Thuyết minh về đoạn trích Trao duyên

Xuất bản: 21/03/2024 - Tác giả:

Hướng dẫn thuyết minh về đoạn trích Trao duyên, lập dàn ý và tham khảo 5+ bài văn mẫu thuyết minh giới thiệu nội dung đoạn trích Trao duyên (trích Truyện Kiều) của Nguyễn Du.

Hướng dẫn làm bài văn thuyết minh về đoạn trích Trao duyên (trích Truyện Kiều) của Nguyễn Du kèm dàn ý chi tiết cùng TOP 5+ bài văn thuyết minh hay giúp em tham khảo trước khi làm bài.

Dàn ý thuyết minh đoạn trích Trao duyên

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả Nguyễn Du (1765 - 1820): Danh nhân văn hóa thế giới, "Đại thi hào dân tộc".

- Giới thiệu tác phẩm Truyện Kiều: kiệt tác văn học, “Tiếng kêu mới của con người về đau khổ“

- Giới thiệu đoạn trích Trao duyên: vị trí, vai trò trong tác phẩm.

2. Thân bài

a) Giới thiệu về Truyện Kiều và đoạn trích Trao duyên

- Truyện Kiều được đại thi hào Nguyễn Du sáng tác dựa trên tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc, viết bằng chữ Nôm và thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc.

- Nội dung Truyện Kiều phản ánh sâu sắc xã hội phong kiến đương thời với giai cấp thống trị tàn bạo và số phận những con người trong xã hội ấy, đặc biệt là người phụ nữ.

- Đoạn trích Trao duyên:

+ Vị trí đoạn trích: Từ câu 723 đến câu 756, thuộc phần Gia biến và lưu lạc của Truyện Kiều.

+ Bố cục của đoạn trích: Chia làm 3 phần.

=> Đoạn trích là lời bộc bạch của Thúy Kiều khi trao duyên cho em gái, thể hiện bi kịch tình yêu và số phận của Thúy Kiều: tình yêu tan vỡ và số phận chìm nổi.

b) Hoàn cảnh trao duyên

- Gia đình Thúy Kiều gặp biến cố: cha và em bị tù, Kiều phải bán mình chuộc cha.

- Kiều buộc phải trao duyên cho em gái Thúy Vân để giữ gìn lời thề với Kim Trọng.

c) Nỗi đau của Thúy Kiều

- Nỗi đau đớn, xót xa khi phải từ bỏ mối tình đầu đẹp đẽ.

- Nỗi tủi nhục, uất hận trước số phận nghiệt ngã, bất công.

- Nỗi lo âu, trăn trở cho hạnh phúc của Kim Trọng và Thúy Vân.

d) Lời thề và mong ước của Thúy Kiều

- Thề nguyền chung thủy với Kim Trọng, mong được đoàn tụ.

- Mong Thúy Vân giữ gìn lời thề, vun đắp cho mối tình dang dở.

- Nỗi niềm u uất, phẫn uất trước xã hội phong kiến.

e) Đặc sắc nghệ thuật

- Thể thơ lục bát của dân tộc giàu nhạc tính

- Cách ngắt nhịp đầy dụng ý

- Các biện pháp ẩn dụ, điệp từ, thành ngữ, độc thoại nội tâm được vận dụng nhuần nhuyễn

3. Kết bài

- Khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích Trao duyên.

- Nêu cảm nhận của em về đoạn trích.

TOP 5+ bài văn mẫu thuyết minh về đoạn trích Trao duyên

Thuyết minh đoạn trích Trao duyên mẫu số 1

Truyện Kiều là kiệt tác thơ bằng chữ Nôm của thi hào Nguyễn Du. Tác phẩm kể về cuộc đời và số phận của Thúy Kiều, người con gái tài sắc nhưng lại có số phận truân chuyên, bất hạnh. Thúy Kiều từng là một tiểu thư khuê các với cuộc sống “êm đềm trướng rủ màn che”, nàng cũng có một tình yêu thật đẹp với chàng thư sinh Kim Trọng.

Tuy nhiên biến cố ập đến bất ngờ, để cứu cha và em, Kiều đã bán mình cứu cha, làm tròn chữ hiếu của một người con, bỏ lỡ mối lương duyên với Kim Trọng. Để hiếu tình vẹn tròn, Thúy Kiều đã quyết định trao tình duyên với Kim Trọng cho em gái mình là Thúy Vân. Bối cảnh và tâm trạng Thúy Kiều khi trao duyên được thể hiện rõ nét qua 12 câu thơ đầu đoạn trích Trao duyên.

Mười hai câu thơ đầu của đoạn trích Trao duyên chứa chan những lý lẽ, sự chân thành và cả niềm đau xót vô bờ của Thúy Kiều khi phải trao đi mối tình đầu sâu nặng của mình. Thế nên, khi mở đầu câu chuyện, mở đầu đoạn trích, khung cảnh hiện lên thật não nề làm sao:

“Cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

Là một người chị trong nhà, vậy mà Thúy Kiều lại dùng những lời lẽ hết sức kính cẩn, thận trọng với em gái mình, nào là “cậy”, nào là “chịu lời”! Tại sao Kiều lại sử dụng những từ ngữ hết sức thành kính như thế? “Cậy” tức là nhờ vả, thế nhưng Kiều không nói là nhờ em mà là “cậy em”. Lời thơ mang âm điệu nặng nề, mang cả sự gửi gắm đầy trân trọng của nàng dành cho em gái, gợi lên cả sự day dứt, đau xót khôn nguôi đang âm ỉ cháy trong lòng nàng.

Chỉ một chữ “cậy” ấy mà chứa chan bao sự mong đợi, hy vọng tha thiết của Kiều. “Cậy” em như thế, không biết em có “chịu lời” hay chăng? Từ “chịu” ở đây mang nghĩa là nhận lời, thế nhưng Kiều lại sử dụng từ “chịu” để đưa Thúy Vân vào thế khó, bắt buộc phải nhận lời, không thể từ chối. Âm điệu tiếng thơ mang trong đó sự van xin, nài nỉ, thúc ép Thúy Vân phải nhận lời. Nguyễn Du đã để Kiều lên tiếng bằng những lời thơ thật day dứt, thật khẩn thiết, dồn ép Thúy Vân vào thế khó xử mà phải nhận lời.

Càng bất thường hơn khi Kiều hạ thấp vai vế của mình, để em gái ngồi lên ghế còn mình thì “lạy, thưa”. Hành động “lạy, thưa” vốn là hành động dành cho những bậc bề trên tôn kính, nhưng ở đây, Kiều lại dùng cho em mình, thật là bất thường, thật là khó hiểu! Thế nhưng điều đó chẳng hề khó hiểu khi Kiều đang nhờ vả một việc lớn, liên quan đến hạnh phúc cả đời của em gái mình. Thái độ đó còn tạo nên một sự trang nghiêm, thiêng liêng đối với sự việc mà Kiều đang muốn cậy.

Thúy Kiều là người con gái thông minh, sắc sảo, điều này được thể hiện rõ nét qua lời nói và hành động nhờ cậy của nàng với Thúy Vân. Cách nói của Kiều mang đầy sự kính cẩn đối với một người có ơn với mình khiến cho người đó không thể từ chối. Đồng thời, với cách sử dụng từ ngữ hết sức tài năng, Nguyễn Du còn khiến cho người đọc như cảm nhận được một nỗi đau xót vô bờ đằng sau mỗi lời nói và cử chỉ của Kiều.

Sau khi đưa ra lời cậy nhờ em gái, Kiều mới mở lời với Thúy Vân lý lẽ trao duyên của mình. Nàng nói:

“Giữa đường đứt gánh tương tư

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”

Kiều đưa ra lý do đã khiến nàng phải làm như vậy, đó là vì chữ hiếu. “Đứt gánh tương tư” đây là thành ngữ chỉ sự dang dở trong tình yêu và ở đây là tình yêu giữa Kiều và Kim Trọng, Kiều đang muốn giãi bày hoàn cảnh của mình cho em gái hiểu, nàng vì cha, vì em mà phải bán mình, làm “đứt gánh” mối duyên cùng chàng Kim Trọng. Vậy nên, nàng muốn Thúy Vân “chắp mối tơ thừa” để thay nàng trả duyên cho chàng Kim.

Từ “mặc” ở đây không phải mặc kệ mà là phó mặc, là ủy thác. Kiều hiểu rằng chấp nhận chuyện này sẽ khiến em gái nàng thiệt thòi bởi giữa Thúy Vân và Kim Trọng chưa hề có tình yêu. Những lời thơ thống thiết chứa đựng nỗi đau đớn xé lòng của Thúy Kiều, nỗi quằn quại đang dằn xé tâm can nàng. Thế nhưng, những lời nói ấy lại chính là những lời thuyết phục nhất, khéo léo nhất để khiến Vân hiểu, đồng lòng với Kiều mà nhận lấy trách nhiệm nặng nề này.

Nhắc đến tình yêu của mình, Kiều lại tưởng nhớ lại những kỉ niệm, những lời thề nguyền của người yêu. Những hình ảnh “quạt ước”, “chén thề” làm ùa về trong tâm trí nàng những cảnh sắc của đêm thề nguyền dưới trăng, của tình yêu ấm áp và hạnh phúc với Kim Trọng.

“Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề”

Thế nhưng, tai họa ập đến khiến nàng buộc phải lựa chọn giữa hiếu và tình. Và nàng đã chọn chữ hiếu. Tình yêu đầu càng đẹp càng khiến trái tim nàng đau đớn khôn nguôi. Chữ hiếu chữ tình không thể “hai bề vẹn hai” nên nỗi đau đó khiến nàng khổ sở, khiến nàng ngày đêm dằn vặt trong đau xót. Kiều bộc bạch hết với Thúy Vân vừa là để giải thoát cho lòng mình vừa muốn Vân hiểu được tình cảnh ngang trái của mình để giúp nàng thực hiện mối duyên đó.

“Sự đâu sóng gió bất kỳ

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”

Những lời nói gan ruột của Kiều cứ thốt lên trong sự đau xót, trong sự dằn vặt. Kiều muốn Vân nhận lời mình, muốn Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng, vì nàng biết, sự ra đi lần này của nàng không biết bao lâu mới có thể gặp lại. Nàng nhắc tới tuổi trẻ của Vân, nhắc tới tình chị em ruột thịt:

“Ngày xuân em hãy còn dài

Xót tình máu mủ thay lời nước non”

Tương lai Vân còn ở phía trước, tuổi trẻ còn tràn trề, hơn thế, tình máu mủ ruột thịt còn đó, em hãy nhận lời trả duyên giúp chị. Mong rằng em sẽ niệm tình thân đó mà nhận lời thay chị thực hiện lời thề “nước non” đó cùng chàng. Những lời Kiều nói ra vừa đượm nỗi đau xót vừa đầy thuyết phục khiến Vân khó lòng có thể chối từ. Kiều biết rằng, có thể sự ra đi lần này sẽ không thể trở lại, cái “chết” có thể diễn ra bất cứ lúc nào, vậy nên, nàng đã đem điều đó làm lý do để thuyết phục Vân:

“Chị dù thịt nát xương mòn

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”

Đối với Kiều, lời hứa lời thề với Kim Trọng, việc trả nghĩa cho chàng còn quan trọng hơn cái chết của nàng. Chính vì vậy, kể cả khi chết đi, trong thâm tâm nàng vẫn mong trả được mối duyên với Kim Trọng. Và nếu điều ấy được thực hiện thì nàng cũng mãn nguyện mà “ngậm cười” nơi “chín suối” và cảm kích Thúy Vân đã giúp đỡ mình. Câu thơ nặng nề như một lời trăn trối, như tâm nguyện của một người sắp chết, điều đó khiến lời khước từ của Thúy Vân càng khó có thể nói ra.

Những lời nói của Thúy Kiều khi trao duyên thật thuyết phục, thấu tình đạt lý khiến cho người em như Thúy Vân khó lòng chối từ. Từng câu thơ là từng nỗi lòng của Kiều được bộc bạch một cách khéo léo, thông minh, chứa đựng niềm đau xót vô bờ khi phải rời xa tình yêu đầu còn đang mặn nồng hạnh phúc và còn chứa đựng đức hi sinh cao cả của Kiều vì chữ hiếu, vì gia đình nữa.

Về nghệ thuật, tài năng của Nguyễn Du được thể hiện rõ qua cách sử dụng ngôn ngữ hết sức đặc sắc và tinh tế. Mỗi từ ngữ đều được ông chọn lựa kỹ càng tạo nên một lời thuyết phục hết sức khéo léo và thông minh của Kiều. Đồng thời Nguyễn Du cũng sử dụng một số thành ngữ cũng như hình ảnh ẩn dụ để gợi nên sự hoàn cảnh cũng như niềm day dứt trong lòng Kiều. Nhịp điệu thơ rất nhẹ nhàng, chứa đựng đầy cảm xúc, sư thống thiết, dằn vặt.

Mười hai câu đầu trong đoạn trích Trao duyên là những cậy nhờ, gửi gắm trả nghĩa tình cho Kim Trọng đầy chân thành của Kiều cho em gái về mối tình đầu sâu đậm của mình. Vì những lề thói, những chế độ quan quyền đã gián tiếp đẩy Kiều rời xa tình yêu của mình. Qua đó, chúng ta thấy hiện thực xã hội phong kiến chuyên quyền thối nát, đẩy con người ta vào bước đường cùng đầy đau khổ, thiệt thòi đặc biệt là người phụ nữ.

Thuyết minh đoạn trích Trao duyên mẫu số 2

Nguyễn Du tên thật là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên. Ông sống vào khoảng nửa cuối thế kỷ 18 và mất vào đầu thế kỉ 19, quê hương tại Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Có lẽ tài năng văn chương kiệt xuất của ông phần nào được thừa hưởng từ truyền thống gia đình khi ông thuộc tầng lớp quý tộc, nhiều đời làm quan văn trong triều.

Tuy có phần may mắn hơn nhiều người vì có xuất thân khá giả, nhưng thời đại của ông lại đầy biến động của xã hội phong kiến Việt Nam. Khi đó, giai cấp thống trị đã vô cùng thối nát, tham lam và tàn bạo dẫn đến sự khủng hoảng trầm trọng của dân chúng. Đồng thời cuộc đời ông cũng bắt đầu lâm làm cảnh khó khăn khi mồ côi (9 tuổi cha mất, 12 tuổi mẹ mất), phải sống phiêu bạt nhiều năm, nhiều nơi.

Nguyễn Du được biết đến như vị quan trung thành với nhà Lê, chống quân Tây Sơn, sau này làm quan triều Nguyễn nhưng lại rụt rè, u uất. Có lẽ là do biến động to lớn của cuộc đời và lịch sử đã tác động rất nhiều đến tư tưởng và tâm hồn ông. Và cũng vì vậy, ông có một trái tim giàu lòng yêu thương, cảm thông sâu sắc với nỗi khốn khổ cùng cực của nhân dân.

Cuộc đời Nguyễn Du có rất nhiều tác phẩm xuất sắc, nhưng nổi bật nhất phải kể đến là Truyện Kiều. Nó mang đậm tính nghệ thuật nhưng cũng không hề thiếu những giá trị nhân đạo sâu sắc mà ông luôn tâm niệm trong lòng. Nổi bật trong số đó là đoạn trích Trao duyên. Quả thật vô cùng may mắn khi chúng ta ngày nay vẫn có cơ hội để thưởng thức tác phẩm này.

Nói đến Trao duyên, có lẽ trong đầu chúng ta sẽ nảy ra hình ảnh cảnh trao tình thơ mộng giữa những đôi nam nữ trong ca dao xưa. Thế nhưng chỉ khi đọc đoạn trích này người ta mới hiểu được rằng "Trao duyên", ở đây là gửi duyên, gửi tình của mình cho người khác, nhờ người khác chắp nối mối tình dang dở.

Nếu đi sâu vào thuyết minh tác phẩm Trao duyên, ta sẽ thấy nó không hề mang chút nào lãng mạn, mà chỉ toàn những dằn vặt, đau khổ của Thúy Kiều trước khi nàng dấn thân vào quãng đời lưu lạc, bán mình cứu cha. Tưởng chừng khi ấy Kiều không thể giữ trọn lời đính ước với người yêu, đã nhờ cậy em là Thúy Vân thay mình gắn bó với chàng Kim. Đoạn thơ này đâu chỉ trao duyên, nó còn là tâm tư trĩu nặng của nàng trong những ngày tháng ấy.

Đoạn trích Trao duyên gồm 34 câu, mở đầu với 8 câu thơ là tâm sự của Kiều cùng em gái về mối tình với chàng Kim Trọng. Là cô gái vốn mang đậm chất thuần phong mỹ tục, kể ra mối tình thiêng liêng như vậy thường được giấu kín trong lòng, ít khi được thổ lộ. Vậy mà điều gì đã buộc Kiều phải nói ra điều đó với Thúy Vân? Mà còn hơn cả thế, nàng phải lạy em như lạy một ân nhân, một bậc bề trên, phải nói với em bằng những lời lẽ nhún nhường gần như van nỉ:

Cậy em, em có chịu lời,

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.

Giữa đường đứt gánh tương tư,

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.

Kể từ khi gặp chàng Kim,

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.

Sự đâu sóng gió bất kỳ,

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?

Ngày xuân em hãy còn dài,

Xót tình máu mủ, thay lời nước non.

Chị dù thịt nát xương mòn,

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.

Tác giả không dùng từ nhờ mà là “cậy”, nàng Kiều cậy em với tất cả lòng hy vọng, mong mỏi đan xen với sự tuyệt vọng về hạnh phúc tương lai của mình. Nhờ em cũng là gửi gắm vào em, là thưa em, là lạy em. Đối với nàng, việc ấy chắc hẳn phải quan trọng vô cùng nên mới chịu nhún nhường như vậy.

Nỗi đau khổ vì không giữ trọn lời đính ước với chàng Kim đã buộc Thúy Kiều phải nói thật, nói hết với em, phải giãi bày tất cả. Bởi vì không có cách nào khác là phải nhờ em. Gánh tương tư đâu có nhẹ nhàng gì, thế mà vì mình giờ đây bỗng giữa đường đứt gánh, ai mà không đau khổ. Xưa nay có lẽ chẳng có mấy ai nhờ người khác đỡ gánh tương tư, bởi gánh vật chất thì còn có thể san sẻ được, chứ điều kia làm sao có thể dễ dàng giúp đỡ? Kiều có lẽ cũng hiểu được sự khó khăn và tế nhị của gánh nặng này, vì vậy mới phải cậy em, mới phải lạy, phải thưa. Rõ ràng, Thúy Vân cũng phải hi sinh tình yêu của mình để giúp chị. Trong hoàn cảnh bi thương của mình, Thúy Kiều không chỉ trao duyên mà còn trao cả nỗi đau của mình cho em gái.

Ta thấy rõ ràng chẳng tự dưng mà Vân lại chấp nhận sự hi sinh ấy, bởi nàng hiểu rõ một điều rằng: Chị mình còn phải đánh đổi lớn hơn. Trong những ngày nhà họ Vương chấp nhận vạ gió tai bay, Kiều từ bỏ cả tình yêu và cuộc đời để cứu cha, cứu em. Duyên cũng trao đi rồi, nhưng nỗi canh cánh trong lòng đâu dễ trút bỏ. Bao nhiêu kỉ niệm ngày xưa của mối tình đầu, kỉ niệm đẹp đẽ của một thời ào ạt trở về. Những kỷ vật thiêng liêng nàng vẫn giữ, minh chứng cho tình yêu của nàng với chàng Kim. Vậy nhưng chỉ ngay trong phút chốc, Kiều lại phải trao nó cho người khác, dù người đó chính là em gái mình.

Chiếc vành với bức tờ mây

Duyên này thì giữ, vật này của chung.

Dù em nên vợ nên chồng,

Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên!

Mất người còn chút của tin,

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.

Mai sau dù có bao giờ,

Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.

Trông ra ngọn cỏ lá cây,

Thấy hiu hiu gió, thì hay chị về.

Hồn còn mang nặng lời thề,

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.

Dạ đài cách mặt, khuất lời,

Rưới xin chén nước cho người thác oan.

Chúng ta cũng hiểu một điều rằng, tình yêu đôi lứa có chút sự ích kỷ âu cũng là điều thường tình. Những kỷ vật gắn với bao nhiêu kỉ niệm đẹp đẽ: Chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương huyền,... Nó vốn là của riêng Kiều, là minh chứng cho hạnh phúc của nàng với Kim Trọng. Ấy vậy mà giờ nó lại sắp là những thứ đồ chung đứng giữa ba người, thật đau xót làm sao. Nhưng Kiều đã lấy cả tình máu mủ ra để van xin, vì tình máu mủ ai nỡ chối nhau? Đau xót biết bao mà vẫn phải làm.

Bây giờ trâm gãy gương tan,

Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!

Trăm nghìn gửi lạy tình quân

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.

Phận sao phận bạc như vôi?

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.

Những câu thơ cuối của đoạn trích là điều nàng muốn nói với người yêu. Bao nhiêu thứ ngổn ngang tâm sự, trăm ngàn điều canh cánh, muôn vàn ái ân chưa giãi bày. Biết làm sao mới có thể đến tai chàng đây? Chẳng thể giữ nổi lời thề, nàng chỉ biết gửi đến chàng trăm nghìn lạy, gọi chàng một tiếng tình quân. Thúy Kiều đành tự xót xa cho duyên phận ngắn ngủi và đường tơ duyên mỏng manh của mình. Cứ đành tự coi mình như kẻ phụ bạc đi.

Thật đau khổ biết bao: trao duyên rồi, đã nhờ em trả nghĩa cho chàng Kim rồi mà nỗi buồn thương vẫn chất chứa trong lòng nàng Kiều. Phải chăng, một lần nữa Nguyễn Du đã thể hiện đúng quy luật tâm lí của con người: cái gì đong mà lắc thì vơi, nhưng sầu đong càng lắc càng đầy là như thế! Tình duyên dẫu có cố tình dứt bỏ vẫn còn vương tơ lòng là như vậy.

Nỗi khổ đã giãi bày xong, cũng đã hoàn thành tâm nguyện nhờ em trả nghĩa cho Kim Trọng, thế nhưng tâm trí nàng vẫn không khỏi nguôi ngoai vì nợ tình với chàng, Thúy Kiều vẫn phải thốt lên đau đớn:

Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!

Phải chăng đây là tiếng thơ kêu xé lòng mà sau này nhà thơ Nguyễn Du đã nói thay bao người, bao thế hệ!

Phân tích đoạn trích Trao duyên ta thấy chủ yếu chỉ là Thúy Kiều tự độc thoại, trừ đoạn đầu. Việc không để Thúy Vân lên tiếng, chính là muốn người đọc có cơ hội hiểu thấu tâm trạng đau khổ của chị cô. Càng hiểu ra thì nỗi đồng cảm của người đọc dành cho Kiều càng lớn. Cảm phục thay cô gái có thể hi sinh tất cả vì chữ hiếu, nhưng cũng chẳng quên đi chữ tình.

Rất nhiều những bút pháp và nghệ thuật khai thác tâm lý nhân vật đã được sử dụng trong đoạn trích. Từ đó Nguyễn Du truyền đạt được tới cho người đọc niềm thương xót cho bi kịch tình yêu tan vỡ của nàng Kiều. Ngoài ra kết hợp với thể thơ lục bát, chi tiết đặc tả đắt giá lại càng khơi gợi thêm sự rung động trong trái tim vì những nỗi niềm của nhân vật.

Thuyết minh đoạn trích Trao duyên mẫu số 3

Đại thi hào Nguyễn Du (1765 - 1820) tên chữ là Tố Như là một thiên tài văn học, niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Truyện Kiều là một tuyệt tác của Nguyễn Du, bài thơ như tiếng khóc ai oán của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy rẫy những thối nát, bất công.

Đoạn trích “Trao duyên” đã nói lên nỗi lòng đau xót của Thúy Kiều khi phải trao mối tình mặn nồng giữa nàng và Kim Trọng cho Thúy Vân, cũng là phần mở đầu cho cuộc đời đầy đau khổ của Thúy Kiều. Và đặc sắc nhất có lẽ là 12 câu thơ đầu. Chỉ 12 câu nhưng sao như tiếng nấc uất nghẹn ngào.

“Cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

Thúy Kiều đã dùng những lời lẽ chân tình, thuần hậu để nói chuyện với Thúy Vân. Từ “cậy” được sử dụng thật đặc sắc, là “cậy” chứ không phải “nhờ”, người được “cậy” khó lòng từ chối. Thúy Kiều đã đặt hết niềm tin tưởng của mình vào Thúy Vân và Thúy Vân không thể thoái thác được và phải “chịu lời”.

Kiều đã đặt Vân lên vị trí cao hơn, hạ mình xuống như để van nài, kêu xin. Không có người chị nào lại xưng hô với em mình bằng những từ ngữ tôn kính chỉ dùng với bề trên như “thưa, lạy”. Kiều muốn chuẩn bị tâm lí cho Vân để đón nhận một chuyện hệ trọng mà nàng chuẩn bị nhờ cậy em bởi nàng hiểu rằng việc mà nàng sắp nói ra đây là rất khó khăn với Vân và cũng là một việc rất tế nhị:

“Hở môi ra những thẹn thùng

Đề lòng thì phụ tấm lòng với ai”

Từng từ được thốt ra đều được nhân vật cân nhắc kĩ càng, chọn lọc, Nguyễn Du đã sử dụng những từ ngữ rất “đắt”. Cái hay, cái sắc của từ ngữ cũng chính là cái tinh tế trong thế giới nội tâm mà Nguyễn Du muốn diễn tả. Sự chọn lọc chính xác ấy cho ta thấy Kiều đã suy nghĩ rất nhiều, rất kĩ rồi mới quyết định trao mối nhân duyên mà nàng đã từng mong ước sẽ “đơm hoa kết trái”, mối nhân duyên mà nàng mong ước sẽ được lâu bền lại cho Thúy Vân:

“Giữa đường đứt gánh tương tư

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”

“Gánh tương tư” là của chị, tình yêu sâu nặng là của chị nhưng giờ giữa đường lại “đứt gánh” còn đâu. Tơ duyên là của chị, khi đến với em nó đã là “tơ thừa”. Chị hiểu em tuổi còn trẻ có thể chưa biết đến tình yêu. Đáng lẽ em còn được hưởng bao mật ngọt của tình yêu nhưng xin em hãy xót người chị bạc mệnh này mà đáp nghĩa cùng chàng Kim.

Ôi! Lời của Kiều thật thống thiết. Cái băn khoăn của Kiều là băn khoăn cho Kim Trọng phải lỡ làng nhân duyên. Cái day dứt của Kiều là day dứt cho Thúy Vân phải “chắp mối tơ thừa” của mình. Từ “mặc” sử dụng ở đây không phải là mặc kệ em, mặc cho ra sao thì ra mà có nghĩa là Kiều muốn phó thác, giao phó trách nhiệm lại cho Thúy Vân, tin tưởng tuyệt đối vào sự cậy nhờ của mình nơi Vân.

“Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày hẹn ước khi đêm chén thề”

Từ “khi” được lặp lại ba lần như muốn nhấn mạnh tình cảm mà Kiều dành cho Kim Trọng nào đâu phải tình cảm một sớm một chiều. Những kỉ niệm đẹp giữa nàng và Kim Trọng như sống lại trong những câu thơ “ngày hẹn ước, đêm chén thề”. Câu thơ ẩn chứa những tình cảm ngọt ngào, những niềm vui nhưng cũng nghe như tiếng nấc nghẹn của Thúy Kiều, những kỉ niệm đẹp ấy sẽ kết thúc, chỉ còn lại chuỗi ngày bi thảm tiếp sau.

“Sự đâu sóng gió bất kì

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”

“Sóng gió bất kì” là khi Kim Trọng về quê chịu tang chú, gia đình Kiều bị mắc oan, cha và em Kiều bị bắt, Kiều phải bán mình chuộc cha và em. Những biến cố xảy ra liên tục, đẩy Kiều vào chỗ bế tắc, là người chị cả, Kiều phải hi sinh bản thân mình để gia đình được đoàn tụ, êm ấm, bởi lẽ: “Có ba trăm lạng việc này mới xuôi”. Chữ hiếu là một phạm trù đạo đức trong đạo Nho, vì hiếu con người ta phải dẹp bỏ tình riêng, là một quan niệm đạo đức phổ biến của người xưa. Và Kiều cũng thế, nàng không bao giờ cho phép mình trở thành người con bất hiếu. Nàng đã chôn vùi tình cảm riêng tư để báo hiếu cho cha mẹ:

“Nỗi riêng riêng những bàng hoàng

Dầu chong trắng đĩa lệ tràn thấm khăn”

Khi đã quyết định bán thân chuộc cha và em, Kiều lại nhớ đến Kim Trọng, nàng tự thấy mình là người phản bội, không xứng đáng với chàng:

“Thề hoa chưa ráo chén vàng

Lỗi thề thôi đã phũ phàng với hoa”

Ở đời, phàm người ta thường hi sinh tất cả mọi thứ vì tình yêu. Là người ai chẳng khát khao được gắn bó với người mình yêu. Và ở người con gái đa sầu đa cảm như Kiều thì khát vọng ấy lại càng mạnh mẽ gấp bội, vì tình yêu nàng đã từng vượt qua cả lễ giáo phong kiến khắt khe nhất để “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”. Vậy mà giờ Kiều lại đành lòng vứt bỏ, thật đau đớn xiết bao! Nhưng vì:

“Duyên hội ngộ, đức cù lao

Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn?”

Có lẽ chỉ có những người con gái mang trong mình trái tim bao dung như Thúy Kiều mới đủ sức mạnh để làm những việc tưởng chừng khó khăn nhất như thế! Sợ chưa thuyết phục được em, Kiều đã dùng hết lý lẽ, sự tỉnh táo nhất của lí trí để trải lòng cùng em:

“Ngày xuân em hãy còn dài

Xót tình máu mủ thay lời nước non”

Đúng vậy, Thúy Vân còn trẻ, còn nhiều thời gian vun đắp cho tình cảm riêng tư nên xin hãy nhận lời chị kết duyên cùng chàng Kim. Để thêm thuyết phục và Vân không thể chối từ, Kiều đã đem “tình máu mủ” ra để cầu xin Vân. “Máu chảy ruột mềm” còn gì thiêng liêng hơn tình chị em gắn bó, ruột thịt. Em hãy giúp chị thay “lời nước non” cùng chàng. Kiều cũng đã đặt mình vào địa vị của Vân, phải kết duyên cùng người mình không quen biết, mà còn là người yêu của chị mình, ta có thể cảm nhận ở đây Thúy Vân là người thiệt thòi nhất…

Tuổi của Kiều và Vân xấp xỉ nhau “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” thế nhưng đối với Kiều giờ đây, tuổi xuân của nàng đã kết thúc. Khoảng thời gian xuân xanh đẹp đẽ giữa nàng và Kim Trọng nay chỉ còn là những kỉ niệm mà không có tương lai. “Trao duyên” cho em, nghe thật kì lạ nhưng trong hoàn cảnh của Kim, Vân, Kiều thì đây là một việc không khó hiểu trong xã hội phong kiến ngày xưa. Những dòng nước mắt không thể chảy ra nhưng cứ âm ỉ, phảng phất trong từng câu, từng chữ…

Nỗi đau đớn đến xé lòng nhưng vẫn phải dằn xuống, kìm nén để nói những lời trao duyên cho em. Thật đau xót thay! Chữ Tình đối với Kiều vô cùng quan trọng, thế nhưng nàng lại từ bỏ nó để làm tròn chữ Hiếu. Mất đi tình yêu đối với nàng là mất đi tất cả. Nói đến đây Kiều tưởng như cuộc đời mình đã kết thúc, không còn gì để luyến tiếc, níu giữ:

“Chị dù thịt nát xương mòn

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”

Bản thân phải hi sinh, Kiều không đắn đo thiệt hơn, nhưng khi nhờ cậy đến em gái thì đó là một cái ơn lớn· đối với nàng. Cho nên lời nhờ cậy của Kiều thật thiết tha, lời cảm tạ của Kiều thật sâu sắc, cảm động. Xét về ngôn từ thì lời nói của Kiều khẩn thiết mà vẫn đúng mực, kêu nài mà vẫn chí nghĩa chí tình. Nhờ cậy thì vịn đến tình máu mủ ruột thịt. Cảm tạ thì đề cao ơn nghĩa của Thúy Vân và nói đến sự bạc mệnh của mình. Kiều quả thật là người “sắc sảo mặn mà”.

Kiều đã hi sinh tất cả, kể cả cuộc đời nàng đang độ xuân xanh vì gia đình. Thúy Vân dù có vô tư đến đâu cũng có thể hiểu nỗi đau và sự hi sinh quá lớn của chị nên chắc chắn rằng nàng không thể khước từ và chỉ ngậm ngùi đồng ý nhận duyên từ chị. Có lẽ vì thế nên ngay từ đầu chúng ta không nghe một lời đối thoại nào của Vân mà chỉ nghe những lời thuyết phục, van nài và bộc bạch nơi Kiều. Vân đã chấp thuận.

Khi trao duyên cho em xong, Kiều đã nghĩ đến cái chết: “thịt nát xương mòn, ngậm cười chín suối”. Cuộc đời nàng sau khi báo đáp ơn nghĩa sinh thành thì coi như chấm dứt. Bởi lẽ mất đi tình yêu là nàng đã mất tất cả, mất hi vọng, mất định hướng, linh hồn nàng như tê dại và đông cứng trước ngưỡng cửa của cuộc đời đầy tăm tối ở ngày mai.

Xã hội phong kiến thối nát đã chia rẽ tình yêu đôi lứa, làm tan vỡ hạnh phúc gia đình, chà đạp lên số phận của người phụ nữ, những con người xinh đẹp, tài hoa.

“Đau đớn thay phận đàn bà

Hỡi ôi thân ấy biết là mấy thân!”

kiếp số của họ:

“Trăm năm trong cõi người ta

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”

Qua đoạn trích “Trao duyên”, ta nhận thấy Nguyễn Du thật sự là một bậc đại tài trong việc thấu hiểu từng khía cạnh tinh tế nhất của tâm can con người. Chính sự thấu hiểu sâu sắc ấy cùng với nghệ thuật dùng từ điêu luyện đã khiến tác phẩm của Nguyễn Du tồn tại như một giá trị vĩnh cửu vượt qua tất cả thử thách khắt khe của thời gian, để lại ấn tượng mạnh mẽ trong lòng đối tượng tiếp nhận, đã khiến cho triệu vạn người phải rơi nước mắt khóc than cho số phận nàng Kiều:

“Tiếng thơ ai động đất trời

Nghe như non nước vọng lời ngàn thu

Ngàn năm sau nhớ Nguyễn Du

Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày”

(Kính gửi cụ Nguyễn Du, Tố Hữu)

Thuyết minh đoạn trích Trao duyên mẫu số 4

Cuộc đời của con người tài sắc Thúy Kiều từ khi gia đình có tai biến đã trải qua nhiều giai đoạn. Mỗi giai đoạn được ghi dấu bằng một niềm đau. Trong Truyện Kiều, có thể nói “trao duyên” là niềm đau lớn nhất, bởi với Thúy Kiều, trao duyên - dù cho chính em gái mình - cũng có nghĩa là hết. Phải chọn tình hay hiếu, Thúy Kiều có băn khoăn nhưng không oán hờn bởi nàng biết và nàng hiểu “làm con trước phải đền ơn sinh thành”. Nhưng khi phải từ bỏ lời thề vàng đá, Thúy Kiều đã day dứt và day dứt suốt đời.

Trong Truyện Kiều, đoạn Trao duyên có vai trò như một cái bản lề khép mở hai phần đời đối lập của Kiều: hạnh phúc và đau khổ. Không những thương, Vân còn rất hiểu lòng Kiều. Có lẽ vì vậy mà sau đó, chuyện tình duyên khó trao, khó nhận nhưng Vân đã bằng lòng với nỗi niềm cảm thông mà chẳng nói thêm gì (có ý kiến cho rằng: Thúy Vân chỉ biết bằng lòng vì lời nói rất đỗi thuyết phục của Thúy Kiều).

Chỉ chờ có vậy, Thúy Kiều đã mở đầu câu chuyện mà đáng lý ra chẳng ai nói đến bao giờ:

Cậy em em có chịu lời,

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.

Nghe xong Thúy Vân chắc sẽ rất bất ngờ. Lời chị khẩn khoản, thiết tha chắc không thể chỉ là chuyện bình thường. Trong nhóm các từ biểu đạt sự nhờ vả, Nguyễn Du đã chọn được hai từ đắt nhất và cũng hợp với hoàn cảnh nhất: cậy và chịu. Cậy không chỉ là nhờ. Cậy còn là trông đợi và tin tưởng. Cũng vậy, chịu không chỉ là nhận lời, chịu còn là nài ép. Chuyện chưa nói ra nhưng Kiều biết người nhận không dễ dàng chịu nhận nên nàng đã chủ động đưa Vân vào thế khó xử, tiến thoái lưỡng nan. Lời xưng hô nghiêm cẩn và trang trọng của Thúy Kiều lại càng có tác dụng gây áp lực đối với Thuý Vân.

“Chọn” và “đặt vấn đề” một cách nhanh chóng và kĩ càng, Thúy Kiều dường như ngay lập tức tiếp lời như nếu để lâu sẽ không thể nào nói được:

Giữa đường đứt gánh tương tư,

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.

Vậy là cái điều tưởng như khó nhất, Thúy Kiều đã nói. Thúy Vân hết sức ngỡ ngàng nhưng cũng nhanh chóng hiểu nỗi niềm của chị. Đoạn thơ ngắn gọn, hướng vào những chuyện riêng tư. Tình yêu dở dang, tan vỡ được thông tin ngắn gọn trong một thành ngữ nặng nề, chắc nịch (đứt gánh tương tư). Câu thơ thứ 4 lại hay ở hai chữ tơ thừa. Với Thúy Kiều, tình yêu chưa thể coi là đã đủ mặn mà nhưng với em (Thúy Vân) nó chỉ là sự nối tiếp. Lời Kiều sâu sắc và cũng thật xót xa.

Những câu thơ tiếp điểm qua những biến cố đời Kiều. Những biến cố ấy, Thúy Vân đều chứng kiến, thấu hiểu và cảm thông “khi gặp gỡ chàng Kim” và cả “khi sóng gió bất kì”. Tám câu thơ đầu, ngoài lời trao duyên, Thúy Kiều chủ yếu nói về những bất hạnh của mình. Nhưng để trao duyên, Thuý Kiều còn phải chọn những lời lẽ thuyết phục:

Ngày xuân em hãy còn dài,

Xót tình máu mủ thay lời nước non.

Chị dù thịt nát xương mòn,

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.

Đoạn thơ sử dụng nhiều thành ngữ, lời lẽ ý vị, kín đáo, vẹn tình. Người “nhận” có ba lí do để không thể khước từ. Trước hết, không cách nhau nhiều về tuổi tác nhưng phải nhắc đến hai chữ ngày xuân với Kiều sao giờ quá nặng nề. Rõ ràng xét về ngày xuân (hiểu là sự trong trắng tinh khôi) thì giờ đây Thúy Kiều đâu thể xứng đáng với Kim Trọng bằng Thuý Vân. Kiều dù sao cũng mang danh là đã có chồng. Lí do thứ hai lại càng thuyết phục hơn. Kiều đang nhờ Vân một điều mà chẳng ai nhờ vả bao giờ. Đã khó nhờ, khó nhận thì vả chăng chỉ có là tình chị em máu mủ mới dễ đồng cảm, để rồi “chấp nhận” cho nhau. Lí do thứ ba nghe sao như một lời khẩn cầu đầy chua xót:

Chị dù thịt nát xương mòn,

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.

Không hẳn là lí do nhưng lại hoàn toàn hợp lí. Câu thơ khẩn cầu như một lời trăng trối. Và có ai lại đang tâm từ chối ước nguyện của người thân sắp phải thuộc về hoàn cảnh bấp bênh, khôn lường bất trắc? Người ta nói Nguyễn Du là người sâu sắc nước đời là ở những chỗ như vậy.

Duyên đã được trao, người “nhận” cũng không có lí do gì để từ chối. Thuý Kiều trao kỉ vật cho em:

Chiếc vành với bức tờ mây,

Duyên này thì giữ, vật này của chung.

Thúy Kiều mất bao công sức để thuyết phục Thúy Vân nhưng chính lúc Thúy Vân chấp nhận thì cũng là lúc Thúy Kiều bắt đầu chới với để cố níu mình lại với tình yêu. Duyên đã khó trao, tình làm sao trao được? Tìm về với những kỉ vật thiêng liêng (chiếc vành, bức tờ mây, mảnh hương nguyền) cũng là để được về với tình yêu của nàng. Những kỉ vật đẹp đẽ đó gắn liền với những ngày đẹp nhất đời Kiều. Nó thiêng liêng khi nó chỉ là của riêng nàng và Kim Trọng. Tình yêu không có người thứ ba, khi có người thứ ba, sự thiêng liêng bắt đầu đổ vỡ. Câu thơ “Duyên này thì giữ vật này của chung” thể hiện tâm trạng của Kiều xiết bao đau đớn. Tình yêu và niềm tin đối với Thúy Kiều giờ đây đã hoàn toàn trượt mất.

Cố níu kéo tình yêu bằng kỉ vật (dù chỉ trong tâm tưởng), Thúy Kiều đành ngậm ngùi đau xót nghĩ về tương lai:

Mai sau dù có bao giờ,

Đốt lò hương ấy so tơ phím này.

Trông ra ngọn cỏ lá cây,

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.

Thúy Kiều như chìm trong tê dại, mê man trong cảm giác xót xa. Nhưng ngay trong lúc tưởng chừng như đã hoàn toàn cách biệt âm dương thì lời thề vàng đá của Kiều vẫn không hề thay đổi:

Hồn còn mang nặng lời thề,

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.

Tìm về tình yêu bằng cảm giác từ cõi tâm linh, Thúy Kiều vẫn không quên nghĩ về sự tủi hổ, bất hạnh của mình:

Dạ đài cách mặt khuất lời,

Rưới xin chén nước cho người thác oan.

Đoạn thơ cuối là cảm giác trở về của Thúy Kiều từ cõi hư không. Thời gian không còn là thời gian tâm trạng, nó là thời gian khách thể. Trở về với hiện thực, Thúy Kiều xót xa chấp nhận sự phũ phàng của định mệnh, chấp nhận “trâm gãy gương tan”, “tơ duyên ngắn ngủi”, “phận bạc như vôi”. Đoạn thơ dùng nhiều thành ngữ để nói tới cái “nhất thành bất biến” không thể thay đổi, chuyển dời. Ý thức về hiện tại, Kiều chỉ còn biết thương mình, oán hờn số phận. Ngay trong lúc tưởng chừng Kiều sẽ buông xuôi thì suy nghĩ của nhân vật lại rẽ sang hướng khác:

Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!

Câu thơ thực chất là tiếng kêu thảng thốt, là tiếng nấc nghẹn ngào của người con gái đã hoàn toàn tuyệt vọng. Thúy Kiều sau đó xa cách Kim Trọng mười lăm năm nhưng trong mười lăm năm ấy không lúc nào nàng nguôi nhớ đến mối tình đầu. Song có lẽ không cần phải đợi đến mười lăm năm. Ngay trong ngày phải đau đớn “trao duyên”, người đọc có thể thấy tình yêu trong lòng người con gái ấy không gì có thể chia cắt nổi.

Đoạn trích Trao duyên đã hoàn toàn bộc lộ được nỗi đau, tình yêu và số phận bi kịch của Kiều. Qua nghệ thuật miêu tả nội tâm tài tình của Nguyễn Du, nỗi đau và vẻ đẹp tâm hồn của nàng Kiều - người con gái tài sắc, tình nghĩa vẹn toàn - đã được thể hiện một cách tinh tế và tỏa sáng lấp lánh.

Thuyết minh đoạn trích Trao duyên mẫu số 5

Tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng đang tươi đẹp, nồng nàn thì Kim Trọng phải về Liêu Dương chịu tang chú. Trong khi đó tai họa đổ ập xuống gia đình Thúy Kiều. Của cải bị bọn sai nha vét sạch. Cha và em trai Thúy Kiều bị bắt, bị đánh. Bọn quan lại đòi đút lót “có ba trăm lạng việc này mới xuôi”. Trước biến cố đau lòng đó, một người giàu tình cảm, giàu đức hi sinh như Thúy Kiều không còn cách nào khác là phải bán mình lấy tiền cứu cha và em. Nhưng còn mối tình với Kim Trọng? Thúy Kiều hết sức đau khổ. Cuối cùng nàng quyết định nhờ em thay mình lấy Kim Trọng. Đoạn “Trao duyên” trong “Truyện Kiều” rất cảm động. Có lẽ đây là cảnh tượng đau lòng chưa từng thấy trong nền văn học nhân loại.

Dựa vào cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Nguyễn Du đã dựng lại chi tiết trao duyên thật sống động. “Thúy Vân chợt tỉnh giấc xuân” thì thấy chị mình đang thổn thức giữa đêm khuya. Vân ghé đến ân cần hỏi han. Thúy Kiều thật là khó nói, nhưng “để lòng thì phụ tấm lòng với ai”. Thương cha, nàng bán mình, thương người tình, nàng đành cậy em:

“Cậy em, em có chịu lời,

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa,

Giữa đường đứt gánh tương tư,

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”.

Trong đây từ diễn tả khái niệm nhờ, Nguyễn Du đã chọn từ “cậy”, tuyệt vời chính xác. Từ “cậy” hàm chứa niềm tin mà người được nhờ không thể thoái thác được. Lại thêm một cử chỉ thiêng liêng là “lạy”. Thuở đời chị lại lạy sống em bao giờ, mà chỉ để trao duyên. Mối tình với chàng Kim sâu nặng biết chừng nào, thiêng liêng biết chừng nào! Trong nước mắt, giữa đêm khuya, Thúy Kiều đã kể lể sự tình cho cô em nghe:

“Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề

Sự đâu sóng gió bất kì

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”.

Thúy Kiều đã kể nhanh những sự kiện mà Thúy Vân cũng đã chứng kiến, chuyện gặp chàng Kim trong buổi chiều thanh minh, chuyện thề nguyền hẹn ước với Kim Trọng, chuyện sóng gió của gia đình. Nhưng có một chi tiết mà một người giản đơn như Thúy Vân không bao giờ biết được:

“Hữu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”.

Qua lời Thúy Kiều, Nguyễn Du đay nghiến cả một xã hội, hiếu - tình là hai giá trị tinh thần không thể đặt lên bàn cân được. Một xã hội bắt con người phải lựa chọn những giá trị không thể lựa chọn được thì xã hội đấy là một xã hội tàn bạo. Thúy Kiều đã cay đắng lựa chọn chữ “hiếu”. Mà chỉ có ba điều tồn tại: “Đức tin, hi vọng và tình yêu, tình yêu vĩ đại hơn cả”. Nghe một bài trong Kinh Thánh như vậy, chúng ta càng thấm thía với nỗi đau của nàng Kiều, cho nên hi sinh chữ tình, nàng Kiều coi như không tồn tại trên cõi đời này nữa. Mỗi lời của nàng không phải là nước mắt mà là máu đang rỉ ra trong lòng.

“Ngày xuân em hãy còn dài

Xót tình máu mủ thay lời nước non

Chị dù thịt nát xương mòn

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”.

Hai chị em đều “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” vậy mà nàng nói “ngày xuân em hãy còn dài” Đau đớn biết chừng nào! Lời lẽ thiêng liêng của nàng là vì lo cho Kim Trọng, mong sao cho chàng Kim có hạnh phúc. Trong tan vỡ, trong đau khổ tuyệt vọng, nàng còn biết lo cho hạnh phúc của người khác, thật là một cô gái có đức hi sinh lớn lao.

Biết là em thuận lòng, nàng trao cho em những kỉ vật giữa nàng và chàng Kim:

“Chiếc vành với bức tờ mây

Duyên này thì giữ, vật này của chung".

Tình cảm dẫu sao vẫn còn trừu tượng, chứ kỉ vật của tình yêu thì cứ hiển nhiên hiện ra đó, cho nên Thúy Kiều trao “chiếc vành với bức tờ mây” cho em thì nàng cũng đau đớn đến tột độ. Mỗi lời của nàng nặng như chì. Nàng trao duyên, trao kỉ vật cho em mà nàng uất giận cuộc đời, cái xã hội bắt con người phải chung cả cái không thể chung được thì có đáng nguyền rủa không. Đây chính là lời tố cáo vọng đến thấu trời của Nguyễn Du đối với xã hội đã chà đạp lên hạnh phúc của con người.

Thúy Kiều trao duyên là coi như mình đã khuất. Nàng dặn em giữ gìn kỷ vật và còn dặn em hãy thương lấy linh hồn vật vờ đau khổ của chị trên cõi đời đen bạc này:

“Mai sau dù có bao giờ,

Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.

Trông ra ngọn cỏ lá cây,

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.

Hồn còn mang nặng lời thề,

Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai”.

Thúy Kiều tưởng tượng nàng chỉ còn là bóng ma. Lời lẽ huyền hồ bóng ma nàng sẽ hiện lên trong hương trầm và âm nhạc. Hồn ma còn mang nặng lời thề với Kim Trọng, cho nên dẫu “thịt nát xương mòn” thì hồn nàng vẫn còn quanh quẩn với “ngọn cỏ lá cây”, với “hiu hiu gió...”. Tình của người bạc mệnh vẫn còn làm chấn động cả vũ trụ.

Đau đớn tột cùng trước sự đổ vỡ của tình yêu, nàng quên rằng trước mặt nàng là Thúy Vân mà than khóc với Kim Trọng:

“Trăm nghìn gửi lạy tình quân,

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi

Phận sao phận bạc như vôi!

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”.

Mỗi lời của nàng là một lời vận vào. Trước nỗi đau xót này, nàng chỉ trách mình là “phận bạc”, là “hoa trôi”, những hình ảnh đó làm động lòng thương lên hết thảy chúng ta. Đối với Kim Trọng, nàng còn mặc cảm tội lỗi là chính nàng đã “phụ chàng”. Chính tâm lý mặc cảm tội lỗi cao thượng đó khiến nàng chết ngất trong tiếng kêu thương thấu trời:

“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!

Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Đoạn “Trao duyên” trong “Truyện Kiều” là một khúc “đoạn trường” trong thiên “Đoạn trường tân thanh”. Với con mắt tinh đời, Nguyễn Du đã phát hiện thấy trong truyện của Thanh Tâm Tài Nhân một tình tiết rất cảm động và bằng nghệ thuật tuyệt vời, ông đã dựng lại đoạn “Trao duyên” hết sức sâu sắc và độc đáo. Tác giả đã đối lập hai tính cách của hai chị em một cách tài tình: con người của đời thường và con người của phi thường. Trong sự kiện “sóng gió bất kì” này, Thúy Vân vô tư, hồn nhiên (cũng đừng vội chê trách Thúy Vân. Nhân vật này còn là một kho bí mật trong công trình nghệ thuật kiệt tác của Nguyễn Du mà chúng ta chưa kịp bàn ở đây), còn Thúy Kiều thì đau đớn. Nguyễn Du đã dụng công miêu tả tâm lí, sự vận động nội tâm nhân vật, cũng có thể nói Nguyễn Du đã đạt đến phép biện chứng của tâm hồn. Chỉ qua đoạn “Trao duyên”, chúng ta cũng cảm nhận được Thúy Kiều là một cô gái giàu tình cảm, giàu đức hi sinh, có ý thức về tình yêu và cuộc sống.

Một nhân cách như vậy mà vừa chớm bước vào đời như một bông hoa mới nở đã bị sóng gió dập vùi tan tác. Nói như Mộng Liên Đường chủ nhân: khúc đoạn trường này như có máu rỏ trên đầu ngọn bút của Nguyễn Du, như có nước mắt của thi nhân thấm qua trang giấy. Hơn hai trăm năm rồi, những giọt nước mắt nhân tình ấy vẫn chưa ráo.

-/-

Trên đây là mẫu dàn ý và một số bài văn mẫu thuyết minh đoạn trích Trao duyên do Đọc tài liệu sưu tầm và tổng hợp, các em có thể dựa vào đó kết hợp với những hiểu biết của mình về tác phẩm Truyện Kiều để viết thành một bài thuyết minh hoàn chỉnh. Chúc các em học tốt!

Sưu tầm và tuyển chọn Văn mẫu 11 hay nhất / Đọc Tài Liệu

Bạn còn vấn đề gì băn khoăn?
Vui lòng cung cấp thêm thông tin để chúng tôi giúp bạn
Hủy

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM