Thuyết minh về hội thi thổi cơm

Xuất bản: 10/03/2023 - Tác giả:

Thuyết minh về hội thi thổi cơm, tổng hợp TOP 5 bài văn thuyết minh hay về hội thi thổi cơm của một số địa phương.

Tài liệu hướng dẫn làm bài văn thuyết minh về hội thi nấu cơm, tuyển chọn top 5 bài văn thuyết minh hay giới thiệu về hội thi nấu cơm, một trong những lễ hội truyền thống đã có từ lâu đời ở một số làng quê miền Bắc.

Dàn ý thuyết minh về hội thi nấu cơm

I. Mở bài

- Giới thiệu khái quát về hội thi nấu cơm.

II. Thân bài:

1. Nguồn gốc hội thi nấu cơm

- Hội thi thổi cơm ở mỗi địa phương có nguồn gốc không giống nhau.

Ví dụ:

- Lễ hội thổi cơm thi làng Thị Cấm bắt nguồn từ việc tưởng nhớ công của tướng quân Phan Tây Nhạc.

- Hội thổi cơm thi ở Đồng Vân lại bắt nguồn từ các cuộc trẩy quân đánh giặc của người Việt cổ bên dòng sông Đáy xưa

- Hội thi nấu cơm ở các làng quê Bắc Ninh thì bắt nguồn từ việc tưởng nhớ tích xưa và nhớ đến công ơn của tướng quân Lý Thường Kiệt.

2. Đối tượng tham gia chơi

- Thường dành cho người lớn tuổi

3. Cách thức tổ chức hội thi

* Chuẩn bị

- Tập chơi tất cả người chơi rồi chia thành từng đội, mỗi đội có ít nhất 2 – 4 bạn (nam nữ bằng nhau)

- Địa điểm tổ chức lý tưởng sẽ là những khu vực rộng rãi, bằng phẳng, sạch sẽ như sân nhà, sân trường, sân nhà văn hóa hay bãi cỏ

- Tùy theo hình thức thi nấu cơm, mỗi đội chuẩn bị một khúc cây dài 3m làm đòn gánh, một đoạn dây thép để làm giá (giống quang gánh) để treo nồi nấu cơm (nếu nồi có quai treo thì không cần làm giá)

- Kẻ trên hai đầu sân chơi vạch xuất phát và vạch đích đến

- Thông báo thể lệ trò chơi, thời gian quy định, đánh số thứ tự từng đội chơi, kiểm tra số người chơi của từng đội, và công tác chuẩn bị của các đội

- Cấp vật liệu nấu cơm cho các đội thi: Mỗi đội được cấp 1 nồi nấu cơm, 1 lon gạo, 1 lít nước, 2 – 3 cây củi hoặc tre nứa chẻ nhỏ rồi nhóm thành từng bó (dài 0,5m đường kính 1,5-2m), 2 cây diêm, giấy mồi lửa

- Tất cả đội chơi tập trung các đội tại vạch xuất phát, hoặc địa điểm quy định.

* Tiến hành cuộc thi

- Cuộc thi có ba bước: thi làm gạo, tạo lửa, lấy nước và thổi cơm.

+ Mỗi nhóm 10 người (cả nam và nữ), họ tự xay thóc, giã gạo, dần sàng, lấy lửa, lấy nước và nấu cơm

+ Bước 1, thi làm gạo: sau hồi trống lệnh, các đội đổ thóc vào xay, giã, dần sàng. Giá nào có được gạo trắng trước nhất là thắng cuộc

+ Bước 2, thi kéo lửa và lấy nước: Lấy lửa từ hai thanh nứa già cọ vào nhau (khó nhất là khâu này), áp bùi nhùi rơm khô vào cho bén lửa. Người lấy nước cách đó khoảng 1km, nước chứa sẵn vào 4 cái be bằng đồng, đợi người đến lấy mang về. Giáp nào lấy được lửa trước và lấy nước về đích trước thì giáp đó thắng cuộc.

+ Bước 3, nấu cơm: giáp nào thổi được cơm chín dẻo, ngon và xong trước thì thắng cuộc. Cơm của giáp đó được dùng để cúng thần

- Có 2 cách thi nấu cơm như sau:

+ Bịt mắt nấu cơm: Khi có hiệu lệnh bắt đầu, hai người chơi một người bịt mắt, một người bị buộc hai tay vào nhau. Người buộc tay phải ngồi một chỗ và điều khiển người bịt mắt thực hiện các thao tác nấu cơm bằng lời nói.

+ Vừa đi vừa nấu cơm: Khi có hiệu lệnh bắt đầu, đội chơi vừa đi vừa thực hiện các thao tác vo gạo, nhóm lửa, treo nồi nấu cơm. Phân công hai bạn khiêng nồi một người nấu cơm, một người cầm củi.

III. Kết bài:

- Nêu cảm nghĩ về hội thi nấu cơm: Giữ gìn và phát huy nền văn minh lúa nước.

- Vị trí của hội thi trong truyền thống văn hóa, tâm hồn của con người Việt Nam.

Top 3 bài văn thuyết minh về hội thi thổi cơm

Thuyết minh về hội thi thổi cơm bài số 1

Ở xã Đồng Tháp huyện Đan Phượng có một làng tên là Đồng Vân nằm bên bờ sông Đáy. Người dân trong làng sinh sống chủ yếu bằng nghề cấy lúa, trồng màu và đan lát rổ rá. Mỗi năm, vào ngày rằm tháng giêng, làng Đồng Vân lại tổ chức lễ hội rước nước, hát chèo và thổi cơm thi. Hội thổi cơm thi tại đây mang đậm nét độc đáo về quy trình lấy lửa và cách nấu, cùng với những màu sắc hài hước của nền văn hóa dân gian.

Các đội tham gia hội thi được chọn lựa từ các xóm trong làng. Khi bắt đầu hội thi, tiếng trống chiêng vang ba tiếng, các đội dự thi xếp hàng trang nghiêm để dâng hương tại cửa đình, nhằm tưởng nhớ vị thành hoàng đã có công cứu dân và độ quốc. Hội thi bắt đầu bằng việc lấy lửa trên ngọn cây chuối cao. Ngay khi tiếng trống kết thúc, bốn người của mỗi đội nhanh chóng leo lên thân cây chuối trơn trượt đã được bôi mỡ. Có người bỏ cuộc, có người lại leo lên, tạo ra cảnh tượng hài hước và vui nhộn. Khi đã lấy được nén hương, người chơi được ban tổ chức phát ba que diêm để châm lửa. Trong khi đó, những người còn lại trong đội thì nhanh tay giã thóc thành gạo, lấy nước và bắt đầu thổi cơm. Những nồi cơm nho nhỏ được treo dưới những cành cong, tạo hình cánh cung và được cắm rất khéo léo từ dây lưng. Tay cầm cần, tay cầm đuốc đung đưa cho ánh lửa bập bùng. Các đội thổi cơm đan xen nhau, uốn lượn trên sân đình trong sự cổ vũ nồng nhiệt của người xem.

Sau khoảng một giờ rưỡi, những nồi cơm đã được đưa đến trước cửa đình. Ban giám khảo sẽ tiến hành mở nồi cơm để đánh giá ba tiêu chí quan trọng đó là gạo trắng, cơm dẻo và không có cơm cháy. Để giữ bí mật với ban giám khảo và người dự thi, các nồi cơm sẽ được đánh số ứng với từng đội thi. Cuộc thi nấu cơm nào diễn ra cũng đầy hồi hộp và việc chiến thắng đã trở thành niềm tự hào vô cùng đáng quý với cả làng.

Hội thổi cơm thi ở làng Đồng Vân là một hoạt động văn hóa truyền thống có nguồn gốc từ các cuộc trẩy quân đánh giặc của người Việt xưa bên bờ sông Đáy. Đây là dịp để các thanh niên trong làng thể hiện sức khỏe, tài năng và sự thông minh khi lấy lửa để có được những nồi cơm dẻo cho binh lương. Đối với các cô gái, hội thổi cơm là cơ hội để thể hiện bàn tay khéo léo và sự nhanh nhẹn trong việc giã thóc và thổi cơm. Hội cũng mang đến những tiếng cười và niềm vui cho người dân sau những ngày làm việc vất vả. Với những giá trị văn hóa đặc sắc của nó, hội thổi cơm thi Đồng Vân đã góp phần giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống trong cuộc sống hiện đại ngày nay.

Thuyết minh về hội thi thổi cơm bài số 2

Thi nấu cơm là một trong những trò chơi dân gian phổ biến tại các làng quê ở Việt Nam mà không ai biết nó bắt nguồn từ khi nào. Đây là một trò chơi độc đáo, mang giá trị văn hóa truyền thống đặc trưng của nền nông nghiệp lúa nước.

Cách chơi của trò nấu cơm rất đa dạng. Đầu tiên, tập hợp tất cả người chơi và chia thành từng đội, mỗi đội có ít nhất 2-4 người với số lượng nam, nữ bằng nhau. Những khu vực rộng rãi, bằng phẳng, sạch sẽ như sân nhà, sân trường, sân nhà văn hóa hay bãi cỏ sẽ là những địa điểm tổ chức lý tưởng. Tùy theo hình thức thi nấu cơm, mỗi đội chuẩn bị một khúc cây dài 3m làm đòn gánh, một đoạn dây thép để làm giá giống quang gánh để treo nồi nấu cơm, nếu nồi có quai treo thì không cần làm giá. Kẻ vạch xuất phát và vạch đích đến tại hai đầu sân chơi. Ban tổ chức thông báo thể lệ trò chơi, thời gian quy định, đánh số thứ tự từng đội chơi, kiểm tra số người chơi của từng đội và công tác chuẩn bị của các đội. Mỗi đội thi sẽ được cấp 1 nồi nấu cơm, 1 lon gạo, 1 lít nước, 2-3 cây củi hoặc tre nứa chẻ nhỏ rồi nhóm thành từng bó dài 0,5m đường kính 1,5-2m, 2 que diêm, giấy mồi lửa. Tất cả đội chơi tập trung lại tại vạch xuất phát. Với các nguyên liệu đã được cấp là thóc, củi, các đội sẽ phải làm gạo, tạo ra lửa, đi lấy nước về nấu cơm.

Quy trình của cuộc thi nấu cơm gồm ba phần: phần thi làm gạo, phần thi tạo lửa và phần thi lấy nước để thổi cơm. Sau khi hồi trống hiệu lệnh vang lên, các đội sẽ phải bắt tay vào xay, giã và sàng thóc. Đội nào làm được gạo trắng trước thì thắng cuộc. Sau đó, dùng hai thanh nứa già cọ vào nhau, đặt bùi nhùi rơm khô vào để nhen lửa. Người lấy nước đi khoảng 1km để lấy nước sẵn có trong 4 cái bể bằng đồng và đợi người đến lấy. Đội nào tạo được lửa trước và lấy nước về đích trước sẽ thắng cuộc. Cơm của đội nào thổi chín, dẻo ngon và xong trước thì đội đó là đội thắng cuộc. Cơm của đội thắng sẽ được dùng để cúng thần.

Trong một cuộc thi nấu cơm có thể có hai cách nấu. Cách thứ nhất là bịt mắt nấu cơm. Khi có hiệu lệnh bắt đầu, hai người chơi một người sẽ bịt mắt, người còn lại buộc hai tay vào nhau. Người buộc tay chỉ được ngồi tại chỗ và dùng lời nói để điều khiển người bịt mắt thực hiện các thao tác nấu cơm. Cách thứ hai là vừa đi vừa nấu cơm. Khi có hiệu lệnh bắt đầu, đội chơi sẽ phải thực hiện các thao tác vo gạo, nhóm lửa, treo nồi nấu cơm trong khi đi. Hai người sẽ được phân công để khiêng nồi, một người nấu cơm, một người cầm củi. Đội nào nấu cơm chín, dẻo, thơm trong thời gian sớm nhất sẽ là đội giành chiến thắng.

Trò chơi thi nấu cơm đòi hỏi sự nhanh nhẹn và khéo léo rất cao, nó không chỉ đơn thuần là một trò chơi có tính giải trí cao, mà còn phản ánh đậm nét đời sống lao động của cư dân trồng lúa. Từ đó, trò chơi giúp con người, đặc biệt là các em nhỏ ý thức được việc tôn trọng từng hạt cơm được ăn hằng ngày. Trò chơi thi nấu cơm còn giúp người chơi rèn luyện được sự khéo léo cũng như kỹ năng ứng xử nhanh nhẹn trong mọi tình huống. Đây là một trò chơi hỗ trợ các con tốt hơn trong quá trình phát triển thể chất lẫn trí tuệ.

Mang những nét đặc trưng vốn có của nền nông nghiệp lúa nước, trò chơi thi nấu cơm là một trò chơi dân gian độc đáo, mang đậm giá trị văn hóa truyền thống của người Việt Nam.

Thuyết minh về hội thi thổi cơm bài số 3

Vào ngày mười rằm tháng Giêng hàng năm, người dân ở làng Ngọc Tiên, thuộc xã Xuân Hồng (huyện Xuân Trường) lại tổ chức hội tưởng niệm công đức của Thành Hoàng làng, Hoàng Văn Quảng, người đã có công giúp dân trong việc dẹp giặc và trấn biên. Hội làng bao gồm các nghi lễ như thổi cơm thi, làm cỗ chay, cúng thần tổ tiên và hồi tưởng lại những ngày đầu dấy binh trấn ải đầy gian khổ của thánh tổ và cha ông.

Trước khi đến ngày hội, tất cả các giáp đều phải cử người lên đền để mang các dụng cụ thi đấu như bộ chõ đồ, nồi đồng điếu, quang gánh, cần trúc, bát đĩa... từ thời cổ xưa để dọn dẹp, sửa sang và làm sạch cho đền thanh tịnh. Bãi đất trước cửa đền được san phẳng, đường dong ngõ xóm được dọn dẹp sạch sẽ tinh tươm để chuẩn bị cho ngày chính hội. Hội làng sẽ có 6 giáp tham gia, được chia theo đơn vị xóm. Mỗi giáp phải có đủ 14 người đều là nam giới, tuổi từ 18 trở lên, có phẩm chất đạo đức tốt, khỏe mạnh, nhanh nhẹn, gia đình toàn vẹn, không vướng tang ma. Theo tục lệ xưa, đỗ, gạo thổi cơm, đồ xôi và làm bánh phải được trồng riêng trên phần ruộng huệ điền. Các lão nông sẽ là những người đảm nhận cả quá trình từ trồng cấy, thu hoạch, bảo quản gạo, đỗ. Việc lấy nước và tạo lửa để nấu cơm cũng do nam giới phụ trách. Bất kỳ phần việc nào trong phần chính lễ và hội chính, phụ nữ đều không được phép tham gia.

Để bắt đầu phần thi thổi cơm và làm cỗ chay, trước đó các giáp phải trải qua hai phần thi địch thủy và địch hỏa. Phần thi địch thủy gồm hai người đại diện của mỗi giáp, tay cầm một chiếc nậm nhỏ, đồng loạt chạy ra bến Cựa gà, lội ra giữa dòng sông Ninh lấy cho đầy nậm nước mang về đổ vào nồi đáy của chõ đồ. Trong quá trình chạy rước nước, ngón tay cái của người rước nước phải bịt chặt miệng nậm để nước khỏi sánh ra ngoài. Người về nhanh nhất, không làm vương vãi nước dọc đường sẽ là người thắng cuộc.

Trong hai phần thi thì phần địch hỏa được coi là gay cấn, lôi cuốn sự chú ý và tạo tâm lý hồi hộp cho người dự thi, dân làng và cả khách thập phương tham dự. Chỉ khi đạt kết quả ở phần thi này, các giáp mới được tiếp tục tham dự vòng kế tiếp. Quan niệm của người phương Đông cho rằng việc tạo lửa trong ngày đầu xuân là điềm lành, mang nhiều may mắn và thuận lợi. Do đó, trách nhiệm của mỗi người dự thi đối với nội tộc và xóm làng đó là thao tác nhanh, dứt khoát, tạo lửa khéo và đốt cờ hiệu chính xác. Mỗi giáp mang theo một bộ dụng cụ địch hỏa gồm một thanh cái đặt cố định dưới đất, được làm bằng tre bánh tẻ, đường kính khoảng 4cm, đã tách rời làm đôi tạo kẽ hở cho mùn rơi xuống trong quá trình kéo lửa. Thanh tre khác dài, mỏng gọi là thanh con (hay thanh dao) được tạo bởi gốc cây tre già, dùng để cọ sát vào thanh cái.

Cách để tăng cơ hội chiến thắng trong phần thi này là phải sử dụng dụng cụ địch lửa được làm từ cây tre chết bụi và phải đặt gác bếp thêm 3 tháng trước khi sử dụng. Bước vào phần thi, 12 người của 6 đội sẽ xếp hàng ngang và sử dụng lực cọ sát 2 thanh tre vào nhau để tạo ra một lớp mùn mịn. Mùn cưa sẽ vón cục và gặp ma sát lớn tạo thành lửa, tuy nhiên lúc này lửa chỉ là một đốm than hồng nhỏ. Người kéo lửa phải khéo léo thổi hơi để lửa bén vào bùi nhùi rơm và bùng lên thành ngọn lửa lớn. Lúc này, cả sân đền đều ồn ào với tiếng reo hò cổ vũ của dân làng và khách du lịch. Tuy nhiên, quy định chỉ cho phép thực hiện phần thi này trong vòng từ 20 - 25 giây. Năm chàng trai của làng Ngọc Tiên đã thành công trong việc tạo ra lửa chỉ trong vòng 12 giây bằng sự nỗ lực của bản thân và sự cổ vũ nhiệt tình của bà con chòm xóm. Vận động viên địch lửa giơ cao ngọn lửa do mình tạo ra, đốt cờ lệnh báo hiệu phần thi đã hoàn tất và cùng dân làng rước lửa về sân nấu cỗ, châm bếp bắt đầu phần thi làm bánh và thổi cơm trong tiếng hò reo cổ vũ tưng bừng.

Nếu đã từng tham gia hội làng Ngọc Tiên, người ta mới thấy được tài năng và khéo léo của người dân nơi đây. Trong phần thi thổi cơm, người phụ trách phải làm đủ mọi công việc từ đeo cần trúc lên vai, cố định niêu cơm, giữ lửa cho cơm chín, vừa đi vừa nấu. Cùng với đoàn rước khua chiêng và gõ trống tưng bừng. Để hoàn thành tốt phần thi này, người dân làng Ngọc Tiên đã chuẩn bị rất công phu từ chiếc cần trúc treo niêu cơm đến việc làm quen với cách ước lượng sao cho đủ nước, đủ lửa, cơm chín nục, dẻo thơm trong thời gian đi trọn 3 vòng rước quanh sân đền, bất luận tiết trời đầu xuân có mưa bụi giăng mắc, rét đài, rét lộc có ghé qua.

Cụ Nguyễn Minh Oanh thuộc lớp người tham gia hội làng từ thời trai trẻ, hiện đang tham gia ban bảo vệ di tích. Cụ cho biết chỉ tính riêng việc chuẩn bị cho chiếc cần trúc treo niêu cơm đã mất đến 3 năm. Khi vừa mới vượt khỏi mặt đất, ngọn măng trúc sẽ được uốn cong thành hình chữ S, rồi được nuôi dưỡng và thuần hóa đến khi đủ độ dẻo dai, bền chắc thì mới đem vào sử dụng. Sau đó, cây trúc còn được tẩm qua khói lửa và bồ hóng thêm một thời gian nữa trước khi đem ra sử dụng.

Khi tham gia vào việc nấu cơm, người ta sử dụng một cây cần trúc có vòng cong lớn để ép vào dọc sống lưng người nấu cơm và cố định nó bằng một dải lụa. Phần cong nhỏ của cây được treo qua vai để đặt quang sắt, cố định chiếc nồi đồng điếu bên trong. Hai tay người nấu cơm cầm hai bó đuốc đặt ở đáy nồi cơm để cho hạt gạo chín. Người nấu cơm phải ước lượng nhiệt độ lửa và thời gian hãm lửa để cơm sôi bùng, hạt gạo ngậm nước và chín đẫy hơi để cơm thơm ngon. Khi cơm sôi, hai bó đuốc được đặt cùng về một bên tay, tay còn lại cầm một chiếc móc để mở nồi và đổ cơm ra bát. Lúc này, người ta kiểm tra hạt gạo để điều chỉnh nhiệt độ lửa cho cơm chín đều, không bị khô, bị hấy và đủ để đơm 1 bát cơm lồng góp vào mâm cơm cúng thánh. Bên cạnh cơm, mâm cỗ chay còn có 4 loại bánh khác nhau và cũng là món chính của mâm cúng đó là bánh ống, bánh bìa, bánh phong, bánh giáo và một bát chè đường. Yêu cầu về kích thước, hình dáng, màu sắc của mỗi loại bánh khác nhau nhưng lại được làm từ nguyên liệu chung là gạo nếp, đỗ xanh, đường kính và quả gấc chín. Việc xếp tất cả các loại bánh, gạo đồ xôi vào chung một chõ, đồ 1 lửa mà xôi chín dẻo thơm, trắng bông tinh khiết, bánh chín rền, đẹp màu, vuông thành sắc cạnh, có thể để hàng tháng trời mà không thiu không mốc
cũng là một điều thử thách đôi bàn tay thô ráp của những người chỉ quen với công việc cày bừa, cuốc xới quanh năm, đặc biệt là đối với nam giới.

Các loại bánh trên mâm cỗ chay tượng trưng cho các loại lương khô mà thánh tổ đã làm ra để giúp nghĩa quân có đủ lương thực ăn đường ngay cả khi giặc dã mưa gió, lụt lội và không nổi lửa được. Sau 150 phút, mâm cỗ chay phải được hoàn tất với đủ 4 loại bánh, một bát chè đường, 1 bát cơm lồng, một cút rượu trắng, một đĩa trầu cau và một quả bưởi để dâng lên cúng thánh cầu cho quốc thái dân an, làng xã thịnh vượng, mưa thuận gió hòa và mùa màng tươi tốt.

Cỗ chay của 6 giáp tham dự sẽ được mang ra sân đình chấm điểm sau khi hết 1 tuần hương. Tất cả 6 giáp tham dự đều sẽ được Ban tổ chức trao giải, nhưng dân làng sẽ ưu tiên cắt đặt công việc trong suốt một năm cho giáp nào đạt giải nhất. Trước đây, mâm cỗ đạt giải nhất được dành riêng để chánh tổng đem biếu cho các tổng bạn, vừa tỏ lòng kính trọng, hòa hợp và cũng muốn khoe mỹ tục của tổng mình. Sau này, khi hội tan, lễ hoàn làng, cỗ xóm nào mang về xóm đó, chia đều cho tất cả dân làng từ người cao niên, trẻ em đến những người góa bụa và tật nguyền. Cho đến ngày nay, nét đẹp này vẫn được dân làng giữ nguyên.

Lễ thổi cơm thi trong hội xuân làng Ngọc Tiên là một nét đẹp văn hóa đậm chất dân tộc và làng quê. Dù cuộc sống hiện đại và nhiều yếu tố văn hóa ngoại nhập đã xuất hiện, tuy nhiên bản sắc của làng quê vẫn được giữ gìn và trở thành chất keo dính gắn kết cộng đồng. Hiện nay, không còn ruộng huệ điền, nhưng người dân làng Ngọc Tiên vẫn góp sức để giữ nếp truyền thống. Tích cũ được truyền kể lại cho lớp lớp cháu con, để các em tự hào và noi gương Đức Thánh Tổ. Các kỹ thuật như địch thủy, địch hỏa, thổi cơm thi, uốn cần trúc, chọn tre già... được cha truyền lại cho con trai, chú truyền cho cháu. Trẻ em trai ở làng Ngọc Tiên từ 10 tuổi đã bắt đầu được tham gia phụ giúp chuẩn bị cho hội xuân, để rồi khi trưởng thành, họ tiếp tục giữ gìn truyền thống, bản sắc văn hóa làng quê cho đời sau.

-/-

Trên đây là mẫu dàn ý và bài văn thuyết minh về hội thi thổi cơm hay do Đọc tài liệu sưu tầm được, các em có thể dựa vào đó kết hợp với những hiểu biết của mình về hội thi này để viết thành một bài thuyết minh đầy đủ và hoàn chỉnh nhất. Chúc các em học tốt !

Sưu tầm và tuyển chọn Văn mẫu lớp 7 hay nhất / Đọc Tài Liệu

Bạn còn vấn đề gì băn khoăn?
Vui lòng cung cấp thêm thông tin để chúng tôi giúp bạn
Hủy

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM