Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu

Xuất bản: 23/12/2020 - Cập nhật: 09/04/2024 - Tác giả:

Hướng dẫn phân tích bài thơ Việt Bắc, lập dàn ý chi tiết, sơ đồ tư duy và tuyển tập những bài văn mẫu hay phân tích nội dung bài thơ Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu.

Để viết được bài văn phân tích Việt Bắc hay và ấn tượng, các em đừng bỏ qua những nội dung gợi ý mà Đọc Tài Liệu sẽ cung cấp trong bài viết dưới đây.

Nội dung bài viết bao gồm:

  • Chỉ ra bố cục bài phân tích tác phẩm
  • Mẫu dàn ý chi tiết phân tích Việt Bắc
  • Phân tích nghệ thuật và ý nghĩa nội dung theo từng đoạn thơ.
  • Nhận định hay về Tố Hữu và Việt Bắc
  • Những bài văn mẫu phân tích Việt Bắc đặc sắc nhất

Không chỉ giúp các em làm tốt bài phân tích toàn bộ tác phẩm Việt Bắc mà còn làm tốt các bài cảm nhận hay phân tích từng đoạn thơ trong bài:

Chúng ta cùng bắt đầu….

Bố cục bài phân tích Việt Bắc

bo cuc phan tich bai viet bac

Bố cục bài phân tích Việt Bắc

Việc phân tích bài thơ Việt Bắc cần phải bám sát theo từng đoạn thơ có trong bố cục bài thơ Việt Bắc gồm:

* 8 câu thơ đầu: Lượt lời đầu tiên

Từ câu thơ đầu đến câu thơ thứ 8: “Mình về mình có nhớ ta?” đến “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”

4 câu thơ đầu : Lời của nhân dân với cán bộ.

4 câu thơ sau: Lời của cán bộ với nhân dân.

* 16 câu tiếp theo: Lượt lời thứ hai

Từ câu thơ 9 đến câu thơ 24

– 12 câu thơ đầu: Lời của nhân dân dành cho cán bộ

4 câu thơ tiếp : Lời của cán bộ dành cho nhân dân

* Các câu còn lại: Nỗi nhớ của cán bộ về Việt Bắc

Từ câu thơ 25 đến câu 90:

– Bản tình ca: Bức tranh tứ bình

– Bàn hùng ca: Cảnh Việc Bắc ngày ra trận

Dưới đây là dàn ý phân tích Việt Bắc cơ bản nhất do Đọc Tài Liệu tổng hợp và biên soạn các em có thể tham khảo để làm bài.

Dàn ý phân tích Việt Bắc cơ bản nhất

1. Mở bài

- Giới thiệu khái quát về tác giả: Tố Hữu nhà thơ cách mạng xuất sắc, "lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam".

- Giới thiệu bài thơ Việt Bắc:

+ Tháng 10 năm 1954, kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi, các cơ quan trung ương của Đảng và chính phủ từ Việt Bắc về lại thủ đô Hà Nội. Trong buổi từ biệt chiến khu Việt Bắc đầy lưu luyến để về xuôi, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ Việt Bắc.

+ Việt Bắc là một trong những tác phẩm thơ thể hiện tài năng đỉnh cao, phong cách của Tố Hữu, là khúc hát giao duyên, lời nhắn gửi tâm tình giữa người về xuôi và người ở lại, lời giãi bày tình cảm thắm thiết và cả nỗi nhớ trùng điệp của người ra đi.

- Đoạn trích Việt Bắc trong SGK thuộc đoạn mở đầu và phần một của tác phẩm Việt Bắc (gồm 90/150 câu) tái hiện những kỉ niệm cách mạng và kháng chiến.

2. Thân bài

a) Ý nghĩa nhan đề

- Việt Bắc là tên một địa danh, cái nôi của cách mạng Việt Nam tiền khởi nghĩa, cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến chống Pháp.

- Việt Bắc là nơi lưu giữ nhiều kỉ niệm giữa cán bộ cách mạng và đồng bào nơi đây.

b) Phân tích nội dung bài thơ Việt Bắc

* Phân tích lời của người ở lại (20 câu thơ đầu)

- Tám câu thơ đầu là tâm trạng lưu luyến bịn rịn trong buổi chia tay:

    + Bốn câu đầu: 

  • Sử dụng điệp cấu trúc “mình về mình có nhớ” là lời ướm hỏi, khơi gợi lại những kỉ niệm về “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”, về thiên nhiên Việt Bắc nghĩa tình.
  • Cách xưng hô mình - ta: gợi nhớ đến những câu đối đáp trong điệu hát giao duyên, như lời tâm tình của đôi lứa yêu nhau, tạo không khí trữ tình cảm xúc, thân mật, giản dị cho buổi chia tay, khiến những câu thơ nói về cách mạng không khô khan mà trở nên đằm thắm, sâu lắng.
  • “Mười lăm năm”: tính từ thời kháng Nhật (khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940) đến khi những người kháng chiến trở về Thủ đô (tháng 10 – 1954).

  • “nhớ”: điệp từ nhấn mạnh nỗi nhớ sâu sắc, thường trực, da diết.

  • "cây - núi, sông - nguồn": những hình ảnh gợi mối quan hệ khăng khít, thủy chung, ân tình giữa kháng chiến và Việt Bắc.

=> Người ở lại thiết tha, luyến tiếc, khơi gợi trong lòng người ra đi kỉ niệm về một giai đoạn đã qua, về không gian nguồn cội, nghĩa tình.

    + Bốn câu thơ tiếp: là nỗi lòng lưu luyến của cả người ở lại và ra đi thể hiện qua những từ ngữ diễn tả tâm trạng trực tiếp: “da diết”, “bâng khuâng”, “bồn chồn”; không khí buổi chia tay thân tình, gần gũi: “áo chàm”, “cầm tay nhau”.

  • "tha thiết, bâng khuâng, bồn chồn": tiếng lòng của người cán bộ về xuôi, sự day dứt, lưu luyến, bối rối trong tâm trạng và hành động của người ra đi.
  • “áo chàm”: hình ảnh hoán dụ gợi hình ảnh bình dị, thân thương của những người dân Việt Bắc với tâm hồn chất phác, chân thành, nghĩa tình sâu nặng.
  • "cầm tay": hành động thể hiện sự luyến tiếc và nghĩa tình keo sơn gắn bó giữa cách mạng và Việt Bắc, gợi nhớ những cuộc chia tay trong văn học trung đại.

- Mười hai câu tiếp theo là lời khơi gợi những kỉ niệm về Việt Bắc trong những năm kháng chiến, lời nhắn nhủ dưới hình thức câu hỏi:

    + "suối lũ, mây mù, miếng cơm chấm muối": những hình ảnh rất thực gợi được sự gian khổ của cuộc kháng chiến.

    + Nhớ đến thiên nhiên, núi rừng Việt Bắc trong những ngày kháng chiến là nhớ đến mưa nguồn, suối lũ, mây mù, trám bùi, măng mai

  • “Trám bùi… để già”: mượn cái thừa để nói cái thiếu, diễn tả cảm giác trống vắng gợi nhớ quá khứ sâu nặng của tác giả.

    + Nhớ đến những ân tình trong khó khăn gian khổ là nhớ đến “miếng cơm chấm muối” nhưng vẫn “đậm đà lòng son”.

  • "Hắt hiu… lòng son”: phép đối, đảo ngữ gợi nhớ đến mái tranh nghèo. Họ là những người nghèo nhưng giàu tình nghĩa, son sắt, thuỷ chung với cách mạng.

    + Nhớ đến quãng thời gian hoạt động cách mạng: kháng Nhật, Việt Minh, Tân Trào, Hồng Thái,...

  • "mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào": những địa danh tiêu biểu gắn liền với Việt Bắc thủ đô kháng chiến.

    + Đại từ xưng hô “mình” thể hiện sự gắn bó, thân thiết giữa kẻ ở, người đi, giống như cách xưng hô tâm tình, thủ thỉ chân thành, tình cảm người Việt Bắc dành cho cán bộ chiến sĩ thắm thiết, mặn nồng. Khi gian khổ có nhau đến khi vui sướng người đi kẻ ở, giờ phút chia tay lòng người ở lại bỗng xôn xao vì tiếc nuối nhớ nhung.

* Phân tích lời của người ra đi (70 câu sau)

- Bốn câu thơ tiếp: khẳng định nghĩa tình thủy chung, mặn mà giữa người đi và kẻ ở

+ “ta với mình, mình với ta”: thể hiện sự gắn bó, thấu hiểu nhau, hòa quyện, gắn bó máu thịt, thủy chung một lòng giữa người đi, kẻ ở.

+ "mặn mà, đinh ninh": Nghĩa tình trước sau như một, đậm đà, bền chặt của cách mạng đối với Việt Bắc.

+ So sánh "bao nhiêu… bấy nhiêu" => gợi tình cảm bao la, chan chứa giữa cách mạng và Việt Bắc.

- Hai tám câu tiếp: nỗi nhớ thiên nhiên, núi rừng và cuộc sống con người ở Việt Bắc.

+ Người đi bày tỏ nỗi nhớ đến thiên nhiên Việt Bắc:

  • “Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”: Nỗi nhớ từ đêm sang ngày, bao trùm cả không gian lẫn thời gian.
  • “bản khói cùng sương”, “rừng nứa bờ tre”,... thiên nhiên Việt Bắc qua bốn mùa xuân, hạ, thu, đông: thể hiện nỗi nhớ về thời gian bốn mùa cùng bên nhau.

+ Nhớ đến con người Việt Bắc:

  • Bát cơm sẻ nửa / chăn sui đắp cùng”: người dân Việt Bắc và những người cách mạng cho dù gian khó, vất vả những vẫn có tấm lòng thủy chung, san sẻ khó khăn gian khổ, chia sớt ngọt bùi, đắng cay cùng với nhau.
  • “lớp học i tờ”, “giờ liên hoan”, “ca vang núi đèo”: những kỉ niệm ấm áp giữa bộ đội và đồng bào Việt Bắc.
  • "người thương đi về, người mẹ nắng cháy lưng,…", "cô em gái hái măng": nhớ hình ảnh những con người mang vẻ đẹp mộc mạc, giản dị của người lao động nơi núi rừng Việt Bắc.

+ Nhớ hình ảnh quân dân Việt Bắc đoàn kết đánh giặc: “ta cùng đánh Tây”, “cả chiến khu một lòng”; khí thế hào hùng của quân dân ta trong các trận đánh: “rầm rập như là đất rung”, “quân đi điệp điệp trùng trùng”, “dân công đỏ đuốc từng đoàn”,...

+ Nhớ đến đồng chí, đồng đội với bao gian nan vất vả: "Nhớ sao… núi đèo"

+ Nhớ những chiến công, những niềm vui thắng trận: “tin vui thắng trận trăm miền... núi Hồng

-> Nhịp thơ dồn dập như âm hưởng bước hành quân, hình ảnh kì vĩ... tất cả tạo nên một bức tranh sử thi hoành tráng để ca ngợi sức mạnh của nhân dân anh hùng.

=> Thiên nhiên, núi rừng, cuộc sống và con người ở Việt Bắc luôn in đậm trong tâm trí những người về xuôi tình cảm chân thành, tha thiết của người cán bộ kháng chiến.

+ Nỗi nhớ về bức tranh tứ bình của Việt Bắc:

  • Mùa đông: "hoa chuối đỏ tươi" + người lao động trên đèo cao => bình dị, khoẻ khoắn; màu sắc: xanh + đỏ + “nắng ánh” => ấm áp.
  • Mùa xuân: "mơ nở trắng rừng" + "người đan nón" => đẹp, nên thơ; màu sắc: trắng + trắng => tinh khiết, thanh nhã; âm thanh: hiệp vần “ơ” (mơ - nở), “ưng” (rừng - từng) cảm nhận tinh tế, âm thanh của rừng mơ đồng loạt nở hoa.
  • Mùa hạ: "rừng phách đổ vàng + em gái hái măng"; màu sắc: vàng; âm thanh: tiếng ve => Vẻ đẹp rộn rã, rực rỡ, đặc trưng của mùa hè.
  • Mùa thu: "ánh trăng"; âm thanh: tiếng hát ân tình thủy chung => Vẻ đẹp thanh bình, hiền hòa.

=> Mỗi mùa mỗi cảnh đều mang vẻ đẹp riêng trong vẻ đẹp chung, đó là sự hài hòa giữa màu sắc và âm thanh, giữa người và cảnh, cảnh và người cùng làm cho nhau thêm đẹp, làm cho bức tranh thêm sinh động.

=> Thiên nhiên cảnh vật quen thuộc, bình dị, gần gũi nhưng rất thơ mộng, trữ tình và nỗi nhớ sâu sắc của người cán bộ cách mạng về Việt Bắc.

- Hai hai câu tiếp: Nhớ cuộc kháng chiến anh hùng ở Việt Bắc.

+ Điệp từ “đêm đêm”, từ láy “rầm rập, điệp điệp, trùng trùng", biện pháp nói quá “đất rung”: những chuyển rung dữ dội, khí thế mạnh mẽ không gì có thể ngăn cản nổi, sức mạnh vô địch của cuộc kháng chiến.

+ "Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay": biện pháp cường điệu thể hiện sức mạnh của thời đại, của ý chí tiêu diệt giặc, của tinh thần đoàn kết có thể làm nên những điều tưởng chừng không thể.

=> Khí thế dũng mãnh của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Việt Bắc, khí thế ra trận của cả một dân tộc trong trận chiến quyết định với kẻ thù.

=> Việt Bắc anh hùng trong kháng chiến, trở thành điểm đến của tất cả các cánh quân, của ý chí Việt Nam để tạo nên một cuộc đụng đầu lịch sử, làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu.

- Mười sáu câu cuối: Nỗi nhớ Việt Bắc, nhớ cuộc kháng chiến, nhớ quê hương cách mạng, niềm tự hào, niềm tin gửi gắm vào cách mạng Việt Bắc.

+ "ngọn cờ đỏ thắm, sao vàng rực rỡ, cụ Hồ sáng soi, Trung ương, Chính phủ, mái đình, cây đa,…": những hình ảnh đẹp đẽ, tươi sáng thể hiện cái nhìn lạc quan của tác giả và cũng là biểu tượng của cách mạng, tương lai của dân tộc.

+ "Ở đâu… Nhìn lên…, Ở đâu… Trông về…": phép điệp nhằm nhấn mạnh Việt Bắc là cái nôi của cách mạng, là cội nguồn của sự sống.

+ "u ám" > < "sáng soi": biện pháp đối lập nhằm đề cao vai trò của lãnh tụ Hồ Chí Minh, Người chính là chỗ dựa tinh thần tươi sáng nhất cho cách mạng và nhân dân Việt Nam.

+ Cách xưng hô "mình - ta"

=> Niềm tự hào, niềm tin gửi gắm vào cách mạng Việt Bắc: hình ảnh ngọn cờ đỏ thắm, rực rỡ sao vàng tươi sáng nơi nguồn cội của cuộc cách mạng, nơi có trung ương Đảng, có chính phủ và có Bác Hồ, thể hiện niềm tin vào sức mạnh, khả năng lãnh đạo của Đảng trong các cuộc cách mạng, niềm tự hào vào những chiến công Việt Bắc.

3. Kết bài

- Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích Việt Bắc:

+ Nội dung: bài thơ là bản anh hùng ca về cuộc kháng chiến, là khúc ân tình thủy chung của những người cách mạng, của cả dân tộc qua tiếng lòng của tác giả.

+ Nghệ thuật: sử dụng thể dân tộc (lục bát), lối đối đáp, sử dụng đại từ xưng hô linh hoạt (mình - ta), ngôn từ mộc mạc, giàu sức gợi…

Ở phần nội dung tiếp theo, Đọc Tài Liệu sẽ gửi đến các em những hướng dẫn phân tích Việt Bắc chi tiết theo từng phần (Mở bài, Thân bài, Kết bài) và từng đoạn thơ để các em nắm rõ, đi sâu hơn nữa vào nội dung của tác phẩm.

Dàn ý phân tích bài thơ Việt Bắc theo từng phần, từng đoạn chi tiết

I. Mở bài phân tích Việt Bắc

1. Tác giả Tố Hữu

Nhà thơ Tố Hữu

- Tố Hữu (1920 - 2002) trưởng thành trước năm 1945 (trước cách mạng tháng Tám). Đây là giai đoạn cánh đồng thơ ca Việt Nam liên tục đón các làn gió của Thơ Mới thổi qua. Nhiều tên tuổi nổi tiếng: Hàn Mặc Tử, Huy Cận, Xuân Diệu… Mỗi người có một phong cách, và sở trường thơ ca riêng.

- Tố Hữu không viết thơ mới

+ May mắn giác ngộ lý tưởng Cách mạng -> Ý thức được vai trò của người cầm bút sáng tác.

+ Ông là người chiến sĩ Cách mạng trên mặt trận văn hóa - văn nghệ.

- Khẳng định tài năng của mình ở phong cách thơ trữ tình - chính trị

+ Trữ tình: Bày tỏ cảm xúc và lưu giữ tình cảm.

+ Chính trị: Con đường thơ luôn song hành với con đường cách mạng.

Tố Hữu hướng đến vẻ đẹp của thơ ca truyền thống.

Tham khảo thêm: Quan điểm sáng tác của Tố Hữu (Wikipedia)

2. Tác phẩm Việt Bắc

- Hoàn cảnh sáng tác:

+ Tháng 7 - 1954: Chiến thắng Điện Biên Phủ thắng lợi. Hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết. Hòa bình lập lại, một trang sử mới mở ra cho toàn dân tộc

+ Tháng 10/1954: Những người cán bộ từ chiến khu Việt Bắc trở về miền xuôi tiếp quản Hà Nội. Nhân sự kiện lịch sử này, Tố Hữu đã viết bài thơ Việt Bắc.

- Nội dung và ý nghĩa:

+ Việt Bắc luôn được nhớ đến như một bảng tổng kết về những năm tháng kháng chiến chống Pháp trường kỳ và gian khổ.

+ Bài thơ viết về một cuộc chia tay giữa cán bộ về xuôi với nhân dân Việt Bắc.

Bạn có thể đọc tham khảo thêm tuyển chọn các mở bài Việt Bắc đặc sắc được ĐọcTài Liệu tổng hợp và biên soạn.

Cảm nhận về bài thơ Việt Bắc

2. Thân bài phân tích Việt Bắc theo bố cục bài thơ

Chúng ta bắt đầu phân tích chi tiết về bài thơ theo bố cục làm rõ ở trên:

a) Phân tích 8 câu thơ đầu bài Việt Bắc

- 4 câu đầu: Lời của nhân dân, thốt lên thành lời.

“- Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.

+ Gồm những câu hỏi tu từ, không cần câu trả lời.

➞ Bộc lộc cảm xúc của nhân vật chữ tình.

+ “Mình” và “Ta” tuy hai mà một, tuy một mà hai.

Như là khúc hát ví dặm của người ở, người về.

+ “Mười lăm năm ấy”: Từ năm 1940 đến năm 1954

+ Liên tục sử dụng phép điệp từ “Nhìn” và “Nhớ” là lời của nhân dân nhắc nhở người cán bộ ra về.

+ “Cây“, ”núi“, “sông”, “nguồn” là những danh từ thể hiện về không gian nhưng lại có ý nghĩa bao trùm lên nhau, cội - rễ.

  • Có núi thì mới có cây
  • Có nguồn thì mới có sông

➞ Có Việt Bắc thì mới có ngày miền Bắc hoàn toàn được giải phóng.

⇒ Hai câu thơ đầu đề cập đến thời gian, hai câu thơ sau lại đề cập đến không gian.

4 câu tiếp theo: Lời của cán bộ bày tỏ cảm xúc với nhân dân.

“- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”

+ Lời của cán bộ với nhân dân những khẳng định, là những cung bậc cảm xúc và là những hành động.

+ “ai” là một đại từ phiếm chỉ, thể hiện sự vô định, “Tiếng ai” đó là chính tiếng của nhân dân.

➞ Thể hiện tình cảm một cách ý nhị, kín đáo.

+ Nhà thơ sử dụng cùng một lúc 3 từ láy để miêu tả về cảm xúc của những người cán bộ ra về.

  • “tha thiết”: cảm xúc nỗi niềm canh cánh, đau đáu khôn nguôi.
  • “bâng khuâng”: Thể hiện nhiều những cung bậc cảm xúc khác nhau.
  • “bồn chồn”: đi đi, lại lại.

➞ Tác giả đã thể hiện tình cảm và tấm lòng của những người cán bộ ra về: luôn luôn nhớ, yêu thương và cánh cánh về Việt Bắc.

+ “Áo chàm”: thủ pháp nghệ thuật hoán dụ kép ➞ Áo chàm là áo của người dân tộc Tày ➞ Người dân tộc Tày chiếm số đông ở Việt Bắc ➞ “Áo chàm” là để chỉ nhân dân Việt Bắc.

+ “Cầm tay”: một hành động nhỏ nhưng chứa nhiều ý nghĩa, cầm tay là truyền cho nhau hơi ấm, sức mạnh và tình cảm.

Có thể tham khảo thêm những bài phân tích 8 câu đầu bài Việt Bắc để tìm hiểu chi tiết hơn nội dung và nghệ thuật đặc sắc của riêng đoạn thơ này.

b) Phân tích 16 câu thơ tiếp theo bài Việt Bắc

– 12 câu đầu: Lời của nhân dân Việt Bắc

Mình đi, có nhớ những ngày

….

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?

+ “Mình đi, có nhớ những ngày”: Vừa là hỏi, vừa là giãi bày cảm xúc hướng về những kỉ niệm với cán bộ.

“Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù”

+ Tác giả liệt kê ra được ba vấn đề về thời tiết khắc nghiệt ở Việt Bắc: “mưa nguồn“, “suối lũ“, “mây mù”.

+ “mây” và “”: thể hiện những khó khăn trong những ngày đầu những người cán bộ đặt chân lên Việt Bắc (một tương lại phía trước khá mờ mịt).

“Mình về, có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mốt thù nặng vai?”

+ “nhớ chiến khu”: Nỗi nhớ ấy lại hướng về chiến khu Việt Bắc.

+”miếng cơm chấm muối“: Nhân dân Việt Bắc luôn dành cho cán bộ những gì là tốt nhất của họ.

+ “mối thù nặng vai”: Trách nhiệm của người cán bộ là vô cùng lớn lao.

“Mình về, rừng núi nhớ ai? 

Trám bùi để rụng, măng mai để già”

+ “ai”: là nói đến cán bộ, đây là một cách bày tỏ tình cảm một cách ý nhị, không nói thẳng.

+ “Trám bùi để rụng, măng mai để già”: lấy cái có là trám bùi, măng mai - những sản phẩm vốn có của Việt Bắc - để nói về cái không là sự hụt hẫng trong lòng của nhân dân ở lại khi cán bộ đã ra về.

➞ Khi cán bộ đã về thì trám cũng chỉ để rụng, măng mai cũng để già.

“Mình đi, có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”

+ “nhớ những nhà”: là những mái nhà, bản làng đầy ắp những tình cảm quân - dân.

+ “Hắt hiu lau xám”: là những mái lán, lều lợp bằng cỏ lau trở nên cô đơn, vắng vẻ khi cán bộ đã đi.

+ “đậm đà lòng son”: thể hiện tình cảm, tấm lòng thủy chung giữa nhân dân và cán bộ.

➞ Dù thiếu thốn về cái ăn, chốn ở thế nhưng nhân dân vẫn luôn ở cạnh những người cán bộ. 

“Mình về, còn nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh”

+ Vì là một người chiến sĩ cách mạng làm thơ nên Tố Hữu đã khéo léo lồng ghép lịch sử thời sự vào thơ ca của mình. Việt Minh và kháng Nhật đều là những tổ chức Cách mạng của Việt Nam.

“Mình đi, mình có nhờ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa”

- Lời ướm hỏi của nhân dân:

+ 3 đại từ “mình”: nghĩa là cán bộ ra về, liệu có nhớ đến chính họ khi còn ở Việt Bắc hay không?

”Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa”: Tố Hữu cố gắng làm mờ đi nét chính trị trong thơ ca, làm nổi bật lên nét trữ tình trong tác phẩm này của mình.

Tất cả 12 câu thơ là nỗi lòng của nhân dân, gợi nhớ lại những kỷ niệm của cán bộ với nhân dân.

Cảnh chia tay trong bài Việt Bắc

- 4 câu thơ sau: Lời của cán bộ với nhân dân.

+ “Ta với mình, mình với ta” đều là những lời khẳng định của cán bộ với nhân dân. Nhân dân yêu thương họ bao nhiêu thì cán bộ yêu thương nhân dân bấy nhiêu.

+ “Lòng ta, sau trước, mặn mà đinh ninh”: Cả 4 từ đều khẳng định tấm lòng thủy chung, trước sau như một của cán bộ với nhân dân.

+ “Mình đi, mình lại nhớ mình”: Câu trả lời cho câu thơ “mình đi, mình có nhớ mình”.

+ “Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu…”: tình cảm của cán bộ với nhân dân là tình cảm biết ơn.

c) Phân tích từ câu 25 đến câu 90 bài Việt Bắc

Những câu thơ còn lại của tác phẩm là nỗi nhớ của cán bộ về Việt Bắc. Hãy cùng phân tích và tìm hiểu chi tiết hơn:

* Phân tích nỗi nhớ Việt Bắc

- Nỗi nhớ cảnh thiên nhiên Việt Bắc:

Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy.

+ Tố Hữu ví nỗi nhớ của cán bộ với nhân dân như nỗi nhớ người yêu ➞ Ông đã trữ tình hóa một thứ tình cảm khô khan như tình cảm quân - dân để trở thành những người yêu, người thương của nhau.

+ Cảnh vật hiện lên ở Việt Bắc ở rất nhiều những khoảnh khắc về thời gian:

  • trăng”: buổi tối.
  • nắng”: buổi chiều.
  • bản khói cùng sương“: buổi sáng.

+ Ở đó còn có những không gian “đầu núi”, “lưng nương”, "rừng nứa", "bờ tre” và “ngòi Thia”, “sông Đáy”, ”suối Lê” ➞ không gian có những địa điểm có tên và có những địa điểm không tên.

⇒ Nỗi nhớ cảnh của Việt Bắc lan tỏa trong không gian và ngự trị cả thời gian. 

+ Cảnh vật ở Việt Bắc không hề trở nên cô đơn và rợn ngợp mà trở nên vô cùng ấm áp khi tất cả từ ngữ đều xoay quanh hình ảnh “Bếp lửa” ➞ hình ảnh này thực sự ám ảnh đối với những người con xa quê hương.

   Để có những cảm nhận đầy đủ hơn về đoạn thơ này, các em có thể tham khảo thêm một số bài văn phân tích đoạn thơ Nhớ gì như nhớ người yêu trong bài Việt Bắc.

– Nỗi nhớ con người Việt Bắc:

Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô

+ “đắng cay”, “ngọt bùi”: cán bộ và nhân dân đã cùng nhau san sẻ khó khăn và chia sẻ niềm vui chiến thắng cùng nhau.

+ “Thương nhau”: nhà thơ thể hiện tình cảm đại diện cho cả một thế hệ, cộng đồng và một tập thể người.

+ Ba từ “chia”, “sẻ”, “cùng”: nhân dân Việt Bắc vẫn chủ động gắn bó, chia sẻ, đùm bọc và giúp đỡ cán bộ.

+ Từ những hình ảnh nhỏ bé nhất như củ sắn lùi, bát cơm nhỏ, chăn sui… thể hiện sự thiếu thốn và đói khổ nhưng nhân dân vẫn chia sẻ với cán bộ.

➞ Thể hiện tấm lòng của nhân dân Việt Bắc với cán bộ, Việt Bắc một mảnh đất tuy nghèo cơm, nghèo gạo nhưng đầy ắp nghĩa tình.

+ Nỗi nhớ lớn nhất với Tố Hữu là hình ảnh người mẹ trẻ có con nhỏ lao động trong một hoàn cảnh vất vả, khắc nghiệt.

+ Các động từ “địu“,”lên”, “bẻ” cho ta thấy ở đó là những người Mẹ kháng chiến vô cùng đáng trân trọng đang chắt chiu, tần tảo, lao động để dành một phần lương thực nhỏ bé ấy phục vụ cho cách mạng và kháng chiến.

– Nỗi nhớ về âm thanh Việt Bắc

Nhớ sao lớp học i tờ
Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…

+ Tiếng “lớp học i tờ”: Tiếng đánh vần từ những lớp học bình dân học vụ, dù âm thanh được phát ra một cách ngây ngô nhưng nó lại vô cùng quan trọng bởi Đảng và Chính phủ nhận ra rằng chỉ có ánh sáng của con chữ mới giúp chiến thắng được giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm.

+ Dưới làn mưa bom bão đạn thì cuộc sống êm đềm vẫn diễn ra. Tinh thần Việt Nam càng ở gần bom đạn thì càng cao hơn bom đạn. Họ vẫn trẻ trung vẫn xuân sắc, vẫn đợi chờ, vẫn tin tưởng vào cuộc cách mạng chắc chắn thành công, thắng lợi.

* Phân tích bức tranh tứ bình trong Việt Bắc

“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

   Bức tranh tứ bình là những nét vẽ mà tác giả Tố Hữu đã phác họa về cảnh sắc và con người nơi đây với bốn mùa xuân, hạ, thu, đông bằng những hình ảnh đặc trưng rất riêng Việt Bắc, những ân tình mang phong vị Việt Bắc.

   Hãy cùng đi vào phân tích bức tranh tứ bình trong Việt Bắc chi tiết hơn:

+ Bức tranh mùa đông:

  • Thiên nhiên: Sắc xanh bao la của rừng núi điểm tô bởi những bông hoa chuối đỏ tươi như bó đuốc sáng rực xua đi sự lạnh lẽo, hiu hắt của núi rừng, thắp lên ngọn lửa ấm áp, mang lại ánh sáng hơi ấm cho nơi đây.
  • Con người: Ánh nắng phản chiếu vào những lưỡi dao tạo nên vẻ đẹp lấp lánh.

➞ Trước thiên nhiên bao la của núi rừng, con người trở nên kì vĩ, hùng tráng hơn với hoạt động phát nương, làm rẫy. Thiên nhiên dường như đang hô ứng để làm bật lên hình ảnh của con người.

+ Bức tranh mùa xuân:

  • Thiên nhiên: Sắc trắng của hoa mơ đặc trưng của núi rừng Tây Bắc vào mùa xuân, làm bừng sáng cả khu rừng, làm dịu mát tâm hồn con người.
  • Con người: Đôi bàn tay khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chút, cần mẫn trong từng sản phẩm lao động.

➞ Người lao động hiện lên với vẻ đẹp tài hoa, khéo léo và cần mẫn, vẻ đẹp của sự tài nghệ, thuần thục mà cũng hết sức giản dị.

+ Bức tranh mùa hạ:

  • Thiên nhiên:

+ “rừng phách đổ vàng”: Màu vàng rực của thiên nhiên dường như chuyển đột ngột qua từ “đổ” hòa quyện với tiếng ve kêu khiến cho cảnh thêm sinh động, có hồn và tưng bừng hơn.

+ “Ve kêu rừng phách đổ vàng” gợi nhiều liên tưởng: Có thể là màu vàng hòa quyện với tiếng ve kêu tưng bừng, đầy sức sống, cũng có thể chính tiếng ve đã đánh thức rừng phách nở hoa.

  • Con người: vẫn tiếp tục ở trạng thái cần cù lao động, tuy xuất hiện một mình nhưng lại không gợi cảm giác buồn bã, đơn độc bởi có sự đồng điệu, hô ứng với thiên nhiên đang ở độ chín, độ đẹp nhất.

⇒ Vẻ đẹp của sự cần mẫn, chịu thương chịu khó của con người Việt Bắc.

+ Bức tranh mùa thu:

  • Thiên nhiên: Ánh trăng dịu nhẹ, huyền ảo gợi không khí thanh bình, yên ả ➞ Ánh sáng của “hòa bình”, niềm vui và tự do chiếu sáng lan tỏa khắp núi rừng Việt Bắc.
  • Con người: Con người vẫn say sưa cất tiếng hát, mộc mạc, chân thành ➞ Hình ảnh con người được khai thác thông qua hình thức sinh hoạt văn hóa đặc trưng của người dân Việt Bắc đó là lối hát giao duyên, đó là tiếng hát ân tình, thủy chung.

⇒ Sự hòa quyện giữa cảnh và người trong bức tranh theo từng mùa đã nói lên nét đẹp tâm hồn của con người nơi đây.

Nhớ cảnh Việt Bắc

* Phân tích cảnh ra trận trong bài Việt Bắc

Cảnh ra trận trong tác phẩm có 3 giai đoạn như sau:

  • Giai đoạn cầm cự: Từ “nhớ khi giặc đến giặc lùng” đến “Ðất trời ta cả chiến khu một lòng
  • Giai đoạn phòng ngự: Từ “Ai về ai có nhớ không?” đến “Nhớ từ Cao - Lạng nhớ sang Nhị Hà…
  • Giai đoạn phản công: Từ “Những đường Việt Bắc của ta” đến “Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào.”

Hãy cùng tìm hiểu chi tiết hơn về các giai đoạn để có thể phân tích trọn vẹn cảnh ra trận trong bài thơ Việt Bắc:

- Giai đoạn cầm cự

“Nhớ khi giặc đến giặc lùng”

+ Điệp từ “giặc”: Thể hiện thế giặc mạnh trong những ngày đầu đặt chân lên Việt Bắc.

“Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù”

+ Sử dụng ba từ “rừng” và hai từ “núi”: thể hiện lý do tại sao Việt Bắc được lựa chọn làm căn cứ địa cách mạng, quê hương của kháng chiến: Việt Bắc là thiên nhiên thế trận.

“Mênh mông bốn mặt sương mù

Ðất trời ta cả chiến khu một lòng.”

Hai câu thơ tương phản với nhau:

+ “bốn mặt sương mù”: Những khó khăn ở phía trước và tương lai mịt mù của kháng chiến nơi đây.

+ “Đất trời ta cả chiến khu một lòng”: Sức mạnh đoàn kết của thiên nhiên và con người làm nên sức mạnh nội lực của dân tộc để vượt qua mọi khó khăn.

- Giai đoạn phòng ngự

Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao - Lạng nhớ sang Nhị Hà…

+ Nghệ thuật liệt kê: Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng, Cao - Lạng, Nhị Hà -> những địa danh chiến đấu ở Việt Bắc.

+ Chúng ta đã dành được những chiến thắng nhỏ nhưng vô cùng quan trọng (Hòa Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên, Ðồng Tháp, An Khê, Việt Bắc, đèo De, núi Hồng)

➞ Chúng ta đã bắt đầu đã dành được đất đai.

- Giai đoan phản công: Nhớ ngày ra trận với khí thế chiến đấu hừng hực

Cảnh ra quân

+ “Những đường Việt Bắc của ta”: Không chỉ đơn thuần là những con đường ở Việt Bắc mà là con đường của cách mạng, kháng chiến đầy máu lửa và những chiến công hiển hách để làm chủ đất nước.

+ “Đêm đêm rầm rập như là đất rung“: âm thanh cho thấy hào khí rung chuyển đất trời của cả một dân tộc hành quân ra trận.

+ “Quân đi điệp điệp trùng trùng”: hình ảnh đoàn quân Việt Nam nhìn ở tầm rộng. 

+ “Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”: vẻ đẹp những người lính, người anh hùng được “ánh sao” là lý tưởng chiến đấu soi đường chỉ lối.

+ “Dân công đỏ đuốc từng đoàn / Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”: vẻ đẹp của những đoàn dân công.

  • đỏ đuốc”: biện pháp đảo ngữ hướng vận động từ hiện tại đến tương lai, từ bóng tối đến ánh sáng.
  • Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay”: nghệ thuật nói quá cho ta thấy vẻ đẹp của con người Việt Nam, những con người làm nên điều kỳ diệu của thế kỷ 20, và chỉ có những đoàn dân công của Việt Nam mới có thể làm lên những điều kỳ diệu ấy. Họ trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc kháng chiến nhân dân trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp.

+ “Nghìn đêm thăm thẳm sương dày / Đèn pha bật sáng như ngày mai lên”: biện pháp nghệ thuật tương phản đối lập giữa hai câu thơ

  •  Câu thơ đầu thể hiển sự khó khăn thiếu thốn về cơ sở vật chất trong những ngày đầu chống Pháp.
  •  Câu thơ thứ hai thể hiện “ngọn đèn pha” đến từ những đoàn xe đã đánh tan lớp sương dày.

⇒ Chúng ta càng đánh lực lượng càng mạnh. Chúng ta đã khắc phục được những khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất. Chúng ta đã có những đoàn binh ra tuyền tuyến, pháo binh ra mặt trận và ở đó là một “ngày mai” huy hoàng, tráng lệ vẫy gọi toàn thể dân tộc Việt Nam.

Khúc khải hoàn ca tại Việt Bắc

Khúc ca khải hoàn

Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.

+ Điệp từ “vui” là tiếng reo vui của hàng triệu trái tim của mọi con người Việt Nam khi miền Bắc đã được hoàn toàn giải phóng.

+ Nghệ thuật liệt kê: Tố Hữu chỉ ra hàng loạt các địa danh trên dải đất hình chữ S của Tổ Quốc Việt Nam. Chiến thắng sau còn ròn rã hơn chiến thắng trước.

- Những câu thơ còn lại:

“Ai về ai có nhớ không?

Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu…”

+ Những giờ đi họp, bàn bạc, đưa ra sách lược chiến đấu, điều quân cho những chiến dịch của những cán bộ ở chiến khu Việt Bắc.

+ Những hoạt động sôi nổi để triển khai công việc từ cuộc họp.

⇒ Vai trò của những cán bộ ở Việt Bắc trong cuộc kháng chiến chống Pháp: là quê hương, là căn cứ địa vững chắc của cách mạng, là đầu não của cuộc kháng chiến, nơi hội tụ bao tình cảm, suy nghĩ, niềm tin và hi vọng của mọi người Việt Nam yêu nước.

“Ở đâu u ám quân thù

...

Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào.”

=> Việt Bắc đã thực sự trở thành một địa chỉ để tất cả mọi con người Việt Nam hướng về và tin tưởng. Dân tộc Việt Nam sẽ đi qua đêm trường của Cách Mạng đến bình minh của thời đại mới.

3. Kết bài phân tích Việt Bắc

- Khái quát lại giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ:

+ Giá trị nội dung: Việt Bắc chinh phục người yêu văn chương không chỉ bằng một bản tình ca thiết tha sâu lắng của cuộc chia tay của người ở người về mà còn là bản hùng ca chín năm kháng chiến hào hùng của dân tộc ta.

+ Giá trị nghệ thuật: Giọng điệu thơ thủ thỉ, mộc mạc, tâm tình. Tố Hữu đã đem thơ ca để phục vụ kháng chiến. Việt Bắc được viết bằng phong cách nghệ thuật để từng vần thơ của ông bất tử với tháng năm.

Như vậy nhà thơ Tố Hữu đã thể hiện những tâm sự của mình nói riêng và của tất cả những chiến sĩ và nhân dân Việt bắc nói chung. Mười lăm năm kháng chiến với biết bao nhiêu kỉ niệm và giờ đây khi phải xa nhau thấy lòng mình thật muốn vỡ òa trong nức nở. Chân không muốn rời xa. Qua việc phân tích VIệt Bắc, ta thấy được tình nghĩa đoàn kết keo sơn của con người Việt Nam mà cụ thể đó là tình quân dân. Để đạt được những thắng lợi trên mặt trận ấy thì không thể nào quên ơn những người nhân dân Việt Bắc được.

Cành Lá

   Ngoài những nội dung cơ bản trên đây, để bài phân tích Việt Bắc của chúng ta thêm sinh động, hấp dẫn các em cũng có thể trích dẫn những nhận định, lời bình hay về tác giả Tố Hữu và bài thơ Việt Bắc như sau:

Một số nhận định về nhà thơ Tố Hữu và bài Việt Bắc

Người ta gọi Tố Hữu là:

  • “nhà thơ của cách mạng”
  • “nhà thơ của nhân dân”
  • “ngọn cờ chiến đấu của thơ ca cách mạng Việt Nam”
  • “người có công đầu xây dựng nền thơ ca cách mạng Việt Nam”
  • ”một cuộc đời trọn vẹn với Cách mạng - Nghệ thuật - Tình yêu”
  • “một viên ngọc trong nền văn hóa Việt Nam”
  • “nhà thơ của chủ nghĩa nhân văn cách mạng”

Tố Hữu là một nhà thơ lớn. Nói đúng hơn, ông là nhà thơ lãng mạn cách mạng. Cả cuộc đời ông gắn bó với cách mạng. Thơ với đời là một. Trước sau đều nhất quán. Tố Hữu nhìn cách mạng bằng con mắt lãng mạn của một thi sĩ. Thơ ông dường như chỉ có một giọng. Đó là giọng hát tưng bừng ca ngợi cách mạng. Đọc ông trong bất cứ hoàn cảnh và tâm trạng nào, ta cũng thấy phấn chấn, náo nức như đi trẩy hội. Đến đâu cũng nghe vang tiếng trống, tiếng kèn. Mà thơ ông đâu chỉ có trống phách linh đình như một đám rước, ông còn bắn cả 21 phát đại bác vang trời. Cho đến nay, chỉ có ông là nhà thơ Việt Nam duy nhất đã bắn đại bác trang trọng như thế."

(Trần Đăng Khoa)

Tố Hữu không tô vẽ lên nhân vật quần chúng những nét sơn hào nhoáng, giả tạo. Tình cảm của nhân vật thơ anh biểu hiện lên từ bản chất giai cấp, từ đời sống thực. Người bộ đội chiếm một địa vị quan trọng trong tập thơ Việt Bắc, chính là người nông dân nghèo khổ.

(Hoàng Trung Thông)

Với Tố Hữu, thơ là vũ khí đấu tranh cách mạng. Ðó chính là đặc sắc và cũng là bí quyết độc đáo của Tố Hữu trong thơ ca.

(Đặng Thai Mai)

Việt Bắc trước hết là một bài thơ trữ tình - chính trị… Bài thơ là một khúc hát ân tình thủy chung réo rắt, đằm thắm bậc nhất, và chính điều đó làm nên sức ngân vang sâu thẳm, lâu bền của bài thơ…”

(Trần Đình Sử)

Với Việt Bắc, hồn thơ cũng như nghề thơ Tố Hữu chín rộ…, không phải là một cây bút trong tay Tố Hữu nữa mà là nhiều ngọn bút nở cùng một lúc, bút tả tình, bút tả cảnh, bút tả người. Người ta thấy văn chương cách mạng chí nghĩa chí tình, cái văn chương nên thơ nên nhạc…

(Xuân Diệu)

 

TOP 10 bài văn phân tích Việt Bắc đặc sắc

Dưới đây là những bài văn mẫu phân tích tác phẩm Việt Bắc đặc sắc nhất do Đọc Tài Liệu sưu tầm và tổng hợp được gửi tới các em tham khảo. Hi vọng những bài văn này sẽ giúp các em nắm chắc cách làm và bổ sung thêm những ý văn hay, từ ngữ mở rộng phong phú cho bài văn của mình:

Bài văn phân tích Việt Bắc đặc sắc nhất mẫu số 1

Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã nhận xét về thơ Tố Hữu: “Và trong lửa của thơ anh, có biết bao thương yêu dịu dàng đối với đất nước quê hương và những con người của đất quê hương. Từ cuộc sống hiện đại, thơ anh ngày càng bắt nguồn trở lại vào hồn thơ cổ điển của dân tộc”. Quả thực vậy, Tố Hữu không phải một nhà thơ đi tìm cái mới ở những chốn xa xăm và lạ lẫm. Ông khơi nguồn cho sự mới ngay trên cái nền truyền thống của thơ ca dân tộc, để biểu đạt tình cảm yêu thương tình nghĩa từ ngàn đời. Điều này được thể hiện rất rõ qua “Việt Bắc”.

“Việt Bắc” được sáng tác vào năm 1954. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” của quân và dân ta, Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương được kí kết, dân tộc Việt Nam bước sang trang sử mới hòa bình và tự do. Vào tháng 10 năm 1954, Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại thủ đô. Nhân dịp ấy, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ Việt Bắc. Tác phẩm là khúc ca ân tình về kháng chiến, con người Việt Nam trong cách mạng.

Bốn câu thơ đầu là lời ướm hỏi ngọt ngào của người ở lại:

Mình về mình có nhớ ta?

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Mình về mình có nhớ không?

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.

Hai đại từ “Mình” và “ta” được lặp lại nhiều lần khiến lời thơ trở thành lời đối thoại, lời tâm tình tha thiết. Tố Hữu đã vận dụng cách xưng hô thân mật quen thuộc trong những câu ca dao, dân ca truyền thống để diễn tả nghĩa tình cách mạng. “Mình” - người cán bộ về xuôi, “ta” - người dân Việt Bắc. “Mình” và “ta” đã trải qua những ngày tháng không thể nào quên: “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”. Cụm từ “thiết tha mặn nồng” diễn tả sự gắn bó, tình sâu nghĩa nặng giữa người chiến sĩ cách mạng và nhân dân Việt Bắc. Câu hỏi tu từ “Mình về mình có nhớ ta?”, “Mình về mình có nhớ không?” vừa bộc lộ sự quyến luyến, nhớ nhung lại vừa mang âm điệu của một lời dặn dò tình nghĩa. Dù hôm nay các chiến sĩ cách mạng trở về thủ đô nhưng đừng bao giờ quên đi khoảng thời gian gắn bó “Mười lăm năm ấy”, hãy mãi khắc ghi hình ảnh con người và thiên nhiên Việt Bắc trong lòng. Câu thơ “Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn” gợi nhắc đến truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” quý báu ngàn đời của dân tộc. Núi rừng Việt Bắc đã cưu mang, che chở cho cán bộ cách mạng. Nhờ có những người dân nơi đây mà kháng chiến mới thắng lợi vẻ vang, hòa bình được lập lại. Ân tình ấy không thể nào quên!

Trước những lời dặn dò của người ở lại, người ra đi chưa trả lời trực tiếp mà lại thể hiện cảm xúc bằng những lời độc thoại nội tâm:

Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân ly

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…

Đại từ phiếm chỉ “Ai” chỉ người dân Việt Bắc.Những từ láy “tha thiết”, “bâng khuâng”, “bồn chồn” diễn tả tâm trạng lưu luyến, bịn rịn, không nỡ rời xa của người chiến sĩ cách mạng. Trong đó, “Bâng khuâng” gợi lên cảm giác hoài niệm. Dường như người chiến sĩ đang chìm đắm trong dòng cảm xúc, hồi tưởng lại những kỉ niệm khi gắn bó với nơi thủ đô gió ngàn. Từ “bồn chồn” cho thấy sự đan xen của nhiều dòng cảm xúc, dâng lên như lớp lớp sóng trào trong lòng tác giả. Tố Hữu đã rất tinh tế khi tạo ra sự hô ứng cho hai khổ thơ. Nếu ở bên trên, người ở lại nói “thiết tha” thì đến đây, người ra đi lại nói “tha thiết”. Điều này tạo nên một mạch ngầm tri âm giữa người đi và kẻ ở, cho thấy sự đồng điệu trong cảm xúc.

Không chỉ vậy, các hình ảnh như “cồn”, “áo chàm” còn gợi không khí, con người, cảnh vật nơi núi rừng. Màu áo chàm được hoán dụ để khắc họa bản sắc trang phục của đồng bào Việt Bắc. Ngày người chiến sĩ về xuôi, cả thiên nhiên và nhân dân Việt Bắc cùng tiễn bước. Cụm từ “biết nói gì” không phải là đôi bên đều không có gì để nói mà có ý nghĩa rằng cả người ra đi và người ở lại đều quá xúc động, không thể nói hết cho thỏa niềm thương nhớ. Im lặng dường như trở thành một thứ ngôn ngữ đặc biệt giúp con người thể hiện tình cảm một cách kín đáo mà sâu sắc. Tất cả những nhớ thương, lưu luyến được gửi vào cái cầm tay nặng ân tình.

Đoạn thơ đầu đã khắc họa khung cảnh chia tay đầy xúc động giữa người dân Việt Bắc với các cán bộ cách mạng. Qua đó, nhà thơ ca ngợi tình cảm thủy chung, son sắt của con người Việt Nam trong những năm kháng chiến gian lao.

Tiếp nối cho mạch cảm xúc nhớ thương tha thiết, người ở lại gợi nhắc những kỉ niệm cũ của một thời vận động đấu tranh cách mạng gian khổ:

Mình đi, có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù

Câu hỏi một lần nữa vang lên “Mình đi, có nhớ những ngày” nhưng thực chất lại dùng để khơi gợi kỉ niệm, bày tỏ sự gắn bó giữa người đi và người ở. Tất cả những kỉ niệm đồng hiện, vẫn còn vẹn nguyên như vừa mới hôm qua. Mưa, suối, mây mù đều là những hình ảnh đặc trưng cho thiên nhiên Việt Bắc. Thiên nhiên nơi ấy hùng vĩ, nên thơ mà cũng rất hoang vu, dữ dội. Mảnh đất có mưa rừng xối xả, suối lũ cuốn xiết ấy đã “che bộ đội”, “vây quân thù” trong suốt những năm kháng chiến gian lao.

Mình về, có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai

Mình về, rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già

Mình đi, có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son

Người ở lại còn nhắc đến kí ức những ngày ở chiến khu. Đời sống tại chiến khu Việt Bắc vô cùng thiếu thốn, họ phải ăn cơm chấm muối cùng trám bùi và măng mai. Những lớp lá lau xám biến thành mái nhà đơn sơ, tạm bợ. Từ láy “hắt hiu” được đảo lên đầu câu giúp gợi tả chân thực, xúc động hình ảnh những mái tranh bạc màu qua mưa nắng. Đáng quý hơn cả chính là con người Việt Bắc đã đồng cam cộng khổ với những người chiến sĩ, một lòng trung thành với cách mạng. Tố Hữu đã rất tài tình khi sử dụng nghệ thuật tiểu đối giữa “Miếng cơm chấm muối” với “mối thù nặng vai”, “Hắt hiu lau xám” với “đậm đà lòng son”. Dù cuộc sống sinh hoạt cực khổ trăm bề nhưng vì “mối thù nặng vai” với thực dân mà con người sẵn sàng hi sinh để đất nước được độc lập. Dẫu những mái tranh nghèo có trở nên hắt hiu vì sương gió thì tấm lòng của con người với cách mạng,quê hương vẫn luôn thắm đỏ như màu cờ Tổ quốc. Giờ đây, khi người chiến sĩ về xuôi, những tháng này ấy đã trở thành một góc kỉ niệm không thể nào phai nhạt. Nỗi nhớ khiến lòng người ở lại nặng trĩu. Trám bùi biết để cho ai? Măng mai giờ già cỗi vì không còn người hái?

Bốn câu thơ cuối đoạn là nỗi nhớ về quá trình kháng chiến gắn với những mốc lịch sử trọng đại của dân tộc:

Mình về, còn nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh

Mình đi, mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa

Vào năm 1940, phát xít Nhật xâm chiếm đất nước ta. Đến năm 1941, Chủ tịch Hồ Chí Minh về nước, phát động cao trào kháng Nhật cứu quốc. Trải qua biết bao vất vả, tháng 12 năm 1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập tại cây đa Tân Trào. Cuối cùng, vào tháng 8 năm 1945, quốc dân đại hội đã phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Cách mạng Tháng 8 thành công, lịch sử dân tộc bước sang trang mới vẻ vang. Có thể thấy, tất cả những mốc thời gian và địa điểm được nhắc đến trong đoạn thơ đều là những mốc son chói lọi với toàn dân tộc. Những câu thơ như một thước phim gợi lại quá trình chiến đấu của quân và dân Việt Nam rất đáng tự hào. Nhà thơ đảo ngữ “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa” có dụng ý nhấn mạnh vào những địa danh quan trọng, có ý nghĩa lịch sử to lớn. Điệp từ “có nhớ” ngân vang, kết hợp với cách xưng hô “mình” - “ta” mang đến cảm xúc tự hào xen lẫn xúc động cho cả đoạn thơ.

Sau khi lắng nghe nỗi lòng, những kỉ niệm sống dậy trong tâm trí người dân thì đến đây, người cán bộ cách mạng mới cất tiếng:

Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi, mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…

“Ta” chỉ người đi, “mình” chỉ người ở lại. Âm hưởng trữ tình của những câu ca dao lan tỏa khắp lời thơ. Cặp từ xưng hô được hoán đổi vị trí rất nhuần nhị ở câu thơ đầu. Người chiến sĩ khảng khái khẳng định: “Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh”. Dù “trước” hay “sau”, quá khứ hay tương lai thì tấm lòng ân tình mà người chiến sĩ dành cho con người, thiên nhiên Việt Bắ cũng chẳng khi nào thay đổi. Con người vẫn một lòng một dạ hướng về nhau như dòng nước chảy ra biển lớn vẫn nhớ về nguồn cội. Các từ láy “mặn mà”, “đinh ninh” có ý nghĩa khẳng định mạnh mẽ tấm lòng của cán bộ cách mạng. Cặp từ chỉ quan hệ tăng tiến “bao nhiêu” - “bấy nhiêu” vừa khẳng định tình cảm của con người, vừa gợi nhớ đạo lí “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc. Lời thơ của Tố Hữu khiến ta nhớ đến những câu ca dao xưa:

Muối mặn ba năm còn mặn

Gừng cay chín tháng còn cay

Dù ai xuyên tạc lá lay

Sắt son nguyệt giữ lòng này thuỷ chung.

Nỗi nhớ trong lòng người chiến sĩ đằm sâu, da diết biết mấy! Người chiến sĩ cũng bày tỏ sự lưu luyến với cuộc sống ở chiến khu Việt Bắc:

Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy

Nỗi nhớ thiên nhiên, con người Việt Bắc được cụ thể hóa, so sánh với nỗi nhớ người yêu hết sức nồng nàn, cháy bỏng. Nhớ người yêu xuất hiện trong những câu ca dao xưa bao giờ cũng là nỗi nhớ cồn cào, khắc khoải nhất. Tố Hữu lấy nỗi nhớ ấy để diễn tả tự nhiên, chân thực, sinh động nỗi nhớ Việt Bắc. Trong nỗi nhớ ấy, ta tìm thấy ánh trăng yên ả thanh bình nhô lên sau dãy núi, thấy lưng nương rực rỡ trong ráng chiều, thấy cả rừng nứa bờ tre thân thương hồn hậu. Không gian Việt Bắc bao la, khoang đạt, thơ mộng, hiền hòa, đẹp tuyệt mĩ như được bàn tay danh họa vẽ nên. Phải là con người gắn bó, hòa mình với cảnh vật nơi đây thì mới có thể viết nên những câu thơ tinh tế đến vậy. Bên cạnh đó, tác giả còn nhắc đến những địa danh trong khu căn cứ địa như “Ngòi Thia”, “sông Ðáy”, “suối Lê”. Trung tâm của nỗi nhớ tập trung vào hình ảnh “người thương đi về”. Trạng từ chỉ thời gian “Sớm khuya” và hình ảnh giản dị “bếp lửa” cho ta thấy phẩm chất cần cù, chịu thương chịu khó của nhân dân. Cách gọi “người thương” sao mà thân thương, trân quý đến thế! Điệp từ “nhớ”, “nhớ từng” lặp lại nhiều lần tựa như điệp khúc về nỗi nhớ cứ ngân lên không dứt trong tâm hồn con người.

Ta đi, ta nhớ những ngày

Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi

Thương nhau, chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng

Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô

Những câu thơ tiếp theo vẫn là tiếng nói giãi bày của người đi. Những rung động nghĩa tình được thể hiện qua câu thơ: “Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi”. Thành ngữ “Đắng cay ngọt bùi” được vận dụng một cách nhuần nhuyễn vào câu thơ, bao quát những khó khăn gian khổ và cả niềm vui, hạnh phúc của con người. Câu thơ được chia thành hai vế đối xứng với nhịp 4/4, hài hòa giữa hình thức biểu đạt và nội dung ý nghĩa. Dù “đây” hay “đó”, dù gian nan hay yên ấm thì tấm lòng người về xuôi vẫn mãi gắn kết keo sơn với người ở lại. Tình cảm khăng khít ấy được bồi đắp qua từng ngày “chia củ sắn lùi”, “Bát cơm sẻ nửa”, “chăn sui đắp cùng”. Hai câu thơ trở thành biểu tượng cho sự đồng cam cộng khổ và nghĩa tình nhân dân trong kháng chiến. Câu thơ “Nhớ người mẹ nắng cháy lưng / Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô” vừa diễn tả sự khắc nghiệt của tự nhiên vừa làm nổi bật sự chăm chỉ, tảo tần của những người phụ nữ Việt Bắc. Mẹ địu con lên rẫy như cõng cả mặt trời nắng bỏng trên lưng. Mẹ nuôi con, mẹ nuôi bộ đội, mẹ góp sức của mình vào kháng chiến, thật đáng cảm phục!

Con người và thiên nhiên Việt Bắc là thế, mạnh mẽ mà nồng ấm nghĩa tình. Chính vì vậy, tác giả đã nhìn thấy ở họ niềm lạc quan, yêu đời, tin vào tương lai:

Nhớ sao lớp học i tờ

Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan

Nhớ sao ngày tháng cơ quan

Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo

Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

Chày đêm nện cối đều đều suối xa

Điệp ngữ “Nhớ sao” lặp lại ba lần diễn tả nỗi nhớ thường trực, nỗi bồi hồi xao xuyến. Nhà thơ nhớ đến những lớp bình dân học vụ ngân vang tiếng đọc bài của đồng bào Việt Bắc, những buổi liên hoan văn nghệ được tổ chức ngay giữa đồng khuya dưới ánh sáng của đuốc. Tiếng hát say đời, ham lao động vang khắp núi đèo. Đặc biệt, nhà thơ còn lồng vào đó âm thanh của chày giã gạo ngoài suối xa vọng lại vào đêm. Tố Hữu đã thật sự nắm bắt được cái thần, cái hồn của thiên nhiên Việt Bắc.

Đoạn thơ tiếp theo là chứa đầy màu sắc về thiên nhiên, con người Việt Bắc. Trong đó, hai câu thơ đầu có ý nghĩa khái quát cảm xúc của toàn đoạn:

Ta về, mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Nhà thơ vẫn sử dụng cách xưng hô “Ta” - “mình” thân thuộc, gần gũi. Hai chữ “Ta về” được ngắt riêng như một nốt nhạc quãng ngắt lưu luyến, ngập ngừng trong bản tình ca cách mạng. Câu hỏi tu từ “Ta về, mình có nhớ ta” mang âm hưởng trữ tình ngọt ngào của ca dao, dân ca. Câu hỏi ấy không chỉ hướng về phía người ở lại mà còn hướng về chính người chiến sĩ. Người cán bộ cách mạng tự khẳng định tình cảm ân nghĩa thủy chung của lòng mình với thiên nhiên, con người Việt Bắc. Vậy người ra đi nhớ điều gì? Người ra đi nhớ “những hoa cùng người”. “hoa” ở đây có nghĩa là thiên nhiên đẹp đẽ, tươi sáng, hùng vĩ của Việt Bắc. Hòa với nét đẹp của hoa là vẻ đẹp của “người”. Con người và thiên nhiên Việt Bắc hòa quyện, gắn bó khăng khít, làm nên cái hồn cho mảnh đất này.

Những câu thơ sau là bức tranh tứ bình đầy ấn tượng:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hoà bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.

Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên đầy sức sống, đẹp đẽ, tươi sáng đến lạ thường. Cảnh rừng Việt Bắc trong mùa đông vẫn thật xanh tươi, căng tràn sức sống: “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”. Trên cái nền xanh thẳm của núi rừng là sắc đỏ rực rỡ tựa muôn ngàn đốm lửa của những bông hoa chuối. Thiên nhiên đang tự mình thắp lên những ngọn lửa để sưởi ấm trong trời đông rét ngọt. Mùa đông trong thơ Tố Hữu không những không hề héo úa, lụi tàn mà còn lấp lánh ước mơ, hi vọng. Đến mùa xuân, bao nhiêu mầm sống được ấp ủ bấy lâu đã thỏa sức bung nở. Khung cảnh như thay màu áo mới. Màu trắng tinh khôi, trong trẻo của hoa mơ bao phủ khắp đất trời. Hai chữ “trắng rừng” cho thấy sức sống âm thầm mà mãnh liệt vô cùng. Dường như mải đắm mình trong bạt ngàn hoa trắng, ta giật mình ngỡ ngàng khi hạ đã về tự bao giờ.

Câu thơ “Ve kêu rừng phách đổ vàng” gợi lên bản tình ca mùa hè sôi nổi, rạo rực. Đây là vẻ đẹp đặc trưng của Việt Bắc. Chữ “đổ” là nhãn tự của cả câu thơ, diễn tả sự giao hòa của tạo vật. Ve kêu đến đâu, rừng phách ngả vàng đến đó. Sắc màu thời gian như đổ xuống cảnh vật, đẹp đẽ và diệu kì. Đến mùa thu, điều tác giả nhớ nhất chính là “Rừng thu trăng rọi hoà bình”. Ánh trăng mơ màng, dịu dàng chiếu rọi xuống cảnh vật. Mọi ngóc ngách trong rừng đều chảy tràn ánh trăng, huyền ảo như bước ra từ trang cổ tích. Thiên nhiên Việt Bắc đáng yêu, bình yên quá đỗi khiến người ta say đắm không thể nào quên.

Đi liền với nỗi nhớ thiên nhiên, tác giả còn nhớ về con người Việt Bắc rất mực thân thương. Họ hiện lên trong tư thế hài hòa, làm chủ tự nhiên. Câu thơ: “Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng” mang màu sắc “rất Việt Bắc” (Xuân Diệu). Nhân dân Việt Bắc thường gài chiếc dao vào thắt lưng khi đi làm nương rẫy. Trên tầm cao của đèo, ánh nắng chiếu vào dao tạo nên phản quang lấp lánh. Con người không nhỏ nhoi, đơn độc trước cái cao, dốc của đèo mà trái lại, càng mạnh mẽ và hào hùng. Trong khung cảnh mùa xuân, tác giả miêu tả cụ thể về người đan nón. Động từ “chuốt” có nghĩa là trau chuốt, làm cho bóng, cho mượt. Chữ “từng” gợi tả sự tỉ mỉ, cần cù, khéo léo, tài hoa của con người Việt Bắc khi lao động.

Thiên nhiên có hoa mơ nở trắng rừng, con người lại có chiếc nón trắng thể hiện tấm lòng tha thiết gắn bó với quê hương, đất nước. Người dân gửi cả tấm lòng mình vào công việc thủ công, sáng tạo ra những vật phẩm mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Đến khi hạ về, tác giả phát hiện ra giữa sắc vàng óng ả của rừng phách là “cô em gái hái măng một mình”. Sự hiệp vần “hái “ với “gái” khiến câu thơ đậm tính nhạc hấp dẫn. Người con gái Việt Bắc thật trẻ trung, tươi tắn, xinh đẹp. Dẫu cô gái đang đi hái măng một mình, làm công việc lao động vất vả giữa rừng nhưng chẳng hề lẻ loi, cô độc. Con người làm chủ tự nhiên và cuộc đời, bộc lộ rõ nét hồn nhiên, đáng yêu đến lạ. Cuối cùng, tác giả nhớ đến tiếng hát “ân tình thủy chung” dưới đêm trăng trong mùa thu. Đó không chỉ là tiếng hát trong trẻo vang lên trong đêm thanh mà còn là tiếng lòng ân nghĩa vẹn tròn giữa “ta” và “mình”. Tiếng hát khép lại đoạn thơ nhưng tình người thì mãi còn vang vọng.

Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây

Núi giăng thành luỹ sắt dày

Rừng che bộ đội rừng vây quân thù

Mênh mông bốn mặt sương mù

Ðất trời ta cả chiến khu một lòng.

Đoạn thơ diễn tả nỗi nhớ về những ngày đầu kháng chiến, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc và những chiến công của quân dân ta. Hai câu thơ đầu đậm chất tự sự, thuật tả lại thực tế kháng chiến.Những từ “lùng”, “đến” cho thấy sự dã man, tàn bạo của giặc, chúng quyết tâm tiêu diệt những người chiến sĩ yêu nước của ta. Quân đội ta đã dựa vào địa thế hiểm yếu của núi rừng Việt Bắc để chống giặc. Cách diễn đạt “ta cùng đánh Tây” cho thấy sự đồng lòng giữa con người và thiên nhiên. “Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù” chính là như thế! Tinh thần đoàn kết “Ðất trời ta cả chiến khu một lòng” trở thành yếu tố quyết định làm nên sự toàn thắng của đất nước ta. Khổ thơ không chỉ vừa đậm chất hiện thực lại giàu tính trữ tình, ca ngợi tinh thần thép, ý chí kiên cường của con người Việt Nam. Có sự che chở của nhân dân và núi rừng Việt Bắc, quân ta liên tiếp gặt hái được thắng lợi:

Ai về ai có nhớ không?

Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng

Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng

Nhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà

Điệp từ “nhớ” được lặp lại năm lần trong câu thơ, cho thấy nỗi nhớ bao trùm lên cả đèo, sông, phố. Nhà thơ Tố Hữu nhớ từ những trận đánh đầu tiên của quân ta như phủ Thông, đèo Giàng, nhớ cả sông Lô trong chiến thắng Thu - Đông năm 1947 đến nhận đánh nơi phố Ràng năm 1948 đánh dấu sự lớn mạnh của quân đội ta. Những địa danh được liệt kê liên tiếp khiến khổ thơ như một thước phim tư liệu lịch sử.

Tác giả nhớ về những trận chiến oanh liệt của quân và dân chính là khẳng định tấm lòng gắn bó son sắt với nhân dân Việt Bắc. Con người Việt Bắc tài hoa, anh dũng đã hòa vào cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, thủy chung với cách mạng, làm nên sức mạnh to lớn:

Những đường Việt Bắc của ta

Ðêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên

Tin vui chiến thắng trăm miềm

Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về

Vui từ Ðồng Tháp, An Khê

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.

Nhà thơ phác họa khung cảnh toàn quân ra trận với khí thế hào hùng, sôi sục. Giữa không gian rộng lớn và thời gian đằng đẵng, quân đội ta nổi bật với những bước chân “rầm rập” rung chuyển cả đất trời. Từ láy “điệp điệp trùng trùng” khắc họa hình ảnh đoàn quân đông đảo, không ngừng tiến tới để đối mặt với quân thù. Dù vật chất còn thiếu thốn, các chiến sĩ chỉ có “mũ nan” nhưng nào có hề gì bởi ánh sao ngời sáng trên mũ đang soi đường cho bộ đội ta đi tới. Ánh sao ấy còn tượng trưng cho lý tưởng cách mạng, tấm lòng yêu chuộng của con người Việt Nam. Hình ảnh cường điệu “bước chân nát đá” cho thấy sức mạnh phi thường của quân đội ta. Sức mạnh ấy phá vỡ cái thăm thẳm lạnh lẽo của màn sương đêm, mở lối cho ánh đèn xe kéo pháo. Cuối cùng, tin vui chiến thắng đã về đến “trăm miền”. Tác giả liệt kê hàng loạt địa danh để thể hiện niềm hân hoan thắng lợi đang rạo rực trên mọi miền Tổ quốc.

Tác phẩm là cuộc chia tay đặc biệt giữa nhân dân và cán bộ cách mạng, cho thấy nỗi nhớ thương tha thiết, nặng tình ân nghĩa của những con người cùng nhau vào sinh ra tử trong kháng chiến. “Việt Bắc” đã khắc họa nét đẹp phong phú của thiên nhiên, cuộc sống Việt Bắc. Từ đó, tác phẩm còn ngợi ca vẻ đẹp mạnh mẽ, cần cù, tài hoa, tấm lòng kiên trung, tràn đầy tình yêu thương đất nước và con người của nhân dân nơi đây. Đây quả thực là khúc ca về cách mạng, về con người kháng chiến. Nhà thơ đã kết cấu bài thơ theo lối đối đáp của ca dao, ngôn ngữ thơ dân dã, giọng thơ mang âm hưởng ngọt ngào cùng các hình ảnh so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa giàu tính biểu tượng.

“Việt Bắc” thực sự là “những vần thơ tươi xanh”, “những vần thơ bỏng cháy” được viết nên từ tài năng và tâm huyết của nhà văn. Tác phẩm là đỉnh cao của thơ ca Tố Hữu nói riêng và thơ ca thời kì chống Pháp nói chung.

Phân tích Việt Bắc bài văn mẫu số 2

Đất nước Việt Nam đã trải qua những năm tháng trường kỳ kháng chiến để giữ gìn độc lập, tự do, có những con người đang âm thầm đóng góp tinh thần cho cuộc đấu tranh bằng thơ ca, văn xuôi. Trong số những tác phẩm văn học ấy, có thể kể đến bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Tác phẩm là tiếng lòng chân thành trong bữa tiệc chia tay đầy tình cảm giữa đồng bào Việt Bắc với người cán bộ cách mạng.

Những bài thơ hay của Tố Hữu đều được sáng tác ở những mốc son trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Bài thơ "Việt Bắc" - kiệt tác của Tố Hữu cũng được sáng tác vào thời điểm then chốt của đất nước. Nhà thơ Tố Hữu sinh ra tại làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Sinh ra trong một gia đình nghèo, từ nhỏ ông đã học và làm thơ

Tố Hữu đã đạt được giải nhất Giải thưởng Văn học Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 - 1955 (tập thơ Việt Bắc). Giải thưởng Văn học ASEAN (1996). Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - nghệ thuật (đợt 1 năm 1996). Tố Hữu vừa là nhà thơ vừa là một người chiến sĩ. Ông làm thơ chủ yếu vì sự nghiệp của dân tộc và của Đảng. Thơ Người thể hiện lẽ sống cao cả, tình cảm cao cả, niềm vui của dân tộc và cách mạng. Cảm hứng trong thơ Tố Hữu hướng về con người, cách mạng, lịch sử hào hùng của dân tộc chứ không phải đời tư của tác giả.

Năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, hòa bình lập lại. Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, cán bộ, chiến sĩ rời Việt Bắc trở về Hà Nội. Trong không khí lưu luyến chia tay giữa đồng bào Việt Bắc với cán bộ cách mạng, nhà thơ Tố Hữu đã sáng tác bài thơ "Việt Bắc". Việt Bắc được Tố Hữu sáng tác vào tháng 12 năm 1945 nhân sự kiện lịch sử Trung ương Đảng và chính phủ rời chiến khu về Hà Nội.

Bài thơ Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là thành tựu quan trọng, đóng góp to lớn cho nền thơ ca kháng chiến chống Pháp. Qua phân tích bài thơ Việt Bắc, chúng ta sẽ thấy được tình cảm gắn bó khăng khít giữa người ra đi và người ở lại, giữa miền xuôi và miền cao, giữa cán bộ với thủ đô kháng chiến, với nhân dân Việt Bắc. Bài thơ là một bản tình ca, cũng là một khúc hùng ca về cội nguồn tình yêu quê hương đất nước, thể hiện đạo lý truyền thống chung của cả dân tộc. Với tầm nhìn trên tư cách là một nhà thơ cách mạng, một nhà tư tưởng, Tố Hữu đã phản ánh rất sâu sắc hiện thực mười lăm năm kháng chiến của chiến khu Việt Bắc và dự báo những diễn biến tư tưởng trong thời hòa bình.

Tác giả cho ta thấy hình ảnh Việt Bắc với cảnh vật và con người tươi đẹp. Tình yêu thiên nhiên, đất nước qua phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu đã được thể hiện sâu sắc qua sự gắn bó với núi rừng Việt Bắc qua bao năm tháng chiến đấu của những người dân' nơi đây. Mối quan hệ thân thiết như ruột thịt. Nỗi nhớ của tác giả là nỗi nhớ của một người quản lý sắp từ Việt Bắc trở về. Hình ảnh Việt Bắc hiện lên thật mộc mạc nhưng bao trùm nỗi nhớ của Tố Hữu. Đó là hình ảnh “Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”, những hình ảnh của bản làng lờ mờ ở trong làn sương khói, bếp lửa hồng thắp sáng trong đêm, hay những “rừng nứa bờ tre, ngòi Thia, sông Đáy”, tiếng “Chày đêm nện cối đều đều suối xa”… tất cả những nét đẹp rất đỗi bình dị của một vùng núi rừng hoang sơ nhưng vẫn chứa chan nhiều ấm áp yêu thương, đặc biệt là những tấm lòng của con người nơi đây, thứ mà khiến Tố Hữu nhớ nhất, mang nhiều tình cảm nhất.

"Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung."

Tố Hữu đã sử dụng rất thành công lối đối đáp “ta”, “mình”, “ ta về mình có nhớ ta. Ta về ta nhớ những hoa cùng người”. Nỗi nhớ không thể quên, không muốn xa nơi đã yêu rất nhiều kỷ niệm, với những người đã sống và chiến đấu. Ấn tượng của tác giả về những con người Việt Bắc luôn cần cù trong lao động và thủy chung trong tình yêu.

Qua đó cho thấy thiên nhiên Việt Bắc với những cảnh đẹp phong phú đa dạng thay đổi theo từng mùa. Gắn liền với cảnh đẹp ấy là những con người rất đỗi bình dị làm ruộng, trồng khoai, trồng sắn… Nhưng tất cả đều góp sức, góp sức để chung tay làm nên một lực lượng to lớn và thành công trong cuộc xây dựng cuộc kháng chiến trường kỳ. Trong dòng hồi tưởng của Tố Hữu Việt Bắc là hình ảnh của những mái nhà ” hắt hiu lau xám, đậm đà tình son”, hình ảnh người mẹ “địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”.

Thương nhau, chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.

Câu thơ trữ tình vang dội tạo nên sự gắn bó thiết tha giữa tình đồng bào, quân dân. Xuyên suốt bài thơ, ta còn thấy Việt Bắc anh dũng trong chiến đấu. Những hình ảnh chiến đấu hào hùng, những hoạt động gay cấn và tinh thần chiến đấu oanh liệt vang vọng trong những câu thơ Tố Hữu phân tích bài thơ Việt Bắc đậm chất sử thi.

"Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay."

Một dân tộc đã vượt qua bao gian khổ, hy sinh đã lập nên những chiến công: Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên... Tố Hữu đã đi sâu lí giải nguồn gốc của sức mạnh chung để giành được những thắng lợi vẻ vang ấy. những chiến thắng. Đó là sức mạnh toàn dân, toàn quân kháng chiến, là sự gắn bó giữa con người với thiên nhiên:

"Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh
Tây Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng."

Bằng những vần thơ trang trọng, nghiêm trang, Tố Hữu đã nhấn mạnh hình ảnh, vai trò của Việt Bắc đối với cách mạng. Nơi đây như quê hương, chiến khu đã nuôi dưỡng sức mạnh cho cuộc kháng chiến trường kỳ của nhân dân ta:

"Mình về, có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?"

Những câu thơ đậm chất trữ tình trữ tình sâu sắc về tình cảm dân tộc. Trong cuộc kháng chiến vĩ đại này, có Bác Hồ giác ngộ, có “trung ương, chính phủ bàn việc công”, có người tài, có lý tưởng cao cả, có đường lối ngay thẳng, sáng suốt đã tạo nên thành công.

"Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền
Mười lăm năm ấy, ai quên
Quê hương Cách mạng dựng nên Cộng hòa"

Tố Hữu, từ tình yêu Việt Bắc, đặt niềm tin vững chắc vào một tương lai tươi sáng, đặt niềm tin vào sức mạnh của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, nhà thơ đã vẽ nên bức tranh tươi đẹp của dân tộc:

"Ngày mai rộn rã sơn khê
Ngược xuôi tàu chạy, bốn bề lưới giăng
Than Phấn Mễ, thiếc Cao Bằng
Phố phường như nấm như măng giữa trời"

Những hình ảnh ấy chính là ước mơ, khát vọng không chỉ của cán bộ kháng chiến mà còn của nhân dân, tác giả không vì cái mới mà quên cũ, luôn nghĩ đến nhau giữa miền xuôi và miền ngược.

"Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?"

Đây cũng là lời tác giả nhắn nhủ đừng để môi trường thay đổi, trở về thủ đô quên đi tình xưa. Thơ Tố Hữu cho đến ngày nay vẫn giữ nguyên những giá trị đó. Hai câu thơ tạo nên mối quan hệ đối lập giữa bóng tối và ánh sáng: câu trên miêu tả bóng đêm thăm thẳm, gợi lên cuộc sống nô lệ của cả dân tộc dưới ách thống trị của quân thù thì câu dưới lại bừng lên ánh sáng của niềm tin. trong thắng lợi vẻ vang ngày mai, tương lai tốt đẹp.

Thực ra trong đoạn thơ trên, người ta có thể thấy điều đối lập này: Tố Hữu đã sử dụng cả một hệ thống từ chỉ ánh sáng như ánh sao, đuốc đỏ, lửa bay, đối lập với hệ thống từ chỉ bóng tối như đêm, đêm, ngàn đêm, sâu - với xu hướng ánh sáng lấn át bóng tối, tác giả dường như có ý làm nổi bật xu hướng chống mọi kẻ thù đen tối của dân tộc ta, đồng thời cũng khẳng định những ngày tươi đẹp, hạnh phúc nhất định sẽ đến với dân tộc ta. Có những tác phẩm văn học chỉ giúp ta thấy được một phần nhỏ của cuộc đời hay nói về một nhân vật cụ thể, nhưng với bài thơ Việt Bắc, ta thấy được bức tranh toàn cảnh của cả dân tộc Việt Nam. Cả bài thơ như một khúc ca nhịp nhàng, ngọt ngào, nghiêm trang như một bản tình ca, một bản anh hùng ca về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, về những con người đã hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc.

Qua bài thơ Việt Bắc, tác giả cũng bày tỏ tấm lòng thành kính đối với đồng bào Việt Bắc, những người cán bộ cách mạng cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Bài thơ cũng nhắc nhở tuổi trẻ chúng em nhớ đến công lao của các vị anh hùng dân tộc, những trang sử hào hùng trong lịch sử máu và nước.

Phân tích Việt Bắc bài văn mẫu số 3

Đất nước Việt Nam đã trải qua những năm đấu tranh kháng chiến để giữ gìn độc lập tự do, có những con người thầm lặng góp sức tinh thần trong chiến đấu qua những lời thơ, lời văn thể hiện. Trong các tác phẩm văn chương đó có thể kể đến bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Tác phẩm là tấm chân tình trong buổi chia tay đầy lưu luyến giữa tình cảm giữa nhân nhân Việt Bắc và cán bộ cách mạng. Những bài thơ lớn của Tố Hữu đều sáng tác vào những điểm mốc của lịch sử cách mạng Việt Nam. Bài thơ “Việt Bắc” – kiệt tác của Tố Hữu cúng được sáng tác trong một thời điểm trọng đại của đất nước.

Tố Hữu là một nhà thơ – chiến sĩ. Ông làm thơ trước hết vì sự nghiệp của dân tộc, của Đảng. Thơ ông biểu hiện lẽ sống lớn, tình cảm, niềm vui lớn của dân tộc và cách mạng. Cảm hứng trong thơ Tố Hữu hướng về nhân dân, cách mạng, cảm hứng lịch sử hào hùng của dân tộc, chứ không phải cảm hứng đời tư tư của chính tác giả.

Năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, hoà bình được lập lại. Chủ tịch Hồ Chí Minh, trung ương Đảng, cán bộ, bộ đội rời Việt Bắc trở về Thủ đô Hà Nội. Trong không khí chia tay đầy nhớ thương lưu luyến giữa nhân dân Việt Bắc và những người cán bộ cách mạng, nhà thơ Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc”.

Việt Bắc được Tố Hữu sáng tác vào tháng 12 năm 1945 nhân một sự kiện lịch sử là trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu về thủ đô Hà Nội. Bài thơ Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là một thành tựu quan trọng, đóng góp to lớn cho thơ ca kháng chiến chống Pháp. Phân tích bài thơ Việt Bắc ta sẽ thấy được tình cảm gắn bó thân thiết giữa người đi và người ở lại, giữa miền xuôi và miền ngược, giữa người cán bộ với thủ đô kháng chiến, với nhân nhân Việt Bắc.

Với tầm nhìn của một nhà thơ cách mạng, một nhà tư tưởng, Tố Hữu đã phản ánh sâu sắc hiện thực kháng chiến mười lăm năm của Việt Bắc và dự báo những diễn biến tư tưởng trong hoà bình. Tình yêu thiên nhiên, đất nước qua phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu đã được thể hiện một cách sâu sắc qua sự gắn bó với núi rừng Việt Bắc qua bao năm tháng chiến đấu với nhân dân nơi này. Một tình cảm gắn bó thân thiết như những người máu mủ ruột già.

Nỗi nhớ của tác giả là nỗi nhớ của một người cán bộ sắp phải xa Việt Bắc trở về xuôi. Hình ảnh của Việt Bắc đã hiện lên rất mộc mạc nhưng đã ôm trọn nỗi nhớ của Tố Hữu. Đó là hình ảnh “Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”, những hình ảnh bản làng mờ mờ trong sương khói, bếp lửa hồng thắp sáng trong đêm, hay những “rừng nứa bờ tre, ngòi Thia, sông Đáy”, tiếng “Chày đêm nện cối đều đều suối xa”… tất cả những nét đẹp bình dị của một vùng rừng núi hoang vui nhưng vẫn ấm áp tình thương, đặc biệt đó là những trái tim con người nơi đây khiến Tố Hữu nhớ nhất, mang đậm nghĩa tình nhất.

Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

Tố Hữu sử dụng thành công lối đối đáp “ta”, “mình”, “ta về mình có nhớ ta. Ta về ta nhớ những hoa cùng người”. Nỗi nhớ không sao quên, không nỡ xa cách nơi mà đã từng gắn bó yêu thương với bao kỉ niệm, cùng dân sống và chiến đấu. Ấn tượng của tác giả về con người Việt Bắc luôn cần cù trong lao động, thủy chung trong tình nghĩa.

Qua đó thể hiện thiên nhiên Việt Bắc với những cảnh đẹp phong phú, đa dạng, thay đổi theo từng mùa. Gắn với cảnh tượng đẹp đó là những con người là những con người thật giản dị, đi làm nương rẫy, trồng khoai, trồng sắn… Nhưng tất cả đều góp công, góp sức để chung tay làm nên sức mạnh to lớn, kết thành làn sóng xây nên cuộc kháng chiến trường kì.

Trong hồi tưởng của Tố Hữu, Việt Bắc hiện lên đó là hình ảnh những mái nhà” hắt hiu lau xám, đậm đà tình son”, hình ảnh người mẹ “địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”.

Thương nhau, chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.

Câu thơ trữ tình vang lên tạo nên sự đằm thắm gắn bó giữa tình đồng chí và nhân dân. Những hình ảnh chiến đấu hào hùng, những hoạt động sôi nổi, tinh thần sục sôi chiến đấu âm vang trong những câu thơ trong phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu đậm chất sử thi đã miêu tả một cách hùng tráng:

Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.

Một dân tộc đã vượt qua bao gian khó hi sinh đã tạo nên những chiến công, kì tích: Phù Thông, đèo Giàng, sông Lô, Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên… Tố Hữu đã đi sâu vào để giải thích cội nguồn sức mạnh chung một lòng để giành những thắng lợi vẻ vang ấy.

Đó là sức mạnh toàn dân, toàn quân kháng chiến, sự gắn bó giữa con người và thiên nhiên:

Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh
Tây Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.

Bằng những lời thơ trang trọng tha thiết, Tố Hữu đã nhấn mạnh được hình ảnh và vai trò của Việt Bắc đối với cách mạng. Nơi đây như quê hương, chiến khu đã nuôi dưỡng nên sức mạnh trong kháng chiến trường kì của nhân dân ta:

Mình về, có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?

Những câu thơ mang đậm nét trữ tình, ca dao sâu lắng về nghĩa tình dân tộc. trong cuộc kháng chiến vĩ đại ấy đã có cụ Hồ soi sáng, có “trung ương, chính phủ luận bàn việc công”, những con người tài giỏi, những lý tưởng cao đẹp, những con đường đúng đắn sáng suốt ấy đã tạo nên sự thắng lợi.

Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền
Mười lăm năm ấy, ai quên
Quê hương Cách mạng dựng nên Cộng hòa

Tố Hữu từ tình yêu đối với Việt Bắc đã đặt niềm tin vững chắc vào một ngày mai tươi sáng, đặt niềm tin vào sức mạnh của toàn nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ. Nhà thơ đã vẽ nên một bức tranh tươi đẹp của dân tộc:

Ngày mai rộn rã sơn khê
Ngược xuôi tàu chạy, bốn bề lưới giăng
Than Phấn Mễ, thiếc Cao Bằng

Những hình ảnh chính là mơ ước khát vọng không chỉ của những người cán bộ kháng chiến mà còn cả nhân dân, tác giả không vì có cái mới mà quên đi những cái cũ, luôn nghĩ về nhau giữa miền xuôi và miền ngược.

Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?

Đây cũng chính là lời tác giả muốn nhắc nhở đừng để sự thay đổi của môi trường, khi về thủ đô lại quên đi nghĩa tình năm xưa. Những lời thơ của Tố Hữu đến ngày nay vẫn còn giữ nguyên những giá trị đó.

Hai câu thơ tạo ra tương quan đối lập giữa bóng tối và ánh sáng: nếu câu trên khắc họa bóng đêm đen tối thăm thẳm gợi kiếp sống nô lệ của cả dân tộc dưới ách đô hộ của kẻ thù thì câu dưới lại bừng lên ánh sáng của niềm tin vào ngày mai chiến thắng huy hoàng, tương lai tốt đẹp. Thực ra trong đoạn thơ trên người ta đều nhận thấy sự đối lập này: Tố Hữu đã sử dụng cả một hệ thống từ chỉ ánh sáng như ánh sao, đỏ đuốc, lửa bay, bật sáng tương phản với một hệ thống chỉ bóng tối như đêm đêm, nghìn đêm, thăm thẳm – với xu thế ánh sáng lấn át bóng tối dường như tác giả có dụng ý nêu bật xu thế của dân tộc ta trước mọi kẻ thù hắc ám, đồng thời khẳng định những ngày tươi sáng, hạnh phúc nhất định sẽ tới với dân tộc ta.

Có những tác phẩm văn học chỉ giúp chúng ta thấy được một phần nhỏ cuộc sống hoặc nói về một nhân vật cụ thể nào đó, nhưng với bài thơ Việt Bắc, ta lại thấy được toàn bộ hình ảnh của cả dân tộc Việt Nam. Cả bài thơ như một bản nhạc nhịp nhàng, nhẹ nhàng, tha thiết được viết lên như một khúc tình ca và trường ca cho cuộc kháng chiến chống thực dân pháp, về những con người quên mình vì sự độc lập tự do của đất nước. Qua bài thơ Việt Bắc, tác giả cũng thể hiện tấm chân tình của mình với người dân Việt Bắc, những cán bộ cách mạng hết lòng vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Bài thơ cũng nhắc nhở lớp trẻ chúng ta phải biết ghi nhớ những công ơn của các Anh hùng của dân tộc, những trang sử hào hùng đẫm máu và nước nước.

Phân tích Việt Bắc bài văn mẫu số 4

    Tố Hữu nhà thơ trữ tình chính trị xuất sắc nhất của văn học Việt Nam. Các bài thơ của ông luôn hừng hực không khí chiến đấu, bám sát từng sự kiện lịch sử. Việt Bắc chính là một trong những bài thơ như vậy.

    Tác phẩm ra đời sau khi ta chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ ne vơ được ký kết, hòa bình được lập lại ở miền Bắc, một trang sử mới đã mở ra cho dân tộc. Tháng 10 năm 1954 các cơ quan Đảng và chính phủ của chúng ta từ chiến khu Việt Bắc trở về thủ đô Hà Nội, để tiếp tục gánh vác sứ mệnh lịch sử của đất nước. Nhân sự kiện cuộc chia tay đặc biệt này, chia tay giữa Việt Bắc với người về xuôi, Tố Hữu đã viết lên bài thơ Việt Bắc.

    Mở đầu bài thơ là lời ướm hỏi và nhắc nhở của đồng bào với những người ra đi: “Mình về mình có nhớ ta /…/ Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Điệp từ nhớ luyến láy trong cấu trúc câu hỏi đồng dạng “Mình về mình có nhớ ta? /…/ Mình về mình có nhớ không?” khiến cho nỗi nhớ thêm phần da diết, khắc khoải. Kỉ niệm đầu tiên được nhắc tới chính là mười lăm năm khoảng thời gian Việt Bắc là căn cứ địa vững chắc cho cách mạng. Với kỉ niệm thứ hai, tác giả đã tái hiện chân thực không gian mình từ gắn bó là sông, núi, nguồn. Tâm trạng của thiên nhiên cũng chính là nỗi nhớ da diết của chính con người.

    Những kỉ niệm sâu nặng nghĩa tình đã được Tố Hữu tái hiện không chỉ chân thực mà còn tràn đầy cảm xúc trong từng cặp lục bát. Có thể thấy điệp từ “nhớ” trở thành một sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ tác phẩm. Đó là nỗi nhớ về những tháng ngày gian khổ “mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù”; con người Việt Bắc nghèo khổ nhưng chung thủy, tình nghĩa, đồng cam cộng khổ cùng kháng chiến “miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”, “hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”. Đặc biệt nỗi nhớ được gói ghém trọn vẹn trong câu thơ hàm súc, giàu ý nghĩa: Mình đi, mình có nhớ mình? Chữ mình thứ ba là cách nói gần gũi, âu yếm, cho thấy sự gắn bó sâu đậm, khăng khít.

    Sau những lời nhắn nhủ, nhắc nhở tha thiết của người ở lại là lời khẳng định thủy chung son sắt của cán bộ kháng chiến:

- Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…

    Tố Hữu đã sử dụng vô cùng linh hoạt các từ láy “tha thiết”, “bâng khuâng, bồn chồn” giàu giá trị gợi cảm, diễn tả trạng thái tâm lí tình cảm hụt hẫng, bịn rịn, luyến tiếc, vương vấn. Trong đoạn thơ, đặc sắc nhất là hình ảnh "áo chàm". Hình ảnh hoán dụ cho thấy cuộc tiễn đưa không chỉ của một người mà còn là còn của toàn thể dân Việt Bắc đối với cán bộ khi họ về xuôi. Và tình cảm lưu luyến đó sẽ là cơ sở để khẳng định sự ân tình, thủy chung son sắt của người ra đi với người ở lại: “Ta với mình, mình với ta/ Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh/ Mình đi, mình lại nhớ mình/ Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu…”. Câu thơ “Ta với mình / mình với ta” ngắt nhịp 3/3, mở đầu và kết thúc mỗi nhịp đều xuất hiện cặp đại từ mình - ta, cho thấy sự quấn quýt, gắn bó, không thể chia cắt.

    Sáu câu thơ tiếp theo, Tố Hữu đã tái hiện lại khung cảnh Việt Bắc trong tâm tưởng một cách rất ngắn gọn, súc tích: “Nhớ gì như nhớ người yêu /…/ Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”. Hình ảnh so sánh “như nhớ người yêu” thật đặc sắc, cho thấy nỗi nhớ tha thiết, khắc khoải của chàng trai với cô gái, lấy hình ảnh so sánh đó đã thể hiện sự gắn bó tha thiết trong tình cảm. Những hình ảnh gợi cảm đầy thi vị: trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương, bản khói cùng sương, bếp lửa, rừng nứa, bờ tre... gợi nhớ những vẻ đẹp nên thơ rất riêng của miền rừng núi. Đặc biệt ông còn sử dụng linh hoạt các địa danh ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê nhấn mạnh hơn nữa nỗi nhớ của người ra đi với núi rừng, con người nơi ở lại. \

     Những ngày chiến đấu đó tuy gian khổ, tuy vất vả nhưng đậm đà nghĩa tình: “Ta đi ta nhớ những ngày /…/ Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”. Bốn câu thơ là lời khẳng định, khi chia xa người ra đi sẽ không bao giờ quên đi những tháng ngày gắn bó, ta với mình đã đồng cam cộng khổ, cùng chia sẻ đắng cay và cùng chung hưởng ngọt bùi. Và sao có thể quên được người mẹ Việt Bắc nắng cháy lưng, vẫn địu con lên rẫy làm việc, cần mẫn chăm chỉ bẻ từng bắp ngô... đã gợi ra sự tần tảo chắt chiu, cần cù lao động của những bà mẹ trong kháng chiến đã đùm bọc, cưu mang chiến sĩ cách mạng. Và cả cảnh sinh hoạt cơ quan với những âm thanh quen thuộc trong lớp học, tiếng hát đầy lạc quan, vui tươi trong hoàn cảnh gian khổ. Đoạn thơ không chỉ đơn thuần là sự tái hiện những sự việc, những người, những khung cảnh mà chất chứa trong đó cả là nỗi nhớ, lòng biết ơn sâu nặng của những người chiến sĩ cách mạng với bà con Việt Bắc đã giúp đỡ họ.

    Trong tác phẩm này, có lẽ đẹp đẽ nhất, tài hoa nhất chính là khi ngòi bút Tố Hữu tạo dựng lên bức tranh tứ bình đặc sắc: “Ta về mình có nhớ ta /…/ Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”. Mở đầu bức tranh là khung cảnh đặc trưng của mùa đông: Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi / Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng. Gam màu chủ đạo trong bức tranh này là gam màu xanh. Trên nền xanh bát ngát ấy, nổi bật lên những bông “hoa chuối đỏ tươi” xua tan đi vẻ âm u, thổi hơi ấm. Sức nặng của hai câu thơ dồn vào hai chữ “đèo cao”, gợi lên tư thế hiên ngang của con người Việt Bắc trong công việc lao động.

     Tiếp đến là khung cảnh mùa xuân thanh khiết với rừng mơ nở trắng xóa: Ngày xuân mơ nở trắng rừng/ Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang. Núi rừng Việt Bắc đã ngập trong một màu trắng thanh khiết, tinh khôi của hoa mơ. Thấp thoáng trong rừng hoa mơ ấy, ta bắt gặp hình ảnh con người Việt Bắc trong lao động, mang vẻ đẹp cần mẫn và tài hoa phù hợp với thiên nhiên thơ mộng và thanh khiết. Cảnh mùa hạ lại đặc trưng bởi sắc vàng ấm nóng: Ve kêu rừng phách đổ vàng/ Nhớ người em gái hái măng một mình. Câu thơ trên chỉ có sáu âm tiết nhưng đã gợi ra cả một chuỗi vận động liên hoàn: tiếng ve kêu gọi mùa hè đến, mùa hè với sắc nắng chói chang của nó nhuộm vàng cả rừng phách. Hình ảnh con người hiện ra qua cách gọi “người em gái” khiến người Việt Bắc hiện lên thật thân thương, gần gũi. Con người hiện ra hết sức lặng lẽ: “người em gái” chỉ có “một mình” giữa rừng măng, lao động trong thầm lặng. Bức tranh cuối cùng là khung cảnh mùa thu: Rừng thu trăng rọi hòa bình / Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung. Bức tranh mùa thu yên bình, hạnh phúc, biểu tượng cho hòa bình cũng là cái đích mà cách mạng hướng tới.

    Trong dòng hồi tưởng, Tố Hữu cũng không quên nhớ về cuộc sống, chiến đấu đầy gian khổ. Đó là khi cách mạng còn non trẻ, lực lượng còn yếu, giặc đến truy đuổi thường xuyên, đây chính là thử thách lớn lao đối với ý chí của con người. Nhưng dù trong gian khổ ta vẫn không chịu khuất phục cả con người và rừng núi hợp sức đánh giặc: Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây. Kháng chiến ngày một lớn mạnh, ta giành chiến thắng hết trận này đến trận khác. Giọng thơ tràn ngập niềm tự hào, niềm vui. Khép lại đoạn thơ, tác giả cũng phác thảo ra một bản đồ vui toả rộng khắp đất nước báo tin chiến thắng. Nhịp thơ dồn dập, tươi vui, náo nức cùng với sự xuất hiện của một loạt các địa danh trăm miền gắn với các tin vui chiến thắng đã cho thấy tốc độ thần kì của thắng lợi. Chiến thắng ấy trải dài khắp mọi miền Tổ quốc tạo nên ngày hội chiến thắng của toàn thể dân tộc ta.

    Việt Bắc có thể coi như một bản tổng kết lịch sử của cuộc cách mạng dân tộc. Bài thơ đã tái hiện chân thực vẻ đẹp thiên nhiên và con người Việt Bắc, cùng với đó là cuộc kháng chiến anh hùng, vĩ đại của dân tộc ta. Bài thơ có sự kết hợp hài hòa giữa chất trữ tình và chất chính trị, thể thơ lục bát dân tộc, giọng điệu linh hoạt, hình ảnh phong phú, giàu sức biểu cảm đã tạo nên một thi phẩm xuất sắc.

Phân tích bài thơ Việt Bắc mẫu số 5

"Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”

     Quả thật đúng như thế phải là con người yêu mảnh đất hóa tâm hồn ấy lắm mới có thể cảm nhận sâu sắc được cái tình mà nó đem lại đến vậy. Phải chăng vì thế mà khi đọc thơ Tố Hữu người đọc lay động từng chút, từng câu chữ sáng tạo độc đáo nhưng thấm nhuần hương sắc đất Việt. Điều này được khắc họa rõ nét trong bài thơ “Việt Bắc” một thi phẩm đặc sắc đậm đà bản sắc dân tộc, ca ngợi con người kháng chiến và cuộc sống chiến khu thời kháng chiến chống Pháp gian khổ, hào hùng và là bản tình ca thủy chung, nghĩa tình giữa con người cách mạng với đồng bào Việt Bắc.

     Việt Bắc là quê hương cách mạng, là căn cứ địa vững chắc của bộ đội ta trong kháng chiến chống Pháp. Tại nơi đây, người dân miền núi đã che chở, đùm bọc cho Đảng, Chính phủ và kề vai sát cánh bên những người cán bộ kháng chiến để giành và bảo vệ nền độc lập của dân tộc. Chính vì thế bài thơ “Việt Bắc” được coi là một trong những đỉnh cao sáng tác của đời thơ Tố Hữu bài thơ được sáng tác nhân một sự kiện quan trọng diễn ra vào năm 1954. Đó là thời điểm quân và dân ta giành được thắng lợi Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu, buộc Pháp phải ngồi vào bàn đàm phán và ký với ta hiệp định Giơ-ne-vơ lập lại hòa bình ở miền Bắc. Đây cũng là lúc cơ quan trung ương Đảng và cán bộ cách mạng rời chiến khu Việt Bắc để trở về với Hà Nội - thủ đô sao vàng nắng Ba Đình. Nhân sự kiện trọng đại đó tháng Mười năm 1954, Tố Hữu đã viết bài thơ Việt Bắc, bài thơ ra đời trở thành khúc hùng ca, khúc tình ca, được biết bao thế hệ yêu thích và trân trọng gọi đó là đỉnh cao của thơ kháng chiến chống Pháp. Đúng như lời Chế Lan Viên tâm sự "Anh là một con chim vụ ở đường bay, hơn là bộ lông bộ cánh, tuy vẫn là lông cánh đẹp".

     Là nhà cách mạng nhưng Tố Hữu lại hiện lên trong mắt bạn đọc giống như một nhà thơ kể chuyện một người nghệ sĩ chuyên viết tình ca, tình cảm gắn bó với đồng bào Việt Bắc trong những năm tháng sinh hoạt và chiến đấu tại đây đã trở thành niềm trăn trở trong Tố Hữu. Có lẽ cũng bởi vậy mà giây phút chia li giữa người đi kẻ ở đã được tái hiện vô cùng chân thực và sinh động:

"Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng"

     Mở đầu bài thơ là lời của người ở lại- đồng bào Việt Bắc, trước khoảnh khắc chia tay đầy lưu luyến với cán bộ cách mạng, đồng bào đã không thể kìm nổi lòng mình mà kết thành tiếng bày tỏ câu hỏi được đặt ra một cách trực tiếp, tình cảm của cán bộ cách mạng. khi về đến thủ đô Hà Nội rồi liệu có còn nhớ đến chúng tôi hay không? Chữ “về” nghe sao mà tha thiết bâng khuâng đến thế? Có lẽ đây là nơi thấp nhất khiến người đọc dễ dàng nhìn ra một khoản hụt hẫng trong tâm hồn, giữa buổi chia tay đầy bịn rịn. Đọc một bài thơ viết về tháng năm cách mạng một tình cảm chung của cả dân tộc vậy mà cách xưng hô nhà thơ này sử dụng lại là “mình -ta”. Chúng ta đã từng gặp rất nhiều trong ca dao:

Mình nhớ ta như cà nhớ muối

Ta nhớ mình như cuội nhớ trăng

     Hay cặp đại từ mình ta để diễn tả tình yêu đôi lứa:

Mình về ta chẳng cho về

Ta nắm dải áo ta để câu thơ

     Sáng tạo của Tố hữu khi sử dụng cặp đại từ mình ta để diễn tả tình cảm cách mạng cho mối quan hệ càng trở nên gắn bó gần gũi thân thiết. Cuộc ân tình cách mạng đã hóa thành hàng loạt lời hỏi tha thiết vừa để dò hỏi khám phá, nhắn nhủ cán bộ về xuôi vừa để bày tỏ nỗi nhớ niềm thương đang đong đầy cõi lòng mình. Đây cũng là thời điểm phù hợp để người ở lại nhắc nhớ về khoảng thời gian mười lăm năm. Đó là giai đoạn kháng chiến thủa còn Việt Minh một khoảng thời gian dài gắn bó với biết bao kỉ niệm sâu nặng nghĩa tình. Tố Hữu đã rất tinh tế khi sử dụng chữ “ấy” để cá nhân hóa khoảng thời gian này. Đây là khoảng thời gian đã chứng kiến biết bao kỉ niệm trong chiến đấu trong sinh hoạt của cán bộ cách mạng và đồng bào Việt Bắc.

     Điệp từ “nhìn và nhớ” được nhắc lại hai lần, thể hiện một nỗi nhớ bao trùm không gian và cả thời gian, như tha thiết thường trực trong lòng của người ở lại. Vẫn là câu hỏi tu từ nhắc nhở người đi về tình cảm của người ở lại. Lời ướm hỏi nhắc người đi về nỗi nhớ thiên nhiên và con người nơi đây. Về với Hà Nội của đèn đường của phố thị, những cảnh sắc thiên nhiên của Việt Bắc nơi đây có khiến người quên đi hay không? “Nhìn cây nhớ núi” là nhớ về thiên nhiên Việt Bắc đẹp tươi, “nhìn sông nhớ nguồn” là nhớ về cội nguồn của tình nghĩa, cội nguồn cách mạng. Có lẽ bởi vậy, nhà thơ chế Lan Viên cũng đã từng gửi gắm tình cảm của mình nói hộ biết bao trái tim và những cung bậc trước khi chia xa:

“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”

     Có lẽ giờ đây Việt Bắc đối với những người cán bộ cách mạng chỉ là một thời đã xa nhưng vẫn hiện hữu trong ký ức. Nó như một nỗi ám ảnh thường trực như một mạch cảm xúc nóng đang chảy trong lồng ngực.

     Qua bốn câu thơ ta thấy được cách vận dụng từ ngữ linh hoạt của Tố Hữu. Ông đã vận dụng rất khéo léo đạo lí "uống nước nhớ nguồn" của dân tộc để nhắc nhở con cháu đời sau không được quên công ơn của thế hệ cha ông đi trước. Sau này câu hỏi để gợi nhắc một cách khéo léo của người ở lại là lời giãi bày bộc bạch cảm xúc của người ra đi. Dù không trực tiếp nhưng đầy bâng khuâng xao xuyến:

“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay"

     Mở đầu đoạn thơ là đại từ phiếm chỉ “ai“ vang lên một cách đầy tự nhiên. Đó chính là người ở lại, nhưng đại từ phiếm chỉ gợi cảm giác tiếng của ai đó chưa rõ mặt chỉ là những âm thanh cách lên vang vọng từ núi rừng Tây Bắc. Những cặp từ láy “bâng khuâng”, “bồn chồn” diễn tả trạng thái tâm lý nhớ thương luyến tiếc khiến lòng chẳng thể yên. “bâng khuâng” gợi trạng thái cảm xúc khó tả mơ hồ đan xen bởi buồn vui luyến tiếc nhớ nhung. Còn “bồn chồn” là tâm trạng thấp thỏm, nôn nao khiến con người ta đứng ngồi không yên. Đúng như Tú Xương đã viết:

“Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai”

     Cách ngắt nhịp 4/4 với hai vế tiểu đối đối lập giữa bên trong và bên ngoài cho thấy hiệu quả diễn đạt thêm súc tích. Tâm trạng chia tay đầy lưu luyến ấy còn được thể hiện một cách tinh tế qua hai câu thơ tiếp theo:

“Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”

     Tình nghĩa sắt son mặn nồng nhưng cuộc gặp gỡ nào rồi cũng đến lúc phải chia ly. Màu “áo chàm” đặc trưng cho những con người chân chất miền núi Tây Bắc. Tố Hữu đã khéo léo tận dụng hình ảnh hoán dụ này, càng thể hiện sự gần gũi giản dị giữa quân và dân miền núi. Họ không cùng một quê hương nhưng chung một đất nước, có thể lý tưởng sống của mỗi người cũng khác nhau nhưng một khi đã gặp nhau trong hoàn cảnh đất nước bị xâm lăng trong lòng họ không ai bảo ai, đều chung một niềm tin chiến đấu đến cùng đập tan quân giặc. Sắc áo chàm vĩnh viễn in đậm trong nỗi nhớ thương của những người con về xuôi, màu áo vừa khắc họa tính cách vừa thắm lên tấm lòng son sắt thủy chung của họ với cách mạng, với kháng chiến.

     Động từ “cầm tay” thể hiện sự gắn bó khăng khít yêu thương và đoàn kết, đó là hành động thể hiện sự lưu luyến giữa kẻ ở người đi. Người ta cầm tay nhau để truyền sức mạnh, truyền tình cảm. Giống như người lính cụ Hồ trong kháng chiến “nắm tay” nhau để truyền hơi ấm và gắn kết tình đồng đội:

“Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”

(Đồng chí - Chính Hữu)

     Họ cầm tay nhau trong tâm trạng nghẹn ngào vì thế không nói nên lời. “Biết nói gì hôm nay” có lẽ không phải không muốn nói gì mà họ có quá nhiều điều muốn nói nên không biết nói gì vào lúc này, khi mọi lời nói trở nên bất hữu trước tình cảm trào dâng mãnh liệt, bao nhiêu tình cảm thân thương trìu mến chất chứa trong sự im lặng đầy xúc động. Dấu ba chấm xuất hiện như một nốt nhạc ngân dài nối tiếp tình cảm hai bên.

     Bốn câu thơ là lời đồng vọng nhớ nhung của người về xuôi với người ở lại, vừa tái hiện cảnh tiễn đưa bịn rịn, lưu luyến sâu nặng trong ngày chia tay. Tất cả đều được tái hiện qua cặp đại từ “mình ta”, thể thơ lục bát truyền thống với ngôn ngữ giản dị mộc mạc, cùng các biện pháp tu từ: hoán dụ, từ láy,... Có thể nói Việt Bắc không chỉ là khúc tình ca mà còn là khúc hùng ca thiết tha, ân tình của nhà thơ đối với khu căn cứ địa của cách mạng Việt Bắc. Điều này được thể hiện rõ qua khổ thơ thứ hai, lời tâm tình của người dân Việt Bắc và những ngày kháng chiến đã đồng cam cộng khổ cùng cán bộ trong suốt mười lăm năm:

Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?

     Lời nói mộc mạc giản dị, như thủ thỉ mà rót vào lòng người đi "mình đi, có nhớ" rất ngọt ngào sâu lắng, mà lại thân thương gần gũi. Những ngày đó là khoảng thời gian gắn bó cuộc đời mình với chiến đấu, với Việt Bắc và cả đồng bào Việt Bắc. Câu thơ mang dáng dấp của câu hỏi tu từ, đồng thời gợi ra một khoảng thời gian ký ức đong đầy nhớ thương của đồng bào Việt Bắc và cán bộ cách mạng. Và những ngày ấy là:

“Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù
Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối muối thù nặng vai”

     Tác giả đã liệt kê ra những khung cảnh thiên nhiên hoang sơ, thời tiết khắc nghiệt nơi núi rừng Việt Bắc, qua đó khắc họa những khó khăn mà nhân dân Việt Bắc cùng cán bộ kháng chiến đã cùng nhau trải qua trong mười lăm năm gắn bó. Hơn nữa nghệ thuật đối lập “mưa nguồn suối lũ” “những mây cùng mù” đã gợi lên hình ảnh thiên nhiên Việt Bắc rất đỗi thơ mộng và trữ tình.

     Trong khung cảnh quen thuộc ấy hình ảnh “miếng cơm chấm muối”, “mối thù nặng vai” gợi ra những tháng ngày khó khăn gian khổ và đầy thiếu thốn. Mặc dù trong gian lao thế nhưng họ cùng chung chí hướng cùng chung lý tưởng đó là mối thù sâu nặng đối với những kẻ cướp nước. Câu thơ thấp thoáng niềm tự hào, bởi mình và ta đã cùng nhau sát cánh trải qua những tháng ngày gian khổ sống chết bên nhau. Tố Hữu viết tiếp những dòng thơ thương nhớ:

Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son

     Tất cả những điều đó như lần lượt theo dòng hồi ức mà tràn về trong nỗi nhớ của cả người đi lẫn người ở. Câu hỏi với sự ám ảnh của người đi người về cứ xoáy sâu vào tâm trí của người đọc. Qua nghệ thuật nhân hóa “rừng núi nhớ ai” nỗi nhớ như bao trùm lan tỏa khắp không gian của núi rừng Việt Bắc, rừng núi cũng dường như ngẩn ngơ trước nỗi buồn chia xa.

     Nhà thơ Tố Hữu thật tinh tế khi lấy "trám và măng" để gợi tả nỗi nhớ, bởi đó là hai sản vật quen thuộc của núi rừng Việt Bắc: người ở lại đã lấy sự thừa thãi của cảnh vật để diễn tả nỗi trống vắng trong tâm hồn. Mình về khiến núi rừng Việt Bắc trở nên trống trải buồn bã đến lạ thường. Cách giãi bày nỗi nhớ rất mộc mạc, giản dị chân thành mà tha thiết. Bên cạnh đó hình ảnh những nếp nhà Việt Bắc cũng được nhắc đến trong ý thơ. Tác giả đã đảo "hắt hiu" lên đầu câu để nhấn mạnh sự vắng vẻ hoang vu của núi rừng Việt Bắc. Hình ảnh lau xám dường như rất quen thuộc đối với núi rừng hoang sơ:

“Ai đi biên giới cho lòng ta theo với

Trăm ngàn lâu lau trắng có một mình”

     Thủ pháp đối lập giữa hình ảnh trong câu thơ "hắt hiu lau xám đậm đà lòng son" đã thể hiện đậm nét sự thủy chung, son sắt bền lòng của tình quân dân trên mảnh đất này. Nhìn từ xa đó là những ngôi nhà có sự heo hút nghèo nàn, đơn sơ nhưng ẩn sâu bên trong lại là trái tim ấm áp và tình cảm sắt son của đồng bào Việt Bắc. Hình ảnh “tấm lòng son“ khiến ta gợi nhớ đến vẻ đẹp của người phụ nữ phong kiến trong thơ của Hồ Xuân Hương:

"Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn

Mà em vẫn giữ tấm lòng son"

     Những năm tháng gian nan vất vả thiếu thốn, khó tránh khỏi những đau thương khắc nghiệt của cuộc sống, ngọn lửa chiến tranh vẫn còn cháy dữ dội, những ngày tháng kháng Nhật thuở còn Việt Minh như đã in sâu trong tiềm thức, trong trí nhớ:

Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?

     Câu lục tác giả đã sử dụng cách xưng hô vô cùng độc đáo ba từ “mình” diễn tả hai ngôi hai từ “mình“ đầu tiên ở ngôi thứ hai, từ “mình” thứ ba ở ngôi thứ nhất. Từ đó tác giả muốn thể hiện “ta với mình“ tuy hai mà một, quấn quýt gắn bó không thể tách rời. Câu tóm đã khép lại đoạn thơ là nỗi nhớ về những địa danh lịch sử bằng nghệ thuật liệt kê. Đó là những địa danh địa điểm vô cùng quen thuộc có ý nghĩa đặc biệt trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Câu thơ đã gợi nhắc đến hai địa danh nổi tiếng gắn liền với hai sự kiện quan trọng diễn ra ở Việt Bắc.

     Địa điểm thứ nhất là sự kiện cây đa Tân Trào. Đó là nơi đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (tiền thân của quân đội nhân dân Việt Nam) làm lễ xuất quân lúc đầu chỉ có 34 thành viên sau đó đã trở thành một quân đội lớn mạnh. Địa điểm thứ hai là mái đình Hồng Thái, nơi bác chủ trì cuộc họp quyết định cách mạng tháng Tám. Chính quyết định sáng suốt này mà cuộc kháng chiến chống Pháp thành công giành lại độc lập tự do cho nước nhà. Có lẽ tác giả nhắc lại những địa danh lịch sử nhằm nhấn mạnh câu hỏi để nhắc nhở và khẳng định Việt Bắc chính là cái nôi của cách mạng, là thủ đô của kháng chiến.

     Khổ thơ tiếp theo là lời thề son sắt thủy chung và nỗi nhớ về thiên nhiên Việt Bắc thơ mộng trữ tình là lời bộc bạch trực tiếp của cán bộ về xuôi đối với người dân Việt Bắc:

Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu...

     Sâu nặng bền chặt tình “ta và mình” luôn khắc sâu và được hai bên ghi lòng tạc dạ. Đó là tình quân dân gắn bó như cá với nước, là sự trung thành tuyệt đối với lý tưởng cách mạng là bài học cha ông vẫn còn nguyên giá trị.

     Qua nghệ thuật lập kết hợp với đảo "ta, mình với" đã thể hiện được sự gắn bó tình cảm gần gũi của người ra đi dành cho người ở lại. “Mình và ta” là một quấn quýt yêu thương. Bên cạnh đó là nghệ thuật đối lập “sau và trước khẳng định tình cảm thủy chung trước sau như một không thay đổi. Đó không chỉ là tình cảm đối với người ở lại, mà còn là sự chung thủy gắn bó với cách mạng. Hai từ láy “mặn mà, đinh ninh” vang lên một cách tự nhiên khẳng định đó là tình cảm chắc chắn bền vững không thay đổi theo thời gian. Hai câu thơ là lời thề lời hứa ra đi không quên cội nguồn Việt Bắc. Câu thơ gợi về một tứ Kiều:

"Vầng trăng vằng vặc giữa trời

Đinh ninh hai miệng một lời song song”

     Còn từ “lại” chính là đáp lại câu hỏi của người ở lại khẳng định nỗi nhớ thường trực không nguôi trong lòng của người ra đi. “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” đã mượn cách nói quen thuộc của ca dao:

"Qua đình ngả nón trông đình

Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”

     Qua nghệ thuật so sánh nghĩa tình của người ra đi và người lại với nước trong nguồn. “Nước trong nguồn” thì không bao giờ vơi cạn và tình nghĩa cách mạng cũng thủy chung son sắt không bao giờ thay đổi.

     Lời của người ra đi đáp lại tình cảm của người ở lại bằng những lời khẳng định chắc chắn đinh ninh, như một lời thề, lời hứa thủy chung son sắt không bao giờ thay đổi. Tác giả đã tái hiện cuộc chia tay đầy lưu luyến giữa cán bộ kháng chiến và nhân dân Việt Bắc đồng thời khẳng định tình cảm thủy chung son sắt. Đó là nét đẹp truyền thống của con người Việt Nam. Tính dân tộc đó mà thấm nhuần trong từng câu chữ của thi phẩm:

"Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy."

     Những ký ức như ngày nào dội về mỗi kỷ niệm đều vô cùng rõ nét như mới diễn ra ngày hôm qua vậy. Tác giả đã so sánh nỗi nhớ Việt Bắc như nỗi nhớ người yêu. Có lẽ bởi khi nói về nỗi nhớ người yêu khiến cho con người ta bồn chồn đứng ngồi không yên. Đó là nỗi nhớ ám ảnh thường trực, không nguôi nhiều khi mãnh liệt và phi lý:

"Nhớ ai bổi hổi bồi hồi

Như đứng đống lửa như ngồi đống than”

     Qua đó, nỗi nhớ đã cho thấy mức độ tình cảm của người về xuôi dành cho Việt Bắc là vô cùng sâu nặng và tha thiết. Có ai ngờ giữa không khí cách mạng cao trào lại hiện lên khung cảnh thiên nhiên lãng mạn đến vậy? “Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương" cảnh sắc nên thơ êm ả quá. Cả miền Việt Bắc như dịu êm, mờ ảo trong khói chiều làm mê đắm lòng người. Tác giả đã sử dụng nghệ thuật liệt kê hình ảnh thiên nhiên “trăng, núi, nắng, khói sương, rừng nứa bờ tre, sông suối,... Từ đó bức tranh thiên nhiên Việt Bắc được khắc họa một cách phong phú đa dạng đồng thời cũng rất lãng mạn thơ mộng và trữ tình. Thời gian thì cứ liên tiếp nhau lặp lại cùng không gian bao la của núi rừng. Dường như nỗi nhớ đã bao trùm toàn bộ không gian và thời gian. Điệp ngữ “nhớ từng” được lặp lại hai lần như khắc sâu một lần nữa tình cảm sâu nặng da diết. Bên cạnh đó tác giả đã liệt kê một loạt các địa danh Ngòi Thia, Sông Đáy, Suối Lệ, đó là những địa danh thân thuộc gắn bó. Hơn nữa từ “vơi đầy” là chỉ sự phơi bày của nước dòng sông và cũng như nỗi nhớ dào dạt tha thiết của người về xuôi. Bức tranh thiên nhiên khép lại để mở ra một nỗi nhớ da diết hơn về con người Việt Bắc. “Sớm khuya” là khoảng thời gian trong ngày kết hợp với động từ “đi về” đã thể hiện sự vất vả chăm chỉ cần cù của người dân Việt Bắc.

     “Người thương” ấy là những con người nghĩa tình, đã cùng cán bộ chia sẻ buồn vui, gánh vác gian khó. Đó có chăng là hình ảnh người mẹ, người em liên lạc, người con gái quả cảm hay người anh du kích trong thơ Chế Lan Viên:

“Con nhớ mế! Lửa hồng soi tóc bạc

Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng"

     Tưởng như câu thơ “Ta đi ta nhớ“ đã khẳng định một cách chắc chắn đinh ninh tình cảm kiên định không thay đổi. Hơn hết cách nói “mình đây ta đó” thể hiện tình cảm khăng khít gắn bó. Chính vì thế họ đã trải qua những “đắng cay ngọt bùi” cho những gian khổ khó khăn cũng như niềm vui buồn trong mười lăm năm sâu nặng nghĩa tình. Thật tinh tế và khéo léo khi Tố Hữu đưa thành ngữ “đắng cay ngọt bùi” vào thơ một cách tự nhiên. Tất cả khó khăn ấy đều khép lại bằng phép im lặng qua dấu ba chấm ở cuối câu, để thể hiện cảm xúc dâng trào không thể tiếp tục nói lên lời. Họ không chỉ trải qua khó khăn, mà họ còn chia nhau “củ sắn lùi”, ”bát cơm sẻ nửa”, “chăn sui” qua việc liệt kê một loạt các hình ảnh phong phú sinh động và chân thực. Dường như tác giả đã vẽ lên bức tranh cuộc sống kháng chiến không chỉ ác liệt với kẻ thù, mà còn thiếu thốn trong đời sống sinh hoạt.

     Và có lẽ các động từ “chia sẻ”, “đắp cùng” đã thể hiện chân thực cảm động tình cảm giữa người dân Việt Bắc và cán bộ kháng chiến. Họ chia sẻ với nhau từng miếng ăn ngày đói, hơi ấm trong những đêm đông giá lạnh. Chính những điều đó đã tiếp thêm động lực để cán bộ kháng chiến có thể chiến đấu để có thể vượt qua những gian khổ. Đó cũng chính là cội nguồn của nỗi nhớ. Nhưng cảm động hơn ở một khía cạnh khác đó là hình ảnh của người mẹ trong kháng chiến:

“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”

     Hình ảnh nắng cháy lưng lên ảnh tả thực gửi mẹ Việt Bắc lao động trong điều kiện khắc nghiệt dữ dội nhất. Tố Hữu đã sử dụng thành công các động từ "địu", "bẻ" để diễn tả sự vất vả của người mẹ Việt Bắc trong cuộc sống lao động. Người mẹ đã nhọc nhằn chịu thương chịu khó chắt chiu cho con và ủng hộ kháng chiến. Lúc này con người Việt Bắc hiện lên trong tứ thơ của nhà thơ là những con người cần cù chịu thương chịu khó trong lao động, yêu thương ủng hộ kháng chiến, thủy chung với cách mạng. Bên cạnh đó còn là tình cảm yêu mến của nhà thơ và sự trân trọng biết ơn đối với những người mẹ kháng chiến. Hình ảnh của họ từng hiện lên rất xúc động trong thơ Thu Bồn:

“Mẹ quạt con bằng gió nồm lòng mẹ
Mẹ ấp con bằng lồng ngực không còn mùa đông
Mẹ xoa đầu con
Bằng bàn tay mẹ xoa cánh đồng”

     Hơn hết không chỉ là những con người cao cả ấy mà cả cuộc sống sinh hoạt ở Việt Bắc cũng để lại ấn tượng sâu đậm trong trí nhớ của nhà thơ:

"Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa..."

     Điệp ngữ "nhớ sao" được nhắc lại hai lần thể hiện một nỗi nhớ da diết, mãnh liệt, khôn nguôi đang trào dâng ăm ắp trong lòng. Đó là hình ảnh của lớp học "i tờ", những lớp bình dân học vụ xóa nạn mù chữ trong những ngày đầu kháng chiến. Cụm từ ấy đã gợi ra cách đánh vần ngọng nghịu những nét chữ vụng về, nhưng đằng sau đó là cả một sự cố gắng và tinh thần giác ngộ cách mạng của con người Việt Bắc. Bởi có lẽ biết chữ họ mới có thể tiếp cận được với thông tin kháng chiến để góp một phần công sức nào đó vào sự độc lập của dân tộc.

     Hình ảnh những giờ liên hoan cũng được hiện lên với không khí vui tươi phấn khởi náo nức. Đó là những phút giây khiến cho con người kháng chiến quên đi những mệt nhọc để tiếp tục chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Khó khăn gian khổ là thế nhưng đâu đó vẫn vang vọng tinh thần lạc quan yêu đời tin tưởng vào ngày mai tươi sáng của những con người Việt Bắc qua âm thanh tiếng hát ca vang. Hai câu cuối âm thanh hiện lên vô cùng sinh động đã xua đi cái im lặng của núi rừng, tiếng mõ rừng chiều, tiếng chày đêm nện cối suối xa. Đó là những âm thanh quen thuộc của Việt Bắc mang nét đặc trưng của núi rừng, gợi cuộc sống em đềm thanh bình êm ả. Thiên nhiên Việt Bắc cũng tạo nên một bức tranh tứ bình với phong cảnh bốn mùa xuân, hạ, thu, đông:

Ta về, mình có nhớ ta

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người

     Câu hỏi tu từ vang lên, cũng là câu hỏi đầu tiên từ phía người ra đi một câu hỏi phảng phất hương vị ngọt ngào của tình yêu. Đó cũng là câu hỏi để gợi nhắc chứ không gợi câu trả lời. Vì có lẽ họ quá hiểu rõ lòng nhau. Một lần nữa ta lại bắt gặp giọng điệu ngọt ngào tha thiết qua cặp đại từ “mình - ta”. “Hoa” là biểu tượng cho những gì tinh túy nhất của núi rừng Việt Bắc. Nhắc đến hoa là nhớ đến người dân Việt Bắc nơi đây. Hoa và người có sự hòa quyện gắn bó, làm cho bức tranh thiên nhiên thêm sống động. Cấu trúc của khổ thơ rất độc đáo cứ một câu nói về cảnh lại là một câu nói về người, tạo nên bức tranh tứ bình cảnh với cảnh sắc bốn mùa.

     Trong nghệ thuật tứ bình phương Đông, khi nói đến cảnh của thiên nhiên bao giờ cũng có hình ảnh của tùng, cúc, trúc, mai hay long, ly, quy, phượng, còn nói tới con người là ngư, tiều, canh, mục. Còn ở đây, Tố Hữu đã lãng mạn hóa núi rừng Tây Bắc tạo nên bức tứ bình riêng rất Việt Nam. Đầu tiên là cảnh mùa đông:

"Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”

     Bức tranh mùa đông gợi lên bởi không gian mênh mông với chiều rộng của rừng xanh đại ngàn. Tất cả trở nên sáng hơn khi tô điểm trên nền màu xanh bát ngát của núi rừng là màu đỏ tươi của hoa chuối đang nở rộ. Hai từ “đỏ tươi” làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng ấm áp xua đi cái hoang sơ lạnh lẽo vốn có của mùa đông. Nổi bật trên nền xanh ấy là hình ảnh con người trong một tư thế trên đỉnh đèo cao. Đó là tư thế của con người hiên ngang vững chãi làm chủ thiên nhiên, làm chủ núi rừng.

     Không chỉ thế thì hình ảnh “dao gài thắt lưng” làm con người hiện lên trong lao động hằng ngày chăm chỉ cần cù. Nhưng đặc sắc hơn là cụm từ “nắng ánh”. Tác giả thật tinh tế khi đã chớp lấy khoảnh khắc đẹp nhất trong ngày. Đó là khi ánh nắng rọi vào lối sau khiến con người trở thành điểm hội tụ của ánh sáng tỏa sáng trên đỉnh đèo cao. Có lẽ đây là một phát hiện độc đáo và sáng tạo trong cái nhìn quan sát đầy tinh tế và chi tiết của Tố Hữu. Qua hai câu thơ ta thấy giữa hoang sơ heo hút, giữa trời cao và rừng rộng mênh mông con người đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông ở Việt Bắc. Khép lại bức tranh mùa đông là sự bao trùm với màu trắng tinh khiết của hoa mơ đã làm cho không gian núi rừng Việt Bắc mang vẻ đẹp trong trẻo lạ thường:

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.

     Đó là khi Việt Bắc vào mùa xuân. Chúng ta đã thấy hình ảnh ấy trong bài thơ “Trường ca theo chân Bác”:

“Ôi sáng xuân nay Xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về... im lặng! Con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ"

     Tố Hữu đã sử dụng thành công động từ “nở” để miêu tả được sức sống mùa xuân như lan tỏa khắp không gian núi rừng Tây Bắc. Hai từ “trắng rừng” đã làm cho không gian của núi rừng Việt Bắc như bừng sáng cả một khoảng trời, như được thay áo mới. Trên nền trắng tinh khôi ấy thì con người vẫn tỉ mỉ khéo léo cần mẫn trong công việc hằng ngày qua từ "chuốt". Đó là nghề đan nón - một công việc truyền thống ở Việt Bắc. Từ đó, vẻ đẹp con người Việt Bắc đã khắc sâu trong tâm trí của người ra đi trở thành một dấu ấn không thể nào phai mờ. Bức tranh mùa xuân qua đi màu trắng cũng mờ dần, để nhường chỗ cho âm thanh tiếng ve kêu rạo rực cả một góc trời Việt Bắc vào mùa hè. Đó là âm thanh rộn rã tươi vui, một âm thanh rất đặc trưng để báo hiệu hè về:

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

     Trong Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi, ông cũng đã từng nhắc đến tiếng ve như một dấu hiệu nhận biết hè sang:

"Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”

     Không chỉ là âm thanh mà cả hình ảnh cũng hiện lên với màu sắc vô cùng rực rỡ khi rừng phách đổ vàng. Động từ “đổ” đã diễn tả thật tinh tế cảm giác choáng ngợp ấy, vừa gợi sự biến chuyển mau lẹ của sắc màu, vừa diễn tả tài tình từng đợt lá phách rừng trút xuống khi có ngọn gió thoảng qua. Dường như cảnh vật có sự giao cảm với nhau Sau lời giục giã của tiếng ve, dòng thác vàng bất ngờ “đổ” ụp từ trời cao xuống khiến cả rừng cây óng ánh sắc vàng. Chúng ta cũng đã từng bắt gặp sự chuyển đổi màu sắc trong bài thơ “Duyên” của Xuân Diệu :

“Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá”.

     Bức tranh mùa hè trong tưởng tượng như một bức tranh sơn mài lung linh ánh sáng, màu sắc và rộn rã âm thanh. Sau cùng là bức tranh mùa thu, tuy nhiên là không hề có bất cứ màu sắc nào cả thay vào đó là hình ảnh của ánh trăng. Khác với xu thế bình thường là xuân - hạ - thu - đông, mở đầu lại là mùa đông và kết lại bằng mùa thu. Bởi trong 9 năm ấy là từ mùa đông năm 1946, Bác đưa ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến và khép lại vào tháng 10/1954. Rồi mùa thu Việt Bắc hiện lên với ánh trăng thu vời vợi làm cảnh núi rừng Việt Bắc trở nên mơ màng, êm ả đầy không khí thanh bình. Từ giữa đêm trăng thu huyền ảo ấy, những tiếng hát ân tình thủy chung của con người Việt Bắc lại được cất lên làm nồng ấm cả lòng người:

"Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"

     Ở đây không có tin thắng trận, nhưng lại có tiếng hát nghĩa tình của đồng bào Việt Bắc, là tiếng hát của núi rừng Tây Bắc gắn bó mười lăm năm ròng rã. Tiếng hát "ân tình" khép lại bức tranh tứ bình về thiên nhiên và con người, gợi cho người đi, kẻ ở và cả những độc giả hiện tại có những rung động sâu xa về tình yêu Tổ quốc. Với những nét phác họa đơn sơ, bình dị, bức tranh tứ bình Việt Bắc được vẽ ra với sự hòa quyện giữa cổ điện và hiện đại, giữa con người và thiên nhiên, tất cả tạo nên một bức tranh tổng hòa về thiên nhiên và cuộc sống. Đoạn thơ chính là một nét độc đáo trong phong cách trữ tình chính trị của Tố Hữu mà khi nhắc đến Việt Bắc, người ta lại nhớ ngay đến những tâm hồn hồn hậu, giàu nghĩa tình, thủy chung.

     Tuy cảm xúc chủ đạo là nỗi nhớ, nhưng nhắc đến Việt Bắc nhắc đến Điện Biên Phủ thì cũng không thể thiếu những hình ảnh của những người lính trên chiến trận. Mở đầu khúc hùng ca ta bắt gặp hình ảnh của những con người ra trận:

Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

     Hình ảnh những con đường ra trận dòng hoài niệm của người cán bộ với ăm ắp những niềm tự hào. Hai chữ “của ta” vang lên thật hùng hồn. Câu thơ giống như lời khẳng định chắc nịch. Đọc xong sáu chữ ấy mà khát khao được đứng lên làm chủ quê hương, đất nước mình vẫn vang vọng trong trí nhớ. Cảm hứng này đã từng xuất hiện nhiều trong thơ ca cách mạng:

“Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta”.

(Đất nước - Nguyễn Đình Thi)

     Hình ảnh những con đường hành quân đi tới ngày mai tươi sáng. Nhưng những con đường ấy cũng chính là biểu tượng cho con đường cách mạng trong cả quá trình trưởng thành. Nếu ở hai câu đầu, người cán bộ nhớ về hình ảnh đoàn quân Việt Bắc ra trận qua từ láy "rầm rập" thì ở hai câu thơ sau ông miêu tả trọn vẹn sức mạnh khổng lồ của đoàn quân qua từ láy tượng hình "điệp điệp trùng trùng".

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

     Đó là một cách sử dụng từ độc đáo của Tố Hữu. Khi ông lấy từ gốc là "trùng điệp" sau đó tách từ và láy lại đã miêu tả đoàn quân đông đảo có thể chạy sài Vinh dọc khắp núi rừng vừa mạnh mẽ hào hùng vừa có thể đập tan mọi kẻ thù xâm lược. Câu thơ tiếp theo xuất hiện hình ảnh thật đẹp đó là hình ảnh "Ánh sao đầu súng" có thể hiểu theo hai cách. Có thể là ý nghĩa tả thực, những người lính hành quân trong đêm súng vác trên vai Ngôi sao có lúc như treo trên đầu ngọn súng, ngôi sao trở thành người bạn đồng hành của những người chiến sĩ. Hình ảnh thơ ấy có nét tương đồng với ảnh thơ trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu:

"Đầu súng trăng treo"

     Hay đó là nét tương đồng trong thơ của Nguyễn Đình Thi:

"Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh

Soi sáng đường chiến sĩ giữa đèo mây"

     Bên cạnh đó hình ảnh ấy còn mang ý nghĩa biểu tượng vô cùng đặc sắc. Ánh sao là biểu tượng cho lý tưởng cách mạng lý tưởng cao đẹp của cuộc đời những người chiến sĩ. Đầu súng là tinh thần chiến đấu là sự oai nghiêm dũng cảm. Cả câu thơ có thể hiểu đó là lý tưởng cách mạng đã soi đường chỉ lối cho những người lính tiếp tục chiến đấu bằng ý chí và sự bất khuất, kiên cường.

     Tất cả hình ảnh thơ được tái hiện vừa thực vừa lãng mạn. Không chỉ có bộ đội ra trận mà nhân dân ta ở bất kì đâu cũng hăng hái góp sức mình vào cuộc kháng chiến. Cùng hành quân với bộ đội là những đoàn dân công phục vụ chiến đấu:

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.

     Tác giả đã sử dụng đảo ngữ “dân công” lên đầu câu. Từ đó nhấn mạnh lực lượng cùng tham gia kháng chiến bao gồm cả các dân công. Dường như đó là cuộc kháng chiến của cả toàn dân của cả dân tộc chứ không riêng gì những người chiến sĩ đầu đội trời chân đạp đất. Tố Hữu thật tinh tế và độc đáo khi đặt “dân công” ở đầu câu, cuối câu là “từng đoàn”. Với cấu trúc ấy đã gợi ra sự trùng điệp vô tận của những đoàn dân công, họ ngày đêm cần mẫn với công việc chuyển lương thực, phục vụ chiến trường.

     Hình ảnh đoàn dân công bước đi trong đêm với những ngọn đuốc cháy sáng rực trên tay. Tất cả đều mang âm hưởng sử thi hào hùng, hình ảnh hoành tráng bay bổng lãng mạn. Nhưng đặc sắc hơn khi nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật phóng đại "bước chân nát đá" để miêu tả được sự đông đảo của những lực lượng tham gia kháng chiến. Dường như mọi thứ đã được thần thoại hóa kể cả sức mạnh của quân đội ta: những con người đẹp bằng chông gai đi tới. Để có thể chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược họ quyết hi sinh bản thân mình vì dân tộc. Khép lại hai câu thơ trên hình ảnh thơ đã tái hiện được khí thế hào hùng của Việt Bắc trong chiến đấu.

     Mặc dù điều kiện chiến đấu vô cùng gian khổ, nhưng trong họ vẫn luôn giữ niềm lạc quan tin tưởng vững chắc vào ngày mai chiến thắng của dân tộc ta:

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Đèn pha bật sáng như ngày mai lên

     Hiện thực mà tác giả khắc họa là cuộc chiến đấu của nhân dân, bộ đội rất gian khổ, bí mật thường phải chiến đấu trong đêm tối nên cần đốt đuốc, “nghìn đêm” được tái hiện qua nghệ thuật ước lệ. Đó là khoảng thời gian dài không có điểm dừng. Nhưng hơn thế nữa, qua từ láy “thăm thẳm” đã gợi tả được màn sương dày đặc bao phủ Việt Bắc. Đó là thiên nhiên khắc nghiệt dữ dội, gọi lên sự mù mịt không hướng đi. Đặc sắc hơn hình ảnh đó còn ẩn dụ cho quãng thời gian đen tối khi dân tộc, chìm trong đêm trường nô lệ. Nhân dân cả nước phải chịu sự đau khổ mất mát cả về tinh thần lẫn vật chất trong những năm tháng chiến tranh.

     Xua đi đêm tối, gạt đi màn sương dày, động từ “bật sáng” xuất hiện như làm bừng sáng cả câu thơ kết hợp với nghệ thuật so sánh “như ngày mai lên”. Hai hình đó đã nhấn mạnh khoảnh khắc chói lòa khi kháng chiến chuyển sang một thời kỳ mới: thời kỳ của chiến thắng vẻ vang đã ghi dấu ấn sâu sắc trong lòng của cán bộ kháng chiến, của nhân dân Việt Bắc. Tố Hữu đã đã sử dụng nghệ thuật đối lập “thăm thẳm sương dày” và “bật sáng như ngày mai lên" để diễn tả sự tự hào, niềm tin vào tương lai tươi sáng của cách mạng. Tất cả những hình ảnh ấy khép lại làm hiện lên trước mắt người đọc một Việt Bắc hào hùng anh dũng, một quân đội nhân dân lớn mạnh có thể chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Và đó cũng là một thời kỳ gian khổ hiểm nguy nhưng vô cùng hào hùng của dân tộc... Chính những sức mạnh ấy, niềm tin ấy đã đem lại những niềm vui chiến thắng. Những tin vui chiến thắng dồn dập liên tục trên nhiều mặt trận được gửi về làm nức lòng quân và dân ta:

Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc đèo De, núi Hồng.

     Điệp từ "vui" được lặp đi lặp lại nhiều lần gợi lên những đợt sóng tình cảm trào dâng, đợt sóng này kế tiếp đợt sóng kia cứ dâng lên, dâng lên mãi, tràn ngập tâm hồn nhà thơ, trong lòng quân dân cả nước. Với lối thơ lục bát ngọt ngào như ca dao, chất thơ trữ tình cách mạng thật sôi nổi, hào hùng, thiết tha của tác giả Tố Hữu, đoạn thơ này đã thể hiện nổi bật khí thế hào hùng của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp ở Việt Bắc; thể hiện niềm lạc quan cách mạng, ý chí chiến đấu và chiến thắng kẻ thù, làm nên những chiến thắng vẻ vang, mang niềm vui về cho dân tộc. Đoạn thơ như một đoạn sử thi của cuộc kháng chiến chống Pháp. Sau chiến thắng vẻ vang của toàn dân ta, khắp nơi hân hoan trong màu sắc rực rỡ tươi vui dưới ánh nắng và lá cờ đỏ sao vàng:

Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
Điều quân chiến dịch Thu - Đông
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu...
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ấy, ai quên
Quê hương Cách mạng dựng nên Cộng Hòa.
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào

     Trung ương Đảng và Chính phủ thu xếp trở về thủ đô, trong không khí nhộn nhịp, miền Bắc ngày một đổi mới với chính sách mới của Đảng và nhà nước. Đồng thời đoạn thơ cũng là lời ngợi ca công lao vĩ đại của Bác Hồ kính yêu, lời tri ân sâu sắc với miền núi rừng Tây Bắc thân thương, dù mai này đã trở về thủ đô nhưng trong tim những người chiến sĩ cách mạng luôn giữ cho mình một góc trong tim dành cho Việt Bắc. Và một lần nữa tác giả lại nhắc đến các địa danh địa điểm có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong cuộc kháng chiến: mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào như gợi nhắc chúng ta về một thời lịch sử đã qua nhưng vẫn hiện hữu ở đó. Và khổ thơ cuối gắn liền với ảnh của Bác hồ và cũng là cội nguồn cuộc cách mạng, là điểm tựa niềm tin tinh thần của nhân dân Việt Nam. Từ đó thể hiện tình cảm tri ân của nhà thơ dành cho Việt Bắc. Có lẽ bởi Việt Bắc chính là cái nôi của cách mạng là đầu não kháng chiến, mà một phần đời còn lại các cán bộ kháng chiến không thể nào quên.

     Bài thơ Việt Bắc để lại ấn tượng trong lòng người đọc bởi bức tranh thiên nhiên con người Việt Bắc. Đó đều là những dấu ấn không thể phai nhòa trong khoảng lặng tâm hồn của nhà thơ và cũng như độc giả. Bằng cách sử dụng thể thơ lục bát mang âm hưởng sâu lắng, giọng điệu thủ thỉ tâm tình, cách sử dụng cặp đại từ mình ta độc đáo sáng tạo, ngôn ngữ giản dị mộc mạc, cùng các biện pháp tu từ điệp ngữ điệp cấu trúc, nghệ thuật liệt kê,.... Tố Hữu đã mang đến cho người đọc những cảm xúc khó tả, sự khâm phục tinh thần bất khuất của một thời lịch sử hào hùng đã qua. Quả thật không sai khi nói rằng "thái độ toàn tâm toàn ý với cách mạng là nguyên nhân chính làm nên thành công của nhà thơ Tố Hữu".

Nghe bài văn phân tích Việt Bắc hay nhất

Phân tích bài Việt Bắc mẫu số 6

     Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu là một bài thơ gồm có hai phần, trong đó đoạn trích "Việt Bắc" trong SGK Ngữ văn 12 thuộc phần 1 tái hiện lại giai đoạn gian khổ, vẻ vang của cách mạng và kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc. Đoạn trích được coi là đỉnh cao thơ Tố Hữu và cũng là tác phẩm xuất sắc văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp.

     Mở đầu đoạn trích là lời ướm hỏi "Mình về có nhớ... nhìn sông nhớ nguồn". Lời ướm hỏi người ra đi có nhớ về chiến khu Việt Bắc, nhớ về cuộc kháng chiến trong suốt 15 năm, nhớ thiên nhiên Việt Bắc. Bên cạnh đó, đoạn thơ cũng là nỗi lo lắng, thấp thỏm của người ở lại sợ người ra đi về thủ đô họ sẽ quên thiên nhiên núi rừng hoang vu và cả những người ở lại.

"Mình về thành thị... giữa rừng".

     Nhà thơ sử dụng rất nhiều tính từ giàu giá trị biểu cảm mang âm hưởng ngọt ngào để diễn tả tình cảm gắn bó sâu nặng. Phải chăng, mình ấy ta ấy là một phần đời. Tố Hữu để người ở lại nói trước thể hiện nhãn quan chính trị nhạy bén của Tố Hữu cùng trái tim tinh tế của một người chiến sĩ.

     Đồng thời, để người ở lại nói trước tác giả tạo cơ hội cho người ở lại được bày tỏ tình cảm và giúp người ra đi thể hiện cảm xúc một cách tự nhiên. Và đây cũng là cách nhắc nhở kín đáo đối với cách mạng sắp về xuôi cũng như cả dân tộc phải hướng về cội nguồn, phải nhớ tới truyền thống ân nghĩa và đạo lý ngàn xưa của cả dân tộc.

     Bốn câu tiếp theo là lời của người ra đi. Nhà thơ sử dụng nghệ thuật đăng đối hai vế trong một câu thơ diễn tả trạng thái cảm xúc lưu luyến, xốn xang. Người ra đi cũng cảm thấy trong lòng có gì đó chơi vơi, hụt hẫng để rồi chân bước đi mà lòng muốn ở lại. Tác giả sử dụng tài tình biện pháp tu từ hoán dụ diễn tả chân thành, cảm động tình cảm của người ra đi dành cho người ở lại. Màu áo chàm vốn giản dị, đơn sơ mộc mạc nhưng đã in đậm trong kí ức của Tố Hữu.

     Tám câu thơ đầu cả người ra đi và người ở lại đều hướng tới khẳng định nghĩa tình son sắt thủy chung, khẳng định sự bền chặt của tình đồng chí. Tám câu đầu đã diễn tả khung cảnh chia tay giữa núi rừng Việt Bắc của người dân Việt Bắc và cán bộ cách mạng sắp về xuôi. Một cuộc chia tay lịch sử nhưng thiêng liêng và đầy cảm động.

     Mười hai câu thơ tiếp theo là những cặp câu lục bát liên hoàn. Sau mỗi câu lục xoáy vào cái tình của người ra đi là những câu bát gợi ra những kỉ niệm gắn bó chặt chẽ của người cán bộ cách mạng với Việt Bắc. Dường như mỗi câu thơ là một dòng nhật kí của chính người trong cuộc. Những câu thơ miêu tả thiên nhiên Việt Bắc rất bình dị nhưng cũng rất đỗi thơ mộng mang dấu ấn vùng miền, chứa linh hồn, hơi thở của Việt Bắc. Mười tám câu thơ miêu tả thiên nhiên là những dòng cảm xúc chảy trôi miên man. "Ta về mình có nhớ ta... ân tình thủy chung". Đoạn thơ này là bức tranh tứ bình sinh động có màu sắc, đường nét, âm thanh, ánh sáng thể hiện tài năng của tác giả trong việc tả cảnh.

     Ông sử dụng sáng tạo nghệ thuật vẽ tranh tứ bình - một đặc sản của hội họa cổ điển phương Đông. Bức tranh ấy hiện lên với bốn mùa xuân, hạ, thu, đông của núi rừng Việt Bắc. Ông không miêu tả chi tiết, cụ thể mà ông chỉ điểm xuyết một vài hình ảnh nhưng là những hình ảnh kết đọng nhiều nhất sức sống và linh hồn của cảnh vật. Và trên nền bức tranh thiên nhiên ấy là hình ảnh của con người luôn trong trạng thái lao động. Ở họ hội tụ đầy đủ phẩm chất cần cù, chăm chỉ, chịu thương chịu khó. Đồng thời họ còn là những con người sống thủy chung, nghĩa tình, nhân hậu và vị tha.

     Hai mươi hai câu thơ tiếp "nhớ khi giặc đến giặc lùng... Nhớ sang Nhị Hà" là hình ảnh thiên nhiên Việt Bắc mang sức mạnh của con người. Chính sự hòa quyện, gắn bó giữa con người với thiên nhiên tạo nên sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân. Thiên nhiên Việt Bắc cũng trở thành những chiến sĩ cùng với con người tạo nên hình ảnh một đất nước đứng lên. Sử dụng biện pháp liệt kê giúp tác giả hồi tưởng một cách chân thực về các địa danh, tên đất, tên bản trên bản đồ địa lý vùng miền. Điều đó trở thành một nhân chứng lịch sử và cũng lưu lại đậm nhất dấu ấn lịch sử kháng chiến chống Pháp.

     Khép lại đoạn trích Việt Bắc là những lời ca ngợi Đảng, ca ngợi Bác Hồ Chí Minh, khẳng định vai trò quan trọng thiêng liêng Việt Bắc trong cách mạng và kháng chiến. Việt Bắc chính là cội nguồn, là chân lý nơi nuôi dưỡng và tiếp thêm sức mạnh. Và Việt Bắc cũng là nơi khai sinh ra những địa danh mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc.

Phân tích bài Việt Bắc mẫu số 7

     "Việt Bắc" là bài thơ kiệt tác của Tố Hữu, là một trong những thành tựu xuất sắc của thơ ca Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954). Ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử hào hùng của dân tộc, sâu chiến thắng Điện Biên chấn động địa cầu, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, Thủ đô Hà Nội rợp đỏ bóng cờ trong ngày hội non sông (10 - 1954). Bài thơ "Việt Bắc" là tiếng hát nghĩa tình sắt son thủy chung của mình với ta, của chiến sĩ, cán bộ, đồng bào đối với chiến khu Việt Bắc với cách mạng và kháng chiến, đối với Đảng và Bác Hồ của miền xuôi và miền ngược; là khúc tráng ca anh hùng của một dân tộc thắng trận sau hơn ba ngàn ngày máu lửa.

     Bài thơ "Việt Bắc" mang tầm vóc một trường ca, dài 150 câu thơ lục bát, vừa mang âm điệu ca dao, dân ca đậm đà, vừa mang vẻ đẹp thơ ca cổ điển và thơ ca cách mạng dân tộc. Mở đầu bài thơ là cảnh đưa tiễn của mình với ta, giữa kẻ ở với người đi đã gợi ra một trời thương nhớ, lưu luyến, bồn chồn, thiết tha:

Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?

     Hình ảnh hoán dụ "áo chàm" hiện lên trong buổi tiễn đưa đã tạo nên màu sắc Việt Bắc, màu sắc núi rừng chiến khu, màu thương nhớ của mối tình quân dân "đậm đà lòng son" suốt mười lăm năm trời cách mạng và kháng chiến:

Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...

     Có biết bao kỉ niệm sâu sắc ghi nhớ trong lòng, trải suốt một chặng đường dài gian lao và anh dũng, từ cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940 đến chiến thắng Điện Biên và ngày miền Bắc được hoàn toàn giải phóng (mùa thu năm 1954). Những câu hỏi của người ở lại hòa theo tiếng hát cứ quyện vào hồn, thấm sâu vào lòng người cán bộ kháng chiến về xuôi: "Mình về có nhớ... Mình đi có nhớ...". Mình đi có nhớ những tháng ngày "nhóm lửa" gian khổ: "Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù". "Mình về có nhớ chiến khu" thời đánh Pháp đuổi Nhật "Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai". Trong thiếu thốn gian lao, nợ nước thù nhà khắc sâu hồn người, càng chất chứa trong lòng, càng đè nặng đôi vai: "Mày sẽ chết! Thằng giặc Pháp hung tàn - Băm xương thịt mày tan mới hả" (Dọn về làng - Nông Quốc Chấn). Mình đi..., mình về... có nhớ, nhớ trám bùi, nhớ măng mai, nhớ lau xám, nhớ những địa danh lịch sử, nhớ "Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?". Nhớ Việt Bắc là "Nhớ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh", nhớ đồng bào của dân tộc tuy nghèo khổ thiếu thốn nhưng tình nghĩa thủy chung son sắt với cách mạng.

     Những ẩn dụ, tượng trưng trong thơ Tố Hữu thật rung động, mở ra một không gian thương nhớ mênh mông với bao tình nghĩa vơi đầy:

Mình đi có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son.

     Xa dần Việt Bắc, trên đường về Thủ đô, về xuôi, người cán bộ kháng chiến mang theo bao nỗi nhớ, chất chứa dào dạt trong tâm hồn bao kỉ niệm đẹp và sâu sắc:

Mình đi mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu...

     Người đi, người về mang theo bao nỗi nhớ: nhớ mình, nhớ trăng lên đầu núi, nhớ nắng chiều lưng nương, nhớ bản khói cùng sương, nhớ bếp lửa, nhớ rừng nứa bờ tre, nhớ ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê,...

     Một củ sắn lùi, một bát cơm sẻ nửa, chiếc chăn sui... trong những tháng ngày "đắng cay ngọt bùi" ấy, người về có bao giờ quên. Sự đồng cam cộng khổ đã làm cho tình thương nỗi nhớ thêm bồi hồi da diết:

"Thương nhau chia củ sắn lùi,

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng".

     Các từ ngữ "thương nhau, sẻ nửa, đắp cùng" như những ngọn lửa thắp sáng vần thơ, làm cho tình đồng bào đồng chí, tình quân dân, tình cá nước thêm ấm áp.

     Nhớ chiến khu, nhớ Việt Bắc, ta nhớ mình, nhớ người mẹ vất vả, tần tảo "nắng cháy lưng, địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô". Điệp ngữ "nhớ sao" diễn tả bao da diết bồn chồn: nhớ sao lớp học i tờ, nhớ sao đuốc sáng những giờ liên hoan; nhớ tiếng hát giữa lưng đèo, vách núi, nhớ tiếng mõ rừng chiều, nhớ tiếng chày đêm nện cối... của khúc nhạc rừng chiến khu. "Những hoa cùng người" của Việt Bắc trong bốn mùa đã trở thành mảnh tâm hồn của ta cùng với bao nỗi nhớ:

Ta về mình có nhớ ta,

Ta về ta nhớ những hoa cùng người,

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi,

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.

Ve kêu rừng phách đổ vàng,

Nhớ cô em gái hái măng một mình.

Rừng thu trăng rọi hòa bình,

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

     Đoạn thơ như một bài hành mang vẻ đẹp cổ điển. Thiên nhiên và con người Việt Bắc được điểm nhãn trong bức tranh tứ bình đẹp như gấm như thêu. Màu đỏ tươi của hoa chuối giữa rừng xanh mùa đông và con dao quắm của người đi nương, đi rẫy "nắng ánh" trên đèo cao. Hoa mơ mùa xuân "nở trắng rừng" và người thợ thủ công khéo léo đan nón "chuốt từng sợi giang". Rừng phách mùa hè "đổ vàng" trong tiếng ve và hình ảnh cô gái Việt Bắc "một mình" đi hái măng giữa rừng tre rừng trúc. Tiếng hát ân tình thủy chung của ai cất lên trong rừng thu dưới ánh trăng xanh hòa bình mát dịu. Tất cả đều trở thành nỗi nhớ của ta, của người cán bộ kháng chiến.

     Tố Hữu đã sống hết mình với Việt Bắc nên ông mới viết thật hay về nỗi nhớ ấy. Cảnh sắc thiên nhiên đẹp rực rỡ, đẹp dịu dàng và đầy sức sống. Cảnh bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, mùa nào cũng đẹp, một vẻ đẹp thơ mộng xinh tươi. Con người Việt Bắc được nói đến là con người lao động: người đi làm nương rẫy, người thợ thủ công, cô em gái hái măng, và ai đang cất cao tiếng hát - tất cả đều tượng trưng cho những đức tính tốt đẹp của đồng bào các dân tộc Việt Bắc như cần cù, khéo léo, lạc quan yêu đời. Đọc bài thơ "Việt Bắc", ta không bao giờ quên được cảnh sắc thiên nhiên bốn mùa và những con người lao động đáng yêu ấy.

     Nhớ Việt Bắc là nhớ chiến khu bất khả xâm phạm: "Núi giăng thành lũy sắt dày". Nhớ Việt Bắc là nhớ thế trận chiến tranh nhân dân thần kì: "Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây". Nhớ Việt Bắc là nhớ chiến khu với tất cả niềm tự hào về khối đại đoàn kết dân tộc làm nên sức mạnh Việt Nam để chiến đấu và chiến thắng:

Mênh mông bốn mặt sương mù,

Đất trời ta cả chiến khu một lòng.

     Tác giả đã sáng tạo nên những hình ảnh ẩn dụ và nhân hóa ngợi ca chiến khu Việt Bắc mang tầm vóc dũng sĩ hiên ngang - cái nôi của cách mạng "dựng nên Cộng hòa". "Ai về ai có nhớ không?" - Ta nhớ nhiều và nhớ lắm. Nhớ những nẻo đường chiến dịch, nhớ những địa danh lịch sử mà bộ đội ta từng vào sinh ra tử, làm cho giặc Pháp bạt vía kinh hồn: "nhớ Phủ Thông, đèo Giàng - Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng - Nhớ từ Cao Lạng nhớ sang Nhị Hà". Cả một trời thương nhớ không bao giờ có thể quên. Ta về ta nhớ những con đèo, những dòng sông, những ngọn núi..., nay "đã hóa tâm hồn" ta từ những tháng ngày gian khổ và oanh liệt.

     Nhớ Việt Bắc là nhớ những nẻo đường chiến dịch, nhớ những đêm "rầm rập" hành quân ra trận. Là nhớ những binh đoàn "Quân đi điệp điệp trùng trùng" trong ánh sao đêm. Là nhớ những đoàn dân công vận tải "Bước chân nát đá" theo ngọn đuốc đỏ rực, cùng ánh "đèn pha bật sáng" của đoàn xe kéo pháo ra trận. Giọng thơ mang âm điệu anh hùng ca cất lên như những tiếng reo biểu lộ niềm vui trước khí thế chiến đấu và chiến thắng của quân và dân ta trong ba nghìn ngày khói lửa:

Những đường Việt Bắc của ta,

Đêm đêm rầm rập như là đất rung.

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.

     "Ai về có nhớ không" - Ta về…, ta nhớ nhiều và nhớ lắm!". Nhớ Việt Bắc là nhớ "thủ đô gió ngàn" của cuộc kháng chiến, là nhớ "Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang", là nhớ "Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào", là nhớ "Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa"… Chiến khu Việt Bắc là nơi gửi gắm bao niềm tin của đồng bào và chiến sĩ trên mọi miền đất nước gần xa trong những năm dài chiến đấu gian khổ: "Trông về Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi… Nhìn lên Việt Bắc mà nuôi chí bền".

     Việt Bắc là nơi hội tụ mọi chiến công, chiến thắng của quân và dân ta từ khắp các chiến trường báo về; niềm vui thắng trận dâng lên dào dạt:

Tin vui chiến thắng trăm miền

Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về,

Vui từ Đồng Tháp, An Khê,

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.

     Lời đối đáp tâm tình của "mình", "ta" được thể hiện trong phần thứ hai bài thơ "Việt Bắc" càng trở nên bồi hồi tha thiết; người ở, người về, miền xuôi và miền ngược càng gắn bó ân tình sâu nặng. Món quà Việt Bắc gửi về miền xuôi là đặc sản, là "cây nhà lá vườn", là hương vị của núi rừng:

Mình về ta gửi về quê,

Thuyền nâu, trâu mộng với bè nứa mai.

     Món quà ấy càng làm cho tình nghĩa mình - ta, tình non nước thêm bền đẹp, càng làm cho cuộc sống, cuộc đời thêm đậm đà sắt son: "Chàm nâu thêm đậm, phấn son chẳng nhòa… Phên nhà lại ấm, mái đình lại vui".

     "Việt Bắc" là bài ca tình nghĩa. Có biết bao câu hỏi vang lên dồn dập như nhắc nhở, như khắc sâu những tình cảm tốt đẹp của quân dân, của cách mạng và kháng chiến, của mình với ta:

Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng?

Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?

Bao giờ Việt Bắc tưng bừng thêm vui?

     Hai chữ "ngày mai" được điệp lại, mở ra một trời mơ ước bao la. Và đó cũng là niềm tin yêu của những tấm lòng ân tình, ân nghĩa thủy chung:

Ngày mai về lại thôn hương,

Rừng xưa núi cũ yêu thương lại về.

Ngày mai rộn rã sơn khê,

Ngược xuôi tàu chạy, bốn bề lưới giăng…

     Việt Bắc sẽ đổi thay trong sự đổi thay của đất nước. Những nhà máy mới sẽ mọc lên. Phố phường sẽ mọc lên. Có nhiều mái trường ngói mới đỏ tươi cho tuổi thơ. Có "Chợ vui trăm nẻo về khơi nguồn hàng". Mối quan hệ đầy tình nghĩa giữa miền xuôi và miền ngược, sẽ trở nên sâu nặng, gắn bó thiết tha vô cùng. Muối Thái Bình, cày bừa Đông Xuất, mía đường tỉnh Thanh, chum vại Hương Canh… là đặc sản miền xuôi gửi lên miền ngược sẽ góp phần làm cho cuộc sống mới thêm ấm áp, đẹp tươi. Món quà miền xuôi gửi lên miền ngược là món quà tình nghĩa "Ai lên mình gửi cho anh với nàng":

Chiếu Nga Sơn, gạch Bát Tràng,

Vải tơ Nam Định, lụa hàng Hà Đông.

     Những món quà tình nghĩa ấy đã làm cho lời thề giữa mình với ta được khắc sâu, làm cho khúc tình ca non nước mãi mãi bền đẹp:

Nước trôi lòng suối chẳng trôi,

Mây đi mây vẫn nhớ hồi về non.

Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn…

     Một trong những hình ảnh đẹp nhất được Tố Hữu tô đậm trong bài thơ là hình ảnh vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc. Người đã từng hoạt động bí mật tại Cao Bằng. Người đã đến với Tân Trào trong những ngày Quốc dân đại hội. Người đã sống và đi thuyền trên sông Đáy. Bác đã đi chiến dịch Biên giới… nay Bác về xuôi cùng đoàn quân thắng trận. Núi rừng Việt Bắc "không nguôi nhớ Người", ngẩn ngơ "trông theo bóng Người". Bức chân dung lãnh tụ vừa cổ kính thiêng liêng vừa bình dị, gần gũi:

Mình về với Bác đường xuôi

Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người.

Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời

Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường!

Nhớ Người những sáng tinh sương

Ung dung yên ngựa trên đường suối reo

Nhớ chân Người bước lên đèo

Người đi, rừng núi trông theo bóng Người.

     Nét vẽ nào cũng thần tình, có núi rừng, có đèo cao, có suối reo… làm nền cho bức họa truyền thần. Có những nét chấm phá linh diệu về Ông Cụ: mắt sáng ngời, áo nâu túi vải đẹp tươi, phong thái ung dung khi ngồi trên yên ngựa trong tiếng suối reo, khi bước trên đèo cao… Thời gian là những sáng tinh sương. Thần thái của Người là thông minh tài trí, là giản dị, bình dị, là ung dung, thanh cao. Thiên nhân được nhân hóa: "Người đi, rừng núi trông theo bóng Người" làm cho tình thương nhớ, lưu luyến và sự kính yêu ngưỡng mộ của nhân dân đối với Bác Hồ thêm đậm đà, sâu sắc. Đây là một trong những đoạn thơ hay nhất, đẹp nhất của Tố Hữu viết về vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc.

     Bài thơ "Việt Bắc" được khép lại trong tình non nước và lòng biết ơn Bác Hồ kính yêu. Đó là mối tình đời đời bất diệt:

Ngàn năm non nước mai sau

Đời đời ơn Bác càng sâu càng bền.

     "Việt Bắc" là sự kết tinh nghệ thuật thơ ca dân gian và thơ ca cổ điển của dân tộc. Cách đối đáp giữa mình với ta theo lối ca dao dân ca được vận dụng sáng tạo. Tình lưu luyến, bồi hồi giữa kẻ ở người về gắn liền với bao kỉ niệm đắng cay, ngọt bùi trong suốt mười lăm năm trời, từ ngày "kháng Nhật thuở còn Việt Minh" đến ngày chiến thắng giòn giã "Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về". Hình ảnh quân dân kháng chiến, hình ảnh lãnh tụ kính yêu, cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng, hùng vĩ, đẹp tươi… tất cả đã chung đúc một cách hài hòa, tuyệt đẹp làm nên tính dân tộc và tính hiện đại của bài thơ tuyệt bút này.

     "Việt Bắc" là khúc tình ca cũng là bản anh hùng ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Nó đã nâng cao tình yêu nước và niềm tự hào dân tộc. Tình ân nghĩa thủy chung là bài học sâu sắc đối với mỗi chúng ta, mãi mãi là hành trang của mỗi chúng ta. "Thơ hay phải có dư vị văn chương" như có người đã nói. Trong những năm dài sống trong chế độ bao cấp, thiếu thốn đủ điều, có lúc phải ăn bo bo, nên khi đọc Việt Bắc, nhiều người chưa cảm thấy "dư vị" của nó. Bước sang thế kỉ XXI, đất nước ta đang đổi mới từng ngày từng giờ. Tuy đến nay (2008), Việt Bắc chưa có cảnh tượng "Phố phường như nấm, như măng giữa trời", nhưng ai cũng cảm thấy lạc quan và hi vọng. Dự báo ấy chính là "dư vị văn chương" của bài thơ Việt Bắc.

Phân tích bài thơ Việt Bắc ngắn nhất mẫu số 8

     Tố Hữu là nhà thơ hăng hái dấn thân vào sự nghiệp giải phóng đất nước bằng trái tim và lòng yêu nước sôi sục. Ông là lá cờ tiên phong cho thơ ca cách mạng với nhiều tác phẩm vô cùng giá trị. Việt Bắc là một tác phẩm tiêu biểu xuất sắc của ông.

     Việt Bắc được sáng tác vào năm 1954 kể lại một chặng đường khó khăn của dân tộc để đi đến thắng lợi với những câu thơ hào hùng, đầy lòng tự hào của tác giả.

"Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn."

     Bài thơ bắt đầu với tự tình của người ở lại. Tác giả đã tạo nên khung cảnh lưu luyến giữa cuộc chia tay của người Việt Bắc và người lính. Từ "thiết tha mặn nồng" không chỉ nói về tình cảm lứa đôi mà còn là những sẻ chia nên cái nặng sâu của tình nghĩa. Tác giả chỉ dùng hai hình ảnh đã gợi lên một thời cách mạng, kháng chiến. Người ở nhắc cho người đi về thời kỳ đầu tiên xây nền móng cách mạng kháng chiến. Dùng hình ảnh miêu tả sông, núi, rừng làm nỗi nhớ trở nên sâu đậm đồng thời gợi về những đặc điểm quen thuộc của quê hương Việt Bắc.

"Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay..."

     Người ra đi đã hồi đáp lời của người ở lại. Sự tri kỷ khiến họ thấu hiểu nhau cùng hô ứng đồng vọng. Nhà thơ sử dụng những cặp từ láy như bâng khuâng, bồn chồn, tạo nhạc điệu và cho thấy cảm xúc của người ra đi. "Bâng khuâng" là từ láy thể hiện cảm xúc mơ hồ đan xen buồn vui. "Bồn chồn" là tâm trạng không nỡ lìa xa.

     Áo chàm là hình ảnh đơn sơ, giàu nghĩa tình, không thể nhạt phai như tấm lòng thủy chung của người Việt Bắc. Sự lưu luyến được thể hiện trong nhịp thơ 3/3/2 thể hiện cảnh chia tay đầy tiếc nuối, nhớ nhung. Tám câu thơ đầu đã diễn tả cảm xúc băn khoăn, trăn trở của người đi và người ở lại.

     Đoạn thơ tiếp theo là vẻ đẹp của con người trong nỗi nhớ:

"Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi"

     Sắc thái của nỗi nhớ được tác giả thể hiện thật cụ thể. Nhớ người yêu là nỗi nhớ biểu hiện của tình yêu sâu sắc. Từng cảnh vật của Việt Bắc liên tiếp hiện ra trong nỗi nhớ của người đi: Việt Bắc tươi đẹp với ánh nắng ấm áp, với khói sương huyền ảo và bếp lửa nghĩa tình. Những địa danh tác giả từng trải qua đều in đậm trong tiềm thức của người ra đi.

"Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa."

     Tác giả tả về vẻ đẹp của người Việt Bắc trong sinh hoạt đời thường. Đắng cay là những thiếu thốn trong đời sống vật chất, còn ngọt bùi là tình yêu thương giữa cán bộ và đồng bào. Những xúc động chứa đựng trong mấy chữ đắng cay, ngọt bùi. Tác giả đã tả về cuộc sống đói nghèo của người dân. Thương nhau chia củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng. Người chiến sĩ và nhân dân không chỉ đối mặt với kẻ thù mà còn cả cái đói, cái rét. Đó là một tình cảm đáng trân trọng. Người cán bộ cũng bồi hồi nhớ về người mẹ Việt Bắc cơ cực, vất vả địu con lên rẫy. Lớp học bình dân học vụ với những giờ sinh hoạt cũng hiện ra thật ấm áp. Khép lại đoạn thơ là hình ảnh thân thương “tiếng mõ”, gợi tả âm thanh êm dịu, thanh bình của một cuộc sống thật bình dị, giản đơn.

     Cảnh thiên nhiên bốn mùa ở Việt Bắc là bức tranh tứ bình đầy màu sắc:

"Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung."

     Mùa đông trong thơ Tố Hữu ấm áp một cách kỳ lạ làm xua tan cái hiu hắt của đồi núi. Mùa xuân là một rừng hoa mơ tinh khiết, trắng ngần với sức sống tràn trề của núi rừng Việt Bắc và đồng thời gợi cảm giác xốn xang, nhớ nhung trong lòng. Mùa hè là khúc nhạc tình ca của đàn ve và hình ảnh con người giản dị giữa thiên nhiên. Tác giả đón nhận mùa hè bằng tất cả các giác quan của mình. Người cán bộ sau đó đã nhớ về trăng ở Việt Bắc vào mùa thu. Ánh trăng trong sáng hòa bình đem bao ước vọng về cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Giữa sự thay đổi của bốn mùa, hình ảnh người lao động hiện ra thật giản dị, chăm chỉ đóng góp cho sự phát triển của đất nước.

     Đoạn tiếp theo là vẻ đẹp của con người trong chiến đấu:

"Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Ðất trời ta cả chiến khu một lòng.

Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên."

     Từng sự kiện được gợi lên với biết bao đau thương, mất mát nhưng người dân vẫn một lòng đoàn kết thành lập một chiến tuyến chống kẻ thù. Đoạn thơ thể hiện không khí chiến đấu của con người Việt Bắc: núi vươn lên thành lũy sắt, rừng thành phòng tuyến chống quân thù. Điệp từ kết hợp với phép nhân hóa thể hiện sức mạnh đoàn kết của con người và thiên nhiên. Khí thế xung trận thể hiện bằng từ láy "rầm rập", gấp gáp của đoàn quân. Tất cả đoàn quân cùng bước đi mạnh mẽ, từng đợt này nối tiếp đợt kia. Khí thế ấy được thể hiện bằng hình ảnh:

"Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.

     Và tin vui chiến thắng cuối cùng cũng đến:

Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng."

     Nhà thơ chuyển sang nhịp điệu vui tươi, dồn dập, mọi người từ khắp cả nước cùng đón chào chiến thắng, đón chào một cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

     Bài thơ lục bát sử dụng nhiều biện pháp tu từ độc đáo, bút pháp tả cảnh ngụ tình để lại cho người đọc ấn tượng khó phai về cuộc kháng chiến lịch sử của dân tộc. Tố Hữu đã khắc họa thành công những sự kiện, những kỉ niệm thời kháng chiến với những cảm xúc trọn vẹn, đó chính là khúc hát tâm tình và truyền thống, đạo lí cội nguồn của dân tộc.

Phân tích bài thơ Việt Bắc mẫu số 9

    Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi, miền Bắc nước ta được giải phóng, lịch sử đất nước bước sang trang mới. Cách mạng Việt Nam bước vào một thời kì mới. Tháng 10 - 1954, các cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội. Nhân sự kiện có tính chất lịch sử này, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ Việt Bắc.

    Việt Bắc là một đỉnh cao của thơ ca cách mạng Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp. Tác phẩm được chia làm hai phần: Phần đầu tái hiện giai đoạn gian khổ nhưng vẻ vang của cách mạng và kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc nay đã trở thành những kỉ niệm sâu nặng trong lòng người cán bộ kháng chiến. Phần sau nói lên sự gắn bó giữa miền ngược với miền xuôi trong viễn cảnh đất nước hòa bình và kết thúc là lời ngợi ca công ơn của Bác, của Đảng đối với dân tộc.

    Việt Bắc ra đời vào thời điểm giao thời của lịch sử đất nước, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi, khi trung ương Đảng và Chính phủ rời căn cứ địa Việt Bắc về Hà Nội. Giữa lúc ấy, nhiều điều có thể sẽ rất dễ đổi thay. Cuộc sống yên vui dễ làm người ta quên đi những tháng năm kháng chiến gian khổ, dễ quên đi nơi đã đùm bọc chở che cho mình. Vào đúng thời điểm nhạy cảm ấy, bài thơ ra đời như một lời nhắn gửi chân thành về tình nghĩa và sự thủy chung.

    Chọn hình thức thể hiện là lối đối đáp ta với mình của ca dao giữa người đi (người cán bộ miền xuôi) và kẻ ở (nhân dân Việt Bắc), bài thơ đã vượt ra khỏi những cảm xúc riêng tư. Khúc giao duyên tâm tình kia lại đang chuyển tải một vấn đề rất lớn của đời sống cách mạng - đó là vấn đề ân nghĩa thủy chung của cách mạng với nhân dân.

    Đoạn trích nằm trong cấu trúc chung của phần mở đầu và phần một của bài thơ - niềm hoài niệm về một Việt Bắc gian khổ và nghĩa tình trong kháng chiến. Bài thơ được triển khai theo hình thức đối đáp giữa người đi và kẻ ở, thứ thơ này gần gũi với ca dao, nó là hình thức của kiểu đối đáp giao duyên truyền thống. Tuy nhiên, trên cái nền truyền thống quen thuộc ấy, bài thơ vẫn truyền tải được một vấn đề tư tưởng lớn lao như đã nói ở trên.

    Bài thơ mang dáng dấp hình thức lối đối đáp ta với mình của ca dao. Tuy nhiên, việc sử dụng hai đại từ này trong bài thơ khá linh hoạt. Mình có khi chỉ người cán bộ miền xuôi, ta chỉ nhân dân Việt Bắc.

Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

    Nhưng cũng có khi ta lại chỉ người đi, mình chỉ kẻ ở:

Ta đi ta nhớ những ngày

Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…

    Trong trường hợp khác, hình thức biểu đạt kiểu ca dao đó còn linh hoạt hơn:

Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi, mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu…

    Có thể nói, việc thay đổi liên tục ý nghĩa biểu đạt của hai từ ta với mình là một sự sáng tạo đầy ấn tượng của nhà thơ. Hai từ này có khi hình thành một cuộc đối đáp thực sự của người đi và kẻ ở, song có khi nó chỉ là sự phân thân tự vấn của người đi để đáp lại nghĩa tình sâu nặng của kẻ ở. Sự giao thoa đó, vốn dĩ đã tạo nên một cảnh tiễn biệt dùng dằng thương nhớ. Sau nữa, nó góp phần làm cho cả một bài thơ dài không bị nhàm chán. Đặc biệt, nó tạo nên độ sâu về tư tưởng cho bài thơ.

   Tâm trạng bao trùm phần đầu của bài thơ là nỗi nhớ. Trong đó, đặc biệt những kỉ niệm kháng chiến hiện về tươi rói trong hồi tưởng của nhà thơ. Niềm hồi tưởng được hình thành từ những câu hỏi - đáp. Theo đó, Việt Bắc hiện lên với tất cả những nét đặc trưng, với tất cả những yêu thương, gian nan, tình nghĩa.

   Việt Bắc trong trí nhớ của những chiến sĩ cách mạng là những ngày “mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù”. Thời gian, không gian mờ trong sương khói hoài niệm. Thiên nhiên rất đặc trưng cho không gian núi rừng Việt Bắc, nhưng cái gợi nhiều nhớ nhung nhất chính là những ngày gian nan, đắng cay mà tình nghĩa với “miếng cơm chấm muối”, “bát cơm sẻ nửa”, “củ sắn lùi”… Kỉ niệm về Việt Bắc còn có hình ảnh tảo tần của những người mẹ:

Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.

     Hai chữ “cháy lưng” đủ nói lên bao xót thương cũng như ân nghĩa mà người cán bộ miền xuôi dành cho người mẹ Việt Bắc. Khó khăn gian khổ như vậy, nhưng với cách mạng, với kháng chiến, đồng bào vẫn một lòng son sắt thủy chung. Lời nhắn gửi đã nói lên tất cả:

Mình đi, có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son.

   Có thể coi Việt Bắc là một trong những điển hình của thơ ca cách mạng. Tiếng thơ trữ tình - chính trị của Tố Hữu đậm đà tính dân tộc. Ở Việt Bắc, tính dân tộc trong nghệ thuật thơ Tố Hữu thể hiện ở lối kết cấu đậm chất ca dao, ở giọng điệu lục bát điêu luyện, ngọt ngào. Nhờ thế mà chẳng những bài thơ nói được những vấn đề có ý nghĩa lớn lao của thời đại mà nó còn khơi được đúng vào chỗ sâu thẳm nhất trong truyền thống ân nghĩa, thủy chung ngàn đời của nhân dân ta.

   Việt Bắc là một câu chuyện lớn, là một vấn đề tư tưởng được diễn đạt bằng một cảm nhận mang tính riêng tư. Bài thơ gợi về những ân nghĩa, nhắc nhở sự thủy chung của con người đối với con người và đối với quá khứ cách mạng nói chung.

Phân tích bài thơ Việt Bắc mẫu số 10

Bài thơ "Việt Bắc" là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là thành tựu xuất sắc của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ ra đời nhân một sự kiện lịch sử: tháng 10 năm 1954, những người kháng chiến rời căn cứ miền núi trở về miền xuôi. Từ điểm xuất phát ấy, bài thơ ngược về quá khứ để tưởng nhớ một thời cách mạng và kháng chiến gian khổ mà anh hùng, để nói lên được nghĩa tình gắn bó và thân thiết với Việt Bắc, với Đảng và Bác Hồ với đất nước và nhân dân- tất cả là nguồn sức mạnh to lớn để dân tộc ta vững vàng bước tiếp trên con đường cách mạng. Nội dung ấy được thể hiện bằng hình thức đậm tính dân tộc. Bài thơ rất tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu.

Mở đầu bài thơ với giọng trữ tình, êm đềm tha thiết, nhà thơ thể hiện tình cảm của người ở lại dành cho người ra đi:

"Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn"

Tác giả sử dụng cặp xưng hô "mình - ta" ở đây không phải đang nói đến xưng hô giữa những đôi lứa yêu nhau hay cặp vợ chồng nào đó mà là lời đối đáp của những người Cách mạng với người dân Việt Bắc. Cách xưng hô ấy vừa mang tính dân tộc đậm đà lại thể hiện được tính trữ tình chính trị sâu sắc trong thơ Tố Hữu, như tiếng nói trong tình yêu đôi lứa, thể hiện sự gắn bó sâu sắc của người đi kẻ ở, đầy ngậm ngùi, đầy lưu luyến, sự gắn bó ấy không phải chỉ trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp mà xuất phát từ những năm kháng chiến chống Nhật. Một khoảng thời gian dài chiến đấu gian khổ, càng làm cho tình cảm giữa những người chiến sĩ cách mạng và người dân Việt Bắc thêm sắt son, mặn nồng, thấm đượm ân tình. "Mười lăm năm" là quãng thời gian không ngắn cũng chẳng dài nhưng nó đủ khiến cho những cảm xúc biến thành hoài niệm, không thể nào lãng quên. Và đặc biệt nỗi nhớ đã lan tỏa khắp khu rừng, phải yêu phải gắn bó phải sống một trái tim chân tình biết mấy mới có thể có những cảm xúc thiết tha đến vậy:

"Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay"

Từ phiếm chỉ "ai" gợi nhiều cảm xúc, ở đây "ai" có thể là người ra đi, cũng có khi là người ở lại. Từ láy "tha thiết" được lấy lại từ " thiết tha" đã khắc họa rõ ràng hơn tình cảm của người ra đi và người ở lại, từ "bâng khuâng" và "bồn chồn" chất chứa nhiều tâm tình, ở đó có niềm vui toàn thắng, niềm vui được trở về quê hương, đoàn tụ với gia đình và ở đó ẩn chứa nhiều nỗi buồn, phải chia tay mảnh đất thấm đượm nghĩa tình. Hình ảnh "áo chàm" có phần cổ điển thể hiện sự quyến luyến, là hình ảnh hoán dụ của con người Việt Bắc, là màu áo nâu thể hiện vẻ đẹp tâm hồn, linh hồn của người dân và núi rừng Tây Bắc đang đưa tiễn người chiến sĩ Cách mạng. Nhịp thơ 3/4 như tạo một khoảng lặng giữa lúc phân li ngậm ngùi, nhìn nhau mà nghẹn lòng, ngập ngừng không muốn nói điều chi để cảm xúc ấy len lỏi trong tâm hồn, thành kỷ niệm khó phai:

"Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già."

Sau mỗi cụm từ "Mình đi", "Mình về", nhà thơ đã tinh tế đặt một dấu phẩy, đây chính là giây phút, là khoảnh khắc ngưng đọng, để kỷ niệm ùa về trong tâm tưởng. Những kỷ niệm ấy ngự trị trong từng khoảnh khắc thời gian "những ngày", không gian "chiến khu". Những hình ảnh "mưa nguồn suối lũ", "những mây cùng mù", "miếng cơm chấm muối" là hình ảnh ẩn dụ cho những khó khăn gian khổ của người làm cách mạng những năm đầu kháng chiến nơi núi rừng Việt Bắc và chính những khó khăn ấy đã khiến cho nghĩa tình quân dân trở nên thắm thiết keo sơn. Biện pháp nhân hóa "rừng núi nhớ ai" như thổi vào khung cảnh núi rừng nỗi nhớ nhung ngọt ngào, từ phiếm chỉ "ai" thấm đẫm bao cảm xúc ân tình. Những cụm từ "trám bùi để rụng", "măng mai để già", đã thể hiện nỗi buồn sâu đậm khi người lính về xuôi để lại núi rừng Tây Bắc chênh vênh, lạ lẫm khi nhịp sống đột ngột thay đổi từ đông vui sang vắng vẻ, đìu hiu:

"Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?"

Nỗi nhớ ấy càng được thể hiện rõ ràng hơn với từ "những nhà", nghệ thuật đối lập trong câu thơ "Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son" khẳng định một chân lí rằng càng khó khăn thì tình nghĩa quân dân càng đoàn kết gắn bó, sắt son một lòng. Từ "mình" được lặp lại trong câu thơ đã khẳng định sự gắn bó. Những địa danh quen thuộc với người ra đi và người ở lại, gợi nhắc những kỷ niệm xưa cũ, tình cảm của những người chiến sĩ và cách mạng với người dân Tây Bắc:

"Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy."

Lời đối đáp "mình - ta" tiếp tục được sử dụng, kết cấu "ta với mình, mình với ta" tạo nên lời đồng vọng tha thiết. Câu thơ "Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh" đã thể hiện tình cảm thủy chung son sắt mà người cách mạng dành cho mảnh đất Việt Bắc nghĩa tình. Sử dụng biện pháp so sánh để thể hiện nghĩa tình của con người Việt Bắc thật trong trẻo, đong đầy. Câu thơ "Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương" đã thể hiện nỗi nhớ lan tỏa trong không gian và ngự trị trong từng khoảnh khắc của thời gian. Hình ảnh "Sớm khuya bếp lửa người thương đi về" gợi về sự mến thương ấm áp. Điệp ngữ "nhớ từng" cho chúng ta cảm nhận như nhà thơ đang lật giở từng trang ký ức. Tố Hữu đã liệt kê những địa danh và đến với hai tiếng "vơi đầy" khép lại đoạn thơ thì đây không chỉ đơn thuần là địa danh mà là nơi đong đầy kỷ niệm:

"Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa..."

Cụm từ "Ta đi, ta nhớ những ngày" là lời tâm sự chân thành và là lời nhắn nhủ tha thiết của người đi dành cho người ở lại. Cụm từ "mình đây ta đó..." kết hợp với "đắng cay ngọt bùi" càng nhấn mạnh hơn những ân tình sâu thẳm. Hai tiếng "thương nhau" thể hiện những tình cảm đùm bọc, chia sẻ, gắn bó, chính sức mạnh ấy đã tạo nên chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng. Nhà thơ đã khắc họa hình ảnh người mẹ - đây là một hình ảnh đẹp, gợi nhiều cảm xúc, từ "cháy" rất giàu hình tượng nhấn mạnh nỗi vất vả gian lao của người mẹ trong kháng chiến. Đoạn thơ rất giàu nhịp điệu, là khúc ca ca ngợi cuộc sống, vẫn chan chứa trong lòng người Cách mạng và núi rừng Việt Bắc. Câu thơ cuối khép lại với tiếng mõ, tiếng chày, tiếng suối xa gợi nhiều cảm xúc mênh mang, lan tỏa:

"Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung."

Bức tranh tứ bình hiện lên thật đẹp, câu hỏi tu từ "Ta về mình có nhớ ta" chất chứa bao nhiêu nỗi niềm. Cụm từ "những hoa cùng người" có kết cấu như một thành ngữ, trong nỗi nhớ của người ra đi, hoa là biểu tượng cho thiên nhiên, một bức tranh thơ mộng. Mở đầu bức tranh là mùa đông Việt Bắc với "hoa chuối đỏ tươi" điểm xuyết trên nền xanh bạt ngàn, tạo nên bức tranh vô cùng sinh động và nhiều màu sắc, tạo cảm giác ấm áp xua tan cái lạnh ở mảnh đất Việt Bắc. Con người hiện ra trong tư thế lao động, rất đẹp và kì vĩ. Mùa xuân hiện ra với cảnh "mơ nở trắng rừng" vô cùng thơ mộng, hình ảnh con người trong tư thế lao động "chuốt từng sợi giang". Động từ "chuốt" thể hiện công việc cần cù khắc họa vẻ đẹp của con người Việt Nam trong kháng chiến. Tiếp đến là mùa hạ tràn đầy sức sống, cảnh thiên nhiên có thêm tiếng ve rộn rã ngân vang núi rừng. Hình ảnh "cô em gái hái măng một mình" thật đẹp và thơ mộng. Khép lại bức tranh tứ bình là mùa thu của cách mạng tháng Tám thành công, mùa thu năm 1954, tất cả được tượng trưng cho một vầng trăng rất đẹp. Câu thơ cuối vừa khép lại bức tranh về cảnh và con người Việt Bắc, đồng thời khép lại khúc tình ca hào hứng về kháng chiến.

Giọng thơ lục bát nhẹ nhàng mà sâu lắng kết hợp với kết cấu xưng hô "ta - mình", bài thơ chứa chan niềm lạc quan vui sống và tin tưởng vào con người Việt Bắc. Lời thơ giản dị mà trong sáng thể hiện niềm rung động trước vẻ đẹp của núi rừng và con người Việt Bắc. Thế rồi hàng loạt những địa danh gắn liền với những hoạt động cách mạng của những người chiến sĩ được nhà thơ liệt kê ra như để khắc sâu vào trong tim mỗi người chiến sĩ về tình quân dân đã làm nên chiến thắng:

"Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây.
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.
Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng.
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao - Lạng, nhớ sang Nhị Hà..."

Chính thiên nhiên cũng che chở cho những con người Việt Nam. Những núi đá dựng thành chiến hào thành quách để che chở cho người chiến sĩ và nhân dân nơi đây khỏi bom đạn quân thù. Và khi ấy cả bộ đội và dân quân đều cùng nhau làm nên lịch sử. Và thế rồi không ai bảo ai, kẻ ở người đi đều nhớ tới những ngày ráo riết chuẩn bị hành quân cho cuộc chiến chống lại chiến dịch của thực dân. Khi ấy chính là lúc tình quân dân thể hiện rõ nhất:

"Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng."

Đó là cảnh hành quân của những người chiến sĩ và nhân dân. Tất cả đồng lòng như một, "ánh sao" để chỉ những người chiến sĩ còn "mũ nan" là những dân quân Việt Bắc. Bằng nghệ thuật phóng đại sức mạnh của dân ta như được thể hiện rõ hơn. Nghìn đêm nhân dân phải sống trong cảnh khó khăn, vất vả. Thế rồi hình ảnh "đèn pha" thể hiện một niềm tin vào tương lai tươi sáng. Họ sống trong khốn khổ để bật phá tự đứng dậy đấu tranh vì niềm tin vào tự do, hạnh phúc. Từ Hòa Bình, Tây Bắc và Điện Biên cũng chung vui với chiến thắng ấy.

Để kết cho niềm vui lẫn nhớ nhung lưu luyến không muốn rời, nhà thơ cất lên những niềm tự hào về dân tộc. Đồng thời đó cũng là những giây phút nhớ về cảnh sinh hoạt ở hang động núi rừng:

"Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
Điều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu...

Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ấy, ai quên
Quê hương Cách mạng dựng nên Cộng hòa
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào."

Bằng thể thơ lục bát, bài thơ Việt Bắc thể hiện tình cảm lưu luyến, bịn rịn của những người cán bộ cách mạng với đồng bào Việt Bắc và đó cũng là tình cảm của người dân Việt Bắc với cán bộ cách mạng. Việt Bắc khẳng định tình nghĩa thủy chung, tình cảm uống nước nhớ nguồn của cán bộ với thủ đô kháng chiến, quê hương và người dân Việt Nam.

Cành lá

     Trên đây là toàn bộ những gợi ý chi tiết cùng những bài văn đặc sắc phân tích Việt Bắc mà Đọc Tài Liệu muốn gửi đến các em cùng tham khảo. Các em có thể tải thêm nhiều bài văn phân tích Việt Bắc khác với định dạng pdf bên dưới. Chúc các em hoàn thành tốt và đạt điểm cao!

Bạn còn vấn đề gì băn khoăn?
Vui lòng cung cấp thêm thông tin để chúng tôi giúp bạn
Hủy

TẢI VỀ

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM