Dàn ý phân tích đoạn trích Trao duyên - Tham khảo một số mẫu dàn ý và bài mẫu phân tích Trao duyên trong tác phẩm Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du
Dàn ý phân tích đoạn trích Trao duyên trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
Dàn ý phân tích đoạn trích Trao duyên - Dàn ý 1:
I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả Nguyễn Du và Truyện Kiều: Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc danh nhân văn hóa thế giới, Truyện Kiều được xem là kiệt tác của nền văn học được dịch ra nhiều thứ tiếng.
- Giới thiệu đoạn trích Trao duyên: Vị trí, nội dung
II. Thân bài
1. Lời nhờ cậy và thuyết phục Thúy Vân của Thúy Kiều (12 câu thơ đầu)
a. Hai câu đầu: Lời nhờ cậy của Thúy Kiều
* Lời lẽ trao duyên
- Cậy: + Là một thanh trắc với âm điệu nặng nề, gợi sự quằn quại, đau đớn, khó nói >< nhờ, mong (thanh bằng)
+ Cũng mang hàm nghĩa là trông mong, giúp đỡ nhưng cậy còn mang thêm sắc thái hàm ý về sự hi vọng tha thiết, sự gửi gắm đầy tin tưởng
- Chịu: Nài ép, bắt buộc, không thể không nhận >< nhận: mang tính tự nguyện
* Cử chỉ trao duyên
- Lạy, thưa:
+ Là thái độ kính cẩn, trang trọng với người bề trên hoặc với người mình hàm ơn.
+ Hành động của Kiều tạo ra sự trang nghiêm, thiêng liêng cho điều sắp nói ra
=> Qua cách nói thể hiện sự thông minh, khéo léo của Thúy Kiều
=> Sự tài tình trong cách sử dụng từ ngữ của Nguyễn Du
b. Mười câu tiếp: Lí lẽ trao duyên của Kiều.
* 4 câu thơ tiếp: Kể về mối tình với chàng Kim
- Thành ngữ: “ Giữa đường đắt gánh tương tư”
- Hình ảnh: “Mối tơ thừa”
- Hành động: “ Quạt ước, chén thề”
=> Bằng những thành ngữ, những điển tích, những ngôn ngữ giàu hình ảnh đã vẽ nên một mối tình nồng thắm nhưng mong manh, dang dở và đầy bất hạnh của Kim - Kiều
* 6 câu thơ sau: Những lí do khiến Kiều trao duyên cho em.
- Gia đình Kiều gặp biến cố lớn “sóng gió bất kì”
- Kiều buộc phải chọn 1 trong 2 con đường là “hiếu” và “tình”, Kiều đành chọn hi sinh tình.
=> Kiều đã gợi ra tình cảnh ngang trái, khó xử của mình để Vân thấu hiểu.
- “Ngày xuân em hãy còn dài”
=> Vân vẫn còn trẻ, còn cả tương lai phía trước
- “Xót tình máu mủ thay lời nước non”
=> Kiều thuyết phục em bằng tình cảm ruột thịt.
- Thành ngữ “Thịt nát xương mòn” và “ Ngậm cười chín suối”: nói về cái chết đầy mãn nguyện của Kiều
=> Kiều viện đến cả cái chết để thể hiện sự cảm kích thật sự của mình khi Vân nhận lời
⇒ Cách lập luận hết sức chặt chẽ, thấu tình cho thấy Thúy Kiều là người sắc sảo tinh tế, có đức hi sinh, một người con hiếu thảo, trọng tình nghĩa.
* Tiểu kết:
- Nội dung: 12 câu thơ đầu là diễn biến tâm trạng phức tạp của Kiều trong lúc nói lời trao duyên
- Nghệ thuật: Sử dụng các điển tích, điển cố, các thành ngữ dân gian, ngôn ngữ tinh tế, chính xác giàu sức thuyết phục, lập luận chặt chẽ.
2. Kiều trao kỉ vật và dặn dò Vân (14 câu thơ tiếp theo)
a. Sáu câu đầu: Kiều trao kỉ vật
- Kỉ vật; Chiếc vành, bức tờ mây
=> Kỉ vật đơn sơ mà thiêng liêng, gợi quá khứ hạnh phúc.
