Phân tích tình huống nhặt vợ trong truyện Vợ nhặt là dạng bài thường gặp trong chương trình Ngữ văn 12. Dưới đây là hướng dẫn chi tiết cách làm và tuyển tập những bài văn mẫu hay nhất phân tích tình huống truyện Vợ nhặt
. Cùng tham khảo để có thêm nhiều ý tưởng làm bài em nhé!Đề bài: Anh chị hãy phân tích tình huống "nhặt" vợ trong truyện "Vợ nhặt" của Kim Lân, từ đó nhận xét về thái độ của nhà văn đối với con người và thực trạng xã hội đương thời được bộc lộ qua tình huống truyện độc đáo này.
***
Hướng dẫn làm bài phân tích tình huống nhặt vợ trong truyện Vợ nhặt
1. Phân tích đề
- Yêu cầu đề bài: tình huống Thị trở thành vợ của Tràng trong truyện Vợ nhặt
- Đối tượng làm bài: tình huống nhặt vợ
- Phương pháp làm bài: phân tích
2. Các luận điểm chính cần triển khai
Luận điểm 1: Bối cảnh xây dựng tình huống truyện
Luận điểm 2: Tình huống đầy kịch tính, vừa lạ vừa éo le
Luận điểm 3: Ý nghĩa của tình huống truyện
3. Lập dàn ý
I. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả và tác phẩm
- Giới thiệu và đánh giá về tình huống truyện trong tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân
II. Thân bài:
- Tình huống truyện độc đáo:
Có thể nói sáng tạo tình huống truyện là vấn đề then chốt của nghệ thuật viết truyện ngắn. Qua tình huống có thể khẳng định tài năng cũng như phong cách của nhà văn.
* Tình huống truyện:
Tình huống truyện là diễn biến của sự việc, sự phức tạp của tình tiết; là cái éo le, nghịch lí ở đời. Sự việc, câu chuyện trong tác phẩm “xảy ra như thế mà ta cứ ngỡ không phải thế”. Tình huống càng lạ bao nhiêu thì truyện càng hay, hấp dẫn bấy nhiêu.
* Tình huống truyện độc đáo trong “Vợ nhặt”:
Đó chính là việc anh cu Tràng “nhặt” được vợ được xem là một tình huống đầy kịch tính, xưa nay chưa từng có; vừa lạ lại vừa éo le mà Kim Lân đã phát hiện và thể hiện rất hay và lạ.
- Lạ:
+ Người như Tràng mà lấy được vợ, thậm chí lại có vợ theo. Tràng:
- Xấu xí
- Tính cách có phần hơi dở hơi
- Nghèo, dân ngụ cư
→ Hội tụ đầy đủ những yếu tố để Tràng khó, thậm chí không lấy được vợ.
+ Giữa lúc đói khát, nuôi thân còn chẳng xong vậy mà Tràng lại dám “đèo bòng”, “rước cái của nợ đời ấy về”.
+ Tràng lấy được vợ, nhặt được vợ âu cũng chỉ qua hai lần gặp tình cờ, chỉ với mấy câu nửa đùa nửa thật vậy mà người đàn bà đã theo Tràng về → Cái công việc mà xưa nay người ta vẫn cho là khó lại vô cùng tình cờ, dễ dàng đối với Tràng.
- Éo le:
+ Tràng lấy vợ là việc được hưởng cái hạnh phúc lớn nhất của một đời người giữa cảnh “tối sầm lại vì đói khát”, giữa cái lúc mà cái chết và sự sống ranh giới mong manh, tưởng như âm - dương không có sự cách biệt.
→ Chen vào hạnh phúc là nỗi lo chạy trốn cái đói, nỗi lo níu kéo sự sống.
+ Duyên cớ để đưa họ đến với nhau cũng thật buồn lòng: đó là cái đói. Ở đây, mấy bát bánh đúc thay cho trầu cau dẫn cưới. Nếu không vì cái đói đưa đẩy thì Tràng cũng khó lòng lấy được vợ → Sự thật đáng buồn.
* Phản ứng của mọi người trước sự kiện độc nhất vô nhị Tràng xấu trai dân ngụ cư có vợ theo về:
- Những người dân trong xóm ngụ cư:
+ “Người trong xóm lạ lắm”, họ “đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán”→ Ngạc nhiên tột độ.
+ Sự kiện lạ lùng ấy đem đến một “cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối” của họ, làm những khuôn mặt “hốc hác, u tối” bỗng dưng “rạng rỡ hẳn lên”.
+ Họ “cười rung rúc”.
+ Rồi có người thở dài.
+ Tất cả cùng “nín lặng” khi có người nói “Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?”
- Bản thân Tràng:
+ Mọi chuyên nhanh chóng quá đến mức chính Tràng - người trong cuộc cũng cảm thấy ngạc nhiên. Khi Tràng vui mừng đưa người vợ nhặt về nhà, nhìn thị ngồi giữa nhà mà Tràng “vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế”
- Bà cụ Tứ - mẹ Tràng:
+ Vô cùng ngạc nhiên trước thái độ vồn vã, khác thường của đứa con trai, bà “hấp háy hay con mắt nhìn Tràng” rồi băn khoăn hỏi Tràng “Có việc gì thế vậy?”
+ Ngạc nhiên hơn nữa khi nhìn thấy người đàn bà trong nhà:
Bà “đứng sững lại”→ Quá đỗi ngạc nhiên.
Trong đầu bà cụ hiện lên một loạt những câu hỏi: “Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ?”, “sao lại chào mình bằng u?”….→ Băn khoăn, ngạc nhiên.
+ Khi đã hiểu rõ cơ sự bà lão “cúi đầu nín lặng”, thương xót cho số kiếp đứa con mình.
+ Bà cụ Tứ cảm thấy tủi thân, xót xa vì chưa làm tròn bổn phận làm cha mẹ “người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này, còn mình thì..” → Độc thoại nội tâm thể hiện tâm lí nhân vật.
+ Sau đó là “mừng lòng”, chấp nhận con dâu, khuyên nhủ các con đầy lạc quan…
* Ý nghĩa của tình huống truyện
- Tình huống truyện là một trong những yếu tố để làm nổi bật chủ đề tác phẩm đồng thời tạo điều kiện cho nhà văn miêu tả tâm lí nhân vật.
- Tạo cho tác phẩm có được kết cấu chặt chẽ. Các sự việc, các chi tiết khác được kể tới đều xoay quanh tình huống này.
- Tố cáo tội ác của bọn thực dân phát xít đẩy con người đến bước đường cùng, biến giá trị con người thành số không.
- Thể hiện được cái tình của người lao động nghèo và tấm lòng nhân hậu đầy yêu thương của bà mẹ
- Nói lên được lòng ham sống, bản chất lạc quan của người lao động đang bị lâm vào cảnh khốn cùng.
III. Kết bài
Khẳng định nét độc đáo và ý nghĩa của tình huống truyện mà Kim Lân đã xây dựng
Xem thêm: Các đề văn về nhân vật Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân
4. Sơ đồ tư duy
5. Kiến thức bổ sung: Tóm tắt truyện Vợ nhặt
Truyện lấy bối cảnh nạn đói khủng khiếp năm 1945, kể về nhân vật chính có tên là Tràng, một chàng trai xấu xí nghèo khổ, làm nghề đẩy xe thóc thuê. Giữa lúc nạn đói tràn đến xóm ngụ cư của hắn, Tràng đưa vợ về nhà, người vợ hắn “nhặt” được sau vài ba bận nói đùa và bốn bát bánh đúc. Bà cụ Tứ, người mẹ giàu tình thương người, xót cho cảnh ngộ người đàn bà, vừa mừng vừa tủi, bà chấp nhận nàng dâu mới. Cái liều lĩnh của Tràng đã biến thành hạnh phúc, những con người nghèo khổ ấy cùng nương tựa vào nhau và cùng hi vọng vào tương lai. Tác phẩm kết thúc bằng hình ảnh lá cờ đỏ, niềm tin vào một tương lai tươi sáng hơn.
Văn mẫu tham khảo phân tích tình huống nhặt vợ
Bài số 1:
Để một tác phẩm văn học trở nên thành công thì cần có rất nhiều yếu tố tác động vào như nội dung, nghệ thuật, cùng các giá trị nhân văn mà nó mang lại. Một trong những yếu tố quan trọng đó chính là cách xây dựng tình huống truyện. Một truyện ngắn muốn hay, cuốn hút người đọc thì phải có được một cốt truyện hấp dẫn. Một trong số ít nhà văn được mệnh danh là bậc thầy trong xây dựng cốt truyện đó chính là Kim Lân. Các tác phẩm của ông đều có những nét riêng biệt, đặc sắc, nội bật trong số đó chính là tác phẩm “Vợ nhặt”. Truyện ngắn phản ánh sự thật về nạn đón những năm 1945 và cuộc sống nghèo khổ của nhân dân thời bấy giờ.
Truyện ngắn nói về nhân vật Tràng, một người dân ngụ cư nghèo khổ sống cùng mẹ. Nhà văn Kim Lân đã miêu tả Tràng như một sản phẩm vội vàng của tạo hóa “hai con mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng chiều, hai quai hàm bạnh ra, cái mặt bặm lại lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú vừa dữ tợn. Cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng trước, cái lưng dài rộng như là lưng gấu lại thêm tật vừa đi vừa ngẩng mặt lên trời cười hềnh hệch". Quả thực Tràng là một thanh niên rất xấu xí, chả ai thèm ngó ngàng. Chẳng những vậy, cái nghèo, cái đói luôn đeo bám, quẩn quanh hai mẹ con Tràng. Kim Lân đã dùng những từ ngữ chân thật để miêu tả cuộc sống và ngôi nhà mà Tràng đang ở “những búi cỏ dại lổn nhổn”, “đống quần áo rách vắt khươm mươi niên trong một góc nhà”, “hai cái ang nước để khô cong trơ trọi dưới gốc cây ổi”…. Cuộc sống túng thiếu của hai mẹ con hiện lên thật giản dị, tội nghiệp, khiến người khác không khỏi cảm thấy xót thương cho hai số phận. Nhưng điều làm cho Tràng cảm thấy tủi nhục nhất đó chính là mang trong mình cái danh dân ngụ cư, bị dân làng khinh miệt, coi thường.
Tuy nghèo đói nhưng chàng vẫn có một công việc để làm, để trông mong, đó chính là phu xe, hàng ngày bốc vác, chở gạo ra các chợ. Công việc thì vất vả, đói khát nhưng quả thật anh ta lúc nào cũng có thể vui vẻ, lạc quan. Giữa trời trưa nắng gắt, phải kéo cả một xe gạo đầy nặng trĩu, nhưng chàng ta vẫn có sức cất lên những câu hò:
“Muốn ăn cơm trắng mấy giò này
Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì”
Những câu hò này không hẳn là có ý trêu ghẹo những cô gái ngồi bên đường, mà chủ yếu để giúp chàng ta quên đi những mệt mỏi, đói khát mà mình đang phải chịu. Ấy vậy mà chỉ bằng vài ba lời hát vu vơ mà khiến Tràng được một người con gái để ý và đi theo đẩy giúp. Tràng là ngưởi hiểu rõ hơn ai hết những gì mà mình hát ở trên không phải là sự thật, làm gì mà có gạo trắng mà ăn chứ nói gì đến giò chả. Để rồi đến khi gặp người con gái ấy lần thứ hai, Tràng đã rất đỗi ngạc nhiên trước sự thay đổi ngoại hình của Thị “Thị hôm nay rách quá, trên khuôn mặt lưỡi cày chỉ trơ lại hai con mắt”.
Quả thực Thị đã gầy đi rất nhiều, có lẽ vì đói, vì khát mà cơ thể con người Thị đã bị tàn phá nhanh đến như vậy. Thị chạy đến sưng sỉa trước mặt Tràng “Điêu! người thế mà điêu”, mới đầu hắn ta chẳng hiểu gì nhưng rồi một lúc cũng ngộ ra rồi mời Thị đi ăn “thích ăn gì thì ăn”. Thị ta chẳng ngại ngùng gì mà cắm đầu ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc, quả thực lúc này thị ta nhìn rất trơ trẽn. Người ngoài nhìn vào có người sẽ khinh bỉ, cho rằng thị ta đang vứt hết cả lòng tự trọng đi để ăn, nhưng cũng sẽ có những người xót thương, đồng cảm cho một con người đang phải chịu cơn đói hành hạ. Khi ấy, con người ta chẳng còn bận tâm đến danh dự, hay nhân phẩm gì nữa, ăn no mới là điều quan trọng trước hết. Đợi đến khi Thị ăn xong, Tràng có nói câu nửa vui nửa đùa rằng “về với tớ thì khuôn hàng lên xe rồi cùng về”. Tưởng Thị sẽ cười chê mình, nào ngờ Thị về thật, về làm dâu nhà Tràng. Một đám cưới diễn ra.
Việc một con trai lớn lên, xây nhà, cưới vợ là việc quá đỗi bình thường, nhưng nhân vật Tràng lại là một thanh niên xấu xí, nghèo đói, gia cảnh khó khăn, đặc biệt là dân ngụ cư nữa nên việc Tràng có được vợ làm rất nhiều người ngạc nhiên. Qua đây, ta đã thấy được nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo của Kim Lân: vợ đáng lẽ ra là người ta yêu, qua tìm hiểu, đính ước mà đến với nhau, nhưng ở đây, Tràng ta lại “nhặt” được vợ theo đúng nghĩa đen và của hồi môn chắc có lẽ chỉ là vài bát bánh đúc mà thị ta vừa ăn lúc trước.
Việc Tràng có vợ khiến rất nhiều người ngạc nhiên, cụ Tứ – mẹ Tràng cùng tất cả những người thôn ngụ cư, người trong xóm lạ lắm: Họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán. Đến khi hiểu ra là Tràng có vợ theo về, thì họ lại càng ngạc nhiên hơn nữa. Người thì “cười lên rung rúc", người lại lo dùm cho anh ta "Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ dài về". Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?”. Người đời cười chê, chế nhạo thế nhưng chẳng làm hai vợ chồng Tràng cảm thấy tủi nhục, xấu hổ. Cho đến khi dẫn Thị về nhà, cả cụ Tứ lẫn Tràng đều không tin nhà mình có con dâu.
Cụ Tứ vừa vui vừa buồn, vừa cảm thấy thương xót cho con trai mình. Bà vui vì con trai mình đến tuổi trưởng thành đã cưới được vợ, bà mừng cho hai đứa chúng nó, nhưng bà cũng buồn, buồn vì gia đình nhà mình quá nghèo. Đám cưới gì mà chẳng có cờ có hoa, không một mâm cỗ, không kèn trống, không người đưa đón, chỉ đơn giản là đưa dẫn nhau về ở chung, cùng nhau vun vén, xây dựng gia đình. Bước vào căn nhà lụp xụp mà hai mẹ con Tràng đang ở mà Thị chỉ biết thở dài, bắt tay vào công việc dọn dẹp. Đến bữa ăn về nhà chồng cũng chỉ là nồi cháo loãng với chút muối trắng, cuộc sống của ba con người quả thực rất nghèo khổ.
Qua câu chuyện, nhà văn đã dành những tình cảm tốt đẹp nhất đối với con người nghèo khổ bằng cả tấm lòng nhân hậu của mình. Ông xót thương cho dân tộc trước thảm hoạ đói chết. Ông cũng ái ngại cho người con gái bị nạn đói cướp đi gần hết (gia đình, nhan sắc, tính cách, tên tuổi…).
Không những vậy, nhà văn còn rất tinh tế khi phát hiện ra khát vọng hạnh phúc và niềm vui khi nhặt vợ của Tràng; cái duyên thầm của thị qua cái liếc mắt với Tràng…Có thể nói, nhà văn rất trân trọng và tự hào về vẻ đẹp nhân tính của con người lao động nghèo trước thảm hoạ đau thương, chết chóc.
Đồng thời nhà văn còn tập trung ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của nhân dân lao động qua hình ảnh của bà cụ Tứ: một người mẹ giàu tình thương con, giàu lòng nhân hậu và niềm tin vào cuộc sống và đây cũng chính là niềm tin của nhà văn vào phẩm chất tốt đẹp của con người.
Thông qua tình huống truyện, nhà văn lên án và tố cáo tội ác của Nhật – Pháp đã đẩy nhân dân ta vào thảm hoạ đói nghèo, chết chóc. Chính chúng đã làm cho giá trị con người trở thành rẻ rúng như rơm như rác: vợ mà nhặt được.
Đúng là một tình huống truyện rất lạ mà Kim Lân đã dựng nên. Nhà văn đã đặt nhân vật của mình vào một tình huống éo le để làm nổi bật lên những giá trị nhân văn sâu sắc. Ông không chỉ muốn nói lên nét đẹp trong tính cách con người Việt Nam là dù có ở trong hoàn cảnh khó khăn như thế nào, lúc nào cũng có thể đối mặt với cái chết nhưng họ vẫn yêu thương, quan tâm nhau mà ông còn muốn lên án chế độ thực dân độc ác đã khiến nhân dân ta trở nên nghèo đói, lầm than.
Tham khảo thêm: Cảm nhận tâm trạng nhân vật Tràng liên hệ với tâm trạng Chí Phèo
Bài số 2:
Viết về nạn đói ăn năm Ất Dậu, Vợ nhặt của Kim Lân là một truyện ngắn đặc sắc nhất, độc đáo nhất trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Với một vốn sống phong phú về nông thôn và người nhà quê, với một tấm lòng nhân hậu bao dung, câu chuyện anh trai cày thô kệch "nhặt" được vợ, đã được tác giả kể lại một cách cảm động, đậm đà. Bút pháp phân tích tâm lí nhân vật và xây dựng tình tiết - cốt truyện đầy kịch tính là giá trị tư tưởng và nghệ thuật đích thực được thể hiện qua tình huống "nhặt" vợ của anh cu Tràng.
Anh cu Tràng, mồ côi bố, ở với mẹ già tại xóm ngụ cư. Nhà nghèo, hắn làm nghề kéo xe bò thuê. Con mắt "nhỏ tí", bộ mặt "thô kệch", cái đầu "trọc nhẵn" lại có tật "vừa đi vừa nói lảm nhảm...". Cứ tưởng rằng hắn sẽ nằm suông đến già. Ai ngờ... chỉ "tầm phơ tầm phào đâu có hai bận", một câu hò rất phong tình, bốn bát bánh đúc ngoài chợ tỉnh, chẳng cheo cưới gì thế mà hắn đã "nhặt" được vợ. Đó là một cô gái, áo quần rách như tổ đỉa, nhưng đã "liếc mắt cười tít" làm cho Tràng "thích lắm".
Tràng "nhặt" được vợ khi trận đói đã và đang diễn ra vô cùng khủng khiếp. Người chết đói như ngả rạ. Từng đám người chạy đói "xanh xám như những bóng ma". Mùi gây của xác người... Quạ bay vẩn trên nền trời như những đám mây đen, "cứ gào lên từng hồi thê thiết". Xóm ngụ cư "xác xơ heo hút". Tràng "nhặt" vợ mà cảm thấy "chợn" vì giữa trận đói, nuôi cái thân mình còn khó mà "lại còn đèo bòng". Trên đường dẫn "vợ mới vợ miếc" về nhà, hắn "phớn phở" khác thường, "tủm tỉm cười nụ", "hai mắt thì sáng lên lấp lánh",... Còn thị thì "thèn thẹn hay đáo để".
Tràng "nhặt" được vợ đã làm cho cả xóm ngụ cư ngạc nhiên. Lũ trẻ con cong cổ gào lên: "Chông vợ hài". Có người "thở dài", có người "thì thầm" hỏi. Lại có người "cười lên rung rúc". Có người lo và thương cho Tràng: "Giời đất này còn rước cái của nợ đời về". Bà cụ Tứ, mẹ Tràng lại càng ngạc nhiên khi thấy một người đàn bà xa lạ "đứng ngay đầu giường" thằng con trai mình. Bà vừa tủi thân, vừa mừng vừa lo: "Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được đói cơn đói khát này không". Tối "tân hôn" của Tràng đã có hai hào dầu thắp sáng, nhưng "tiếng khóc hờ tỉ tê" của những gia đình mới có người chết đói, nghe càng rõ trong đêm khuya.
Mẹ chồng chỉ có một nồi cháo cám ăn mừng nàng dâu mới. Tiếng trống thúc thuế vẫn dội lên "dồn dập vội vã". Và trên đê Sộp những người đói ầm ầm kéo nhau đi, phía trước có lá cờ đỏ to lắm!
Tình huống "nhặt" vợ đã được Kim Lân sáng tạo nên bằng cảm hứng nhân văn sâu sắc. Ông đã dành những tình cảm tốt đẹp nhất đối với con người nghèo khổ, hoạn nạn. Ông xót thương cho nỗi đau khổ của dân tộc trước thảm hoạ năm Ất Dậu "người chết như ngả rạ". Ông ái ngại cho một cô gái bị nạn đói cướp đi gần hết. Không còn tên tuổi. Không còn bố mẹ, anh chị em. Không gia đình quê hương. Mặt người "gầy sọp", áo quần rách như tổ đỉa. Đói quá, mất đi vẻ duyên dáng, "cắm đầu một chặp bốn bát bánh đúc". Giá trị, phẩm giá của người con gái trở nên rẻ rúng đáng thương! Trước mắt thị là vực thẳm, là chết đói, thị phải "theo trai", phải lấy Tràng...
Kim Lân nhân hậu lắm. Ông đã tả cặp mắt, nụ cười của Tràng rất đẹp, rất vui. Ông đã phát hiện ra chút duyên thầm, nét nữ tính của thị. Cái mắt cười câu mắng yêu và cái củng vào trán Tràng của thị trong tối tân hôn, được nhà văn diễn tả đầy ý vị. Hạnh phúc đến với Tràng, tuy muộn mằn, tuy phải "nhặt" mới có vợ, nhưng đáng tự hào và trân trọng biết bao. Anh đã mua hai hào dầu thắp sáng tối tân hôn, để xua tan cái tối tăm, nghèo khổ, cô độc, để mừng "vợ mới vợ miếc", để soi sáng hạnh phúc tương lai. Tình tiết hai hào dầu rất giàu ý nghĩa nhân đạo.
Kim Lân đã ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của nhân dân lao động. Ông đã tả giọt nước mắt trong nỗi lo, niềm vui của người mẹ nghèo khi nhận nàng dâu mới. Niềm tin "ai giàu ba họ, ai khó ba đời"; nồi cháo cám đắng chát mà người mẹ già gọi là "chè khoán ngon đáo để", những câu chuyện vui, chuyện sau này của người mẹ chồng nói với con trai và con dâu lúc ăn cháo cám. Tất cả thể hiện một cách cảm động tình thương người, niềm tin đối với con người của tác giả.
Đối với thực trạng xã hội đương thời, thông qua tình huống Tràng "nhặt" vợ, Kim Lân căm thù lên án và vạch trần tội ác của Nhật - Pháp đã bắt dân ta nhổ lúa trồng đay, vơ vét sưu thuế, gây ra trận đói kinh khủng năm Ất Dậu 1945, làm hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói! Nạn đói đã hạ thấp giá trị con người. Chẳng cần cheo cưới, chỉ cần bốn bát bánh đúc mà người ta có thể "nhặt" được vợ.
Qua tình tiết khi trống thúc thuế dồn dập dội lên, thì nàng dâu mới loan tin ở mạn Bắc Giang, Thái Nguyên, người ta không chịu đóng thuế, còn phá kho thóc của Nhật - chia cho người đói,... Và đám người đói kéo đi trên đê Sộp, phía trước là lá cờ đỏ to lắm bay phấp phới. Kim Lân đã thể hiện rất hay tình cảm của hàng triệu nông dân Việt Nam hướng về cách mạng. Cứu đói, cứu khổ, cứu đời và đem đến độc lập, tự do cho dân tộc chính là sự xuất hiện lá cờ đỏ ấy. Qua hình ảnh lá cờ đỏ, cảm hứng nhân đạo của truyện "Vợ nhặt" đã được nhân lên thành cảm hứng nhân văn tuyệt đẹp.
» Xem thêm:
Tuyển tập Văn mẫu 12 tham khảo giúp học tốt môn Văn lớp 12
Hy vọng rằng dàn ý chi tiết cùng bài tham khảo phân tích tình huống nhặt vợ trong truyện Vợ nhặt trên đây sẽ giúp các em hoàn thành bài làm của mình một cách hoàn thiện và thuận lợi nhất. Chúc các em luôn học tốt và đạt kết quả cao!