngắm sự thanh bình, trời biển đã thuộc về nhân dân ta khiến cho bức tranh trở nên đầy đủ hơn. Bức tranh thiên nhiên Cô Tô sau cơn bão tràn ngập màu sắc, sức sống và xen vào đó là cả niềm tự hào của tác giả về quê hương, xứ sở.

Là một con người ưa khám phá, tìm tòi để phát hiện những vẻ đẹp tuyệt mĩ của tạo hóa, Nguyễn Tuân đã không bỏ qua cảnh mặt trời mọc trên đảo Cô Tô. Để không bỏ lỡ khoảnh khắc mặt trời mọc, ngay từ canh tư tác giả đã ra thấu đầu mũi đảo. Và khoảnh khắc mặt trời từ từ xuất hiện thật tráng lệ, lúc này chân trời, ngấn bể “sạch như tấm kính lau hết mây hết bụi”. Bằng trí tưởng tượng phong phú, Nguyễn Tuân đã ghi lại khoảnh khắc mặt trời mọc thật huy hoàng, rực rỡ: mặt trời “tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn”, quả trứng ấy chính là lễ vật mà thiên nhiên ban tặng và được đặt trên một chiếc mâm mà đường kính của mâm bằng cả cái chân trời màu ngọc trai ửng hồng.

Mâm lễ vật này thiên nhiên ban tặng cho sự trường thọ của những người dân chài lưới. Với việc sử dụng hàng loạt biện pháp so sánh, Nguyễn Tuân đã vẽ nên khung cảnh mặt trời mọc vô cùng hùng vĩ, tráng lệ. Nguyễn Tuân cũng thật tài hoa khi miêu tả những con nhạn bay, miêu tả chúng tác giả không dùng từ con mà dùng “vài chiếc nhạn mùa thu chao đi chao lại” khiến người đọc hình dung cánh nhạn như những chiếc thoi đưa trên mặt biển với tốc độ di chuyển nhanh, khiến bức tranh càng trở nên sống động và thơ mộng hơn.

Sau sự huy hoàng, rực rỡ của thiên nhiên là cuộc sống hết sức bình dị của người dân trên đảo. Tác giả đã chọn cái giếng nước ngọt để đặt bút miêu tả cuộc sống con người nơi đây. Ông hòa vào nhịp sống của mọi người để cảm nhận đầy đủ nhất hơi thở, nhịp sống của con người trên đảo Cô Tô. Hình ảnh so sánh “cái giếng trên đảo như một cái bến nhưng đậm đà, mát mẻ hơn mọi cái bến trong đất liền” quả là một sự so sánh độc đáo, thú vị.

Mọi người gánh và múc nước nhộn nhịp để chuẩn bị cho cuộc sống, cho những chuyến ra khơi mới. Nhịp sống rộn ràng của gia đình anh chị Châu Hòa Mãn vô cùng ấm áp, bình dị. Hình ảnh chị Châu Hòa Mãn địu con khiến nhà văn bỗng liên tưởng chị như người mẹ hiền mớm cá cho lũ con lành, sự liên tưởng đó thật bất ngờ và thi vị. Cuộc sống sinh hoạt trên biển vừa sôi động, mạnh mẽ nhưng đồng thời cũng nhẹ nhàng, đời thường.

Đoạn trích "Cô Tô" đã cho ta thấy những nét đặc sắc nghệ thuật của ngòi bút Nguyễn Tuân. Những trường liên tưởng độc đáo, bất ngờ kết hợp với việc sử dụng đa dạng các biện pháp so sánh, ẩn dụ,… ngôn từ miêu tả điêu luyện và con mắt quan sát tinh tường đã góp phần làm nổi bật vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Cô Tô.

Ba khung cảnh, ba bức tranh được Nguyễn Tuân vẽ nên thật đẹp đẽ, tài tình. Tất cả đều cho thấy nét tài hoa trong việc xử lí ngôn ngữ của ông. Qua bức tranh đó, Nguyễn Tuân vừa ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên, con người nơi Cô Tô vừa ngợi ca vẻ đẹp của đất nước, dân tộc Việt Nam.