- Từ “giữ - của chung – của tin”
+ “Của chung” là của Kim, Kiều nay là cả của Vân nữa
+ “Của tin” là những vật gắn bó gợi tình yêu thiêng liêng của Kim – Kiều: mảnh hương, tiếng đàn
=> Thể hiện sự giằng xé trong tâm trạng Thúy Kiều. Kiều chỉ có thể gửi gắm mối duyên dang dở cho Vân chứ không thể trao hết tình yêu mặn nồng xưa kia giữa nàng và Kim Trọng.
b. Tám câu thơ tiếp: Lời dặn dò của Kiều
* Kiều dự cảm về cái chết
- Hàng loạt các từ ngữ, hình ảnh gợi về cái chết: hiu hiu gió, hồn, nát thân bồ liễu, dạ đài, người thác oan
=> Dự cảm không lành về tương lai, sự tuyệt vọng tột cùng. Kiều tưởng tượng ra cảnh mình chết oan, chết hận. Hồn không sao siêu thoát được bởi trong lòng đang nặng lời thề ước với Kim Trọng
=> Ta thấy được sự đau đớn, đầy tuyệt vọng của Kiều, đồng thời thể hiện tấm lòng thủy chung một lòng hướng về Kim trọng của Kiều
* Thúy Kiều dặn dò Thúy Vân
- “Đền nghì trúc mai”: Đền ơn đáp nghĩa.
- “Rưới xin giọt nước”: Tẩy oan cho chị.
=> Nỗi bứt rứt, dằn vặt trong lòng Kiều. Lúc này, Kiều như càng nhớ, càng thương Kim Trọng hơn bao giờ hết.
* Tiểu kết:
- Nội dung: 14 câu thơ tiếp là một khối mâu thuẫn lớn trong tâm trạng Thúy Kiều: trao kỉ vật cho em mà lời gửi trao chất chứa bao đau đớn, giằng xé và chua chát.
- Nghệ thuật: Cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh giàu giá trị biểu cảm, độc thoại nội tâm.
3. Tám câu thơ cuối: Kiều trở về thực tại đau xót khi nhớ tới Kim Trọng
- Hình thức: Lời thơ chuyển từ đối thoại sang độc thoại
- Tâm trạng: Nàng ý thức rõ về cái hiện hữu của mình: “trâm gãy gương tan”, “tơ duyên ngắn ngủi”, “phận bạc như vôi”, “nước chảy hoa trôi lỡ làng”
=> Hình ảnh gợi tả số phận đầy đau khổ, dở dang, bạc bẽo, lênh đênh trôi nổi
- Nghệ thuật đối lập: quá khứ >< hiện tại
=> Khắc sâu nỗi đau của Kiều trong hiện tại.
- Các hành động
+ Nhận mình là "người phụ bạc"
+ Lạy: cái lạy tạ lỗi, vĩnh biệt khác với cái lạy nhờ cậy lúc đầu
+ Hai lần gọi tên Kim Trọng: tức tưởi, nghẹn ngào, đau đớn đến mê sảng.
=> Kiều quên đi nỗi đau của mình mà nghĩ nhiều đến người khác, đó chính là đức hy sinh cao quý
* Tiểu kết
- Nội dung: Tâm trạng đau đớn đến cùng cực của Thúy Kiều khi hường về tình yêu của mình và Kim Trọng.
- Nghệ thuật: Sử dụng từ ngữ biểu cảm, thành ngữ, câu cảm thán, các điệp từ.
III. Kết bài
- Khái quát nội dung và nghệ thuật của đoạn trích
- Trình bày suy nghĩ, cảm nhận của bản thân: Đây là trích đoạn hay và cảm động nhất của Truyện Kiều, đem lại hiều xúc cảm nơi người đọc.
Dàn ý phân tích đoạn trích Trao duyên - Dàn ý 2:
I/ Mở bài
- Dẫn dắt giới thiệu tác giả tác phẩm
Có lẽ trong “tiếng kêu đứt ruột” xuyên suốt “Truyện Kiều” thì trích đoạn “Trao duyên”là tiếng kêu đứt ruột đầu tiên mở màn một chuỗi dài những đau thương chất chồng lên cuộc đời truân chuyên của người con gái tài sắc. Với tài năng miêu tả nội tâm nhân vật của Nguyễn Du, trích đoạn đã thể hiện bi kịch tình yêu, thân phận bất hạnh và nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều.
II/ Thân bài
1. Lời thỉnh cầu trao duyên của Thúy Kiều với Thúy Vân
- “Cậy” vừa có nghĩa là nhờ, vừa bộc lộ tâm trạng quằn quại khó nói, lại vừa gửi gắm một hi vọng nhận lời của Thúy Vân.
- “Chịu” là đẩy Vân vào tình thế mặc nhiên phải chấp nhận dẫu chưa biết đó là chuyện gì. “Chịu” là ép buộc để cho người thương mình sẽ nhận lời.
- “Ngồi lên cho chị lạy” là tư thế của người chịu ơn với ân nhân của cuộc đời mình, tức là chỉ mình em có thể nhận lời gửi gắm của con người sắp đi xa.
- Với giọng điệu trang trọng, Kiều đã hạ mình cầu khẩn em một cách xót xa, ở đó có tư thế của một người chị cùng với tư thế của người cầu xin.
- Kiều dùng lý lẽ để thuyết phục Thúy Vân, trong đó có câu chuyện về mối tình đầu trong sáng từ khi chàng Kim, có cả sự day dứt vì đứt gánh tương tư, đứt mối tình đầu dang dở.
- Đó là lý lẽ của con người hiếu nghĩa đủ đường, của một trái tim giàu lòng vị tha, nghĩ cho người khác hơn là nghĩ cho mình. Vì mặc cảm day dứt vì chàng Kim, chị trao lại duyên cho em, em là em gái của chị, hãy vì xót thương chị và nối tiếp mối duyên này.
- Trao duyên cho em bởi em còn trẻ, còn một tương lai tươi sáng ở phía trước, em có thể xây dựng lại hạnh phúc cho mình bắt đầu từ hôm nay chứ không phải là một cuộc đời tăm tối như chị.
- Những câu thơ vừa giàu lý lẽ vừa thắm thiết tình chị em. Thúy Kiều còn khéo léo đưa vào đó cả cái chết của mình để tăng thêm sức nặng cho lời thuyết phục.
- Với nỗi đau đớn trong cuộc đời, Kiều đã mượn nỗi quan hệ thiêng liêng là tình máu mủ để giải quyết một mối quan hệ thiêng liêng nữa là tình yêu đôi lứa. Lời thỉnh cầu đầy cảm động đã dọn đường từ trái tim Kiều đến trái tim Vân.
2.Trao kỉ vật và dặn dò em
- Kỉ vật Kiều trao cho em là chiếc vành gắn liền với buổi đầu gặp gỡ. Chiếc vành, bức tờ mây ghi lời thề chung thủy của Kim Kiều trong buổi thề nguyền gợi lên mối tình đầu trong sáng.
- Hai chữ “của chung” gượng gạo mâu thuẫn vì kỉ vật tình yêu chỉ thiêng liêng khi là riêng hai người. Thế nhưng của chung, tức là không phải là của em và Kim mà có cả chị trong đó. Vậy là Kiều trao duyên cho em nhưng vẫn muốn níu giữ, vẫn muốn có chút hiện diện của mình trong đó.
- Kiều đang rơi vào sự giằng xé dữ dội trong tâm trạng, giữa trao đi và không muốn trao đi, giữa mất và còn.
- Ngay sau khi trao kỉ vật, trong những lời dặn dò, cảm giác mất mát còn hiện rõ lên trong tâm trí.
“Ngày xưa” là thời gian tâm lý. Buổi thề nguyền vừa qua có mấy ngày thế mà trong khoảnh khắc chốc lát, tất cả đã trở thành ngày xưa.
- Nguyện cầu duy nhất của nàng là nhận được sự cảm thông, chia sẻ của người ở lại. Kiều tưởng tượng ra cái chết của mình, trong tư thế của một mảnh hồn oan, Kiều vẫn tìm về dương thế, dù cho mảnh hồn đó có trôi lạc nơi đâu thì vẫn mang nặng một lời thề trong tim, vẫn cứ tìm về.
3. Lời tạ từ gắn với chàng Kim
- Hai chữ “bây giờ” đã đưa Kiều đang chiêm nghiệm về tương lai trở về thực tại phũ phàng. Bây giờ là trâm gẫy, là tơ duyên ngắn ngủi... đã dứt Kiều ra khỏi cuộc nói chuyện với Thúy Vân để hướng về chàng Kim.
- Kim Trọng là cội rễ của mọi nguồn đau, là người mà Kiều nghĩ rằng không trả nghĩa thì không được. Khi trả nghĩa xong rồi thì Kiều mới nhận ra khoảng trống đáng sợ mà mình đã đánh mất đi hạnh phúc đang có. Nỗi đau quá lớn, điều này Thúy Vân không thể hiểu mà chỉ có Kim Trọng mới có thể cảm thông.
- “Trâm gẫy gương tan” là hiện thực về tình yêu tan vỡ không thể hàn gắn được. “ Trăm nghìn là tất cả những tình cảm lớn lao dành cho Kim. Lạy chàng Kim, cái lạy hối nỗi ăn năn như một sự tạ từ
Kiều cũng ý thức được về nỗi đau của riêng mình. “Bạc như vôi” nói về sự bạc bẽo của người đời, cuộc đời, có ý nghĩa khái quát cho phận người trong xã hội cũ.
- “Đã đành” là sự thừa nhận mình là thân cánh bướm, là phụ nữ thì phải chấp nhận dòng đời xô đẩy, nước chảy thì hoa trôi.
- “Thôi thôi” , sự bất lực đành buông bỏ, đó lầ sự chấp chới tuyệt vọng, là sự tiếc nuối khi phải rời bỏ mối tình trong sáng. Đỉnh điểm của nỗi đau đớn là Kiều tự nhận nàng phụ chàng Kim. Nỗi đau ấy chứng tỏ tình cảm nàng dành cho Kim Trọng.
III/ Kết bài
Kết luận chung về đoạn trích
Qua đoạn trích Nguyễn Du đã thể hiện trái tim đôn hậu của mình trước tình yêu nam nữ tan vỡ qua cách nói có lớp lang, thấy được tâm trạng thực, thấy được những biểu hiện đau đớn nhất của con người. Đọc “Truyện Kiều” nói chung và đoạn trích “Trao duyên” nói riêng, ta càng thêm hiểu và thương cho Kiều cũng như bao số phận hồng nhan bạc mệnh khác trong xã hội , vừa khâm phục ngòi bút tài hao của đại thi hào Nguyễn Du.
Xem thêm:
- Dàn ý phân tích vẻ đẹp của Thúy Kiều qua đoạn trích Trao duyên
- Dàn ý phân tích nỗi đau của Thúy Kiều qua đoạn trích Trao duyên
Dàn ý phân tích đoạn trích Trao duyên trong Truyện Kiều - Nguyễn Du
Bài mẫu tham khảo phân tích đoạn trích Trao duyên trong Truyện Kiều - Nguyễn Du
“Truyện Kiều” không chỉ là một kiệt tác vĩ đại của nền văn học Việt Nam mà còn của toàn thế giới. Trong đó, đoạn trích nổi tiếng “Trao duyên” đã thể hiện cái nhìn hiện thực và nhân đạo của Nguyễn Du về con người, đặc biệt là đối với số phận của khách hồng nhan, số phận của Thúy Kiều. Ngoài ra, “Trao duyên” còn là tâm sự, là tiếng khóc đau thương được bật ra từ một hoàn cảnh éo le “tình chị duyên em”.
“Trao duyên” là câu chuyện đặc biệt đằng sau một hoàn cảnh đặc biệt. Sau đêm thề nguyền với Thúy Kiều, Kim Trọng phải về hộ tang chú ở Liêu Dương. Ngay lúc đó, gia đình Kiều bị thằng bán tơ vu oan, Vương Ông và Vương Quan bị hành hạ, gia sản bị cướp hết. Kiều đứng trước cảnh gia biến phải bán mình chuộc cha. Đêm trước ngày phải theo Mã Giám Sinh, Kiều cậy Thúy Vân tiếp nối mối duyên dang dở của mình với chàng Kim.
Mở đầu đoạn trích là hình ảnh Kiều mở lời nhờ cậy Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng:
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Ta thấy cách sử dụng ngôn ngữ, ở đây là sử dụng động từ đã đạt tới những thành công nhất định. Từ “cậy” với thanh trắc âm điệu nặng nề gợi sự quằn quại, đau đớn, khó nói, nó trái hẳn với “nhờ”. Cậy mang hàm ý hi vọng tha thiết, có ý tựa nương, gửi gắm, van nài, tin tưởng nơi quan hệ ruột thịt. Từ “chịu” thể hiện nài ép, bắt buộc, không nhận không được. Hai động từ “lạy”, “thưa” trong câu thứ hai đã thái độ kính cẩn, trang trọng với người bề trên hoặc với người mình hàm ơn. Thúy Kiều trong vế ở trên, là chị của Thúy Vân nhưng trong cuộc “trao duyên” hoàn toàn nhận về sự thua thiệt. Chữ hiếu đè nặng lên vai và bổn phận “làm con trước phải đền ơn sinh thành” đã trở thành niềm lo lắng khôn nguôi của nàng Kiều lúc này.
Những câu thơ tiếp theo là lời trình bày đầy thuyết phục:
“Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non”
Rơi vào cảnh ngộ éo le, tình yêu vừa chớm nở nay phải cam chịu cảnh dở dang, đứt quãng “đứt gánh tương tư” bởi tai họa ập đến gia đình “sóng gió bất kì”. Từng nấc thang tâm trạng là từng lời giằng xé, từng ai oán thương tâm. Bên tình bên hiếu đang chờ đợi sự lựa chọn của nàng. Không thể từ bỏ cha già, em thơ, Kiều chỉ còn cách bán mình cứu cả gia đình qua cơn sóng gió. Hiểu rõ sự thiệt thòi của Thúy Vân, Kiều tha thiết van nài, trông mong ở mối quan hệ thâm tình ruột thịt để trả nghĩa cho chàng Kim. Niềm vui hẹn ước, thề nguyền xưa kia giờ chỉ còn biết nhờ tình máu mủ thay thế. Để rồi đằng sau lời lẽ đầy lí trí của một người con hiếu thảo kia là dự cảm không lành ở tương lai:
“Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suốt hãy còn thơm lây”
Từ bỏ tình duyên với Kim Trọng, nàng chẳng khác nào từ bỏ đi cuộc sống của mình. Nàng nghĩ đến cái chết của chính mình, tự nhận thức về bi kịch tình yêu đang hiện hữu.
Và càng đau đớn hơn khi các kỉ vật tình yêu vẫn còn nguyên vẹn, vẫn ấm áp hơi người, Kiều trao kỉ vật và dặn dò ở nơi em:
“Chiếc vành với bức tờ mây,
Duyên này thì giữ vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người bạc mệnh ắt lòng chẳng quên.
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”
Hoài Thanh từng viết: “Của chung là của ai? Bao nhiêu đau đớn trong hai tiếng đơn sơ!”. Rõ ràng, trong Thúy Kiều dường như có gì đó không nỡ, có gì đó lưu luyến. Đã nhờ Thúy Vân thay mình tiếp nối tình yêu với Kim Trọng nhưng kỉ vật xưa kia vẫn là “của chung”. Nàng không từ bỏ được chúng cũng như không từ bỏ được tình yêu sâu kín trong tận đáy lòng. Có cái gì đó uất nghẹn âm vang trong câu thơ bởi sự giằng xé, phân đôi xót xa giữa cái riêng với cái chung, giữa hạnh phúc với bất hạnh, giữa mất với còn, giữa tương lai và hiện tại. Kiều nhận về mình tất cả những xót xa, những đau đớn của một đời người bạc mệnh bởi đây cũng là số phận mà nàng phải vương mang: “lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.
Mạch tự sự của thơ tiếp tục diễn ra để thể hiện một bi kịch tình yêu:
“Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời
Dưới xin giọt nước cho người thác oan”
Kiều tưởng tượng về cảnh ngộ của mình trong tương lai qua hình ảnh nhuốm màu tang tóc. Những “lò hương”, “ngọn cỏ lá cây”, “hiu hiu gió”, “hồn”, “thân bồ liễu”, “đền nghì trúc mai”, “dạ đài”, “giọt nước”, “người thác oan”…. gợi ra cuộc sống cõi âm lạnh lẽo. Hơn thế nữa, nhịp thơ chậm rãi, nghẹn ngào, tức tưởi như tiếng khóc não nùng cố nén lại để không bật thành lời. Kiều đang tưởng tượng đau đớn đến tột bực bởi trong lòng còn mang nặng tình cảm với chàng Kim.
Cuối cùng, sau những giờ phút gửi gắm tình duyên là lúc Kiều đối diện với thực tại và lời nhắn gửi cho “người yêu cũ”:
“Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể sao cho xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Phận sau phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”
Đang đối thoại với Thúy Vân, Kiều quay sang độc thoại với chính mình. Ý thức hiện tại đầy xót xa qua hai tiếng “bây giờ”. “Bây giờ” ấy thế nào? Là “trâm gãy gương tan”, là “kể sao cho xiết muôn vàn ái ân”, là “trăm nghìn gửi lại tình quân”, là “tơ duyên ngắn ngủi”….. Còn gì đau đớn hơn, còn gì xót xa hơn! Sự trôi nổi của số phận và đứt đoạn của tình duyên đã khiến nàng gần như rơi vào cơn mê sảng. Nàng nhận hết tất cả thiệt thòi, nhận mình là người phụ bạc để gửi lại cái tạ tình tha thiết và chấp nhận đoạn trường riêng mang: “Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”. Kiều lúc này như buông xuôi tất cả, nàng mặc cho sự xô đẩy vô tình của số phận, sự dày vò của con tạo để bật ra tiếng gọi, tiếng khóc, tiếng thét đai đớn, nghẹn ngào:
“Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!"
Tiếng gọi Kim Lang được lặp đi lặp lại vừa thiết tha trân trọng nhưng cũng đầy đau đớn tuyệt vọng. Câu thơ ngắt theo nhịp 3/3 như một tiếng nấc để rồi ở câu sau nhịp thơ trải ra như một lời than trách chính mình. Thúy Kiều đã quên đi nỗi đau của mình mà nghĩ nhiều đến người khác, đó chính là đức hy sinh cao quý mà Nguyễn Du đã ban tặng cho nàng.
Về nghệ thuật, đoạn trích đã miêu tả tinh tế diễn biến tâm trạng nhân vật, ở đây chính là Thúy Kiều. Qua đó, chúng ta cảm nhận được tình yêu, được trách nhiệm, được sự hi sinh, được kiếp số bạc mệnh của nàng. Vừa là một người con hiếu thảo, một người yêu thủy chung, Kiều đã thực sự lấy đi biết bao nước mắt, biết bao sự đồng cảm, xót xa. Bên cạnh đó, đoạn trích đã sử dụng thành công ngôn ngữ kết hợp giữa tự sự và trữ tình và đặc biệt là ngôn ngữ độc thoại nội tâm sinh động. Việc sáng tạo các thành ngữ dân gian, sự giao thoa giữa bình dân và bác học đã khiến cho ngòi bút Nguyễn Du được hậu thế ca ngợi đời đời.
Tóm lại, đoạn trích “Trao duyên” đã khắc họa nên bức tranh cảm động về số phận nàng Kiều, về sự giằng xé đau đớn giữa chữ hiếu và chữ tình, giữa lí trí và tình cảm. Qua đó, chúng ta càng có thêm cơ hội để nhìn nhận tài năng của Nguyễn Du, để nhìn nhận giá trị của “Truyện Kiều”, để hiểu vì sao người đời gọi đây là một hòn ngọc quý cơ hồ không thể thay đổi, thêm bớt một tí gì, như một tiếng đàn lạ gần như không một lần nào lỡ nhịp ngang cung.
>>> Xem thêm nhiều bài văn mẫu Phân tích đoạn trích Trao duyên hay do Đọc tài liệu tổng hợp và chọn lọc
**********
Trên đây là nội dung chi tiết của dàn ý phân tích Trao duyên trong Truyện Kiều - Nguyễn Du do Đọc Tài Liệu sưu tầm và biên soạn. Bằng những kiến thức đã học, các em hãy dựa vào dàn ý này để triển khai và trình bày thành một bài văn hoàn chỉnh nhé. Để xem lại kiến thức về đoạn trích này, các em có thể xem soạn bài Trao duyên. Chúc các em hoàn thành bài tốt và đạt điểm cao !
>> Xem thêm nhiều bài văn mẫu 10 do Đọc Tài Liệu sưu tầm và biên soạn.