Theo Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương, thực dân Pháp phải thực hiện ngừng bắn ở Việt Nam.
Nhắc lại lý thuyết:
*Hoàn cảnh
- Bước vào đông - xuân 1953 - 1954, đồng thời với mặt trận quân sự, ta đấu tranh trên mặt trận ngoại giao.
- Hội nghị Giơnevơ được khai mạc ngày 8 - 5 - 1954 và bắt đầu thảo luận về vấn đề Đông Dương.
- Căn cứ và điều kiện cụ thể, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kí Hiệp định Giơnevơ vào ngày 21 - 7 - 1954/
*Nội dung
- Các nước tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng quyền dân tộc cơ bản của 3 nước Việt Nam, Lào, Campuchia là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
- Hai bên tham chiến cùng ngừng bắn, lập lại hòa bình trên toàn Đông Dương.
- Hai bên tham chiến thực hiện cuộc di chuyển, tập kết quân đội ở hai vùng: Quân đội cách mạng Việt Nam và quân đội xâm lược Pháp tập kết ở hai miền Nam - Bắc, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới tạm thời.
- Việt Nam tiến tới thống nhất bằng cuộc tổng tuyển cử tự do trên cả nước, sẽ tổ chức vào 7 - 1956 dưới sự giám sát của Ủy ban quốc tế,...
*Ý nghĩa
- Hiệp định đã chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương.
- Là văn bản pháp lí quốc tế ghi nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Đông Dương.
- Hiệp định này buộc Pháp rút quân về nước. Âm mưu kéo dài chiến tranh của Pháp - Mĩ đã bị thất bại.
- Miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, chuyển sang giai đoạn Xã hội chủ nghĩa.
Theo Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương, thực dân Pháp phải
Xuất bản: 25/03/2021 - Cập nhật: 10/10/2023 - Tác giả: Chu Huyền
Câu Hỏi:
Đáp án và lời giải
Nét nổi bật nhất của tình hình nước ta sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương làđất nước bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau.
Lý thuyết:
Với Hiệp định Giơ ne vơ, cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp ở Đông Dương có Mỹ giúp đã chấm dứt.
Nhiệm vụ của cách mạng nước ta sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954 làhàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế ở miền Bắc, đưa miền Bắc tiến lên CNXH; tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà.
Kiến thức bổ sung:
Đặc điểm tình hình nước ta sau Hiệp định Giơ ne vơ năm 1954 làđất nước bị chia cắt thành 2 miền, với 2 chế độ chính trị-xã hội khác nhau.
Nước ta sau hiệp định Giơnevơ: mới chỉ giải phóng được miền Bắc, sau hiệp định Mĩ nhanh chóng nhảy vào miền Nam Việt Nam biến nơi này thành thuộc địa kiểu mới, căn cứ quân sự chống cộng ở Đông Nam Á.
Pháp thực hiện rút quân khỏi miền Nam Việt Nam trong bối cảnh Pháp đã hoàn tất chuyển giao mọi trách nhiệm thi hành Hiệp định Giơ– ne–vơ cho chính quyền Bửu Lộc.
Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương được kí kết buộc thực dân Pháp phải rút quân khỏi nước ta. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Sau Hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương, nhiệm vụ chung được đặt ra cho cách mạng Việt Nam là làm cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và tiếp tục cách mạng dân chủ nhân dân ở miền Nam
Điểm giống nhau giữa Hiệp định Pari và Hiệp định Gionevơ là cả hai hiệp định đều là hiệp định hòa hoãn, là cơ sở pháp lý để ta tiếp tục đấu tranh.
Giải thích
Những điểm giống nhau giữa hai hiệp định
* Hoàn cảnh kí kết: đều có thắng lợi về chính trị và quân sự trên chiến trường, có những trận chiến quyết định là ĐBP năm 1954 và ĐBP trên không năm 1972
Sau hiệp định Giơnevơ về Đông Dương nhiệm vụ của cách mạng nước ta làtiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam
Kẻ thù trực tiếp của nhân dân miền Nam sau hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương là Mĩ và chính quyền Ngô Đình Diệm.
Theo SGK Lịch sử 9 trang 132
Ngay từ năm 1954, nhận rõ đế quốc Mĩ là trở lực chính ngăn cản việc lập lại hòa bình ở Đông Dương và trở thành kẻ thù chính, trực tiếp của nhân dân Đông Dương, Trung ương Đảng đã đề ra cho cách mạng miền Nam nhiệm vụ chuyển cuộc đấu tranh vũ trang chống Pháp trước đó sang đấu tranh chính trị chống Mĩ-Diệm, đòi chúng thi hành Hiệp định Giơnevơ 1954, bảo vệ hòa bình, gìn giữ và phát triển lực lượng cách mạng.
Những điểm giống nhau giữa hai hiệp định
* Hoàn cảnh kí kết: đều có thắng lợi về chính trị và quân sự trên chiến trường, có những trận chiến quyết định là trận Điện Biên Phủ năm 1954 và Điện Biên Phủ trên không năm 1972.