Hướng dẫn viết bài văn thuyết minh về một lễ hội văn hóa, lập dàn ý chi tiết kèm theo TOP 7+ bài văn thuyết minh hay giới thiệu một lễ hội văn hóa độc đáo và ý nghĩa của dân tộc ta.
Dàn ý thuyết minh về một lễ hội văn hóa
1. Mở bài
- Giới thiệu tên lễ hội, địa điểm tổ chức, thời gian diễn ra.
- Nêu khái quát về ý nghĩa và tầm quan trọng của lễ hội.
2. Thân bài
a) Nguồn gốc và lịch sử hình thành lễ hội
- Lễ hội xuất hiện từ bao giờ? Giải thích ý nghĩa tên gọi của lễ hội.
- Mục đích tổ chức lễ hội (tôn giáo, tín ngưỡng, tưởng nhớ…)
- Trình bày quá trình hình thành và phát triển của lễ hội qua các thời kỳ
- Kể về truyền thuyết, sự kiện lịch sử gắn liền với lễ hội (nếu có)
b) Những hoạt động chính trong lễ hội
* Các công việc chuẩn bị cho lễ hội
- Chuẩn bị các tiết mục biểu diễn.
- Chuẩn bị trang trí, tiến trình lễ hội (nếu là lễ hội truyền thống thì chuẩn bị cho việc rước kiệu, trang trí kiệu, chọn người,…).
- Chuẩn bị về địa điểm…
* Phần lễ
- Mô tả không khí trang nghiêm, thành kính trong phần lễ.
- Giới thiệu các nghi thức tế lễ, dâng hương, cầu nguyện.
- Nêu ý nghĩa của các nghi thức trong phần lễ.
- Cách thức tổ chức các nghi thức.
* Phần hội
- Tả cảnh náo nhiệt, sôi động của phần hội.
- Giới thiệu các hoạt động vui chơi giải trí, thi đấu diễn ra trong lễ hội.
+ Các trò chơi dân gian truyền thống
+ Các hoạt động văn hóa, nghệ thuật đặc sắc
+ Hoạt động ẩm thực trong lễ hội
+ ...
- Nhấn mạnh những nét độc đáo, đặc trưng của các hoạt động văn hóa.
c) Những nét độc đáo, đặc sắc riêng của lễ hội
- So sánh với các lễ hội khác để làm nổi bật nét riêng.
- Những phong tục, tập quán độc đáo chỉ có ở lễ hội này.
d) Giá trị văn hóa của lễ hội
- Thể hiện bản sắc văn hóa của địa phương, dân tộc
- Thể hiện lòng biết ơn, trân trọng đối với tổ tiên, các vị anh hùng.
- Giữ gìn, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc.
- Góp phần tăng cường giao lưu, đoàn kết cộng đồng.
- Là điểm đến du lịch hấp dẫn, thu hút du khách trong và ngoài nước, góp phần thúc đẩy du lịch, phát triển kinh tế.
- Khẳng định vai trò của lễ hội trong việc giáo dục thế hệ trẻ về truyền thống văn hóa dân tộc.
3. Kết bài
- Khẳng định lại giá trị và tầm quan trọng của lễ hội văn hóa.
- Nêu cảm nhận cá nhân về lễ hội và kêu gọi mọi người chung tay gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa truyền thống.
TOP 7+ bài văn thuyết minh về một lễ hội văn hóa hay và độc đáo
Thuyết minh về một lễ hội văn hóa ngắn gọn nhất mẫu số 1: Hội Gióng Phù Đổng
Hội Gióng là một lễ hội truyền thống hàng năm ở nhiều nơi thuộc vùng Hà Nội để tưởng niệm và ca ngợi chiến công của người anh hùng truyền thuyết Thánh Gióng, một trong tứ bất tử của tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Hội Gióng Phù Đổng chính thống được tổ chức hàng năm vào ba ngày mùng 7, mùng 8 và mùng 9 tháng 4 Âm lịch tại xã Phù Đổng, huỵện Gia Lâm, thành phố Hà Nội, nơi sinh ra người anh hùng huyền thoại Phù Đổng Thiên Vương.
Trước ngày hội diễn ra, bảy thôn làng đại diện cho bảy xã chuẩn bị lễ vật trong ngày mở đầu hội chính. Nhưng nghi lễ đặc biệt sẽ được làm vào đêm mùng 5 đó là lễ Dục Vọng để mời ông Gióng về với các lễ vật, lễ phẩm đã được chuẩn bị chu đáo với lòng thành kính, mong đức Thánh Gióng phù hộ cho dân làng có một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Ngoài ra, trong hội còn có nhiều trò chơi dân gian sôi động như chọi gà, cờ tướng, hát ca trù, hát chèo… Ngày chính hội là mùng 6, ngày thánh hóa theo truyền thuyết. Ngày khai hội, dân làng và khách thập phương dâng hương, đúng nửa đêm có lễ khai quang - tắm cho pho tượng Thánh Gióng.
Nghi lễ chủ yếu trong ngày chính hội là dâng hoa tre ở đền Sóc (thờ Thánh Gióng) và chém tướng giặc. Hoa tre được làm bằng những thanh tre dài khoảng 50cm, đường kính khoảng 1cm, đầu được vót thành xơ và nhuộm màu. Sau lễ dâng hoa, tre được tung ra trước sân đền cho người dự hội lấy để cầu may. Chém tướng giặc được thực hiện bằng cách chém một pho tượng, diễn lại truyền thuyết Gióng dùng tre ngà quật chết tướng cầm đầu giặc Ân là Thạch Linh (đá thành tinh). Mặc dù có các nghi thức gắn với truyền thuyết Thánh Gióng nhưng các nhà nghiên cứu cho rằng: "Hội Gióng Sóc Sơn vẫn mang rõ tính chất hội cầu mùa theo tín ngưỡng dân gian phổ biến ở hầu hết hội xuân vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ".
Hội Gióng Phù Đổng được đánh giá là một trong những lễ hội lớn nhất tại đồng bằng Bắc Bộ về quy mô đoàn rước và người tham dự.
Thuyết minh về một lễ hội văn hóa ở địa phương em mẫu số 2: Lễ hội Cầu ngư
Lễ hội là một trong những nét văn hóa của dân tộc ta, nó không chỉ là nơi để vui chơi giải trí mà nó còn là để cho nhân dân ta thể hiện mong ước hay nhớ ơn tổ tiên ông bà ta. Mỗi một quê hương có những lễ hội riêng, tiêu biểu có thể kể đến lễ hội cầu ngư - lễ hội cá ông.
Có thể nói nhắc đến cái tên lễ hội ấy thì chúng ta hẳn cũng biết là lễ hội của những ai. Nói đến cá thì chỉ có nói đến nhân dân vùng ven biển sinh sống bằng nghề đánh bắt cá. Chính đặc trưng ngành nghề ấy đã quyết định đến tín ngưỡng của họ. Những người sống ven biển miền trung thường có tục thờ ngư ông. Chính vì thế cho nên hàng năm họ thường tổ chức vào các năm giống như những hội ở miền Bắc. Họ quan niệm rằng cá là sinh vật thiêng ở biển, là cứu tinh đối với những người đánh cá và làm nghề trên biển nói chung. Điều này đã trở thành một tín ngưỡng dân gian phổ biến trong các thế hệ ngư dân ở các địa phương nói trên.
Ở mỗi địa phương thì thời gian diễn ra lễ hội truyền thống lại diễn ra khác nhau. Ở Vũng Tàu thì được tổ chức vào 16, 17, 18 tháng 8 âm lịch hàng năm. Ở thành phố Hồ Chí Minh thì lại được tổ chức vào 14 - 17/18 âm lịch hàng năm. Nói chung dù diễn ra vào thời gian nào thì tất cả những lễ hội ấy đều nói lên được nét đặc trưng văn hóa của nhân dân ven biển. Đồng thời nó thể hiện khát vọng bình yên, cầu mong cuộc sống ấm no hạnh phúc thịnh vượng của họ. Lễ hội Ngư Ông còn là nơi cho mọi người tưởng nhớ đến việc báo nghĩa, đền ơn, uống nước nhớ nguồn.
Tiếp đến chúng ta đi vào phân tích phần lễ hội ngư ông. Trước hết là phần lễ thì bao gồm có hai phần:
Thứ nhất là lễ rước kiệu, lễ rước đó là của Nam hải Tướng quân xuống thuyền rồng ra biển. Khi ấy những ngư dân sống trên biển và bà con sẽ bày lễ vật ra nghênh đón với những khói nhang nghi ngút. Cùng với thuyền rồng rước thủy tướng, có hàng trăm ghe lớn nhỏ, trang hoàng lộng lẫy, cờ hoa rực rỡ tháp tùng ra biển nghênh ông. Không khí đầy những mùi hương của hương án và bày trước mắt mọi người là những loại lễ. Trên các ghe lớn nhỏ này có chở hàng ngàn khách và bà con tham dự đoàn rước. Đoàn rước quay về bến nơi xuất phát, rước ông về lăng ông Thủy tướng. Tại bến một đoàn múa lân, sư tử, rồng đã đợi sẵn để đón ông về lăng. Có thể thấy lễ rước ông không những có sự trang nghiêm của khói hương nghi ngút mà còn có sự đầy đủ của lễ vật và âm nhạc rộn rã của múa lân.
Thứ hai là phần lễ tế. Nó diễn ra sau nghi thức cúng tế cổ truyền. Đó là các lễ cầu an, xây chầu đại bội, hát bội diễn ra tại lăng ông Thủy tướng.
Tiếp đến là phần hội thì trước thời điểm lễ hội, hàng trăm những chiếc thuyền của ngư dân được trang trí cờ hoa đẹp mắt neo đậu ở bến. Phần hội gồm các nghi thức rước Ông ra biển với hàng trăm ghe tàu lớn nhỏ cùng các lễ cúng trang trọng. Đó là không khí chung cho tất cả mọi nhà trên thành phố đó thế nhưng niềm vui ấy không chỉ có ở thành phố mà nó còn được thể hiện ở mọi nhà. Ở tại nhà suốt ngày lễ hội, các ngư dân mời nhau ăn uống, kể cả khách từ nơi xa đến cũng cùng nhau ăn uống, vui chơi, trò chuyện thân tình.
Như vậy qua đây ta thấy hiểu thêm về những lễ hội của đất nước, ngoài những lễ hội nổi tiếng ở miền Bắc thì giờ đây ta cũng bắt gặp một lễ hội cũng vui và ý nghĩa không kém là ngư ông. Có thể nói qua lễ hội ta thêm hiểu hơn những mong muốn tốt lành của những người ngư dân nơi vùng biển đầy sóng gió. Đặc biệt nó cũng trở thành một lễ hội truyền thống của những người dân nơi biển xa.
Thuyết minh về một lễ hội văn hóa truyền thống mẫu số 3: Lễ hội chọi trâu
Dù ai đi đâu, ở đâu
Tháng giêng mười bảy chọi trâu thì về
Dù ai buôn bán trăm nghề
Tháng giêng mười bảy nhớ về chọi trâu
Bài ca dao trên nói về lễ hội chọi trâu Hải Lựu ở Vĩnh Phúc. Đây là lễ hội truyền thống, chứa đựng những nét văn hóa lâu đời của quê hương em.
Có rất nhiều sự tích liên quan đến các lễ hội dân gian và hội chọi trâu Hải Lựu cũng không nằm ngoài quy luật này. Đây là lễ hội chọi trâu cổ xưa nhất Việt Nam. Nhiều người cho rằng lễ hội này có từ thế kỷ 2 trước Công nguyên. Khi nhà Hán xâm lược nước Nam Việt thì Lữ Gia - một tướng của nước ta đã lui quân về vùng núi Hải Lựu, Sông Lô, Vĩnh Phúc để tổ chức đánh giặc. Sau mỗi trận thắng, Lữ Gia lại cho tổ chức chọi trâu để khích lệ tinh thần chiến đấu anh dũng, kiên cường, quả cảm của quân sĩ. Trâu sau khi chọi đều được giết để khao quân. Sau khi Lữ Gia mất, dân làng Hải Lựu thờ làm thành hoàng làng và lễ hội chọi trâu cũng bắt đầu có từ đó.
Lễ hội chọi trâu Hải Lựu được mở hàng năm vào ngày 16 - 17 tháng Giêng, thu hút rất nhiều du khách. Trước ngày lễ hội, xã Hải Lựu sẽ cử một đoàn người lên tế lễ tại Đền Hùng. Đêm trước lễ hội là lễ tế Thành Hoàng làng. Trong đêm ấy, nhân dân sẽ cùng nhau uống rượu, ca hát, cùng bàn chuyện làm ăn trong năm mới, cùng chuẩn bị cho trâu vào xới chọi ngày mai. Đây là hoạt động cho thấy tinh thần nhớ ơn tổ tiên, hướng tới cội nguồn, cầu mong năm mới an lành của nhân dân.
Sáng hôm sau, người dân sẽ tập trung rất đông đúc ở khu vực chọi trâu. Những cặp trâu sẽ lần lượt đấu chọi cho đến khi nào tìm ra chú trâu chiến thắng. Ví dụ như lễ hội năm 2004 là cuộc so tài của 24 "Ông Trâu", chia thành 12 cặp đấu vòng loại, 12 trâu thắng sẽ tiếp tục tham gia vòng loại thứ hai, 6 trâu thắng sẽ tiếp tục tham gia vòng loại thứ ba, 3 trâu thắng ở vòng loại thứ ba đấu vòng tròn để tranh giải nhất nhì.Điều đặc biệt ở lễ hội chọi trâu Hải Lựu chính là những chú trâu thường được các tập thể cùng tham gia nuôi dưỡng, huấn đã gắn bó lâu đời với nhau. Con trâu được chăm sóc, được cả cộng đồng yêu quí, trân trọng như một thành viên trong gia đình, làng xóm. Chính nhờ thế mà bà con làng xóm cũng gắn bó nhau hơn. Sau gần nửa năm được chăm sóc rèn luyện, trâu nào cũng béo tốt, tràn đầy sinh lực trước khi vào trận. Những chú trâu chọi luôn đấu nhau bằng lối đối mặt dùng sừng và sức khỏe để chọn thế võ tấn công đối phương. Trâu không bao giờ tấn công nhau từ phía sau lưng hay mạn sườn, nhờ vậy mà lễ hội chọi trâu còn thể hiện tinh thần thượng võ, cao thượng của dân tộc ta. Nếu ai đã từng đến lễ hội chọi trâu Vĩnh Phúc một lần, hòa chung niềm vui đầu năm với những người dân nơi đây thì hẳn sẽ nhớ mãi một lễ hội đặc sắc mang đậm nét riêng mà vẫn giàu giá trị truyền thống dân tộc.
Có thể thấy rằng, hiện nay lễ hội chọi trâu vẫn còn vướng nhiều bất cập, khó khăn nhưng những giá trị cao đẹp mà lễ hội mang lại và truyền tải đến người dân là không thể phủ nhận. Vì vậy, trong tương lai, chúng ta cần bảo vệ, phát huy lễ hội này đúng cách.
Thuyết minh về một lễ hội văn hóa dân gian mẫu số 4: Hội Lim
“Làng quan họ quê tôi
Tháng giêng múa hát hội
Những đêm trăng hát gọi
Con sông Cầu làng bao xanh
Ngang lưng làng quan họ xanh xanh”
Chỉ bằng ngần ấy câu ca thôi đã hiện lên trong ta bao nhiêu cảm xúc xốn xang về một lễ hội truyền thống được rất nhiều người dân chờ đón - Hội Lim. Nơi mà những câu ca quan họ đã ăn sâu thấm nhuần vào từng mạch máu thớ thịt của người dân Kinh Bắc nói riêng và người dân Việt Nam nói chung.
Nhắc đến vùng Kinh Bắc là nhắc đến một mảnh đất đã in đậm những dấu ấn đặc sắc của văn hóa và lịch sử dân tộc. Mỗi bước đi trên mảnh đất này, mỗi công trình kiến trúc đều in đậm dấu ấn của thời gian, của những thăng trầm mà dân tộc ta đã trải qua. Và Hội Lim chính là một dấu ấn khó phai ở đó.
Hội Lim là một lễ hội truyền thống thường được tổ chức thường niên mỗi năm vào ngày 13 tháng giêng âm lịch tại huyện Tiên Du. Đây được coi là một trong những đặc trưng văn hóa của vùng Kinh Bắc. Dù cho thời gian chuyển động không ngừng thì những giá trị đó vẫn không hề bị mai một và mất đi. Đến ngày nay Hội Lim không chỉ còn là một đặc trưng văn hóa trong vùng nữa mà nó đã vượt lên trên cả không gian trở thành một điểm dừng chân lí tưởng cho du khách buổi đầu năm.
Theo như truyền thuyết kể lại rằng lễ hội Lim được bắt nguồn từ hội chùa liên quan đến tiếng hát của chàng Trương ở làng quê vùng Lim. Giả thuyết này căn cứ dựa trên chuyện tình Trương Chi - Mỵ Nương và tính chất của Hội Lim cũng nghiêng về lễ hôi sinh hoạt văn hóa và hát quan họ. Nói về tuổi thọ thì có lẽ hội Lim có lịch sử vô cùng lâu đời và phát triển từ quy mô hội hàng tổng. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và chống Pháp hội Lim tạm ngưng hoạt động phải đến sau đổi mới nó mới bắt đầu quay trở lại với đời sống tinh thần người dân trong vùng. Ngoài ra, hội Lim còn có một ý nghĩa đó là thể hiện sự kính trọng tưởng nhớ đến ông Hiếu Trung Hầu người sáng lập ra những làn điệu quan họ ngọt ngào. Hội Lim diễn ra ở 3 xã chủ yếu là Nội Duệ, Liên Bảo và thị trấn Lim. Thời gian diễn ra lễ hội thường là 3 - 4 ngày trong đó ngày 13 âm lịch là lễ chính bao gồm có nhiều hoạt động nhất như thi nấu cơm, hát quan họ, đấu vật....
Hội Lim mở đầu là màn rước kiệu với rất nhiều các thành viên mặc trang phục cổ trang, sau đó các liền anh liền chị sẽ đứng quanh lăng hát đối với nhau. Hội Quan họ được xem là phần hấp dẫn nhất của lễ hội Lim các liền anh liền chị sẽ ngồi trên thuyền thúng giữa ao sau đó hát đối những câu hát ngọt ngào. Đây cũng là dịp các bạn trẻ nam thanh nữ tú tụ họp để tìm ý trung nhân cho mình.
Hội Lim đã làm say lòng biết bao nhiêu du khách thập phương bằng những câu hát trao duyên ngọt ngào, trữ tình, những cử chỉ dịu dàng e ấp của các liền anh liền chị.... Nó không chỉ thể hiện nét đẹp văn hóa truyền thống mà hơn thế còn thể hiện truyền thống yêu nước nhớ nguồn đáng quý của dân tộc.
Thuyết minh về một lễ hội văn hóa ở quê hương em mẫu số 5: Tết Nguyên Đán
Ở các nước trên thế giới đặc biệt là những nước phương Tây có truyền thống đón năm mới từ mùng 1 tháng một dương lịch. Không khí của năm mới đã lan tràn khắp nơi ngay từ 24 - 25 (tức Nô-en). Nhưng thật đặc biệt, ở Việt Nam, Triều Tiên, Mông Cổ, Tây Tạng, Nepal, Butan, H'mông Trung Quốc cũng tổ chức Tết âm lịch và nghỉ lễ chính thức. Trước đây Nhật Bản cũng cử hành Tết âm lịch, nhưng từ năm Minh Trị thứ 6 (1873) họ đã chuyển sang dùng dương lịch cho các ngày lễ tương ứng trong âm lịch.
Tết Nguyên Đán là khoảng thời gian nước ta chính thức đón năm mới, còn được gọi là Tết Ta, Tết âm lịch, Tết cổ truyền hoặc Tết. Nhưng cách gọi thông dụng nhất vẫn là Tết Nguyên Đán. Nguyên tức là sơ khai, ban đầu. Đán tức là buổi sáng sớm. Nếu trong một ngày buổi sớm là khởi đầu một ngày mới thì Nguyên Đán ở đây tức là khoảng thời gian giống như buổi sớm, khởi đầu một năm mới. Đón Tết là phong tục của các nước chịu ảnh hưởng từ nền văn hóa Trung Hoa. Tết được đọc chệch đi từ Tiết, tức Tiết Xuân hay Xuân Tiết, Tân Niên hoặc Nông lịch tân niên. Trung Quốc (và một số nước “ngoại biên” của nền văn minh này) dùng lịch pháp theo chu kì vận hành của Mặt Trăng nên Tết luôn chậm hơn Tết dương lịch (Tết Tây). Thường thì rơi vào cuối tháng 1 đến giữa tháng 2 dương lịch và kéo dài trong 4 - 6 ngày. Trong tâm niệm người dân Việt, Tết mang rất nhiều ý nghĩa linh thiêng nhưng quan trọng nhất vẫn là thời gian người Việt nhớ về cội nguồn, ông bà tổ tiên. Tết cũng là sự khởi đầu mới cho những điều tốt đẹp, rũ bỏ những điều xấu của năm đã qua. Người Việt đón Tết với nhiều hoài bão, hy vọng thịnh vượng cho năm mới.
Dù ông bà ta có câu “30 chưa phải là Tết” nhưng thực tế, không khí Tết đã sớm lan tràn từ 27, 28 tháng 12 âm lịch. Mọi người quan niệm rằng, Tết phải là sự khởi đầu tốt đẹp nhất, may mắn nhất để những điều lành đó sẽ theo họ đến hết cả một năm. Vì thế, cứ gần đến Tết là mọi người tất bật chuẩn bị để đón năm mới. Từ trước đây, người dân Việt luôn làm mới nhà cửa để đón Tết, họ quét lại sơn tường từ mươi ngày trước Tết. Đến bây giờ, mọi người đã không còn quét lại sơn vào dịp này như trước đây nữa nhưng lại chú ý hơn đến dọn dẹp và trang hoàng nhà cửa. Họ đi mua những vật dụng, đồ dùng cần thiết mới để trưng bày trong ngày Tết.
Tết diễn ra từ ngày giáp tết đến hết mùng 5 - 6 âm lịch. Trước đây người ta có quan niệm “ăn Tết” - là khoảng thời gian được ăn uống no đủ, gia đình quây quần, hạnh phúc - Tết kéo dài đến tận mùng 8 - 9 nhưng ngày nay do đời sống kinh tế bận rộn nên Tết chỉ kéo dài đến mùng 5 và quan niệm thời nay từ “ăn Tết” đã chuyển sang “chơi” Tết vì đời sống đã no đủ, khấm khá rất nhiều so với trước.
Tết Nguyên Đán chia làm ba giai đoạn. Đầu tiên là thời gian giáp Tết, thường từ 23 tháng Chạp (ngày ông Công ông Táo). Gần đến Tết, mọi đơn vị đều được nghỉ làm, học sinh đựơc nghỉ từ 27 - 28 âm lịch. Tiếp theo là ngày 30 hay còn gọi là Tất Niên. Ngày này mọi người tảo mộ ông bà hay những người thân trong gia đình đã khuất. Quan trọng nhất, vào tối 30, mọi người đều chuẩn bị đón giao thừa - thời khắc đặc biệt chuyển từ năm cũ sang năm mới - đón một khởi đầu mới. Từ xưa, phong tục của người dân Việt là đêm Tất Niên phải ở nhà làm mâm cơm cúng trời đất, ông bà tổ tiên và có tục lệ xông đất - tức người đầu tiên bước vào nhà sau 12 giờ đêm sẽ là người mang lại may mắn hay xui xẻo cho năm sau. Nhưng ngày nay, tục lệ đó đã phần nào bị lu mờ. Mọi người thường ra ngoài đón giao thừa: ở công viên hay nơi công cộng để có thể ngắm pháo hoa rõ nhất. Quan niệm người xông đất cũng đã không còn nguyên vẹn. Theo tục xưa người xông đất phải là người không ở trong gia đình nhưng ngày nay khi người ta đi chơi đêm tất niên về đều tự coi là xông đất cho nhà mình. Ngày mùng 1 là ngày đầu tiên của năm mới, là ngày bắt đầu dịp lễ cổ truyền long trọng nhất của người Việt. Đây là dịp hội hè, vui chơi và là thời điểm cho những người tha hương tìm về với quê hương, gia đình, tưởng nhớ tổ tiên. Tết đến, mọi người kiêng kị nóng giận, cãi cọ, quét nhà sợ mang lại điềm gở, mất tài mất lộc vào năm mới. Đây là dịp để mọi người tha thứ, hàn gắn, chuộc lỗi cho những điều không may đã xảy ra vào năm cũ. Trẻ em thì được lì xì phong bao đỏ để lấy hên. Trong ngày Tết, gam màu đỏ chiếm chủ đạo vì theo quan niệm, màu đỏ đem lại điềm lành, sự may mắn, áo đỏ, câu đồi đỏ, tranh Tết... tất cả đều có sắc đỏ.
“Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo, bánh trưng xanh”
Nhắc đển Tết không thể không nhắc đến giò, chả, thịt mỡ, dưa hành và đặc biệt là bánh trưng xanh: biểu tượng đặc trưng Tết Việt không thể thiếu. Bánh trưng xanh vuông vắn biểu tượng cho trời đất đang độ vào xuân, tràn đầy sức sống. Kế đến là mồng 2 - tức Tết ngoại. Ngày này mọi người thường về quê ngoại thăm ông bà họ hàng bên ngoại. Mồng 3 là Tết nội - ngày mọi người về quê nội thăm hỏi đằng nội. Đó là trên lí thuyết, còn ngày nay mọi người cũng không còn phân biệt Tết nội - ngoại mà thăm hỏi luôn vào cùng ngày mùng 1. Nhưng dù có đón Tết theo cách cổ truyền hay như hiện nay thì ý nghĩa của ngày Tết đều không thay đổi.
Đón Tết từ xưa đến nay vốn là nét đẹp của dân tộc, dù là người dân xa xứ hay người đang sống trên đất nước Việt Nam thì cứ đến ngày Tết là tất cả đều hướng về chào đón. Ngay cả những du khách nước ngoài khi du lịch tại Việt Nam cũng rất thích thú khi tham gia cách đón năm mới của Việt Nam. Vậy tại sao là những người con Việt chúng ta lại không góp phần bảo vệ và duy trì nét đẹp truyền thống này chứ?
Thuyết minh về một lễ hội văn hóa mà em biết mẫu số 6: Lễ hội Đền Hùng
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba
Bất cứ những người con Việt Nam nào dù đi đâu về đâu cũng đều nhớ tới những giá trị văn hóa của dân tộc, nhớ tới những lễ hội tôn vinh chiến công, công sức dựng nước của mười tám vị vua Hùng - những người đã xây những nền móng đầu tiên của đất nước Việt Nam chúng ta. Do vậy, năm nào cũng thế, vào ngày mùng mười tháng ba âm lịch, cả nước đều hướng tới Đền Hùng - Phú Thọ. Đây là nơi thờ tụng những vị vua Hùng và là nơi tổ chức lễ hội vào những ngày này. Nhà nước quy định, vào những năm chẵn sẽ được tổ chức theo nghi lễ của quốc gia còn những năm lẻ sẽ do tỉnh Phú Thọ phụ trách. Nhưng dù có ở năm nào đi chăng nữa thì vào những ngày này, mọi người ai cũng muốn được tới nơi đây để thể hiện tấm lòng thành kính của mình dâng lên cho tổ tiên và những người đi trước. Đây là một trong những lễ hội lớn nhất của đất nước chúng ta.
Lễ hội Đền Hùng và giỗ tổ Hùng Vương được tổ chức hằng năm vào ngày mùng mười tháng ba âm lịch. Những ngôi đền thờ các vị vua Hùng nằm trên núi Nghĩa Lĩnh thuộc thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Nơi đây thể hiện một cách vô cùng sâu sắc những hình thức sinh hoạt tín ngưỡng truyền thống của nhân dân. Lễ hội được bắt đầu cũng từ chính thời đại của vua Hùng Vương trong quá trình dựng nước và giữ nước. Cũng chính bởi những lí do như vậy mà việc chúng ta duy trì lễ hội này và được tổ chức với quy mô lớn qua các năm càng chứng tỏ tấm lòng của nhân dân, những người thuộc thế hệ đi sau vẫn luôn nhớ tới với niềm biết ơn sâu sắc những vị cha ông ta đã hi sinh để bảo vệ cho đất nước.
Qua đây, chúng ta cũng nhận thấy một cách sâu sắc lòng yêu nước của dân tộc chúng ta. Trong những dịp lễ như thế này, chúng ta không thể nào quên được lễ hội Rước kiệu. Đây là một trong những công việc thể hiện sự nghiêm trang, kính lễ tới những người đã khuất. Không khí của buổi lễ vô cùng nghiêm túc, không hề có những hành động như cười đùa, nghịch ngợm. Mọi người sẽ nâng kiệu đi qua các đền và chùa ở trên núi Hùng. Trên đó là những lễ vật như xôi, gà, bánh chưng đều là những món cúng truyền thống của dân tộc chúng ta. Tất cả sẽ được xếp một cách gọn gàng và đẹp đẽ ở trong năm bộ kiệu.
Đoàn rước kiệu thường được tổ chức một cách vô cùng trang nghiêm và cẩn thận. Thường thì đó chính là những người có sức khỏe tốt, ưa nhìn được xã lựa chọn. Họ đều mặc những đồng phục thống nhất và gọn gàng. Mỗi người lại mang những vũ khí thời xưa được phóng tác lại bằng gỗ như đao, chùy, cờ, long, để mô phỏng lại như thời ngày trước. Đoàn rước kiệu đi tới đâu, tiếng chiêng tiếng trống như rộn ràng tới đó. Sau đó, những đoàn đại biểu sẽ xếp hàng chỉnh tề để đi sau kiệu và cùng nhau lần lượt đi theo kiệu lên tới trên đỉnh. Điểm dừng đầu tiên chính là “Điện kính thiên”. Lúc ấy, cả đoàn dừng lại và thực hiện nghi lễ dâng hương. Cả bầu không khí như khẩn trương và trang nghiêm vô cùng. Mọi người ai cũng chăm chú để theo dõi quá trình dâng hương tới thần linh.
Tiếp theo, mọi người đi vào trong thượng cung của đền Thượng. Đây là ngôi đền cao nhất và là ngôi đền chính trong số những đền ở đây. Do đó, tại nơi này, thường thì sẽ có một vị lãnh đạo đại diện cho nhân dân cả nước phát biểu cảm ơn những gì mà ông cha ra đã để lại, sau đó sẽ hứa cố gắng hơn cho những năm sau, cầu mong sự an lành và kinh tế đất nước phát triển. Thường thì nghi lễ này sẽ được báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng theo dõi và phát lại trực tiếp để cho dân chúng cả nước cùng nhau theo dõi. Tất cả mọi người lúc này, ai nấy đều nói thầm những lời nguyện cầu từ trong trái tim của mình, mong nhận được sự phù hộ bình an của tất cả thần linh dành cho con cháu.
Sau phần lễ tế những vị vua Hùng là phần hội. Đây cũng là phần được mọi người rất yêu thích, nhất là với những người thuộc thế hệ trẻ. Mở màn năm nào hầu như cũng là phần thi kiệu của những làng ở xung quanh. Sự tham gia hào hứng khiến cho không khí của mùa lễ hội như được dâng cao lên rất nhiều. Mọi người sẽ xem xét và chấm xem cỗ kiệu của làng nào là đẹp nhất thì năm sau, cỗ kiệu của làng đó sẽ được thay mắn những làng còn lại được rước lên đền Thượng làm lễ. Đó chính là niềm vinh dự vô cùng lớn lao đối với ngôi làng được giải nhất vì theo như tập tục cho rằng, ngôi làng có cỗ kiệu được chọn thì trong năm làm ăn sẽ gặp nhiều may mắn, được các Ngài phù hộ tốt lành. Qua đó, chúng ta thấy rõ được những đặc điểm trong đời sống tâm linh của những làng xã quanh chân núi Hùng nói riêng và toàn thể nhân dân Việt Nam nói chung.
Trong lễ hội, chúng ta sẽ dễ dàng được xem nghi lễ hát Xoan. Đây là nghi lễ vô cùng độc đáo mà chỉ nơi đây mới có bởi chiếu theo lịch sử thì đây là điệu múa hát được bà Lan Xuân - vợ của vua Lý Thần Tông vô cùng yêu thích và có nhiều sự đóng góp giúp cho điệu hát này trở thành điệu hát thờ tại các đền thờ của vua Hùng. Không chỉ có hát Xoan mà ở đền Hạ còn có ca trù. Đây cùng là một loại hình ca hát truyền thống của dân tộc Việt Nam chúng ta. Bên ngoài sân, mọi người cùng nhau tụ tập để chơi một số những trò chơi dân gian như đu quay, đánh cờ, chọi gà, đấu vật. Với rất nhiều những trò chơi khác nhau, những người đến thăm hội được thưởng thức bất cứ một loại hình nào mà mình yêu thích. Ví như những bạn trẻ thường chọn chơi đánh đu trên những đu quay làm bằng tre, nứa rất chắc chắn. Buổi tối, những người yêu thích ca hát có thể cùng nhau tham gia những bài hát đối, hát giao duyên, hát chèo, ngay tại sân của đền Hạ hoặc đền Giếng. Với biết bao những hoạt động bổ ích, hằng năm những lượt khách tới thăm đền Hùng là vô cùng nhiều. Ai cũng muốn được tới nơi thờ phụng tổ tiên của đất nước một lần để thể hiện tấm lòng thành kính.
Lễ hội Đền Hùng là một phong tục rất đẹp trong đời sống tâm linh của dân tộc người Viết. Chúng mang những giá trị về văn hóa lịch sử vô cùng to lớn đối với sự phát triển của đất nước. Chính bởi vậy mà đã từ lâu, Phú Thọ được coi là thánh địa của cả nước, là cái nôi của dân tộc. Trải qua một quãng thời gian rất dài với biết bao thăng trầm trong lịch sử nhưng nhà nước vẫn cố gắng tổ chức lễ hội Đền Hùng tưởng nhớ tới những vị vua khai sáng ra nước Việt ta. Những người hành hương tới với nơi đây đều mang trong mình những niềm thành kính, mong muốn gửi lên tấm lòng chân thành của mình tới tổ tiên. Điều đó khiến cho chúng ta càng cảm thấy tự hào về nguồn gốc con Rồng cháu Tiên của dân tộc Việt Nam ta.
Thuyết minh về một lễ hội văn hóa độc đáo ở địa phương mẫu số 7: Lễ hội mừng lúa mới
Lễ hội mừng lúa mới là một trong những nét văn hóa đặc sắc của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên từ bao đời nay, dẫu trải qua nhiều thăng trầm biến đổi của đất nước, thế nhưng cả trong thời chiến và thời bình nó vẫn luôn được giữ gìn nguyên vẹn, thiêng liêng không chỉ bộc lộ vẻ đẹp tinh thần của cả một cộng đồng dân tộc lớn mà đó là những nỗ lực trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc nhiều đời, là sự đoàn kết mạnh mẽ trong cộng đồng các dân tộc anh em.
Việt Nam ta có 54 dân tộc anh em tất cả, trong đó mỗi dân tộc cùng chung sống trên dải đất hình chữ S lại có những phong tục tập quán, những nét đẹp truyền thống đặc sắc cho riêng mình, ví như người Kinh nổi tiếng với lễ hội Đền Hùng, lễ hội Thánh Gióng, lễ hội chùa Hương,... thì ở vùng núi phía Bắc các dân tộc ở nơi đây lại đặc biệt với các lễ hội Cầu mưa, lễ hội Hoa Ban, lễ hội Lồng Tồng, hay việc ăn tết Thanh Minh rầm rộ, rộn ràng hơn cả Tết Nguyên Đán,... Còn với các dân tộc Tây Nguyên, một điều chung nhất khi cảm nhận về họ đó chính là hơi thở mạnh mẽ và máu lửa của núi rừng bạt ngàn, đầy nắng và gió, ở đây có lễ hội cồng chiêng, lễ hội đâm trâu và khá đặc biệt ấy là lễ hội mừng lúa mới.
Lễ mừng lúa mới là một lễ hội truyền thống của nhiều dân tộc ở Tây Nguyên như Xơ Đăng, Gia Rai, Ba - na, M'nông, Ê - đê,... diễn ra vào khoảng tháng 11 dương lịch hoặc vào khoảng sau Tết Nguyên Đán hàng năm. Khi mà vụ mùa thu hoạch đã xong xuôi, thóc đã được phơi khô chất vào trong nhà, mọi người được rảnh rang, đây cũng là lúc thích hợp nhất cho việc tổ chức một lễ hội ăn mừng. Nhưng thông thường khoảng thời gian sau Tết từ tháng 2 đến tháng 4 là lúc lễ hội hay diễn ra nhất, đây là khoảng thời gian người ta gọi là "ăn năm uống tháng", tức là chỉ cần vui chơi, ăn uống thỏa thích, bỏ qua hết chuyện ruộng vườn, sinh nhai. Ý nghĩa của lễ hội mừng lúa mới là để tạ ơn Giàng đã ban cho con dân một mùa thóc lúa bội thu, đồng thời cũng là để tôn vinh hạt thóc mới, cầu chúc cho năm sau mùa màng được ấm no, ổn định. Mà theo như ông Nguyễn Quang Tuệ - Trưởng phòng Di sản, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Gia Lai đã nhận xét rằng: "Bản chất của việc cúng Yang trong lễ mừng lúa mới là kêu gọi thần linh phù hộ cho dân làng.
Về mặt ý nghĩa là tôn trọng nghề nông, tôn trọng người làm nông, tôn trọng cây lúa. Và bao trùm lên tất cả, nó là biểu hiện của tín ngưỡng vạn vật hữu linh. Vì đồng bào tin tưởng vào tín ngưỡng vạn vật hữu linh. Nên đồng bào thể hiện rằng, chúng tôi đã đền ơn, đáp nghĩa thần linh như thế. Nó tạo nên sự thoải mái trong tư tưởng. Thứ hai là ở trong cộng đồng, nó tạo nên một không khí vui tươi, thoải mái. Về mặt văn hóa, nó như một hình thức bảo lưu các giá trị văn hóa truyền thống". Bởi vậy nên trong lễ hội mừng lúa mới người ta cúng Giàng trước tiên, theo sau đó là các lễ cúng chư vị thần linh ứng với mỗi một điều kiện thời tiết trong sản xuất bao gồm: cúng trời đất, các thần sông suối, thần núi, thần mưa, thần sấm, thần mùa màng để cầu cho mưa thuận gió hòa.
Cũng giống như quy trình của nhiều lễ hội khác, lễ hội mừng lúa mới cũng có hai phần chính là phần lễ và phần hội. Ở phần lễ người chủ trì là già làng, quá trình chuẩn bị được bắt đầu ngay trong mùa thu hoạch, khi già làng là người đích thân xem xét và chọn ra một đám ruộng màu mỡ, những hạt lúa dày, trĩu nặng và đẹp nhất để lại để làm lễ cúng thần La Pôm (thần lúa, thần nông nghiệp) ở tại chân đám ruộng được chọn luôn. Đối với những vật dụng, thức ăn dành cho quá trình tế lễ không phải là riêng một ai chuẩn bị mà tất cả bà con trong buôn làng đều có nghĩa vụ đóng góp mỗi nhà một ít như ché rượu, miếng thịt, đĩa xôi, con gà luộc, bánh trái, cơm lam, ai giàu có thì đóng góp con lợn, ... để thể hiện lòng thành, đồng thời cũng bộc lộ sự đoàn kết và có trách nhiệm của mọi người trong cộng đồng dân tộc. Sau đó để đảm bảo đúng nghi lễ, nghi thức và sự thiêng liêng, trang trọng, đích thân thầy cúng (Yiu Rang) và già làng sẽ tự tay chuẩn bị sắp xếp mâm cỗ cúng, và đọc văn khấn để cầu chúc cho dân làng được ấm no, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu vào năm tới, đồng thời tỏ lòng biết ơn đối với các bề trên là thần La Pom và các vị thần mưa, thần sông suối, thần núi, thần sấm,... Lời cúng rằng: "Ơ Yang, Yang Chư, Yang Ya, Yang Moa, Yang Pơ Te, Yang Clai, Yang Clo..., xuống chơi làng tôi. Ngày nay, tôi có khấn lên một con heo to, một con gà to, ghè rượu to. Mời Yang xuống uống rượu cần. Sau này, Yang phù hộ cho làng tôi có lúa nhiều để tôi nuôi con cái, làm ăn phát đạt, không ốm yếu, không đói, để cả làng no ấm. Ơ Yang!". Sau khi đã kết thúc phần khấn vái, thì già làng sẽ chọn ra mười thanh niên nam nữ, khỏe mạnh, cùng xuống ruộng, tay nắm lấy các bó lúa đã được chuẩn bị sẵn, cứ sau mỗi một lời khấn của thầy cúng, nhóm thanh niên sẽ đồng loạt giơ cao bó lúa trong tay mình lên trời và hô to, đồng thời nhảy múa, hát hò theo để thể hiện sự vui mừng, náo nhiệt của một mùa màng ấm no, sung túc. Nghi lễ này không chỉ là một nét đặc sắc của lễ hội mừng lúa mới mà nó là một trong những hình thức thể hiện tình đoàn kết, gắn bó, sự giản dị, thiêng liêng của những người con tại mảnh đất thiêng Tây Nguyên.
Sau phần lễ mang nặng nghi thức, nghi lễ, thì ở phần hội mọi người lại được tự do vui chơi thoải mái, tất cả dân làng cùng tụ tập lại nhà rông ăn uống, nhảy múa hát hò, theo tiếng chiêng, nhịp trống, tối đến thì nhảy múa xung quanh đống lửa, sau khi đã vui chơi thỏa thích, thì ai lại về nhà nấy, để tổ chức lễ cúng riêng cho nhà mình. Tùy theo gia cảnh, vụ mùa thu hoạch được nhiều hay ít mà gia chủ có thể tổ chức lễ cúng lớn hay nhỏ, một ngày hay nhiều ngày. Đối với bà con dân tộc Tây Nguyên thì lễ mừng lúa mới cũng tương tự như Tết Nguyên Đán là dịp lễ lớn trong năm, là lúc mọi người nghỉ ngơi, vui chơi, đến thăm nhà nhau, chúc tụng, sum họp,... Nhà ai có nhiều khách ghé thăm thì được coi là một niềm vinh dự lớn, là sự may mắn rất đáng trân trọng, được Giàng phù hộ.
Lễ hội mừng lúa mới là một trong những nét văn hóa đặc sắc của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên từ bao đời nay, dẫu trải qua nhiều suy vi biến đổi của đất nước, thế nhưng cả trong thời chiến và thời bình nó vẫn luôn được giữ gìn nguyên vẹn, thiêng liêng không chỉ bộc lộ vẻ đẹp tinh thần của cả một cộng đồng dân tộc lớn mà đó là những nỗ lực trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc nhiều đời, là sự đoàn kết mạnh mẽ trong cộng đồng các dân tộc anh em.
-/-
Trên đây là mẫu dàn ý và TOP 7+ bài văn thuyết minh về một lễ hội văn hóa hay và độc đáo do Đọc tài liệu sưu tầm và tổng hợp, các em có thể dựa vào đó kết hợp với những hiểu biết của mình về các lễ hội văn hóa ở địa phương để viết thành một bài thuyết minh hoàn chỉnh nhất. Chúc các em học tốt!
Sưu tầm và tuyển chọn Văn mẫu 11 hay nhất / Đọc Tài Liệu