2. Vẻ đẹp của Cô Tô bài phân tích số 2

Nguyễn Tuân là nhà văn nổi tiếng, có sở trường về thể tuỳ bút và kí. Tác phẩm của Nguyễn Tuân luôn thể hiện phong cách - độc đáo, tài hoa, sự hiểu biết phong phú nhiều mặt và vốn ngôn ngữ giàu có, điêu luyện. Bài văn Cô Tô là phần cuối của bài kí Cô Tô. Đoạn trích đã phần nào ghi lại được những ấn tượng về thiên nhiên, con người lao động ở vùng đảo Cô Tô mà nhà văn thu nhận được trong chuyến ra thăm đảo.

Mở đầu là đoạn văn miêu tả vẻ đẹp của đảo Cô Tô sau cơn bão. Cô Tô hiện lên thật trong sáng, tinh khôi trong buổi sáng đẹp trời: Bầu trời trong sáng, cây thêm xanh mượt, nước biển lại lam biếc, đậm đà hơn hết cả mọi khi, và cát lại vàng giòn hơn nữa. Ngỡ như đất trời biển Cô Tô được rửa sạch, được tái tạo để hóa thành một cảnh sắc trong sáng tuyệt vời. Để “vẽ” được bức tranh toàn cảnh của đảo Cô Tô sau cơn bão, tác giả phải công phu lắm mới chọn được những hình ảnh tiêu biểu: Bầu trời, nước biển, cây trên đảo, bãi cát, và đi với những hình ảnh ấy là một loạt tính từ chỉ màu sắc và ánh sáng: bầu trời thì trong trẻo, sáng sủa, cây trên biển thì xanh mượt, nước biển lam biếc, cát lại vàng giòn.

Có được cảnh sắc đẹp như vậy là do nhà văn đã chọn được vị trí quan sát từ trên điểm cao trên nóc đồn để nhìn ra bao la Thái Bình Dương bốn phương tám hướng, quay gót 180 độ mà ngắm toàn cảnh đảo Cô Tô... mà càng thấy yêu mến hòn đảo như bất cứ người chài nào đã từng đẻ ra và lớn lên theo mùa sóng ở đây. Sau cơn bão, thiên nhiên ở đảo Cô Tô hiện lên thật là đẹp. Phải chăng bức tranh đảo Cô Tô đẹp bởi có tình người của Nguyễn Tuân.

Thật là thiếu sót nếu ta không nói đến cảnh mặt trời mọc trên biển trong bức tranh thiên nhiên của đảo Cô Tô. Cảnh hùng vĩ, rực rỡ và tráng lệ biết bao! Cảnh được “vẽ” lên bằng ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân.

Cô Tô có cái màu xanh lam biếc của biển buổi chiều, lại có cái màu đỏ rực rỡ của mặt trời buổi sớm nhô lên biển lúc hừng đông. Nguyễn Tuân đã thức dậy từ canh tư ra mãi thấu đầu mũi đảo để ngồi rình mặt trời lên. Đoạn văn này, Nguyễn Tuân đã thực sự mang đến cho người đọc những dòng viết tài hoa về cảnh tượng vô cùng độc đáo. Sau trận bão, chân trời, ngấn bể "sạch như tấm kính lau hết mây bụi". Mặt trời nhú lên dần dần, rồi lên cho kì hết. Tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn. Quả trứng hồng hào, thăm thẳm và đứng bệ đặt lên một mâm bạc, đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển hửng hồng.

Những so sánh thật bất ngờ, những liên tưởng thật thú vị. Nhưng đến liên tưởng tiếp theo thì mới thực sự tài hoa, mới in đậm phong cách Nguyễn Tuân: Y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh để mừng cho sự trường thọ của tất cả những người chài lưới trên muôn thuở biển Đông. Màu sắc hài hoà rực đỏ, hồng, bạc, ngọc trai, chi tiết tạo hình rất độc đáo quả trứng hồng hào thăm thẳm và đường bệ đặt lên mâm bạc khổng lồ; hình ảnh từ ngữ sang trọng: Mâm lễ phẩm, bạc nén, trường thọ. Tất cả tạo nên một vẻ đẹp vừa hùng vĩ đường bệ, vừa phồn thịnh và bất diệt, lại rực rỡ, tráng lệ làm lên một ấn tượng riêng đặc sắc về trời biển Cô Tô.

Có thể nói, đây thực sự là một đoạn văn kiểu mẫu về bút pháp miêu tả của Nguyễn Tuân. Ở đó người ta thấy có sự hòa hợp giữa cảnh và tình, thiên nhiên kì ảo như lộng lẫy, mĩ lệ hơn trong cái nhìn của nhà văn.

Cuộc sống của người dân trên biển càng làm cho bức tranh đảo Cô Tô thêm sinh động. Cảnh sinh hoạt và lao động trên đảo trong một buổi sáng được tác giả tập trung miêu tả vào một địa điểm là cái giếng nước ngọt ở rìa đảo. Tại đây, những người dân chài gánh nước ngọt từ giếng xuống thuyền. Khung cảnh thật thanh bình, nhịp điệu của cuộc sống lao động khẩn trương, tấp nập, đông vui: Cái giếng nước ngọt của đảo Thanh Luân sớm nay có không biết bao nhiêu là người đến gánh và múc. Múc nước giếng vào thùng gỗ, vào những cong, những ang gốm màu da lươn [...]

Từ đoàn thuyền sắp ra khơi đến cái giếng ngọt, thùng và cong và gánh nối tiếp đi đi về về, vẻ thanh bình của cuộc sống còn được thể hiện trong một hình ảnh mang nét riêng của Cô Tô, lại hàm chứa ý nghĩa "Trông chị Châu Hoà Mẫn địu con", thấy nó dịu dàng yên tâm như cái hình ảnh biển cả là mẹ hiền mớm cả cho lũ con lành. Được chứng kiến cảnh đó, Nguyễn Tuân đã có sự cảm nhận về sắc thái riêng một cách tinh tế, khi ông so sánh cái giếng nước ngọt ở ria một hòn đảo giữa bể, cái sinh hoạt của nó vui như một cái bến và đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền. Vui như một cái bến thì nơi nào cũng có, nhưng đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền thì chính là cái sắc thái riêng của không khí trong lành và tình người đậm đà trên biển Cô Tô.

Cảnh thiên nhiên và sinh hoạt của con người vùng đảo Cô Tô hiện lên thật trong sáng và tươi đẹp qua ngôn ngữ diêu luyện và sự miêu tả tinh tế, chính xác, giàu hình ảnh và cảm xúc của Nguyễn Tuân. Bài văn cho ta hiểu biết và yêu mến một vùng đất của Tổ quốc - quần đảo Cô Tô.

3. Bài phân tích số 3: Cảm nhận về cảnh mặt trời mọc trên đảo Cô Tô

Bài kí Cô Tô của Nguyễn Tuân là một tác phẩm đặc sắc mà ở đó đoạn tả mặt trời mọc trên biển đã để lại cho người đọc sự thích thú, ham mê và trí tưởng tượng sâu sắc nhất.

Cảnh mặt trời mọc trên biển là một bức tranh rất đẹp và đầy chất thơ. Đây là đoạn văn miêu tả đẹp nhất của bài kí. Như một “sản phẩm quí”, vẻ đẹp của thiên nhiên như dâng sẵn, đón chờ, nhưng không phải ai cũng có thể cảm nhận được vẻ đẹp ấy một cách đầy đủ và tinh tế. Chính vì thế mà ngắm nhìn bình minh Cô Tô đối với Nguyễn Tuân không phải là một thú vui hưởng thụ, dễ dãi, thụ động mà là cả một cuộc đi tìm cái đẹp một cách công phu, đầy sự khám phá, sáng tạo. Như một nghệ sĩ đi săn lùng cái đẹp, Nguyễn Tuân đã dậy từ canh tư, lúc còn tối đất, cố đi mãi trên đá đầu sư, ra thấu đầu mủi đảo. Và ngồi đó rình mặt trời lên. Người đọc cảm mến tác giả vì lòng yêu quí, tôn thờ “cái đẹp” và cảm phục, thích thú vì công phu tìm kiếm cái đẹp của người nghệ sĩ, hồi hộp cùng tác giả chờ đón cái “đẹp” xuất hiện.

Rạng đông được tác giả miêu tả trong một câu rất súc tích và giàu sức gợi cảm. Chân trời, ngấn bể "sạch như một tấm kính lau hết mây, hết bụi" - cảnh rất thực mà đẹp thần tiên, trong trẻo, tinh khiết. Nguyễn Tuân đã khéo léo, tinh tế tạo ra cái “phông”, cái nền cho vầng dương hiện trên mặt biển: Mặt trời nhú lên dần dần, rồi lên cho kì hết. Tròn trĩnh và phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn. Hình ảnh so sánh mà tác giả đã dùng ở đây thật là đặc sắc, vừa rất thực mà cũng rất mơ, rất kì ảo. “Thực” là vì qua làn hơi nước của mặt biển, mắt thường có thể nhìn rõ hình dáng “tròn trĩnh” của vầng thái dương. Mặt trời lúc ấy dịu êm, chưa chói lóa, chưa làm nhức mắt, khiến cho người ta có thể ngắm nhìn và có cảm giác vầng mặt trời hiền hòa phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn.

Hình ảnh so sánh “rất mơ” rất kì ảo vì nó là kết quả của óc quan sát, nhận xét tinh tế và kết hợp với trí tưởng tượng phong phú, táo bạo của tác giả. Không dừng ở đó, óc quan sát sắc sảo, tâm hồn tinh tế, kết hợp với trí tưởng tượng phong phú, táo bạo của Nguyễn Tuân đã biến những lời văn miêu tả của ông thành một bức tranh sơn mài tráng lệ. Sự am hiểu của tác giả về hội hoạ tăng thêm hiệu lực cho ngòi bút miêu tả, đoạn văn giàu chất tạo hình và màu sắc khiến nó sáng rực lên, đẹp một vẻ đẹp kì ảo mà lại rất thực.

Người đọc chưa hết sững sờ trước hình ảnh so sánh mặt trời tròn trĩnh, phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn, thì lại sững sờ trước một vẻ đẹp kì ảo khác: Quả trứng hồng hào, thăm thẳm và đường bệ đặt lên một mâm bạc, đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển hửng hồng. Ba tính từ đặt liên tiếp cạnh nhau (hồng hào, thăm thẳm, đường bệ) có tác dụng tả màu sắc, trạng thái, hình dáng mặt trời làm cho nó nổi bật lên trên cái mâm bạc đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển hửng hồng. Màu hồng và màu ánh bạc là hai màu sắc có sức gợi cảm của tranh sơn mài, cũng là hai màu sắc chủ đạo của bức tranh này.

Vẻ đẹp của mặt trời mọc trên biển Cô Tô quả là tặng vật vô giá của thiên nhiên ban cho người lao động suốt đời gắn bó với biển cả. Y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh để mừng cho sự trường thọ của tất cả những người chài lưới trên muôn thuở biển Đông. Câu văn đẹp, một vẻ đẹp cổ điển, mẫu mực. Hình ảnh so sánh vầng mặt trời và bầu trời trên biển Cô Tô như một mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh... là một hình ảnh hết sức trang trọng, uy nghi, lộng lẫy và giàu chất nhân bản vì nó hướng tới “Con người”, vì “Con người”, kính trọng người lao động.

Ta như có cảm giác thiên nhiên vĩ đại đang tự đẹp lên vì “Con người”, đang cung kính dâng lễ phẩm trong buổi lễ mừng thọ tất cả những người chài lưới trên muôn thuở biển Đông. Và cùng lúc, chúng ta đón nhận mâm lễ phẩm của Nguyễn Tuân, một mâm lễ phẩm sang trọng, ông dâng cho muôn thuở văn chương: những trang viết tài hoa, huy hoàng của ông! Đến đây, người đọc cảm phục Nguyễn Tuân vì tài văn chương mà cũng vô cùng kính trọng cái “tâm” rất đẹp của ông. Cái “Tâm” rất đẹp của Nguyễn Tuân luôn hướng về người dân lao động của đất nước mình.

Bức tranh bình minh trên biển Cô Tô sẽ giảm đi rất nhiều vẻ đẹp nếu như nhà văn không điểm vào đó mấy cánh chim không khi nào thiếu vắng trên biển. Vài chiếc nhạn mùa thu chao đi chao lại trên mâm bể sáng dần lên cái chất bạc nén. Một con Hải âu bay ngang là là nhịp cánh. Đôi nét chấm phá cuối cùng đã hoàn tất bức tranh, làm cho bức tranh sống động, đầy chất thơ. Đây là những cánh chim xưa thường chấp chới, sáng lên trong những áng thơ cổ điển. Trong đoạn văn này, những cánh chim biển nhỏ nhoi có tác dụng rất lớn: nó thổi hồn thơ vào văn xuôi. Phải chăng đó là nét tài hoa của ngòi bút văn chương Nguyễn Tuân.

Đoạn kí của Nguyễn Tuân đã giúp em chiêm ngưỡng, thưởng thức vẻ đẹp lộng lẫy, tráng lệ và kì diệu của mặt trời mọc trên biển Cô Tô. Cảm ơn nhà văn với trí sáng tạo đã khám phá, đã “vẽ” lên trong văn chương vẻ đẹp của Cô Tô, giúp ta thêm yêu vùng đảo xa xôi này. Cảm ơn Nguyễn Tuân đã dạy ta cả cách đến với “Cái đẹp”.

4. Vẻ đẹp của Cô Tô bài phân tích số 4

Nguyễn Tuân (1910 - 1987) quê ở Hà Nội, là nhà văn nổi tiếng, sở trường về thể tùy bút và kí. Tác phẩm của Nguyễn Tuân luôn thể hiện phong cách độc đáo, tài hoa, sự hiểu biết phong phú nhiều mặt và vốn ngôn ngữ giàu có, điêu luyện. Bài văn Cô Tô là phần cuối của bài kí Cô Tô - tác phẩm ghi lại những ấn tượng về thiên nhiên, con người lao động ở vùng đảo Cô Tô mà nhà văn Nguyễn Tuân thu nhận được trong chuyến ra thăm đảo.

Cô Tô là một quần đảo gồm nhiều đảo nhỏ trong vịnh Bái Tử Long (thuộc vịnh Bắc Bộ), cách bờ biển tỉnh Quảng Ninh khoảng 100 km. Ngoài cá, biển Cô Tô còn nổi tiếng về mực, ngọc trai, hải sâm, bào ngư. Và tất nhiên ngoài sự thuận lợi, phong phú về hải sản, Cô Tô cũng gặp khó khăn từ thiên nhiên như bất cứ một quần đảo nào khác, đó là dông bão. Người đọc biết được khó khăn ấy không ở môn học địa lí mà ở ngay những câu văn mở đầu của đoạn trích. Tác giả đã bốn ngày ở đảo. “Ngày thứ năm trên đảo Cô Tô là một ngày trong trẻo, sáng sủa.

"[...], sau mỗi lần dông bão, bao giờ bầu trời Cô Tô cũng trong sáng như vậy”. Và bắt đầu từ thời điểm đó, buổi sáng vào “ngày thứ năm”, Nguyễn Tuân kể lại chuyến đi thăm đảo của ông. Mục đích là đi thăm người, nhưng ai cấm được cặp mắt ông xem cảnh? Nguyễn Tuân cùng một nhóm người leo dốc. Trên đường đi, ông quan sát và so sánh: “Cây trên núi đảo lại thêm xanh mượt, nước biển lại lam biếc đậm đà hơn hết cả mọi khi, và cát lại vàng giòn hơn nữa”. Trong câu văn ấy, ngoài nghệ thuật so sánh nhà văn còn vận dụng các tính từ như “mượt, đậm đà, giòn” để làm tăng thêm độ tươi, láng mịn, độ trong của cỏ cây, cát và nước biển. Và tác giả cũng không quên đề cập tới nguồn lợi kinh tế chính của người dân vùng đảo: Cá có biệt tăm trong những ngày biển động thì lại tràn về lúc biển lặng.

Mục đích của việc leo dốc là “lên đồn Cô Tô hỏi thăm sức khỏe anh em bộ binh và hải quân cùng đóng sát nhau trong cái đồn khố xanh cũ ấy”. Trong câu văn, tác giả không quên nhắc tới “đồn khố xanh”, cái đồn dành cho “sắc lính trong quân đội thuộc địa dưới chế độ thực dân Pháp. Lính khố xanh canh giữ các công sở, địa phương, chân có quấn xà cạp màu xanh để phân biệt với các sắc lính khác”. Nó là một chứng tích lịch sử về chủ quyền quốc gia. Gặp nhau tay bắt mặt mừng, khách nhìn tận mắt, nghe tận tai vóc dáng và giọng nói cười của chú là biết ngay “sức khỏe” của chú. Và chú cũng không quên mời khách “trèo lên nóc đồn” để hòa mình vào khoảng bao la của Thái Bình Dương, mặc sức mà ngắm toàn cảnh đảo Cô Tô, và phóng tầm mắt nhìn qua những hòn đảo khác. Thế là hết ngày thứ năm trên đảo...

Qua ngày thứ sáu, nhà văn đón mặt trời trên đảo Thanh Luân. Đây là một đoạn văn tiêu biểu về nghệ thuật chọn lựa hình ảnh để so sánh làm tăng vẻ đẹp vốn đã quyến rũ của cảnh mặt trời lên trên đảo Thanh Luân. Nhà văn đã thức từ canh tư, cố đi qua “đá đầu sư”, viên đá tròn trơn láng đã được so sánh cụ thể như thế. Chân trời, ngấn bể thì được so sánh “sạch như tấm kính lau hết mây hết bụi”. So sánh như thế thì chắc không bầu trời nào trong sáng hơn. Hình ảnh mặt trời lên ở đảo được tác giả miêu tả thật tuyệt vời.

Cả một đoạn văn dài tác giả sử dụng phép so sánh, ví chân trời như cái “mâm bạc”. Đặt trên cái mâm bạc ấy là mặt trời “tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng”. Tất cả “y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh để mừng cho sự trường thọ của tất cả những người chài lưới trên muôn thuở biển Đông”. Một so sánh trang trọng, rực rỡ và tráng lệ khiến người đọc choáng ngợp trước vẻ đẹp kì vĩ của cảnh mặt trời mọc ở đảo sau ngày bão dông. Đấy là quà tặng của nhà văn cho cả thiên nhiên lẫn con người vùng đảo hòa hợp và kiên cường qua tài dùng từ gợi hình để so sánh.

Ba đoạn văn ở phần cuối tác giả miêu tả cảnh sinh hoạt của người dân trên đảo khi mặt trời đã lên cao chung quanh “Cái giếng nước ngọt ở ria một hòn đảo giữa bể, cái sinh hoạt của nó vui như một cái bến và đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền”. Cùng với lối viết so sánh để nhấn mạnh về lối sống thân tình của người dân vùng bốn bề đều là biển mặn. Ở một vùng đất như thế thì cái giếng nước ngọt là điểm tập trung quý vô cùng. Người ở đảo gặp nhau lúc ra giếng tắm, lúc đến múc và gánh nước về nhà để dùng, kể cả “bao nhiêu là thuyền của hợp tác xã đang mở nắp sạp đổ nước ngọt vào”. Sinh hoạt của người dân ở giếng nước ngọt là như thế.

Nhà văn cũng không quên đề cập đến một gia đình mà cả chồng lẫn vợ đều có mặt ở giếng nước ngọt sáng hôm ấy: gia đình anh hùng Châu Hòa Mẫn. Anh thì quẩy mười lăm gánh nước cho thuyền của mình. Buổi sáng hôm ấy hợp tác xã Bắc Loan Đầu của anh cho mười tám thuyền lớn nhỏ cùng ra khơi. Và như anh cho biết: “Đi ra khơi, xa lắm mà có khi mười ngày mới về. Nước ngọt cho vào sạp, chỉ để uống. Vo gạo thổi cơm cũng không được lấy nước ngọt. Vo gạo bằng nước bể thôi”.

Nước ngọt quý đến như vậy đấy. Còn giữa đám đông người gánh nước nối tiếp đi về, nhà văn “Trông chị Châu Hòa Mẫn địu con, thấy nó dịu dàng yên tâm như cái hình ảnh biển cả là mẹ hiền mớm cá cho lũ con lành”. Từ cái giếng nước ngọt “đậm đà mát nhẹ” tới hình ảnh của chị Châu Hòa Mẫn địu con, đoạn văn đã giới thiệu cho người đọc nhận ra sự cần mẫn và tình người chan hòa vui vẻ và đậm đà của con người trên đảo.

Sử dụng ngôn ngữ điêu luyện, chọn hình ảnh so sánh độc đáo, tinh tế và giàu màu sắc, Nguyễn Tuân đã mang đến cho người lọc cảnh thiên nhiên đẹp đến tuyệt vời, tình người chan hòa, hiền hậu ở đảo Cô Tô. Không chỉ yêu thương thêm Tố quốc, người còn mong muốn được đến thăm hòn đảo đáng yêu quý này, ít nhất là một lần trong đời.

-/-

Các em vừa tham khảo một số gợi ý và bài văn mẫu phân tích vẻ đẹp của Cô Tô qua văn bản Cô Tô của Nguyễn Tuân. Hy vọng những thông tin kiến thức hữu ích do Đọc Tài Liệu mang tới trong bài viết sẽ giúp các em hoàn thành tốt bài văn phân tích, cảm nhận về vẻ đẹp của Cô Tô...

Bạn còn vấn đề gì băn khoăn?
Vui lòng cung cấp thêm thông tin để chúng tôi giúp bạn
Hủy

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM