Bình giảng bài thơ Mùa xuân chín

Xuất bản: 04/07/2023 - Tác giả:

Bình giảng bài thơ Mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử với một số bài văn tuyển chọn bình giảng Mùa xuân chín giúp học sinh tham khảo.

Nhằm giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để hiểu thêm về bài thơ "Mùa xuân chín", Đọc tài liệu đã tuyển chọn những bài văn Bình giảng bài thơ Mùa xuân chín của Hàn Mạc Tử. Mời các em tham khảo 3 bài bình giảng dưới đây:

Bình giảng bài thơ Mùa xuân chín - Mẫu 1

Mùa xuân chín là một bài thơ xuân rất hay, là một bức tranh xuân mới nhất, trong sáng, rạo rực, say mê, thơ mộng mà thoáng buồn nhất. Hàn Mặc Tử vơi cảm hứng thiên nhiên trữ tình, màu sắc cổ điển hài hòa với chất dân dã, trẻ trung bình dị đã làm hiện lên một bức tranh xuân tươi tắn thơ mộng.

Không biết mùa xuân có tự bao giờ và thơ xuân có tự bao giờ, chỉ biết người ta sinh ra đã có mùa xuân đẹp đầy sức sống và thổi vào các hồn thơ, sống trong cuộc đời, nếu thiếu đi mùa xuân, thiếu đi những câu thơ xuân thì thật buồn. Hôm qua, hôm nay và ngày mai kia lại có những vần thơ xuân cho con người, cho cuộc sống. Và hôm qua đã có Hàn Mặc Tử với "Mùa xuân chín" khi cảm xúc trong con người lữ khách đó đã đến độ tràn đầy.

Nói đến mùa xuân, có ai không hiểu đó là những phút rạo rực nhất của cuộc đời, của cuộc sống. Mùa xuân mỗi khoảnh khắc một vẻ, lúc là "mùa xuân nho nhỏ", lúc là "mùa xuân xanh"... và đây "Mùa xuân chín" nghe vừa mới, vừa sôi nổi, vừa có một sức sống dồn nén đang thầm nảy nở giống như cái mới, cái lãng mạn và khao khát trong tâm hồn Hàn Mạc Tử.

Mỗi dòng thơ đều phảng phất hơi xuân, đều thấm đượm cái đẹp của tâm hồn thi sĩ. Mùa xuân bắt đầu từ cái nắng mới lạ thường:

"Trong làn nắng ửng khói mơ tan

Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng

Sột soạt gió trêu tà áo biếc

Trên giàn thiên lí bóng xuân sang".

Đúng là nắng xuân, chẳng phải tia nắng, hạt nắng, chẳng phải giọt nắng mà là "làn nắng". Chữ "làn" như gợi một hơi thở nhẹ nhàng, nắng như mỏng tang, mềm mại trải đều trong thơ và trong không gian. Làn nắng lại "ửng" lên trong "khói mơ tan". Cảnh sắc nhẹ nhàng, đẹp dân dã mà huyền diệu. Sương khói quyện với nắng; cái "ửng" của nắng được tôn lên trong làn khói mơ màng đang "tan" ấy. Ngòi bút thi sĩ vẫn hướng đến một nét thơ truyền thống, cổ điển, cảnh như có hồn, như có tình chan chứa. Trân trọng đón lấy cái nắng mới tinh khiết ấy là "Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng'!. Sự hô ứng trong vần thơ tạo ra một cảm xúc ấm áp, cảnh vật cân xứng hài hòa, đầy thơ mộng. Vài nét chấm phá đơn sơ mà tinh tế gợi cảm, dung dị mà đáng yêu. Chỉ có "đôi mái nhà tranh" hiện lên trong "làn nắng ửng" nhưng vẫn gợi lên một sức sống đang lay động, dân dã bình yên rất thân thuộc với mọi người. Nắng như đang rắc lên "đôi mái nhà tranh" chút sắc xuân và hương xuân: "Sột soạt gió trêu tà áo biếc". Cái âm thanh của gió "trêu" tà áo và cái gam màu "biếc" của, lá ây là cái tình xuân. Một chữ "trêu" đáng yêu quá, thân thương quá, có gì như mang hương sắc đồng quê từ những câu ca dao, hát ghẹo t.ình tứ thuở nào cứ ngân nga mãi trong lòng ta... Gió cũng chọn áo mà "trêu", phải chọn áo biếc mới thật thơ, thật đẹp. Mùa xuân là như thế, "chín" là như thế!

Từ cụ thể, từ làn nắng, từ mái nhà tranh, từ gió rồi mới khái quát: "Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang". Câu thơ có một sự ngưng đọng, ngập ngừng cảm xúc nhẹ nhàng, bâng khuâng, vấn vương đón “bóng xuân sang", cảm xúc ngưng tụ như nín thở ấy ẩn mình vào dấu chấm giữa dòng thơ. Mạch thơ ngập ngừng như mạch cảm xúc. Bên giàn thiên lí, mùa xuân đã sang. Mùa xuân nhẹ nhàng bước... như có thể cầm được, có thể ngắm được ngay trước mắt mỗi chúng ta.

Tham khảo thêm: Phân tích bài thơ Mùa xuân chín

Bình giảng bài thơ Mùa xuân chín - Mẫu 2

Cũng như Đây thôn Vĩ Dạ, thi phẩm Mùa xuân chín quả là tiếng thơ thuộc loại trong trẻo nhất của Hàn Mặc Tử. Trong trẻo song cũng đầy bí ẩn. Có phải vì thế mà thơ Hàn thuộc dạng kén tri kỉ tri âm. Cứ tựa như một giai nhân kiêu kì vừa đầy quyến rũ vừa sẵn sàng làm nản lòng những kẻ mon men đến gần. Biết bao người vây quanh, ngưỡng mộ, cầu thân, cuối cùng thường chỉ nhận được sự chối từ lịch lãm.

Đến nay cách hiểu thi phẩm chủ yếu vẫn chỉ qui về chủ đề ca ngợi thiên nhiên tươi đẹp, cảm thông với lao động nhọc nhằn. Đưa vào giảng dạy cho học trò thường chỉ khai thác bức tranh mùa xuân đầy xuân sắc, cảm xúc thiên nhiên hết sức tinh vi… Mới chỉ khơi khơi vành ngoài như vậy, hèn chi chỉ nhận được sự hững hờ. Cái duyên, cái hồn riêng của Hàn Mặc Tử trong thi phẩm chẳng mấy khi chịu hiện hình ló rạng.

Có lẽ do không bắt đầu bằng tháo gỡ mạch liên kết “nhảy cóc” của thi phẩm, nên đối tượng thật, cũng như những tình ý sâu kín nhất của Mùa xuân chín vẫn luôn trốn chạy khỏi chúng ta.

Ai cũng biết những khía cạnh lí thuyết chung này: thơ lãng mạn lấy việc đào sâu vào cái Tôi làm cứu cánh, cái Tôi của thơ lãng mạn là cái Tôi nội cảm, kết cấu của các thi phẩm lãng mạn thường tựa vào mạch diễn biến của cảm xúc…

Nhưng ít ai chịu thấy cho thật kĩ rằng xúc cảm can thiệp vào mạch vận động ở mỗi tác phẩm và ở từng tác giả không hề giống nhau. Đơn cử ba đại diện vào loại lớn nhất của Thơ mới là Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử và Nguyễn Bính. Nếu xúc cảm trong các bài thơ của chàng thi sĩ chân quê dựa nhiều vào “cốt” – khiến thơ ít nhiều mang tính tự sự kể lể, thì ở chàng thi sĩ của ái tình cảm xúc dâng trào trên bề mặt lại dựa hẳn vào một cái “tứ” khá chặt nào đó dưới bề sâu. Trong khi ấy, mạch thơ của chàng thi sĩ thơ điên lại trôi chảy theo một dòng tâm tư hoàn toàn bất định khước từ sự dẫn dắt của lôgic lí trí. Vì thế, tìm kiếm tâm sự của Nguyễn Bính ta có thể lần theo mạch “chuyện”, để hiểu tâm tư Xuân Diệu ta có thể bám sát mạch “ngôn từ lôgic” rải rác trong các mảng thơ để liên kết thi tứ. Còn các thi phẩm Hàn Mặc Tử rất khác: đã “phi tự sự” lại còn “phi lôgic”! Tất cả đều có vẻ thiếu mạch lạc, cóc nhảy, đầu Ngô mình Sở. Về thực chất đó là kiểu liên kết siêu lôgíc rất đặc trưng của Thơ điên. Toàn bài là một dòng tâm tư đầy những bất chợt cứ trôi chảy với hai biểu hiện trái chiều: mạch hình ảnh phía trên thì theo liên tưởng tán lạc, mạch tâm tư bên dưới thì theo cảm xúc nhất quán – nhưng là kiểu nhất quán đầy uẩn khúc chứ không hề giản đơn. Ngay trong bài Mùa xuân chín này có một câu thơ dường như muốn tiết lộ với chúng ta về khía cạnh ấy của thơ Hàn. Đó là: Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng. Tôi muốn lưu ý chữ “sực nhớ”. Tức là những khoảnh khắc bất chợt, bất thần, vụt hiện, ngẫu nhiên. Có thể nói, dòng tâm tư bất định trong thơ Hàn Mặc Tử chính là một chuỗi những “sực nhớ” như thế. Các hình ảnh trôi trên bề mặt của dòng tâm tư là những ấn tượng, những kỉ niệm vụt hiện, mình Sở đầu Ngô, nhưng tất cả những ảnh hình bất chợt đầy ngẫu nhiên ấy lại đan bện vào cùng một nỗi niềm đang miên man chuyển hoá, vần vụ. Như thế, “phi lôgic” bề mặt, song lại “lôgic” ở bề sâu chính là bản tướng của cái hình thái được gọi bằng “siêu lôgic” trong thơ Hàn.

Có lẽ vì những phiền toái ấy, người đọc bước vào thơ Tử luôn bị mất dấu vết, mất phương hướng, chơi vơi, mệt. Người bối rối thì đâm tự hoài nghi, kẻ nông nổi lại dễ tự dối mình, và thường khi là tự mãn với vài ba lượm lặt đứt nối, rụng rơi nào đó.

Bước vào Mùa xuân chín cũng thế.

Mạch thơ là dòng tâm tư bất định với những chuyển kênh bất chợt. Về thời gian, đang say đắm trong thời khắc hiện tại – với cảnh xuân phô bày trước mắt và bao cô thôn nữ đang khao khát xuân tình đầy ý vị, thoắt cái đã sang một tương lai vô vị – Ngày mai trong đám xuân xanh ấy / Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi. Đương còn lắng nghe những lời thầm thĩ gần thế, đã sực nhớ đến một ảnh hình trong quá khứ xa thế – Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng / Chị ấy năm nay còn gánh thóc / Dọc bờ sông trắng nắng chang chang. Về cảnh sắc, bức tranh xuân đang từ ngoại cảnh (mái nhà tranh, giàn thiên lí, sóng cỏ xanh tươi, đám thôn nữ…) thoắt biến thành tâm cảnh (người con gái gánh thóc dọc bờ sông trắng), vừa mới “xuân sang” với nắng ửng, thoắt đà “xuân chín”, rồi bất ngờ vuột hẳn ra ngoài cõi xuân với nắng chang chang. Cứ “nhảy cóc” như thế là bởi cứ “sực nhớ” mà ra. Kí ức thi sĩ cứ liên tục “vặn kênh”, “chuyển kênh”. Về mạch cảm xúc, nó không được triển khai theo kiểu cứ tăng tiến mãi một chiều. Mà vận động theo lối đứt gẫy rồi chuyển điệu đột ngột tựa như bất chợt chuyển kênh. Bài thơ có bốn khổ, thì ba khổ đầu nghiêng về diễn tả vẻ rạo rực xuân tình trong cảnh vật và trong lòng người. Thế rồi trạng thái rạo rực đang dồn đẩy tới, thoắt chuyển thành trạng thái bâng khuâng. Mạch cảm xúc vì thế có tới hai cao trào: rạo rực thì đến mức “hổn hển” – Hổn hển như lời của nước mây, còn “bâng khuâng” thì đến thành xa vắng – Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng. Mới vừa “rạo rực” thoắt đã “bâng khuâng”, vừa ngây ngất yêu đời đã da diết thương đời. Đó chính là mạch chuyển lưu các đối cực của xúc cảm. Tất cả là chuỗi những “sực nhớ”. Những “sực nhớ” được xâu thành chuỗi bởi một mạch cảm xúc luôn chuyển lưu, vần vụ đã tạo thành dòng tâm tư bất định. Đó chính là lối liên kết độc đáo của Mùa xuân chín nói riêng và Thơ điên Hàn Mặc Tử nói chung.

Nhìn từ bên ngoài, Mùa xuân chín trước hết là một bức tranh xuân. Thơ Mới viết về mùa xuân đâu phải ít, nhưng được như Mùa xuân chín đây thì đâu có nhiều. Bức tranh xuân ấy xứng đáng là một đóng góp của Hàn Mặc Tử đối với mạch thơ xuân. Song, thi phẩm đâu chỉ là chuyện cảnh xuân được họa bằng những vẻ xuân sắc phơi lộ bên ngoài. Đó chỉ là cái hữu hình, hữu thể thuộc về hình tướng bề ngoài. Chưa phải là điều đáng nói nhất. Đáng nói ở đây phải là cái vô hình vô thể náu ở trong lòng vạn vật kia. Tức là tình xuân vậy. Nó vừa là xuân tình trong lòng tạo vật, vừa là xuân tình trong lòng con người. Đành rằng nó cũng được phát lộ ra bên ngoài bằng xuân sắc. Nhưng ở khía cạnh này xuân sắc chỉ là ngôn ngữ, là chất liệu của xuân tình. Hãy xét kĩ một câu thơ: Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời có thể thấy rõ khuynh hướng cảm hứng của Hàn Mặc Tử. Nhiều người cứ mặc nhiên coi rằng nội dung của nó là giống với câu “Cỏ non xanh tận chân trời” của Nguyễn Du. Không phải. Quả là không thể chối bỏ ảnh hưởng của câu “Kiều” này đối với Hàn thi sĩ. Nhưng cần thấy rằng cái mà Tố Như định thể hiện là sắc cỏ non xanh (nghĩa là ngoại hình của cỏ) trải ra chân trời (bề rộng), còn cái mà Hàn Mặc Tử nhằm tới lại là sóng cỏ (nghĩa là sự rung động của cỏ) [8] đang gợn mãi lên đến tận vòm trời (chiều cao). Đây không nói chuyện hơn kém, mà chỉ nhận diện sự khác nhau. Trong tương quan ấy, nếu sắc nghiêng về cái hữu hình, thì sóng nghiêng về cái vô hình; sắc là hiện thân của xuân cảnh, còn sóng là hoá thân của xuân tình. Rõ ràng, Hàn Mặc Tử muốn thông qua sóng cỏ thuộc về hình tướng của tạo vật để nắm bắt cái xuân chín thuộc về chân tâm của tạo vật.

Vì thế “xuân chín”, về thực chất, là “tình chín”.

Và Tình chính là phần hồn cốt của Xuân.

Trong thi phẩm này, tình xuân không chỉ chín trong cảnh vật, mà còn chín trong cả con người. Hai vẻ xuân chín này diễn ra vừa đồng thời ở người và cảnh, vừa giao ứng giữa cảnh với người. Nói cách khác là cả hai chín cùng nhau, chín sang nhau và chín trong nhau. Sự song hành và hoà điệu như thế mới tạo nên Mùa xuân chín. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là ở đó.

“Trong làn nắng ửng: khói mơ tan

Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng

Sột soạt gió trêu tà áo biếc

Trên giàn thiên lí. Bóng xuân sang”

Khổ thơ là một bức tranh toàn vẹn diễn tả cái diện mạo tươi thắm của cảnh lúc xuân sang: làn nắng ửng, khói xanh mơ, tà áo biếc, lấm tấm vàng… Đó là sắc xuân, đó cũng là tình xuân. Tình dậy lên bên trong phát lộ thành sắc bên ngoài. Và không chỉ ở sắc, tình còn hiện lên trong khí xuân. Để rõ thêm điều này, có lẽ nên tham khảo bài Sáng trăng, thi phẩm có cách cảm nhận rất gần gũi với Mùa xuân chín. Thậm chí, ở đó thi sĩ đã dùng cả những hình ảnh, ngôn từ như trong Mùa xuân chín để thể hiện cái tình dậy lên trong hồn người và phát lộ ra bên ngoài như thế nào: “Vui thay cảnh sáng trăng / ái tình bắt đầu căng / Hoa thơm thì nín lặng / Hương thơm thì bay lan / Em tôi thì hổn hển / áo xiêm lấm tấm vàng / Em tôi đã hiểu chưa?/ Đó là khúc tình ca / Nẩy theo hơi thở nhẹ / ở trên làn dây tơ / Của lòng em rộn rã…”. Như thế, khi ái tình bắt đầu căng, lòng xuân náo nức thì nó tràn ra thành sắc xuân, sức xuân, khí xuân… hiển lộ thành sắc màu, thành cử chỉ, thành hơi thở, thành hương thơm, thành tiếng hát… của người thiếu nữ. Cũng như thế, ở Mùa xuân chín, ửng là xuân tình của nắng, xanh mơ là xuân tình của khói, lấm tấm vàng là xuân tình của những mái nhà gianh, sột soạt trêu là xuân tình của gió, và sắc biếc của tà áo bị trêu tròng là xuân tình nơi giàn thiên lí… Cứ như thế, như thế vẻ xuân tình của thiên nhiên theo làn sóng cỏ xanh tươi gợn lên đến tận trời. Cả bầu không gian mênh mông ấy, tràn đầy vẻ xuân, khí xuân. Xuân tình từ thiên nhiên lây lan giao ứng với xuân tình trong lòng người, cả hai nhập vào nhau trong cùng một tiếng hát. Là tiếng hát của những cô thôn nữ mà cũng là tiếng hát của nước mây. Thiên nhiên và con người đồng ca, đồng vọng hay tiếng hát trong lòng thiên nhiên đang cất lên qua lời ca của con người thì cũng thế:

“Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời

Bao cô thôn nữ hát trên đồi

Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi

Hổn hển như lời của nước mây

Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc

Nghe ra ý vị và thơ ngây”

Thiên nhiên mùa xuân cũng được cảm nhận và được mô tả như một thiếu nữ. Dường như sau cái bức tranh dệt bằng các chi tiết thiên nhiên ấy ta thấy thấp thoáng bóng một thiếu nữ tràn ngập xuân tình, khi thì qua sắc nắng ửng (như sắc má ửng hồng), khi thì qua tà áo biếc, khi thì qua lời nước mây hổn hển rồi lại thầm thĩ… ấy là Nàng Xuân vậy.

Chẳng phải thi sĩ muốn nhằm tới cái vô hình vô thể của xuân, và dùng cái hữu hình làm chất liệu để gợi ra cái vô hình hay sao?

Vừa ngất ngây xuân chín…

Mùa xuân và mùa thu được thi ca ưu ái đến mức thiên vị. Xung quanh hai mùa này có biết bao áng thơ ca nổi tiếng. Vậy nên, riêng việc viết về mùa xuân hay vẽ nên một bức tranh xuân thú vị vẫn chưa phải là điều thật độc đáo. Cái độc đáo của bài thơ xuân này nằm ở chữ “chín”. Ai đã đọc Hàn Mặc Tử hẳn thấy rằng mùa xuân có một uy thế lấn lướt trong thơ của thi sĩ này. Say mê vẻ xuân, Hàn đã có hẳn một tập “Xuân như ý” với những bài xuân tràn đầy thánh ý: Xuân gấm, Xuân hôn phối, Xuân trẻ, Xuân non, Xuân lịch sự… Ngay cái trạng thái “xuân chín” này cũng chứa đựng một quan niệm rất riêng của thi sĩ. Không nắm được quan niệm ấy, ta chỉ đến với bài thơ như một bức tranh thiên nhiên đơn thuần. Như đã nói ở trên, lõi của Xuân là Tình. Xuân chín ấy là Tình chín. Chín là thời điểm mãn khai, là trạng thái căng tràn, là khoảnh khắc nhậy cảm: sắc xuân mãn, thì xuân đoạn. Đó là đỉnh điểm mà cũng là giao điểm: tại đó nó chuyển thì, chuyển sắc.

Điều rất thú vị của Mùa xuân chín là trong bài thơ có cả một hệ thống nhân vật. Người thì: “bao cô thôn nữ”, “ai ngồi dưới trúc”, “khách xa” [9] và “chị ấy”. Còn thiên nhiên cũng có thể xem như một nhân vật: nhân vật Nàng Xuân. Tình xuân chín trong lòng thiên nhiên ấy bắt đầu bằng làn nắng ửng. Từ chớm chín, nhanh chóng thành chín rục, chín muồi, chín mẩy… Xuân tình nảy nở và tràn căng cùng lúc trong cả những con người kia lẫn thiên nhiên này. Không phải ngẫu nhiên mà bức tranh xuân ở đây lại được hoạ bằng tất cả những gì tình tứ thế:

“Trong làn nắng ửng: khói mơ tan

Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng

Sột soạt gió trêu tà áo biếc

Trên giàn thiên lí. Bóng xuân sang”

Cả đến mái nhà tranh cũng phát lộ xuân tình. Có lẽ còn lâu nữa về sau, mái nhà tranh vẫn cứ là một hình ảnh thân thương, dễ động lòng người Việt. Nó lặn sâu trong kí ức cộng đồng như một ảnh tượng của quê hương nghìn đời. Ta gặp trong thơ cổ điển của Nguyễn Khuyến “Năm gian nhà cỏ thấp le te” đơn sơ thanh bạch, ta gặp trong thơ cách mạng của Tố Hữu “Mơ mơ mấy xóm tranh chìm trong mây” cùng những “Mái nhà tranh thấp ngủ im hơi” đắm chìm buồn tủi hồi chưa cách mạng, ta cũng gặp trong thơ Trần Đăng Khoa những mái gianh tảo tần dầu dãi mà rất đỗi thiêng liêng “Mái gianh ơi hỡi mái gianh / Ngấm bao mưa nắng mà thành quê hương”… Nhưng vẻ tình tứ của những mái gianh thì có lẽ chỉ thơ lãng mạn mới khơi dậy được. Đúng thế, cái sắc “lấm tấm vàng” kia đâu chỉ là màu nắng in từ ngoài vào. Đó cũng chính là dấu hiệu đầy gợi cảm của xuân tình khi “ái tình bắt đầu căng” phát lộ từ trong ra, khoe sắc ra bên ngoài. Hàn Mặc Tử thường cảm nhận như thế: “Em tôi thì hổn hển / áo xiêm lấm tấm vàng” (Sáng trăng), “Ngả nghiêng đồi cao bọc trăng ngủ / Đầy mình lốm đốm những hào quang” (Duyên muộn)…Cả cái làn gió đang “sột soạt” trêu tròng tà áo biếc nơi giàn thiên lí kia nữa cũng thật phong tình. Cứ như là muốn… lật dở ra xem vậy! Xem chừng, làn gió táo bạo này cũng chính là làn gió “liều lĩnh” đã “lọt cửa cọ mài chăn” [10] bay từ Thơ Đường Luật của Tử về giàn thiên lí này thôi. Lời thơ Tử vẫn thường ánh lên màu sắc dục là như thế.

Tham khảo thêm: Cảm nhận của em về bài thơ Mùa xuân chín

Dường như đối với Hàn Mặc Tử, tình xuân nảy nở cứ càng lúc càng nồng nàn mãnh liệt hơn : thành sắc màu, thành ánh sáng rồi thành gió trêu, thành sóng cỏ… mà cuối cùng là thành tiếng hát tình tứ. Tiếng hát là kết tinh cao nhất của tình xuân. Từ trong lòng tạo vật phát ra ngoài, rồi gợn lên, lan đi, vắt vẻo ở lưng chừng núi, và cuối cùng thì cao bay lên tận đỉnh trời thành lời của nước mây. Khi tiếng hát đã rộn rực say đắm đến thành “hổn hển” rồi thì đó là hơi xuân bốc lên cao nhất, lòng xuân tới độ nồng nàn nhất, chín nhất. Nó là đỉnh điểm của khí xuân tình xuân, điểm chín của vẻ xuân thì xuân. Nó “thầm thì” rót vào tai người “khách xa” những lời tình quyến rũ mà trong trẻo, nên khách đã: “nghe ra ý vị và thơ ngây”. Từ lòng người đến đất trời mây nước, tất cả đã vào điểm chín của tình xuân. Cả vũ trụ dường đang chan chứa vẻ xuân.

“Lời thơ quả là ngất ngư bởi hồn thi sĩ cũng đang tràn ngập xuân tình.

… đã nuối tiếc xuân thì”

Đỉnh điểm cũng là giao điểm. Giờ xuân chín cũng là giờ xuân mãn. Xuân thì không còn nữa. Tình đã mãn rồi xuân cũng phôi pha phai lạt. Xuân chín cũng là chấm dứt xuân. Nó chấm dứt vào cái ngày cuối cùng của quãng đời thiếu nữ. Nửa sau của bài thơ đã chuyển mạch thành tiếc xuân thì.

Ivan Bunhin có một truyện đầy dư vị triết học về đời người. Chuyện rằng xửa xưa tuổi thọ con người ngắn lắm, chỉ được 18 năm thôi. Trong khi đó tuổi các loài khác cao hơn nhiều. Loài lừa có đến năm mươi năm, loài chó những 40 năm, còn ít như loài khỉ cũng tới 30 năm. Con người cho đó là chẳng công bằng, bèn lên kiện Thượng đế. Thượng đế nhân từ mà nghiêm khắc ưng thuận cho con người thêm tuổi. Nhưng người nói: tuổi muôn loài có hạn, nên con người muốn tăng thọ, thì phải lấy tuổi của các loài khác thêm vào. Tham lam và dại dột, loài người đã ưng ý liền. Từ đó tuổi thọ con người dài tới 60 – 70 tuổi. Song, cũng chỉ có 18 năm đầu được làm người, 30 năm kế tiếp là tuổi con lừa (nai lưng làm việc), 10 năm tiếp theo làm con chó (khư khư giữ lấy những của nả làm ra), và cuối đời sống tuổi con khỉ (xấu xí nhăn nheo)…

Nghĩa là, tuổi người hết vào cái lúc xuân chín vậy.

Do ý thức được điều nghiệt ngã ấy mà không phải đến Thơ Mới, thi nhân mới tiếc xuân thì. Thơ xưa đã đầy những lời cảnh báo về sự ngắn ngủi của tuổi xuân – Chơi xuân kẻo hết xuân đi / Cái già sồng sộc nó thì theo sau. Nhưng có lẽ chỉ đến Thơ Mới- tiếng thơ của ý thức cá nhân cá thể – thì nó mới thành tiếng nói đầy ý thức về cái ngắn ngủi đến tàn nhẫn của tuổi trẻ và xuân thì ở mỗi cá nhân và mọi cá nhân. Xuân Diệu vội vàng giục giã: “Xuân đang đến nghĩa là xuân đang qua / Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già / Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất”. Xuân của đời người đã ngắn, xuân của đời con gái còn ngắn hơn. Chả thế mà người ta vẫn nói một đời đàn ông bằng hai đời đàn bà. Nguyễn Bính thở dài ngán ngẩm: “Tuổi xuân má đỏ môi hồng / Bước chân về đến nhà chồng là thôi”. Hàn Mặc Tử cũng đã bao lần hẫng hụt về điều ấy. Việc lấy chồng là một mất mát không gì sánh được. Nó khiến cho tất thảy đều vô nghĩa. Nàng thì mất ước mơ, mình thì mất hồn thơ: “Ngày mai tôi bỏ làm thi sĩ / Em lấy chồng rồi hết ước mơ / Tôi sẽ đi tìm mỏm đá trắng / Ngồi lên để thả cái hồn thơ”… Còn ở đây, giữa lúc Mùa xuân chín, tiếng ca còn đương làm rạo rực cả nước mây, mà Hàn Mặc Tử đã thấy trước cái tương lai buồn, thấy trước ngày mai vô vị, mà thốt lên lời tiên báo:

“Ngày mai trong đám xuân xanh ấy

Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi.”

Nhìn xuân chín hiện thời, đã thấy nhỡn tiền cái kết cục mai hậu! Thật là một dự báo se lòng về hậu xuân chín. Khác chi xuân mãn, xuân tàn, xuân lạc tạ !

Nhìn thấy “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”, cái Tôi Xuân Diệu sẽ vội ném mình vào cuộc chạy đua với thời gian, để sống đã đầy đến từng khoảnh khắc, tận hưởng và tận hiến. Còn Hàn Mặc Tử thì khác. Cái Tôi của Tử không có được sự bồng bột vô tư ấy. Mà nó đầy uẩn khúc. Dòng tâm tư bất định lưu chuyển bên trong Cái Tôi kia chính là: nhìn xuân sắc thì rạo rực xuân tình, nhưng vừa chợt khát khao đã dằn lòng tiết dục, vừa định hoà nhập thoắt đã cô đơn. Cho nên gặp xuân chín mà tiếc xuân thì, nghe xuân ca mà buồn xuân mãn. Có phải với “cuộc chơi” kia, Tử chỉ là kẻ đứng ngoài, là vị “khách xa” nên sinh buồn? Không hẳn vậy. Tử buồn chung cho kiếp người. Nỗi sầu vừa dâng lên trong Cái Tôi kia chính là sầu nhân thế. Tử không hề hiện ra như một Cái Tôi náo nức nhập cuộc chơi, lúc nào cũng vồ vập tận hưởng. Có lẽ cũng như chàng nhạc sĩ Trịnh Công Sơn về sau, Tử cũng chỉ là một nghệ sĩ đi ngang qua cuộc đời này để hát lên cái linh cảm của mình về những giấc mơ đời hư ảo thôi. Chả thế mà giữa đỉnh điểm cuộc chơi hiện tại, chợt nghĩ đến ngày mai mà buồn – Ngày mai trong đám xuân xanh ấy…, sực nhớ đến dĩ vãng mà thương, chả biết người ấy giờ này có còn được thế nữa không – Chị ấy năm nay còn gánh thóc / Dọc bờ sông trắng nắng chang chang? Người đọc câu thơ này đã có lúc cho rằng đó là hình ảnh nhọc nhằn của lao động, và xúc cảm của thi sĩ là xót thương cho đời người vất vả. Người viết đã từng đối lập cảnh trong “nắng ửng” của bao cô thôn nữ, với cảnh trong “nắng chang chang”; đằng thì hát (chơi), đằng thì gánh thóc (lao động), đằng thì hiện tại nhỡn tiền, đằng thì khuất chìm trong quá vãng, để rồi đinh ninh rằng: hôm nay họ là những thôn nữ hát trên đồi, ngày mai họ sẽ thành người chị gánh thóc, cái “nắng chang chang” chắc chắn sẽ làm tiêu tan cái “nắng ửng” này đi. Vui sướng chỉ thoáng qua, nhọc nhằn mới vĩnh viễn. Có lẽ không phải thế. Đây không hẳn là hình ảnh vất vả (khổ) mà là hình ảnh thơ mộng (đẹp). Trong thơ Hàn Mặc Tử hình ảnh người tình xa chợt hiện về trong sắc trắng tinh khôi, nhiều khi lóa sáng nhìn không ra, bao giờ cũng là hiện thân của vẻ xuân tình mà trinh khiết. Đó là kỉ niệm về độ xuân thì của “chị ấy” vốn đọng trong kí ức thi nhân. Vì thế hình ảnh này là một thoáng “sực nhớ” của niềm khát khao, hơn là của nỗi thương xót. Nếu có chút ngậm ngùi nào đó thì phải là nỗi lo âu cho hiện tại (“năm nay”) có còn không cái độ xuân thì ấy, chứ không phải xót xa vì gánh thóc nhọc nhằn – nắng chang chang đâu chỉ có nghĩa là gay gắt! Nên nhớ, Hàn Mặc Tử là một thi sĩ lãng mạn. Đối tượng của hồn thơ lãng mạn là vẻ xuân tình của độ xuân thì, chứ chưa phải là lao động!

Thế đấy, nỗi niềm của Tử là cái trạng thái tâm hồn đầy uẩn khúc của vị khách thơ đi ngang qua vườn trần gian, đúng vào cái thời điểm xuân chín để mà thấy ra cái cảnh thần tiên đương khi xuân chín và cái tương lai vô vị buồn sầu ngay khi hậu xuân chín trong kiếp người của mọi cá thể. Đó chẳng phải là vấn đề lớn của cõi nhân sinh này hay sao? Tiếc xuân thì đó mới là nỗi niềm sâu xa nhất của thi phẩm và đó cũng là nỗi đau thương của chàng thi sĩ thiết tha vớí cuộc đời mà luôn phải sống trong mặc cảm lìa đời vậy.

(Bài bình giảng của thầy Chu Văn Sơn)

Bình giảng bài thơ Mùa xuân chín - Mẫu 3

Mặc Tử là nhà thơ tài hoa. Ông để lại cho đời không nhiều thi phẩm nhưng tác phẩm nào của ông cũng đáng trân trọng, nâng niu như“Mùa xuân chín”:

Trong làn nắng ửng: khói mơ tan

Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng

Sột soạt gió trêu tà áo biếc,

Trên giàn thiên lý, bóng xuân sang

Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời

Bao cô thôn nữ hát trên đồi:

– Ngày mai trong đám xuân xanh ấy.

Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi…

Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,

Hổn hển như lời của nước mây

Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc,

Nghe ra ý vị và thơ ngây…

Khách xa gặp lúc mùa xuân chín

Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng

Chị ấy năm nay còn gánh thóc

Dọc bờ sông trắng nắng chang chang? 

Ngay tên bài thơ đã cho thấy tác giả là người dụng công với câu chữ. Câu chữ của ông luôn được chắt lọc tìm tòi.

Sột soạt gió trêu tào áo biếc

Trên giàn thiên lý, bóng xuân sang.

Câu thơ thật gợi mở. Trên những mái nhà tranh vách đất của làng quê ngày xa lấm tấm những làng quê tấm tấm những nụ hoa thiên lý nở vàng, xen giữa màu xanh tươi của lá. Lá và hoa thiên lý là niềm đặc sắc của hương vị quê hương

Thương chồng nấu cháo le le

Nấu canh bông lý, nấu chè hạt sen

(Ca dao)

Của quý như vậy, xanh tươi mơn mởn như vậy nên mới được gió trêu, gió đùa, gió mơn man.

Làm bất chợt mùa xuân ào tới.

Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời,

Bao cô thôn nữ hát trên đồi:

– Ngày mai trong đám xuân xanh ấy

Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi…

Mùa xuân từ trong nhà đã lan xa ra vùng đồi núi, từ cây cảnh sang tới người. Con người của mùa xuân thật trẻ trung, hồn nhiên, đầy sức sống. Bao cô thôn nữ trên đồi. Hát rằng: Ngày mai trong đám xuân xanh ấy/Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi…ở lại làng chơi với các cô thật vui, song ai đó được đi lấy chồng cũng vui không kém, thậm chí đây còn là sự phát triển của mùa xuân.

Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,

Hổn hển như lời của nước mây… 

Những từ vắt vẻo, hổn hển được tác giả dùng thật tài tình. Vắt vẻo ở câu trên chỉ sự thơ ngây, hổn hển ở câu dưới nói lên sự hồi hộp, đợi chờ trong lồng ngực của những cô gái đang căng tròn sức sống. Làm cho ai đó đang ngồi dưới trúc (trong bối cảnh này mà chịu ngồi yên dưới trúc thì chắc không còn ở tuổi thanh xuân nữa) cũng phải rộn ràng:

Khách xa gặp lưúc mùa xuân chín

Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng.

Chị ấy năm nay còn gánh thóc

Dọc bờ sông trắng nắng chang chang 

Thấy mùa xuân ở quê người lại nhớ tới cảnh làng mình, một cảnh làng mùa hạ có nắng chói chang và bao nhiêu người thân đang oằn lưng lao động giữa nắng. Đây là nét rất nhân bản của con người luôn nặng tình với quê hương xứ sở. Nhớ làng là nhớ những gì cần phải suy nghĩ, sẻ chia.

Chị ấy năm nay còn gánh thóc

Dọc bờ sông trắng nắng chang chang? 

Chị ấy là ai vậy? Rất có thể đây là người bạn gái ngày xưa của khách- đang là lao động chính ở quê nhà. Dọc bờ sông trắng nắng chang chang nên được xem là câu thơ thần tình nhất của Hàn Mặc Tử. Ta hay nói sông xanh, sông đỏ, đây nhà thơ nói sông trắng. Nắng đến trắng cả sông thì phải biết nắng gay gắt nh thế nào. Các cặp vần trắng- nắng; chang- chang kết hợp với năm phụ âm “ưng” đứng cuối mỗi từ làm cho câu thơ được kéo dài và ngân nga mãi.

Đúng là ”Mùa xuân chín”, một mùa xuân đầy đặn nên thơ.

-/-

Hy vọng với những bài văn mẫu "Bình giảng bài thơ Mùa xuân chín" mà Đọc tài liệu tổng hợp giúp các em có thêm tài liệu tham khảo. Cùng với trọn bộ văn mẫu lớp 10 là những tài liệu hữu ích giúp các em học tốt Ngữ Văn 10!

Bạn còn vấn đề gì băn khoăn?
Vui lòng cung cấp thêm thông tin để chúng tôi giúp bạn
Hủy

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM