Truyện Kiều là bản cáo trạng lên án một xã hội bất nhân chà đạp con người

Xuất bản: 18/09/2019 - Tác giả:

Top 2 bài văn hay nhất nghị luận chứng minh: Truyện Kiều là bản cáo trạng lên án một xã hội bất nhân chà đạp lên quyền sống, quyền hạnh phúc con người.

Bạn đang tìm tài liệu văn mẫu chứng minh nhận định Truyện Kiều là bản cáo trạng lên án một xã hội bất nhân chà đạp con người? Không cần tìm thêm nữa Đọc Tài Liệu giới thiệu đến các bạn top #2 bài văn nghị luận hay nhất giúp bạn làm bài tốt hơn với đề tài này.

Truyện Kiều là bản cáo trạng lên án một xã hội bất nhân chà đạp con người

Truyện Kiều là bản cáo trạng đanh thép lên án xã hội bất nhân - Mẫu 1:

Mở đầu Truyện Kiều, Nguyễn Du viết:

“Trăm năm trong cõi người ta,

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.

Trải qua một cuộc bể dâu,

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.” 

Tái hiện cái đau khổ của 15 năm lưu lạc, kể lại nỗi đoạn trường của một cô gái tài sắc, thông minh, hiếu thảo nhưng phận bạc. Trước hết, Nguyễn Du muốn cụ thể hóa, hình ảnh hóa cái xã hội bất nhân chà đạp, xô đẩy con người. Trên cơ sở đó, ông thức tỉnh lương tâm con người, cảnh báo với mọi người cái ảo tưởng: “Bốn phương phẳng lặng hại kinh vững vàng” của chế độ phong kiến thế kỉ XVIII. Chính vì vậy, ngoài một tấm lòng chứa chan nhân ái với số phận con người, Truyện Kiều còn được nhìn nhận như một bản cáo trạng, một bản cáo trạng bằng thơ “lên án một xã hội bất nhân chà đạp lên quyền sống, quyền hạnh phúc của con người”.

Xã hội ấy thật bất nhân. Từ một nguyên cớ nhỏ dẫn đến việc quan lại có điều kiện tham ô, cả một gia đình tan nát. Trong sự tan nát đó, người nhận lấy đau khổ hơn cả là Vương Thúy Kiều. Đó là một cô gái tài sắc vẹn toàn, một cô gái mà Nguyễn Du giới thiệu:

“Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”

Và:

“Vì đem vào sổ đoạn trường,

Thì treo giải nhất chi nhường cho ai”.

Đặc biệt, trước đó, là một cô gái đang chớm nở một mối tình đầu tha thiết, đắm say, hứa hẹn hạnh phúc. Bi kịch của xã hội bất nhân, vì đồng tiền đã tước đoạt cái hạnh phúc chớm nở kia của Thúy Kiều, biến tài sắc trên thành tai họa, thành nỗi đau triền miên, kéo dài suốt cuộc đời nàng. Nàng phải “bán mình chuộc cha, ngậm ngùi, phẫn uất trao mối duyên tình với chàng Kim cho Thúy Vân. Tuy vậy, tưởng nàng đã yên thân với một nỗi đau khổ duy nhất.

“Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”.

Không chỉ có thể, cơ cấu phi nhân của xã hội nảy sinh trên đó rất nhiều những bọn người vô lại. Không chỉ là bọn quan lại tối mắt vì tiền, lúc này còn có Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh và rất nhiều loài hổ báo ruồi xanh khác... Giữa vòng vây đó, Thúy Kiều như một “Chiếc bách giữa dòng”. Nàng bị đẩy vào lầu xanh mở đầu một chuỗi những tai họa thảm khốc của kiếp:

“Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần” 

Còn gì đớn đau hơn bị kịch này với một cô gái khuê các, có học, một cô gái mà trước kia Nguyễn Du mô tả:

“Tường đông ong bướm đi về mặc ai”

Ở thanh lâu, Kiều phải chịu bao nhiêu đớn đau tủi nhục. Cái tủi nhục của kẻ muốn gìn giữ nhân phẩm, nhân cách nhưng cuối cùng điều đó chỉ là phù vân, ảo tưởng. Đến lúc này, Nguyễn Du như không thể giữ được thái độ trầm tĩnh, khách quan của người đọc cáo trạng, ông đau đớn đến xé lòng và thốt lên:

“Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”

Với thái độ đó, ông muốn cùng Kiều chia sẻ cái tâm sự:

“Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,

Giật mình mình lại thương mình xót xa” 

Chưa hết, số phận hay chính cái trá ngụy bất nhân của xã hội lại tiếp tục xô đẩy cánh hoa lạc loài kia, sao cho “cho hại, cho tàn, cho cân” thì mới hả hê. Kiểu sa vào tay Hoạn Thư, ở đây, phải chịu cực hình của kiếp làm lẽ. Cái kiếp mà sau đó, Hồ Xuân Hương cũng tỏ ra rất căm phẫn:

“Chém cha cái kiếp lấy chồng chung”

Thoát khỏi tay Hoạn Thư, lại sa chân vào lầu xanh lần thứ hai, lúc này, quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc bị chà đạp đến nghiêm trọng, không thể chịu đựng. Sự tuyệt vọng của Kiều lúc này đã đến đỉnh điểm bi thảm, nàng kêu lên:

“Chém cho cái số má đào

Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi” 

Không thể chịu đựng được nữa, đã đến lúc công lí phải lên tiếng. Mà công lí ở đâu trong cái xã hội “nhai thịt người ngọt xớt như đường” kia? Nguyễn Du đành phải ước mơ. Ông ước mơ một người: “Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”. Và Từ Hải xuất hiện, công lí được tạm thời thực hiện. Quả là chỉ tạm thời, bởi quyền lực vẫn nằm trong tay bọn phản công lí. Bây giờ, bản cáo trạng của Nguyễn Du càng trở nên gay gắt, dữ dội. Ông nhìn thấy mưu ma chước quỷ, thói trăng hoa đến phi luận của kẻ đại diện cho luật pháp nhà nước là Hồ Tôn Hiến. Kiều mang tiếng giết chồng. Và phải “rỉ máu năm đầu ngón tay” để mua vui cho Hồ Tôn Hiến bằng cung đàn bạc mệnh trong đêm tang tóc. Khi bị sang tay cho một gã thể quan vô danh tiểu tốt thì giới hạn của con người chấm dứt. Kiều tự vẫn. Bản cáo trạng đã lên đến chỗ tận cùng, đã vút lên tận trời xanh. Nó trở thành tiếng kêu thảm thiết đòi quyền sống trong một xã hội luôn muốn đẩy con người đến bước đường cùng.

Mở đầu bản cáo trạng là một vị quan, chấm dứt bản cáo trạng là một vị quan. Mở đầu cáo trạng là mối lương duyên tan vỡ, chấm dứt cáo trạng là một cái chết oan ức. Nguyễn Du muốn nói gì với chúng ta thông qua bức thông điệp vĩ đại của ông? Rõ ràng, tự sâu thẳm, Nguyễn Du - với hình ảnh Thúy Kiều - đang đặt ra vấn đề “Tồn tại hay không tồn tại?” cho cái xã hội mà Nguyễn Du đang lên án đó.

(Lê Thị Huyền Tước - Trường chuyên Quốc học Huế)

Truyện Kiều là bản cáo trạng đanh thép lên án xã hội bất nhân - Mẫu 2:

Nếu thơ chữ Hán của Nguyễn Du là tấm gương rọi chiếu tấc lòng của người nghệ sĩ tài hoa trong những tháng năm cuộc đời có nhiều đau thương và biến động dữ dội thì Truyện Kiều là nơi thi hào gửi gắm nhiều trăn trở, suy tư, cả những nỗi niềm xót xa, bi phẫn trước thực trạng đau khổ của con người trong xã hội phong kiến. Đứng từ góc độ sáng tác, Truyện Kiều là “đứa con lai” bởi nó được viết dựa trên cơ sở cuốn tiểu thuyết “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân. Thế nhưng, từ khi ra đời đến nay, tác phẩm đã nhận được niềm ưu ái lớn lao vô bờ của độc giả. Truyện Kiều đã vượt xa vỏ kén ban đầu mà nó thoát ra, trở thành dấu son trong lịch sử văn học nước nhà, là niềm tự hào không vơi cạn của những người dân đất Việt thân yêu.

Hình ảnh người con gái tài sắc nhất thế gian với chặng đường đời mười lăm năm oan khổ lưu ly nhạt thắm phai đào đã để lại dấu ấn khó phai mờ trong lòng người đọc. Với tấm lòng nhân đạo cao cả, với “con mắt trông thấu sáu cõi”, “tấm lòng nghĩ đến nghìn đời”, Nguyễn Du đã sáng tạo lại cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân theo cách riêng của mình làm cho Truyện Kiều thực sự trở thành khúc “Đoạn trường tân thanh” làm xót xa cõi lòng bao thế hệ. Trên cơ sở “những điều trông thấy” cùng những suy nghĩ, cảm xúc nóng bỏng trước hiện thực xã hội Việt Nam đương thời, Nguyễn Du đã cảm nhận “Kim Vân Kiều truyện” và sắp xếp lại theo thể nghiệm của mình bằng ngòi bút tràn đầy ưu niệm. Kết hợp với thể thơ lục bát ngọt ngào như ca dao, với ngôn ngữ trong sáng và tinh luyện, Truyện Kiều xứng đáng là viên ngọc toàn bích, lấp lánh nơi đáy lòng không biết bao con người từng yêu tha thiết tiếng mẹ đẻ, từng khát khao kì vọng về tình yêu hạnh phúc ở trên đời… Với Truyện Kiều, tên tuổi  Nguyễn Du đã trở thành bất tử trên thi đàn dân tộc.

     Truyện Kiều được đánh giá cao trước hết ở giá trị hiện thực sâu sắc. Ai đó cho rằng thơ ca khó phản ánh hiện thực bởi đặc thù của thơ ca là tính trữ tình, cảm xúc. Điều đó không đúng khi nói về Truyện Kiều của Nguyễn Du. Ngòi bút sắc sảo của nhà thơ đã miêu tả bộ mặt xã hội với những nhân vật điển hình, có diện mạo và bản chất riêng, có sức sống mãnh liệt, có sức tố cáo mạnh mẽ, có chiều sâu lịch sử và có tính thời sự đối với mọi thời đại. Với Truyện Kiều, bên cạnh tiếng kêu thương đòi quyền sống cho con người, Nguyễn Du đã phơi bày bộ mặt xấu xa tàn bạo của xã hội phong kiến Việt Nam đương thời và nói lên hiện thực cô độc, mong manh của những kẻ tài sắc.

Khác với những nhà thơ khác như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm… khi vấp phải một thực tế cuộc sống không như ý mình mong muốn thì lui về ở ẩn, hoặc vui thú điền viên hoặc hoài niệm về dĩ vãng hòng giữ cho lòng mình được trong sạch, không vướng bụi trần. Nguyễn Du có những nỗi niềm nhớ cổ thương kim nhưng ông không hoàn toàn rút lui khỏi cuộc đời mà vẫn sống gần với hiện thực. “Tư tưởng Nho giáo về chính trị, tấm lòng nhân đạo chủ nghĩa, sự thông cảm với nhân dân, nhất là luồng tư tưởng tiến bộ là luồng quán xuyến cả thời đại đã khiến cho trái tim, khối óc của ông bắt rễ sâu vào hiện thực” (Lê Trí Viễn). Nguyễn Du tuyên bố những điều mình viết là: “những điều trông thấy” (Truyện Kiều), “nhãn kiến” (Trở binh hành), “sở kiến” (Sở kiến hành), “ngã sạ kiến chi” (Thái Bình mại giả ca), “Mục trung sở xúc” (Tỉ Can mộ)… Điều đó chứng tỏ tinh thần hiện thực được ông ý thức rõ ngay trong các tác phẩm của mình.

Bởi thế, Truyện Kiều không phải là tác phẩm được chuyển thể từ văn xuôi sang thơ một cách thuần túy, đó là máu, là nước mắt, là nỗi lòng, là trải nghiệm cay đắng của Nguyễn Du:

Trải qua một cuộc bể dâu

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng

“Không phải là chuyện thương hải tang điền siêu hình mà là một cục thế đã diễn ra, những điều đã được thể nghiệm. Chuyện bể dâu, những điều trông thấy ở đây trước hết gắn liền với sự suy sụp không gì có thể cứu vãn được của xã hội phong kiến đương thời, với nỗi căm giận tuyệt vọng trước sự thối nát của giai cấp thống trị, với nỗi xót xa trước những đau khổ của con người, với những ước mơ hy vọng bừng sáng lên nhưng rồi lại bị dập tắt.” (Lê Đình Kị). Cho dù nhà thơ đã lí giải số phận nàng Kiều bằng một triết lí duy tâm thần bí:

Trăm năm trong cõi người ta

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau

Nhưng trong toàn bộ câu chuyện nhà thơ lại chỉ cho người đọc thấy cội nguồn sâu xa của mọi nỗi đau khổ trong cuộc đời Kiều là thực tại đen tối của xã hội đương thời. Xã hội đó không chỉ bất công, ngang trái mà còn là nơi ngự trị của bao thế lực hắc ám chà đạp con người.

Đầu tiên phải kể đến là thế lực quan lại. Nhắc đến cuộc đời Kiều chúng ta nghĩ đến kiếp nạn “thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”  nhưng còn một nơi mà người con gái đáng thương, tội nghiệp ấy đã hơn một lần phải tới và trở thành nạn nhân, đó là cửa quan.  Không ở đâu thế giới quan lại hiện lên sinh động, chân thực, đa dạng như trong tác phẩm Truyện Kiều. Đó là những kẻ đại diện cho bộ máy chính quyền phong kiến, những kẻ được xem là cha mẹ dân, có kẻ chịu trách nhiệm cầm cân nảy mực nhưng lại chính là thủ phạm gây ra biết bao oan khốc đến nỗi sinh li tử biệt cho người dân vô tội. Thế lực đen tối ấy đã phủ bóng đen lên cuộc đời Kiều từ một chuyện tai bay vạ gió. Chỉ một lời xưng xuất của một thằng bán tơ không tên không tuổi, giông tố đã nổi lên giữa cuộc sống yên bình của gia đình họ Vương. Nguyễn Du chỉ nhắc đến thằng bán tơ lơ lửng trong một câu thơ và người đọc thấy rằng những chuyện tai bay vạ gió như thế trong xã hội phong kiến cũng là chuyện thường tình, đâu phải là cá biệt. Bọn sai nha ập vào nhà Vương viên ngoại như một đám cướp, hai cha con họ Vương bị tra tấn tại chỗ trước mặt những người thân, tài sản bị vét sạch sành sanh. Hành động của chúng không phải là hành động của công lí, hay công lí của chúng là công lí của bọn đầu trộm đuôi cướp. Đằng nào cũng vậy. Mỉa mai hơn, “thần công lí” ấy chỉ dịu cơn thịnh nộ khi ngửi thấy có mùi tanh của hơi đồng:

Có ba trăm lạng việc này mới xuôi.

Không lộ mặt, rõ tên nhưng viên quan đầu tiên này chính là kẻ đã đẩy Kiều – một cô gái trắng trong lương thiện vào nhà chứa, hắn cũng chính là kẻ viết những dòng đầu tiên lên sổ đoạn trường của đời nàng.

Viên quan thứ hai xuất hiện trong Truyện Kiều không đến nỗi quá nhem nhuốc nhưng cũng không phải là người công minh, chính trực. Khi bị Thúc ông cáo giác, Kiều thoát được cuối cùng cũng nhờ cách xử kiện khá “tài tử” của  ông quan này:

Đã đưa đến trước cửa công

Ngoài thì là lí nhưng trong là tình

Nghĩa là Kiều được hưởng ân huệ đặc biệt chứ lí ra thì:

Một là cứ phép gia hình

Hai là lại cứ lầu xanh phó về

Cái ân huệ đặc biệt ấy Kiều được hưởng chỉ vì một phút ngẫu hứng thơ văn của ông. Khi biết Kiều có tài thơ, máu tài tử nổi lên, ông hào hứng bắt Kiều làm thơ về cái gông:

Mộc già hãy thử một thiên, trình nghề

Một tâm trạng như Thúy Kiều lúc đó, lại viết về một đề tài như thế, bài thơ hay dở thế nào có thể biết được. Thế mà ông ta khen lấy khen để, tha bổng cho nàng. Trong ý Nguyễn Du, ông quan xử kiện không phải là người xấu. Nhưng với tất cả cái tốt kia, Kiều cũng đã bị một trận đòn nên thân:

Phận đành chi dám kêu oan

Đào hoen quẹn má, liễu tan tác mày

Một sân lầm cát đã đầy

Gương lờ nước thủy, mai gầy vóc sương

Như vậy, chuyện sống chết của con người được xem như chuyện đùa. Tất cả những “cửa công”, “phép công”, những “mặt sắt”, “lập nghiêm”, những “chiếu án luận vào” đều chẳng để làm gì cả ngoài một trận đòn rụng rời xương thịt kia. Dù ta mừng cho Kiều nhưng “lòng tốt” của viên quan xử kiện đã không khiến ta ngưỡng mộ, ngược lại, ta càng thấy ông thảm hại hơn bao giờ hết!

Lần thứ ba, Kiều rơi vào tay “họ Hoạn danh gia” cũng là rơi vào miệng hùm nọc rắn – một gia đình quan lại uy quyền nghiêng ngửa thiên hạ. Nguyễn Du gọi đó là “địa ngục ở miền nhân gian”. Hai lần trước, ít ra quan lại còn núp dưới hình thức pháp luật nào đó, nhưng đối với mẹ con Hoạn Thư thì không có pháp luật nào ngoài cái quyền thế vô thượng của chúng. Chúng có sẵn trong tay một bầy “côn quang ưng khuyển”, tự do đốt nhà, bắt cóc, một lũ a hoàn sẵn sàng đánh đập “vả miệng bẻ răng” những ai không vừa ý chúng. Không phải chỉ đối với Kiều mà thôi, mọi người ở dưới trướng họ Hoạn đều sống trong cảnh nơm nớp vì tai họa có thể giáng xuống đầu họ bất cứ lúc nào. Kiều không còn nghĩ đến kêu oan hay chống đỡ. Thế lực của họ Hoạn bao trùm len lỏi vào các nhà chùa, cho đến một kẻ tu hành từ tâm như Giác Duyên cũng không dám dung nạp Kiều để đến nỗi cuối cùng nàng phải rơi vào nhà chứa của Bạc Bà Bạc Hạnh.

Lần thứ tư, kẻ đại diện cho thế lực quan lại hắc ám mà Kiều phải đối mặt đó là Hồ Tôn Hiến:

Có quan Tổng đốc trọng thần

Là Hồ Tôn Hiến kinh luân gồm tài

Hắn là tên quan to nhất, cũng là tên quan ti tiện và bỉ ổi nhất trong Truyện Kiều. Hắn đại diện cho triều đình, nhưng thêm vào tính tàn bạo thông thường của bọn quyền thế, hắn còn là kẻ hèn nhát và phản trắc. Không dám đương đầu với Từ Hải, hắn đã lừa Kiều để dụ Từ Hải ra hàng. Nghe lời Kiều, Từ Hải đã mắc mưu Hồ Tôn Hiến. Người anh hùng một thời dọc ngang nào biết trên đầu có ai ấy đã bị bao vây, phục kích, phẫn uất mà chết đứng giữa trận tiền. Hồ Tôn Hiến đã mở tiệc mừng công giữa mùi tanh máu của Từ Hải và trên cõi lòng tan nát của Kiều. Bắt nàng hầu rượu, đánh đàn, “chau mày rơi châu” xót xa cho thân phận Kiều để rồi liền sau đó buông lời ve vãn làm nhục Kiều như Hoạn Thư đã bắt Kiều hầu rượu, đánh đàn trước Thúc Sinh. Có thể nói Hồ Tôn Hiến là kẻ đã viết những dòng cuối cùng vào sổ đoạn trường của Kiều và hoàn thành nốt bức tranh đen tối về bộ mặt quan lại đương thời. Bao nhiêu lần đối mặt với cửa quan là bấy nhiêu lần Kiều phải chịu đớn đau, oan trái, tủi nhục:

“Tiếng oan dậy đất, án ngờ lòa mây”

“Oan này còn một kêu trời nhưng xa”

“Tiếng oan đã muốn vạch trời kêu lên”

“Vuốt đâu xuống đất, cánh đâu lên trời”

Con người bị áp bức giày xéo trong chế độ phong kiến chỉ còn biết kêu trời bởi những kẻ cha mẹ dân không cầm cân nảy mực đúng chức trách bổn phận của mình, ngược lại còn gieo biết bao oan khiên thảm khốc cho người vô tội. Công lí ở đâu trong cái xã hội “nhai thịt người ngọt xớt như đường” kia? Mở đầu và kết thúc mười lăm năm đoạn trường của Kiều đều có bóng dáng những vị quan. Hơn mọi lời tố cáo, đó là bản cáo trạng đanh thép với lời kết án sâu sắc bọn quan lại phong kiến đương thời.

Xã hội Truyện Kiều không chỉ tồn tại một thế lực đen tối ấy. Còn một lũ người gớm ghiếc khác chung tay nhào nặn, đẩy đưa số phận con người khiến cho tiếng đoạn trường trong thiên truyện đến muôn năm còn bẫm máu. Đó là sự hoành hành tác quái của bọn buôn thịt bán người. Người đọc không thể quên một Mã Giám Sinh “mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao”, một Tú Bà “thoắt trông lờn lợt màu da”, một Sở Khanh “hình dong chải chuốt áo khăn dịu dàng”, mỗi tên một vẻ nhưng chúng đều là một cốt một đồng, chung một nghề nghiệp kiếm ăn trên thân xác con người. Chỉ vài nét phác họa, Nguyễn Du đã vẽ nên những chân dung điển hình cho hạng người xấu xa này. Nếu như thế lực quan lại đã lấy đi của Kiều viễn cảnh cuộc đời bình yên tươi sáng, xô giạt đời nàng trên những bước đường lưu ly chìm nổi thì bọn buôn thịt bán người như Mã Giám Sinh, Tú Bà… là những kẻ đã đưa nàng xuống đáy sâu xã hội, xuống vực thẳm của sự nhơ nhớp. Ngòi bút sắc sảo và cái nhìn tỉnh táo của Nguyễn  Du đã cho chúng ta thấy lầu xanh, kĩ viện không chỉ là chốn đi về của khách làng chơi:

Biết bao bướm lả ong lơi

Cuộc say đầy tháng, trận cười suốt năm

Dập dìu lá gió cành chim

Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh.

Đó còn là nơi phong tỏa mọi ngả đường, mọi lối thoát của những con người có ý thức sâu sắc về nhân phẩm, muốn vươn lên khỏi vũng bùn ngập ngụa này. Cũng ở đây, Thúy Kiều đã nếm trải đủ mùi cay đắng: Có đòn roi, có nhục mạ, có lọc lừa, có cưỡng bức… Với những thủ đoạn đê hèn nhất, Tú Bà cùng với Sở Khanh đã đập tan mọi toan tính phản kháng dù chỉ còn thoi thóp ở Kiều. Đau đớn xiết bao khi người con gái có ý thức cao về nhân phẩm đó lại phải tuyên bố từ bỏ nhân phẩm của mình:

Thân lươn bao quản lấm đầu

Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa.

Con đường duy nhất để có thể ngoi lên khỏi vực thẳm này là bám víu vào tấm chân tình của khách làng chơi, tìm kiếm một hạnh phúc thừa thãi, mong manh, dẫu rằng điều ấy không dễ dàng. Cho dù được Thúc Sinh cũng như Từ Hải yêu thương, chuộc ra khỏi lầu xanh nhưng rút cục đời Kiều cay đắng xót xa ra sao chúng ta đều đã rõ. Có thể nói trong suốt quãng đời mười lăm năm lưu lạc, hai lần sống ở lầu xanh là những tháng ngày đen tối, đau thương, tủi nhục và ê chề nhất của Kiều. Điều ấy cho thấy dù không có quyền hành, địa vị, bọn buôn thịt bán người vẫn là một thế lực ghê gớm tác oai, tác quái vùi dập con người. Sự tồn tại của chúng trong xã hội không chỉ minh chứng cho sự xuống cấp về đạo đức mà còn biểu hiện sự phá sản một thể chế xã hội vốn được xem là khuôn vàng thước ngọc trong cả gần ngàn năm. Chúng là những ung nhọt bên trong một xã hội được che đậy bằng vỏ ngoài hào nhoáng: trung hiếu tiết nghĩa, tam cương ngũ thường… Không phải vô tình mà Tú Bà phát biểu:

Mụ rằng ai cũng như ai

Người ta ai mất tiền hoài đến đây

Mụ có đủ tư cách hơn ai hết để nói lên cái triết lí của cả xã hội rộng lớn cũng như xã hội lầu xanh của mụ:

Chơi cho liễu chán hoa chê

Cho lăn lóc đá, cho mê mẩn đời.

Sự rành rẽ ấy của Tú Bà không phải chỉ do kinh nghiệm những ngày phấn son trăng gió để lại mà còn là sự ranh ma nắm bắt thói đời. Thói đời ấy không phải mình mụ muốn mà có được, thói đời ấy là con đẻ của xã hội phong kiến lúc bấy giờ. Đến đây ta hiểu vì sao Thúy Kiều tiêu cực đến thế khi rơi vào lầu xanh lần thứ hai:

Biết thân chạy chẳng khỏi trời

Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh.

Đó là tiếng than chán chường tuyệt vọng, là sự buông xuôi phó mặc số phận của Kiều nhưng đã vạch trần được bản chất xấu xa, tàn bạo của một xã hội không có đất sống cho người tiết nghĩa.

Sau thế lực quan lại, nhà chứa, Nguyễn Du cũng lên án, tố cáo gay gắt quyền lực vạn năng của đồng tiền. Trong xã hội Truyện Kiều, đồng tiền có một sức mạnh phi thường ghê gớm. Đồng tiền đổi trắng thay đen, đồng tiền lăn trên lương tâm và phẩm giá con người:

- Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền

- Có ba trăm lạng việc này mới xuôi

- Máu tham hễ thấy hơi đồng thì mê…

Con người đã trở thành một món hàng theo cái nghĩa không chút ẩn dụ của danh từ này. Thông thường, Nguyễn Du ít dừng lại miêu tả tỉ mỉ, nhưng chúng ta không thiếu những chi tiết về sự mua bán, “đầu tư” đủ kiểu trên cái nhan sắc của Kiều, và điều này Nguyễn Du đã làm với một ý thức tố cáo rõ rệt. Đối với bọn buôn thịt bán người, Kiều chỉ là một món hàng không hơn không kém. Mã Giám Sinh đã đem tài sắc của Kiều ra mà “cân” theo cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen của chữ. Hắn ưa Kiều, say Kiều nhưng ở cả những phút say đắm nhất, hắn vẫn không quên đồng nhất Kiều với “vàng”, với “ngọc”, với “vốn”, với “lời”. Hắn có cả một kế hoạch “đầu cơ” về cái trinh tiết của Kiều với những con số chính xác nhất:

Đã nên quốc sắc thiên hương

Một cười này, hẳn nghìn vàng chẳng ngoa

Về đây, nước trước bẻ hoa,

Vương tôn, quý khách ắt là đua nhau

Hẳn ba trăm lạng kém đâu

Cũng đà vừa vốn, còn sau thì lời…

Còn với Tú Bà, đồng tiền đã thay thế cho đạo đức, hay nói cách khác, đạo đức của mụ là tiền. Mụ mừng cuống lên khi thấy Mã Giám Sinh mua được Kiều, rồi tức đến lộn ruột khi biết Kiều thất thân với Mã Giám Sinh, và run sợ tái mét mặt mày khi thấy Kiều rút dao ra toan tự tử… Không tình người, không đạo nghĩa, ở đây tất cả chỉ vì tiền.

Trong lịch sử gần ngàn năm của văn học trung đại Việt Nam, chưa bao giờ thế lực của đồng tiền lại bị phanh phui một cách trần trụi đến thế. “Đồng tiền đã muốn làm chủ thế gian. Đồng tiền đã chà đạp lên đạo lí thần thánh của phong kiến. Trung, hiếu, tiết, hạnh, tài hoa, nhan sắc như cô Kiều đã bị đồng tiền làm cho ba chìm bảy nổi, đã hóa cô Kiều thành món hàng xa xỉ của thế gian… Mọi sinh hoạt xã hội đều quay về đồng tiền” (Lê Duẩn). Quan lại có kẻ vì tiền mà hành hạ con người, nho sĩ có kẻ vì tiền mà lưu manh hóa, bọn buôn thịt bán người tất cả vì tiền mà bày ra trăm phương nghìn kế để bẫy người phụ nữ, bắt họ phải đem thân ra làm món hàng cho chúng buôn bán, kiếm chác…Cũng chưa bao giờ trong một tác phẩm tự sự, qua những lời phát biểu trực tiếp của tác giả, hay qua ngôn ngữ trực tiếp của nhân vật, tác dụng của đồng tiền lại được bóc trần nhiều lần đến thế:

…Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong

…Tờ hoa đã kí, cân vàng mới trao

…Trong tay sẵn có đồng tiền

Dù lòng đổi trắng thay đen khó gì

…Có ba mươi lạng trao tay

Không dưng chi có chuyện này trò kia

…Thấy nàng mặn phấn tươi son

Mừng thầm được chốn bán buôn có lời…

Cho đến một người đội trời đạp đất ở đời như Từ Hải mà cũng phải khuất phục quy luật của đồng tiền mới có được Kiều. Là con người suốt đời nạn nhân của đồng tiền, cuối cùng Thúy Kiều trở thành “tội nhân” nhận “bạc nghìn cân” của Hồ Tôn Hiến mà khuyên Từ Hải ra hàng, biến Từ Hải thành con thiêu thân thảm hại của triều đình phong kiến.

Có thể khi viết Truyện Kiều, Nguyễn Du chưa định hình nên cái gọi là chủ nghĩa hiện thực nhưng những gì nhà văn phản ánh trong tác phẩm của mình thực sự đã đặt nền móng cho sự xuất hiện chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX. Mặc dù ở thời đại Nguyễn Du, những điều gọi là lẽ phải không hiện ra vằng vặc trước mắt nhưng Nguyễn Du là người có tài, có tầm tư tưởng sâu rộng, đủ để nhận chân hiện thực thời đại. Vì thế, dẫu xuất thân trong gia đình quan lại phong kiến, dẫu bản thân làm quan dưới triều Nguyễn nhưng chân dung quan lại xấu xa, thối nát vẫn bị nhà thơ bóc trần trong tác phẩm Truyện Kiều dưới cái nhìn chân thực nhất. Với trái tim mẫn cảm, “quốc phá gia vong”, “thập tải phong trần”, “sở kiến hành”… đều có tác động dữ dội đến nhà thơ, nó giúp ông vượt lên khỏi dây buộc của đẳng cấp mình, vượt lên giới hạn nho sĩ để thực hiện con người nhân bản phi thường, kì diệu. Và cũng chỉ ở Nguyễn Du, thế giới nhân vật ngoài cuộc đời mới bước vào trang sách nhiều đến thế: Từ những ông quan tai to mặt lớn đến những kẻ sai nha tầm thường, từ những thiếu nữ khuê các đến những mụ chủ chứa mặt dạn mày dày, từ những người thật thà chất phác đến những kẻ lèo lá lọc lừa… tất cả đều ồ ạt bước vào tác phẩm của Nguyễn Du, làm sống dậy một thời kì lịch sử xã hội loạn lạc, đảo điên đến chóng mặt, suy vi đến cùng cực.

Cũng trong Truyện Kiều, trên cái nền tối đen, xám xịt của xã hội phong kiến bất công và thối nát, Nguyễn Du đã phơi bày hiện thực đau đớn đến nhức nhối lương tâm về số phận con người, đặc biệt là người phụ nữ. Xưa, Bạch Cư Dị từng nói: “Nhân sinh mạc túc phụ nhân thân. Bách niên khổ lạc do tha nhân” (Đời người không nên làm phụ nữ. Trăm năm sướng khổ do người khác quyết định). Dẫu đã hơn một lần Nguyễn Du cất tiếng kêu bi thiết:

Đau đớn thay, phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung

Nhưng hiện thực về số phận con người kết tinh trong hình tượng nàng Kiều không chỉ được nhìn từ góc độ giới tính mà còn được nhà thơ cắt nghĩa, lí giải từ góc độ xã hội. Làm nên thân phận ấy không phải bởi tại trời sinh ra là phụ nữ, thân phận ấy là hệ quả tất yếu của một xã hội xem thường giá trị con người. Không riêng Truyện Kiều mà “Long Thành cầm giả ca”, “Độc Tiểu Thanh kí” đều nói đến “nỗi hờn kim cổ” của những kẻ tài hoa phong vận. Hiện thực ấy đâu chỉ dành riêng cho người phụ nữ, hiện thực ấy còn bao hàm cả những ai trót tài tình hơn thiên hạ. Chúng ta hiểu vì sao trong “Độc Tiểu Thanh kí”, Nguyễn Du lại nhận mình là người cùng hội, cùng thuyền với Tiểu Thanh, cũng như trong Truyện Kiều, nhà thơ phát biểu: “Cùng người một hội một thuyền đâu xa”. Phải chăng đâu chỉ Đạm Tiên - Thúy Kiều mà còn hàm nỗi xót xa cho thân phận mình nữa? Đằng sau những tác phẩm của Nguyễn Du nói chung và Truyện Kiều nói riêng, nhà thơ đã cho người đọc cảm nhận một hiện thực đau lòng: Đó là sự quên lãng, vô tình, sự vùi dập của thế nhân đối với cái tài, cái đẹp. Cái tài không được trân trọng, cái đẹp không được nâng niu, đó là một xã hội bất công. Cái tài bị vùi dập, cái đẹp bị giày xéo, đó là một xã hội vô đạo. Chỉ có đôi mắt trông thấu sáu cõi mới nhìn ra, mới ý thức được hiện thực đáng sợ ấy. Nó trở thành nỗi nhức nhối đối với mọi tài năng, một vấn đề xã hội đối với con người và thời đại.

Câu chuyện trầm luân của Thúy Kiều xưa nay biết bao người nói tới, lời thơ của Nguyễn Du đã đi qua hàng thế kỉ nhưng bao nhiêu nỗi đoạn trường cùng những vần thơ đứt ruột kia như vẫn còn thổn thức trong tim người đọc. Kiều không chỉ hiện thân cho nhan sắc, mà còn hiện thân cho tài hoa và phẩm hạnh. Tài sắc của Kiều không phải thông thường mà là tuyệt đỉnh của tài sắc. Một con người như vậy lẽ ra phải được sống cuộc đời tốt đẹp, hạnh phúc nhưng xã hội bất công vô đạo đó đã biến tất cả những phẩm chất cao quý của nàng trở thành tai họa đối với chính bản thân nàng. Đang sống trong cảnh “Êm đềm trướng rủ màn che - Tường đông ong bướm đi về mặc ai”, chỉ một phen gió thảm mưa sầu đã hất tung nàng ra giữa cuộc đời giông tố. Sự thay đổi đó không thể gọi là hoàn cảnh đẩy đưa mà là tang thương dâu bể, điều không thể đã hóa thành có thể trong một xã hội tàn bạo. Hạnh phúc đã không đến với một người tài tình, hiếu hạnh như Kiều. Thậm chí nàng cũng không được sống một cuộc đời bình yên. Nhan sắc bị đem ra cò kè mua bán, tài năng bị đưa ra làm phương tiện mua vui, lòng hiếu nghĩa bị đem ra đánh đổi thành tiền bạc, nhân phẩm bị chà đạp, giày xéo… Kiều đã nếm trải tất cả những khổ nhục mà người phụ nữ thời trước có thể phải chịu đựng: Làm đĩ, đi ở, đi tu, bị lừa gạt, bị đánh ghen… Không phải là nỗi khổ vì chiến tranh của người chinh phụ, không phải là nỗi cay cực của người cung phi thất sủng, cũng không phải là nỗi oan uổng của người tôi trung bị hàm oan…Trong con người Kiều, trong cảnh ngộ Kiều, hình như tất cả những đau khổ tủi nhục của cuộc sống trong xã hội cũ đã dồn lại và cất lên thành những tiếng đoạn trường. Thế nào là cái khổ của người bị cắt mối duyên đầu, thế nào là cái khổ của người phải đem thân làm lẽ mọn, thế nào là cái khổ phải cúi mình làm tôi đòi kẻ khác, thế nào là cái khổ phải làm nghề buôn nguyệt bán hoa… Kiều đều đã thấm thía và trải nghiệm. Còn một xã hội nào bạo tàn và bất nhân hơn thế! Trong xã hội ấy, mọi giá trị đều bị đảo lộn. Quyền sống của con người đã bị thủ tiêu hoàn toàn. Đạo đức phong kiến suy vi, phá sản đến độ tai ác là con người muốn tự khép mình vào đó cũng không được. Muốn yêu đương chính đáng thì giữa đường đứt gánh, trâm gãy bình tan, cha mẹ con cái muốn cùng nhau sum họp thì tai bay vạ gió, phút chốc nên cảnh sinh li tử biệt. Dù chịu đem thân ngọc mình vàng cam phận tì thiếp thì ngọc nát vàng phai, cam chịu tôi đòi thì lại một phen mây gió tan tành, mong nương nhờ cửa phật hứng giọt nước cành dương thì cửa từ bi nào thoát cảnh trầm luân khổ ải… Nhan sắc, tài hoa, phẩm hạnh, tất cả đã bị chôn vùi theo mười lăm năm lưu lạc của đời Kiều. Giữa cuộc đời giông tố, thân phận con người trở nên mỏng manh chẳng khác gì cánh bèo mặt nước.

Phận bèo bao quản nước sa

Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh.

Đó là một hiện thực tàn nhẫn. Hiện thực ấy không khốc liệt như những phen thay đổi sơn hà làm chấn động năm cung sáu viện, cũng không dữ dội như hiện thực đấu tranh quật khởi của nhân dân nhưng không còn là chuyện của một hai cá nhân riêng lẻ. Một nàng Kiều, một Tiểu Thanh, một Đạm Tiên, một nàng Cầm đủ để tạo nên một ấn tượng hãi hùng về kiếp người tài hoa mà bạc mệnh. Nói riêng trong Truyện Kiều, đầu truyện là nấm mồ Đạm Tiên, cuối truyện là sông Tiền Đường đó, ấy mồ hồng nhan. Họa ở trước mắt, họa lơ lửng trên đầu, họa có sẵn cả trong tiền định. Kiều chỉ là điển hình cho số đó mà thôi.

Có thể thấy, chưa bao giờ trong lịch sử văn học Việt Nam, vấn đề xã hội, vấn đề con người lại được đặt ra một cách trực diện, khẩn trương, thống thiết, đứt ruột như trong Truyện Kiều. Và cũng chưa bao giờ con người phải sống đày đọa, điêu đứng, vừa giãy giụa chống lại, vừa cảm thấy bế tắc, bất lực như bị trói tay, trói chân trước số mệnh như thế:

Thôi còn chi nữa mà mong

Đời người đến thế là xong một đời…

Đó không phải là tiếng thở dài ngao ngán mà là tiếng kêu tuyệt vọng của con người giữa trùng trùng bủa vây của tai ách mà xã hội mang lại.

Với Truyện Kiều, Nguyễn Du đã đem đến cho người đọc bức tranh sinh động về hiện thực đen tối của xã hội đương thời với những đường nét sắc sảo. Điều đáng nói là hiện thực ấy không tồn tại như một đối tượng khách quan trong tác phẩm mà gắn liền với tấm lòng nhân đạo cao cả của nhà thơ. Với con mắt và trái tim của người nghệ sĩ chân chính, Nguyễn Du không chỉ day dứt, dằn vặt lương tri trước những bất công ngang trái của cuộc đời, nhà thơ còn chia sẻ nỗi đau truyền kiếp và cảm thông với những khát vọng thiết tha tự ngàn đời của con người, bức xúc trước những vấn đề nóng bỏng của thời đại. Đúng như thi hào đã nói:

Trải qua một cuộc bể dâu

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng. 

Thiên tài của Nguyễn Du là ở đó!

-/-

Trên đây là những bài văn hay nhất bàn về nhận định Truyện Kiều là bản cáo trạng lên án một xã hội bất nhân chà đạp con người do Đọc Tài Liệu sưu tầm được. Tham khảo thêm bộ tài liệu Ngữ Văn 9 gồm loạt bài hướng dẫn soạn văn 9 và các bài văn mẫu hay lớp 9 giúp bạn học tốt môn học này.

Bạn còn vấn đề gì băn khoăn?
Vui lòng cung cấp thêm thông tin để chúng tôi giúp bạn
Hủy

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM