Thuyết minh về đoạn trích Chí khí anh hùng

Xuất bản: 22/03/2024 - Tác giả:

Hướng dẫn thuyết minh về đoạn trích Chí khí anh hùng, lập dàn ý và tham khảo 5+ bài văn mẫu thuyết minh giới thiệu nội dung đoạn trích Chí khí anh hùng (trích Truyện Kiều) của Nguyễn Du.

Hướng dẫn làm bài văn thuyết minh đoạn trích Chí khí anh hùng (trích Truyện Kiều) của Nguyễn Du kèm dàn ý chi tiết cùng TOP 5+ bài văn thuyết minh hay giúp em đọc tham khảo trước khi làm bài.

Dàn ý thuyết minh về đoạn trích Chí khí anh hùng

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều.

- Giới thiệu đoạn trích "Chí khí anh hùng": nằm ở phần thứ hai của Truyện Kiều (từ câu 2213 đến câu 2230) miêu tả chí khí anh hùng của Từ Hải qua cuộc đối thoại với Thúy Kiều.

2. Thân bài

a) Giới thiệu chung về đoạn trích

- Ví trí: từ câu 2213 đến 2230 trong tác phẩm Truyện Kiều.

- Tóm tắt nội dung: Cuộc đời Kiều đang bế tắc hoàn toàn vì bị lừa và rơi vào lầu xanh lần thứ hai thì Từ Hải bỗng xuất hiện đưa nàng thoát khỏi cảnh ô nhục. Hai người tâm đầu ý hợp và sống bên nhau rất hạnh phúc. Nhưng Từ Hải không bằng lòng với cuộc sống êm đềm bên cạnh nàng Kiều tài sắc, chàng muốn có sự nghiệp lớn nên sau nửa năm sống bên nhau đã từ biệt Kiều ra đi. Đoạn trích này cuộc đối thoại giữa Từ Hải và Thúy Kiều, cho thấy chí khí trượng phu của Từ Hải.

- Ý nghĩa nhan đề:

+ "Chí": thể hiện ý chí con người hướng đến những việc làm lớn lao.

+ "Khí": là nghị lực để đạt tới mục đích.

=> "Chí khí anh hùng": là lí tưởng, nghị lực và mục đích cao cả của người anh hùng.

b) Giới thiệu và phân tích nội dung đoạn trích

- Khát vọng lên đường của Từ Hải:

+ Hoàn cảnh ra đi: Thúy Kiều và Từ Hải đang có cuộc sống hạnh phúc “hương lửa đương nồng”, tình cảm của hai người đang rất mặn nồng.

+ Lí do ra đi: Từ Hải là người đàn ông có tài năng xuất chúng, đã "động lòng bốn phương", muốn làm nên sự nghiệp lớn, tung hoành bốn phương, dứt khoát mau lẹ lên đường thẳng rong, hiên ngang, không vướng bận.

=> Từ Hải không phải là con người của những đam mê thông thường mà là con người của khát vọng công danh.

=> Cảm hứng vũ trụ, ngợi ca người anh hùng Từ Hải - con người mang hoài bão lớn lao.

- Cuộc đối thoại giữa Từ Hải và Thúy Kiều:

+ Lời của Thúy Kiều

  • Xưng hô: chàng – thiếp -> Tình cảm vợ chồng mặn nồng, thắm thiết.
  • Phận gái chữ tòng: bổn phận của người vợ phải theo chồng.
  • Một lòng xin đi: quyết tâm theo Từ Hải.

=> Thúy Kiều không chỉ ý thức được bổn phận của một người vợ, thể hiện tình yêu với chồng mà còn hiểu, khâm phục và kính trọng chồng, xứng đáng là tri kỉ của bậc anh hùng.

+ Lời của Từ Hải

  • Lời đáp của Từ Hải: từ chối mong muốn của Thúy Kiều xin đi theo, khuyên Kiều hãy vượt lên tình cảm thông thường để xứng đáng làm vợ anh hùng, coi Kiều là tri kỉ, là người hiểu mình -> Tính cách anh hùng của Từ Hải.

+ Lời hứa của Từ Hải

  • Rõ mặt phi thường: tạo nên sự nghiệp xuất chúng, phi thường -> Niềm tin vào bản thân, vào sự nghiệp của mình.
  • Rước nàng về dinh: hứa đón Kiều trở về. -> Người anh hùng có chí khí, có sự thống nhất giữa lí trí, khát vọng phi thường và tình cảm sâu nặng với tri kỉ.
  • Bốn bể không nhà: khẳng định thực tế gian nan, vất vả, khó khăn của buổi đầu lập nghiệp.
  • Lời hẹn ”một năm”: mốc thời gian cụ thể, nhanh chóng.

-> Lời hẹn ước dứt khoát, ngắn gọn, tự tin.

=> Từ Hải không chỉ là người anh hùng có khát vọng, có chí lớn mà còn là người rất tự tin vào tài năng của mình

- Hành động ra đi dứt khoát của Từ Hải:

+ Thái độ, cử chỉ: Kiên quyết, dứt khoát, không chần chừ, do dự, không để tình cảm yếu đuối lung lạc, cản bước.

+ Hình ảnh chim bằng: ẩn dụ tượng trưng cho người anh hùng có lí tưởng cao đẹp, phi phàm, mang tầm vóc vũ trụ.

-> Khẳng định quyết tâm và tự tin vào thành công, lí tưởng của một kẻ anh hùng khao khát lập nên một sự nghiệp có ý nghĩa.

=> Từ Hải là một con người khí chất hơn người, hoài bão lớn lao và niềm tin sắt đá vào tài năng của chính mình.

c) Đánh giá giá trị nội dung và nghệ thuật

- Giá trị nội dung

+ Ca ngợi chí làm trai, chí tang bồng của “kẻ sĩ quân tử”, bậc “đại trượng phu”

+ Nguyễn Du đã gửi gắm lý tưởng anh hùng của mình vào nhân vật Từ Hải, lí tưởng hóa người anh hùng mang tầm vóc vũ trụ cứu giúp đời.

+ Là ước mơ lãng mạn của đời ông, cũng là của những con người bị áp bức trong xã hội xưa.

- Giá trị nghệ thuật

+ Hình ảnh ước lệ kết hợp với cảm hứng vũ trụ để hình dung về khao khát làm nên sự nghiệp lớn của Từ Hải.

+ Nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật thông qua lời nói và hành động, cách đối thoại trực tiếp bộc lộ tính cách tự tin, đầy bản lĩnh, ý chí của một trang nam tử, một đại hảo hản xưa nay hiếm gặp của Từ Hải.

3. Kết bài

- Khẳng định lại giá trị của đoạn trích: Qua hình tượng nhân vật Từ Hải, Nguyễn Du thể hiện quan niệm về người anh hùng lí tưởng và gửi gắm ước mơ công lý.

TOP 5+ bài văn mẫu thuyết minh về đoạn trích Chí khí anh hùng

Thuyết minh đoạn trích Chí khí anh hùng mẫu số 1

Nếu Kim Trọng là một người thư sinh đèn sách hiếu học thì Từ Hải là một người anh hùng với khí phách hiên ngang. Chính Từ Hải đã giải cứu Thúy Kiều khi nàng rơi vào lầu xanh ô nhục lần thứ hai. Họ chung sống hạnh phúc bên nhau nhưng do Từ Hải nung nấu ý chí lập công danh nên đã quyết định từ biệt Thúy Kiều ra đi. Khí phách anh hùng cùng ý chí quyết tâm ấy của Từ Hải được thể hiện rõ nét qua đoạn trích "Chí khí anh hùng" trong tác phẩm "Truyện Kiều" của đại thi hào Nguyễn Du.

Nằm ở vị trí từ câu 2213 đến câu 2230 của Truyện Kiều, đoạn trích Chí khí anh hùng thể hiện lí tưởng về người anh hùng của tác giả. Bốn câu thơ đầu của đoạn trích đã thể hiện khát vọng lên đường vì sự nghiệp của Từ Hải:

"Nửa năm hương lửa đương nồng

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương

Trông vời trời bể mênh mang

Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong".

Trong lúc tình yêu và hạnh phúc vợ chồng đang nồng đượm, yên ấm, Từ Hải quyết chí ra đi, rời xa người vợ tài sắc để thực hiện lí tưởng nam nhi của mình. Nam nhi trong xã hội xưa muốn được công nhận thì phải có công danh, sự nghiệp, có được những công trạng lớn lao. Chẳng vậy mà Nguyễn Công Trứ từng viết:

"Chí làm trai nam bắc tây đông,

Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể".

Từ Hải là một đấng nam nhi muốn "vẫy vùng" nên đã "động lòng bốn phương". Chàng là người có ý chí lập công danh, sự nghiệp lớn. Động từ "thoắt" vừa thể hiện một trạng thái nhanh chóng vừa thể hiện sự dứt khoát, kiên quyết của Từ Hải. Tác giả Nguyễn Du đã đặt người anh hùng vào tình thế khó xử khi một bên là hạnh phúc vợ chồng chốn khuê phòng như một cám dỗ còn một bên là không gian rộng lớn thỏa sức thể hiện tráng trí bốn phương. Không làm bạn đọc thất vọng, bậc trượng phu ấy đã lựa chọn con đường theo đuổi hoài bão, lí tưởng cuộc đời mình. Nguyễn Du đã thể hiện sự trân trọng nhân vật Từ Hải khi gọi chàng là "trượng phu" - người nam nhi có chí lớn, là bậc anh hùng trong thiên hạ. Dù cuộc sống vợ chồng còn nhiều lưu luyến, vẻ đẹp khiến "hoa ghen", "liễu hờn" của người vợ Thúy Kiều còn níu bước chân người anh hùng nhưng Từ Hải vẫn quyết lên đường chinh chiến để thực hiện khát vọng "vẫy vùng trong bốn bể" mà không một chút do dự, phân vân. Một con người "Dọc ngang nào biết trên đầu có ai" như Từ Hải muốn thỏa sức tung hoành khắp thiên hạ cũng là điều dễ hiểu. Hình ảnh Từ Hải ra đi một mạch cùng thanh gươm trên yên ngựa trong cõi "trời bể mênh mang" thật oai phong, lẫm liệt. Những hạnh phúc cá nhân riêng tư không thể làm chùn bước chân của người anh hùng. Từ Hải "không phải là người một nhà, một họ, một xóm, một làng, mà là người của trời đất, của bốn phương" (Hoài Thanh). Chàng đối diện với trời đất, vũ trụ bằng một tâm thế đầy chủ động.

Cuộc chia ly nào cũng gắn với nỗi buồn, những giọt nước mắt và cuộc chia ly của Thúy Kiều - Kim Trọng cũng không ngoại lệ:

"Nàng rằng: Phận gái chữ tòng

Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi"

Nho giáo đã quy định người phụ nữ phải tuân theo luật "tam tòng": ở nhà theo cha, xuất giá theo chồng, chồng chết theo con. Thúy Kiều đã khéo léo nhắc đến luật lệ của đạo Nho để xin đi theo chồng. Trong lúc "hương lửa đương nồng", nàng không muốn phải chịu cảnh xa cách, chia lìa với Từ Hải - một người chồng nhưng đồng thời cũng là một người ân nhân cứu mạng Kiều thoát khỏi chốn lầu xanh. Nàng muốn được theo chồng, muốn nâng khăn sửa túi và cùng chồng sẻ chia những khó khăn trong cuộc đời. Mong muốn ấy vô cùng chính đáng bởi lẽ nữ nhi lấy chồng thì phải theo chồng. Dù phải chịu những vất vả, gian nan thì Kiều cũng nguyện một lòng ở bên Từ Hải. Nhưng với nghĩa khí của một bậc quân tử, Từ Hải đã đáp lại rằng:

"Từ rằng: Tâm phúc tương tri

Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?

Bao giờ mười vạn tinh binh

Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.

Làm cho rõ mặt phi thường

Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia"

Hai người đã hiểu rõ lòng dạ của nhau đến mức sâu sắc vậy tại sao Kiều vẫn "chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình". Đó là lời trách cứ Thúy Kiều tuy là tri âm tri kỉ mà tại sao lại không thấu hiểu cho hành động của Từ Hải. Đồng thời đó cũng là lời động viên, khuyên nhủ Thúy Kiều vượt qua những trắc trở trước mắt để hướng về tương lai tốt đẹp sau này và mong muốn nàng đừng quá lo lắng cho mình. Từ Hải thuyết phục, hứa hẹn với Thúy Kiều bằng tình cảm chân thành, sâu nặng. Từ Hải ra đi lập sự nghiệp, công danh đến khi trở thành một con người xuất chúng, phi thường và nắm giữ trong tay "mười vạn tinh binh"thì chàng sẽ quay trở về rước Kiều "nghi gia" bằng những hình thức lễ nghi trang trọng. Vợ chồng đoàn tụ trong âm thanh rộn rã của "tiếng chiêng dậy đất" và khung cảnh ngập tràn bóng cờ trên các con đường.

Để từ chối khéo léo mong muốn của Thúy Kiều, Từ Hải đã sử dụng những lời lẽ đầy sức thuyết phục:

"Bằng nay bốn bể không nhà

Theo càng thêm bận biết là đi đâu?

Đành lòng chờ đó ít lâu

Chầy chăng là một năm sau vội gì!"

Chàng từ chối mong muốn của Thúy Kiều là vì nàng sẽ làm bận lòng mình hay thật tâm chàng không muốn người vợ của mình phải chịu những khổ cực, vất vả? Đối với đấng nam nhi, việc coi bốn bể là nhà là lẽ thường tình nhưng đối với phận nữ nhi như Thúy Kiều thì việc đó không hề dễ dàng và rất khó thích nghi. Có lẽ vì những lí do trên mà Từ Hải khuyên Kiều "đành lòng" chờ đợi ngày chàng thành công trở về. Một năm chờ đợi không phải thời gian quá dài nhưng nó lại thể hiện chí khí, lòng quyết tâm cao độ của người anh hùng Từ Hải. Việc gây dựng sự nghiệp, công danh không phải là chuyện ngày một ngày hai mà đó còn là chuyện của cả đời người nhưng Từ Hải lại hứa với Thúy Kiều sẽ đạt được công danh sau một năm nữa. Phải là người có quyết tâm cao độ, tin vào khả năng của bản thân thì mới có lời hứa như vậy.

Nếu cuộc chia tay của đôi vợ chồng trong "Chinh phụ ngâm" được Đặng Trần Côn miêu tả:

"Nhủ rồi tay lại cầm tay

Bước đi một bước giây giây lại dừng"

thì cuộc chia tay của Từ Hải và Thúy Kiều trong đoạn trích "Chí khí anh hùng" được Nguyễn Du miêu tả với sự dứt khoát:

"Quyết lời dứt áo ra đi

Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi".

Người xưa có câu anh hùng khó qua ải mĩ nhân nhưng với khát vọng lớn lao của con người đầu đội trời chân đạp đất thì ải mĩ nhân không làm khó được Từ Hải. Hành động "dứt áo ra đi" của chàng thể hiện thái độ dứt khoát, không chút tơ vương, vướng bận chuyện cá nhân. Theo truyện ngụ ngôn trong sách Trang Tử, "chim bằng là giống chim rất lớn, đập cánh làm động nước trong ba ngàn dặm, cưỡi gió mà bay lên chín ngàn dặm. Chim bằng trong thơ văn thường tượng trưng cho khát vọng của người anh hùng có bản lĩnh phi thường, khát khao làm nên sự nghiệp lớn". Tư thế ra đi của Từ Hải được thể hiện qua hình ảnh ẩn dụ chim bằng thật oai phong và có sức mạnh phi thường. Đó là cái nhìn thể hiện tâm hồn lãng mạn của một nhà thơ trung đại.

"Chí khí anh hùng" đã miêu tả cuộc chia ly giữa "trai anh hùng" và "gái thuyền quyên" đầy dứt khoát nhưng nổi bật lên trong đoạn trích là chí khí của người anh hùng Từ Hải. Đó là tính cách hiên ngang, ngay thẳng của bậc "trượng phu" trong thiên hạ. Nhân vật này được Nguyễn Du xây dựng bằng bút pháp ước lệ tượng trưng cùng với ngôn ngữ hàm súc, mang tính biểu đạt cao. Đây cũng là yếu tố góp phần tạo nên sự thành công trong nghệ thuật khắc họa nhân vật của tác giả. Từ Hải xứng đáng là bậc nam nhi "vẫy vùng trong bốn bể", không vì "hương lửa đương nồng" mà chùn chân, nhụt chí.

Thuyết minh đoạn trích Chí khí anh hùng mẫu số 2

Tố Hữu đã từng dành những lời ngợi ca sâu sắc nhất cho một nhà đại thi sĩ rằng:

“Tiếng thơ ai động đất trời

Nghe như non nước vọng lời ngàn thu”

Người đó không ai khác chính là Nguyễn Du cùng với kiệt tác Truyện Kiều. Mỗi một đoạn, mỗi câu thơ trong Truyện Kiều đều là “lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu” mà thi gia dầy công chắp bút. Ở đó, ẩn sau số phận cuộc đời mỗi nhân vật đã được nhà đại thi hào của dân tộc chúng ta gửi gắm biết bao giá trị nhân đạo, nhân văn sâu sắc. Và trong số những trích đoạn của “Truyện Kiều”, đoạn trích “Chí khí anh hùng” chính là một trong những minh chứng tiêu biểu nhất với sự phản ánh chân thực giấc mơ tự do công lí , khát vọng làm nên sự nghiệp lớn của người anh hùng…

Đoạn trích “Chí khí anh hùng” nằm ở phần hai: Gia biến và lưu lạc, từ câu 2213 đến câu 2230. Lúc ấy, khi mà Thúy Kiều đang tuyệt vọng, chìm đắm trong cuộc sống đau khổ, ê chề nơi lầu xanh thì Từ Hải đã xuất hiện và cứu nàng ra khỏi chốn tửu sắc đầy thị phi ấy. Nhờ có Từ Hải, Thúy Kiều được báo ân báo oán, được hưởng hạnh phúc vợ chồng như những người phụ nữ bình thường khác. Nhưng tình yêu giữa Thúy Kiều và Từ Hải vẫn không thể nào che khuất đi ước mơ gây dựng một sự nghiệp lớn lao ở con người này. Đó chính là lí do mà khi mối tình của họ vừa chớm nở được “nửa năm” thì Từ Hải đã tiếp tục lên đường với khát khao cháy bỏng gây dựng sự nghiệp của mình. Đoạn trích “Chí khí anh hùng” chính là miêu tả cảnh Từ Hải từ biệt Thúy Kiều để ra đi.

Khác với Thanh Tâm Tài Nhân trong “Kim Vân Kiều truyện” chỉ thuật lại trong đôi ba dòng ngắn ngủi “Từ Hải sắm một căn nhà ở với Kiều được năm tháng rồi từ biệt ra đi” thì Nguyễn Du với ngòi bút xuất chúng của mình đã dựng nên một cảnh li biệt giữa đôi trai gái để hoàn thiện giấc mộng anh hùng “đầu đội trời, chân đạp đất” lớn nhất của cuộc đời mình. Bốn câu thơ đầu khắc họa thật đậm, thật rõ nét hình ảnh của Từ Hải trước lúc lên đường:

“Nửa năm hương lửa đương nồng,

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.

Trông vời trời bể mênh mang,

Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”

Nửa năm chính là khoảng thời gian Kiều và Từ Hải chung sống hạnh phúc bên nhau. Nguyễn Du đã làm khó bậc anh hùng ấy khi đặt chàng trong hai khoảng không gian đối lập: Một bên là không gian khuê phòng “hương lửa đương nồng” với cuộc sống vợ chồng đằm thắm mặn nồng, có thể níu kéo bất kì một người đàn ông nào. Trái lại, một bên là không gian vũ trụ bao la có sức vẫy gọi mãnh liệt. Từ Hải được đặt trong hoàn cảnh thử thách chí lớn, khi chàng phải lên đường giữa lúc hạnh phúc gia đình trọn vẹn, viên mãn. Đường đường là đấng “trượng phu” - một người đàn ông có hoài bão chí lớn, chàng không một chút níu kéo giằng xé hay do dự mà khẳng khái đưa ra quyết định của chính mình. Những từ ngữ, hình ảnh: “thoắt”, “động lòng bốn phương” đã thể hiện một quyết định nhanh chóng, dứt khoát, bừng lên cái chí anh hùng giữa trời bể mênh mông của Từ Hải. Cái ánh mắt trông vào “trời bể mênh mang” là ánh nhìn hướng đến một khoảng không gian xa hơn rộng hơn nơi mà bậc hào kiệt thỏa chí vẫy vùng với những đam mê, lí tưởng.

Hình ảnh “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” không chỉ tái hiện hình ảnh con người mạnh mẽ, hào hùng đặt trên nền kì vĩ của không gian mà còn vẽ lên tư thế tự tin, ngạo nghễ, hiên ngang với thái độ mạnh mẽ, dứt khoát quyết tâm làm nên sự nghiệp lớn của người anh hùng mang hùng tâm tráng chí. Bốn câu thơ đầu thể hiện một khát vọng thực hiện chí lớn của chàng anh hùng họ Từ. Khát vọng ấy không những được đặt trong một bối cảnh đặc biệt để thấy một Từ Hải không quyến luyến, bịn rịn, không vì tình yêu mà quên đi lí tưởng cao cả; mà còn được đặt trong một không gian vũ trụ rộng lớn để tôn lên tầm vóc người anh hùng.

Lẽ thường, cuộc chia tay nào cũng đầy nước mắt, cũng đọng những dùng dằng chẳng nỡ của kẻ ở với người đi. Với Từ và Kiều cũng không phải là ngoại lệ. Nàng không muốn một thân một mình, giường đơn gối chiếc trong căn nhà lạnh lẽo, nàng một mực muốn được sẻ chia, được gánh vác sự nghiệp với Từ Hải. Lời lẽ nghe sao mà tha thiết thế:

“Nàng rằng: “Phận gái chữ tòng,

Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”

Nho giáo đã viết, phận nữ nhi: “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Kiều một lòng xin đi theo âu cũng là hợp tình hợp lí với đạo Nho truyền thống. Hơn nữa, trong hoàn cảnh của Thúy Kiều lúc này, Từ Hải chính là điểm tựa tinh thần duy nhất. Từ đã dang tay cứu vớt cuộc đời Kiều, cho Thúy Kiều những ngày tháng hạnh phúc nên theo quy luật tâm lý thông thường, Kiều luôn muốn gắn mình với Từ Hải. Đó là tình yêu, là sự cảm thông, là đức hi sinh thủy chung son sắt với chồng của nàng Kiều. Ấy thế nhưng, trái với những mong mỏi của nàng, Từ ngay lập tức đáp lại:

“Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,

Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?”

Bằng một câu hỏi tu từ, Từ Hải như vừa trách vừa khuyên Kiều không cần phải sống theo đạo tam tòng cổ hủ của đời xưa, mong vợ mình vượt lên khỏi cái suy nghĩ đó để là người sánh vai với đấng anh hùng như chàng. Từ Hải đã từ chối khéo léo để Kiều hiểu ra vấn đề, từ đó thấy được sự thấu hiểu sâu sắc của chàng đối với vợ mình, khẳng định tình cảm giữa hai người là tri âm tri kỉ chứ không phải tình yêu đơn thuần. Hơn thế nữa, Từ Hải còn vẽ ra viễn cảnh tương lai qua trí tưởng tượng và sự tự tin ngạo nghễ của người anh hùng:

“Bao giờ mười vạn tinh binh,

Tiếng chuông dậy đất, bóng tinh rợp đường.

Làm cho rõ mặt phi thường,

Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.”

Bút pháp ước lệ tượng trưng cùng những hình ảnh, âm thanh được phóng đại: “mười vạn tinh binh”, “tiếng chiêng dậy đất”, “bóng tinh” và biện pháp hoán dụ “mặt phi thường”,… tất cả đã khắc họa lên sự kì vĩ, hùng tráng, vang dội của những chiến công sánh vai với chân dung của người anh hùng tài năng xuất chúng. Có thể thấy, Từ Hải ở thực tại nhưng dường như đang sống ở những ngày chiến thắng. Mục đích của chàng là để khẳng định danh tiếng của bản thân giữa đời và hơn hết, Từ Hải muốn có sự nghiệp để đón rước Kiều về làm vợ với nghi lễ trang trọng nhất: “rước nàng nghi gia”. Đó là chí khí anh hùng gắn liền với tình yêu thương, coi trọng Kiều. Tuy nhiên, mặc dù cứng rắn như vậy nhưng chàng vẫn kín đáo thể hiện sự quan tâm, lo lắng của mình dành cho Thúy Kiều:

“Bằng nay bốn bể không nhà,

Theo càng thêm bận, biết là đi đâu?

Đành lòng chờ đó ít lâu,

Chầy chăng là một năm sau vội gì!”

Biết trước rằng con đường mình đi “bốn bể không nhà”, có khi màn trời chiếu đất nhưng chàng vẫn quyết tâm đi và dùng nó làm lý do để khuyên Kiều ở nhà. Chàng mong vợ thấu hiểu, cảm thông cho nỗi khổ tâm của mình cũng chính là của người anh hùng khi sự nghiệp vừa bắt đầu còn nhiều khó khăn, gian khổ. Sau những lời lẽ đầy quan tâm ấy là lời hứa hẹn ước một năm sẽ thực hiện giấc mộng công danh của Từ Hải. Điều đó cho thấy, Từ Hải không chỉ có khát vọng, hoài bão mà còn có quyết tâm với ý chí, nghị lực phi thường. Thông qua cuộc đối thoại giữa Thúy Kiều và Từ Hải, Nguyễn Du đã thể hiện quan niệm về người anh hùng là sự thống nhất giữa một con người đời thường giản dị với một đấng trượng phu đầy quyết tâm hoài bão. Từ Hải không chỉ mang khát vọng lớn lao mà còn rất mực tâm lý, vừa yêu, hiểu lại trân trọng Thúy Kiều.

Đoạn trích kết lại với hai câu thơ gây ấn tượng sâu đậm bởi hình ảnh ước lệ:

“Quyết lời dứt áo ra đi,

Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.”

Nhịp thơ 2-2-2 cùng với các động từ mạnh liên tiếp: “quyết”, “dứt”, “ra đi” đã miêu tả sự dứt khoát, mạnh mẽ của Từ Hải. Từ Hải không một chút băn khoăn, do dự, đắn đo mà luôn mạnh mẽ, dứt khoát trong mọi hoàn cảnh. Sử dụng điển tích điển cố “chim bằng” cùng với hình ảnh ẩn dụ, Nguyễn Du đã càng tô đậm sự kì vĩ, phi thường, tư thế lồng lộng của Từ Hải giữa vô cùng của tự nhiên. Nguyễn Du dường như đã lựa chọn những hình ảnh đẹp đẽ nhất để miêu tả và tôn vinh Từ Hải bằng cái nhìn lạc quan, bay bổng của mình.

Qua ngòi bút của Nguyễn Du, “Chí khí anh hùng” đã được vẽ lên bằng bút pháp ước lệ tượng trưng, với hình ảnh “bốn bể”, “chim bằng”… lấy cái bao la, rộng lớn của vũ trụ để hình dung về khao khát làm nên sự nghiệp lớn của Từ Hải. Mặt khác, ông còn thổi hồn vào tác phẩm của mình những cảm hứng sáng tạo lãng mạn, chính là tình cảm, là tình yêu thương, là tấm chân tình của Từ Hải và Thúy Kiều dành trọn cho nhau bằng niềm tin tưởng vào tương lai. Từ Hải và Thúy Kiều không chỉ là tình yêu đôi lứa, mà nó đã trở thành “tâm phúc tương tri”, hiểu nhau sâu sắc, nàng hiểu ta cũng như ta hiểu nàng. Không những thế, tác giả Nguyễn Du đã cho thấy sự tinh tế, tài tình của mình khi lí tưởng hóa hình ảnh người anh hùng mang tầm vóc vũ trụ cứu giúp đời Từ Hải - một đấng trượng phu có lí tưởng cao cả nhưng vẫn rất bình dị, và là biểu tượng của khát vọng tự do, của tư tưởng nhân văn cao đẹp. Và từ đó, ông gửi gắm trọn vẹn giấc mơ công lí, khát vọng tự do trong cuộc sống, gửi gắm giấc mơ của mình vào hình tượng người anh hùng Từ Hải nói riêng và đoạn trích “Chí khí anh hùng” nói chung.

Như vậy, qua đoạn trích “Chí khí anh hùng”, đại thi hào Nguyễn Du đã khắc họa thành công hình tượng người anh hùng với khát vọng lớn lao vùng vẫy “bốn bể năm châu” cùng ý chí sắt đá, tư thế hiên ngang, lẫm liệt làm chủ vũ trụ. Nhờ đó mà dưới ngòi bút của Nguyễn Du, nhân vật luôn có một sức sống đậm sâu trong lòng bạn đọc muôn đời.

Thuyết minh đoạn trích Chí khí anh hùng mẫu số 3

“Tiếng thơ ai động đất trời

Nghe như non nước vọng lời ngàn thu”

Đó là những lời ngợi ca sâu sắc nhất mà Tố Hữu dành cho một nhà đại thi sĩ. Người đó không ai khác chính là Nguyễn Du cùng với kiệt tác Truyện Kiều. Mỗi một đoạn, mỗi câu thơ trong Truyện Kiều đều là “lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu” mà thi gia dầy công chắp bút. Ở đó, ẩn sau số phận cuộc đời mỗi nhân vật đã được nhà đại thi hào của dân tộc chúng ta gửi gắm biết bao giá trị nhân đạo, nhân văn sâu sắc. Và trong số những trích đoạn của “Truyện Kiều”, đoạn trích “Chí khí anh hùng” chính là một trong những minh chứng tiêu biểu nhất với sự phản ánh chân thực giấc mơ tự do công lí, khát vọng làm nên sự nghiệp lớn của người anh hùng…

Đoạn trích Chí khí anh hùng từ câu 2213 đến câu 2230 trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, nói về Từ Hải, một hình tượng nhân vật lí tưởng thể hiện ước mơ lãng mạn về một người anh hùng có những phẩm chất, phi thường.

Rơi vào lầu xanh lần thứ hai, Thúy Kiều luôn sống trong tâm trạng chán chường, tuyệt vọng:

Biết thân chạy chẳng khỏi trời,

Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh.

Thế rồi Từ Hải đột nhiên xuất hiện. Từ Hải tìm đến với Thúy Kiều như tìm đến với tri âm, tri kĩ. Trong vũng lầy nhơ nhớp của chốn lầu xanh, Từ Hải đã tinh tường nhận ra phẩm chất cao quý của Thúy Kiều và với con mắt tinh đời, ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên Kiều đã thầm khẳng định Từ Hải là người duy nhất có thể tát cạn bể oan cho mình. Nàng khiêm nhường bày tỏ:

Rộng thương cỏ nội hoa hèn,

Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau

Hai người, một là gái giang hồ, một đang làm “giặc”, đều thuộc hạng người bị xã hội phong kiến khinh rẻ nhất, đã đến với nhau tâm đầu ý hợp trong một mối tình tri kỉ. Từ Hải đánh giá Kiều rất cao, còn Kiều nhận ra Từ là đấng anh hùng. Nhưng tình yêu không thể giữ chân Từ Hải được lâu. Đã đến lúc Từ Hải ra đi để tiếp tục tạo lập sự nghiệp. Đoạn trích này cho thấy một Từ Hải đầy chí khí anh hùng, mà cũng đượm chút cô đơn, trống trải giữa đời.

Trước sau đối với Từ Hải, Nguyễn Du vẫn dành cho chàng thái độ trân trọng và kính phục, ở chàng, nhất cử nhất động đều thể hiện rõ chí khí, cốt cách anh hùng. Trên con đường tạo dựng nghiệp lớn, cuộc hôn nhân bất ngờ giữa chàng với Thúy Kiều chỉ là phút chốc nghỉ ngơi, chứ không phải là điểm âm, tri kỉ và cuộc hôn nhân của họ đang hạnh phúc hơn bao giờ hết. Ấy vậy mà, chỉ mới sáu tháng vui hưởng hạnh phúc bên Thúy Kiều, Từ Hải đã lại động lòng bốn phương, dứt khoát lên đường, tiếp tục sự nghiệp lớn lao đang còn dang dở:

Nửa năm hương lửa đương nồng,

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.

Trông vời trời bể mênh mang,

Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.

Từ Hải được tác giả miêu tả là con người đa tình, nhưng trước hết Từ Hải là một tráng sĩ, một người có chí khí mạnh mẽ. Chí là mục đích cao cả hướng tới, khí là nghị lực để đạt tới mục đích, ở con người này, khát khao được vẫy vùng giữa trời cao đất rộng như đã trở thành một khát vọng bản năng tự nhiên, không có gì có thể kiềm chế nổi.

Trước lúc gặp gỡ và kết duyên với Thúy Kiều, Từ Hải đã là một anh hùng hảo hán: Dọc ngang nào biết trên đầu có ai, đã từng: Nghênh ngang một cõi biên thùy. Cái chí nguyện lập nên công danh, sự nghiệp ở chàng là rất lớn. Vì thế không có gì cản được bước chân chàng.

Dù Nguyễn Du không nói cụ thể là Từ Hải ra đi làm gì nhưng nếu theo dõi mạch truyện và những câu chàng giải thích để Thúy Kiều an lòng thì người đọc sẽ hiểu cả một sự nghiệp vinh quang đang chờ chàng ở phía trước. Từ Hải không phải là con người của những đam mê thông thường mà là con người của sự nghiệp anh hùng. Đang sống trong cảnh nồng nàn hương lửa. Từ chợt động lòng bốn phương, thế là toàn bộ tâm trí hướng về trời biển mênh mang, và lập tức một minh với thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong. Chữ trượng phu trong Truyện Kiều chỉ xuất hiện một lần dành riêng đã nói về Từ Hải. Điều đó cho thấy Nguyễn Du đã dùng từ Trượng phu với nghĩa Từ Hải là người đàn ông có chí khí lớn. Chữ thoắt thể hiện quyết định nhanh chóng, dứt khoát của chàng. Bốn chữ động lòng bốn phương nói lên được cái ý Từ Hải “không phải là người của một nhà, một họ, một xóm, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương”. (Hoài Thanh).

Động lòng bốn phương là thấy trong lòng náo nức cái chí tung hoành khắp bốn phương trời. Con người phi thường như chàng chẳng thể giam hãm mình trong một không gian chật hẹp. Chàng nghĩ rất nhanh, quyết định lại càng nhanh. Một thanh gươm, một con tuấn mã, chàng hối hả lên đường. Ấy là bởi khát vọng tự do luôn sôi sục trong huyết quản của người anh hùng. Hoài Thanh bình luận: Qua câu thơ, hình ảnh của con người “thanh gươm yên ngựa” tưởng như che đầy cả trời đất”.

Trong cảnh tiễn biệt, tác giả tả hình ảnh Từ Hải: thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong trước rồi mới đế cho Từ Hải và Kiều nói những lời tiễn biệt. Có người cho rằng nếu như vậy thì Thúy Kiều còn nói sao được nữa? Có lẽ tác giả muốn dựng cảnh tiễn biệt này khác hẳn cảnh tiễn biệt giữa Thúy Kiều - Kim Trọng, Thúy Kiều - Thúc Sinh. Từ Hải đã ở tư thế sẵn sàng lên đường. Chàng ngồi trên yên ngựa mà nói những lời tiễn biệt với Thúy Kiều. Sự thật có phải vậy không? Không chắc, nhưng cần phải miêu tả như thế mới biểu hiện được sự quyết đoán và cốt cách phi thường của Từ Hải.

Thúy Kiều biết rõ Từ Hải ra đi sẽ lâm vào tình cảnh bốn bể không nhà, nhưng vẫn khẩn thiết xin được cùng đi, nàng rằng: Phận gái chữ tòng, chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi. Ngắn gọn thế thôi, nhưng quyết tâm thì rất cao. Chữ tòng ở đây không chỉ có nghĩa như trong sách vở thánh hiền của đạo Nho: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu..., mà còn ngụ ý tiếp sức, chia sẻ nhiệm vụ, muốn cùng được gánh vác với chồng.

Lời Từ Hải nói trong lúc tiễn biệt càng thể hiện rõ chí khí anh hùng của nhân vật này:

Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.
Bằng nay bốn bể không nhà,
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!”

Đã là tâm phúc tương tri có nghĩa là hai ta đã hiểu biết lòng dạ nhau sâu sắc, vậy mà sao, dường như nàng chưa thấu tâm can ta, nên chưa thoát khỏi thói nữ nhi thường tình. Lẽ ra, nàng phải tỏ ra cứng cỏi để xứng là phu nhân của một bậc trượng phu. Lí tưởng anh hùng của Từ Hải bộc lộ qua ngôn ngữ mang đậm khẩu khí anh hùng. Khi nói lời chia tay với Thúy Kiều chàng không quyến luyến, bịn rịn vì tình chồng vợ mặn nồng mà quên đi mục đích cao cả. Nếu thực sự quyến luyến, Từ Hải sẽ chấp nhận cho Thúy Kiều đi theo.

Từ Hải là con người có chí khí, khát khao sự nghiệp phi thường nên không thể đắm mình trong chốn buồng the. Đang ở trong cảnh hạnh phúc ngọt ngào, tiếng gọi của sự nghiệp thôi thúc từ bên trong. Từ Hải quyết dứt áo ra đi. Giờ đây, sự nghiệp đối với chàng là trên hết. Đối với Từ Hải, nó chẳng những là ý nghĩa của cuộc sống mà còn là điều kiện để thực hiện những ước ao mà người tri kỉ đã gửi gắm, trông cậy ở chàng. Do vậy mà không có những lời than vãn buồn bã lúc chia tay. Thêm nữa, trong lời trách Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình còn bao hàm ý khuyên Thúy Kiều hãy vượt lên tình cảm thông thường để xứng đáng là vợ của một anh hùng. Cho nên sau này trong nỗi nhớ của Kiều: cánh hồng bay bổng tuyệt vời, đã mòn con mắt phương trời đăm đăm, không chỉ có sự mong chờ, mà còn có cả hi vọng vào thành công và vinh quang trong sự nghiệp của Từ Hải.

Từ Hải là con người rất mực tự tin. Trước đây, chàng đã ngang nhiên xem mình là anh hùng giữa chốn trần ai. Giờ thì chàng tin rằng tất cả sự nghiệp như đã nắm chắc trong tay. Dù xuất phát chỉ với thanh gươm yên ngựa, nhưng Từ Hải đã tin rằng mình sẽ có trong tay mười vạn tinh binh, sẽ trở về trong hào quang chiến thắng Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường, để rõ mặt phi thường với Thúy Kiều, để đem lại vẻ vang cho người phụ nữ mà chàng hết lòng yêu mến và trân trọng. Từ Hải đã khẳng định muộn thì cũng không quá một năm, nhất định sẽ trở về với cả một cơ đồ to lớn.

Không chút vấn vương, bi lụy, không dùng dằng, quyến luyến như trong các cuộc chia tay bình thường khác, Từ Hải có cách chia tay mang đậm dấu ấn anh hùng của riêng mình. Lời chia tay mà cũng là lời hứa chắc như đinh đóng cột; là niềm tin sắt đá vào chiến thắng trong một tương lai rất gần. Hai câu thơ cuối đoạn đã khẳng định thêm quyết tâm ấy:

Quyết lời dứt áo ra đi,

Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.

Nguyễn Du mượn hình ảnh phim bằng (đại bàng) trong văn chương cổ điển, thường tượng trưng cho khát vọng của những người anh hùng có bản lĩnh phi thường, muốn làm nên sự nghiệp lớn lao để chỉ Từ Hải. Cuộc ra đi đột ngột, không báo trước, thái độ dứt khoát lúc chia tay, niềm tin vào thắng lợi... tất cả đều bộc lộ chí khí anh hùng của Từ Hải. Đã đến lúc chim bằng tung cánh bay lên cùng gió mây chín ngàn dặm trên cao.

Hình ảnh: gió mây bằng đã đến kì dặm khai là mượn ý của Trang Tử tả chim bằng khi cất cánh lên thì như đám mây ngang trời và mỗi bay thì chín vạn dặm mới nghỉ, đối lập với những con chim nhỏ chỉ nhảy nhót trên cành cây đã diễn tả những giây phút ngây ngất say men chiến thắng của con người phi thường lúc rời khỏi nơi tiễn biệt.

Hình tượng người anh hùng Từ Hải là một sáng tạo đặc sắc của Nguyễn Du về phương diện cảm hứng và nghệ thuật miêu tả. Qua đó thể hiện tài năng sử dụng ngôn ngữ của nhà thơ trong việc diễn tả chí khí anh hùng cùng khát vọng tự do của nhân vật Từ Hải.

Từ Hải là hình ảnh thể hiện mạnh mẽ cái ước mơ công lí vẫn âm ỉ trong cảnh đời tù túng của xã hội cũ. Từ Hải ra đi để vẫy vùng cho phỉ sức, phỉ chí, nhưng nếu hiểu kỹ càng còn thêm một lí do nữa là vì bất bình trước những oan khổ của con người bị chà đạp như Thúy Kiều thì không hẳn là không có căn cứ. Điều chắc chắn là cái khao khát của Từ Hải muốn được tung hoành trong bốn bể để thực hiện ước mơ công lí chứ không bao giờ nhằm mục đích thiết lập một ngai vàng quyền lực tầm thường.

Nguyễn Du đã thành công trong việc chọn lựa từ ngữ, hình ảnh và biện pháp miêu tả có khuynh hướng lí tưởng hóa để biến Từ Hải thành một hình tượng phi thường với những nét tính cách đẹp đẽ, sinh động. Đoạn trích tuy ngắn nhưng ý nghĩa lại rất lớn. Nó góp phần tô đậm tính cách của người anh hùng Từ Hải - nhân vật lí tưởng, mẫu người đẹp nhất trong kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du.

Thuyết minh đoạn trích Chí khí anh hùng mẫu số 4

Nguyễn Du là một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam, ông được mệnh danh là đại thi hào, suốt cuộc đời sáng tác của mình, Nguyễn Du đã để lại rất nhiều tác phẩm hay và có giá trị, nổi bật trong số đó có thể kể đến kiệt tác Truyện Kiều. Đoạn trích Chí khí anh hùng là một trong những đoạn trích khá tiêu biểu, Nguyễn Du đã miêu tả chân dung cũng như khát vọng làm nên sự nghiệp lớn của người anh hùng Từ Hải.

Nguyễn Du là một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam, ông được mệnh danh là đại thi hào, suốt cuộc đời sáng tác của mình, Nguyễn Du đã để lại rất nhiều tác phẩm hay và có giá trị, nổi bật trong số đó có thể kể đến kiệt tác Truyện Kiều. Đoạn trích Chí khí anh hùng là một trong những đoạn trích khá tiêu biểu, Nguyễn Du đã miêu tả chân dung cũng như khát vọng làm nên sự nghiệp lớn của người anh hùng Từ Hải.

Nguyễn Du tên tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên, là một nhà thơ, nhà văn hóa lớn thời Lê mạt, Nguyễn sơ ở Việt Nam. Ông được người Việt kính trọng tôn xưng là "Đại thi hào dân tộc". Tổ tiên của Nguyễn Du có nguồn gốc từ làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc Hà Nội), sau di cư vào Hà Tĩnh, có truyền thống khoa hoạn nổi danh ở làng Tiên Điền về thời Lê mạt. Trước ông, sáu bảy thế hệ viễn tổ đã từng đỗ đạt làm quan. Bốn nghề chơi: cầm, thư, thi, họa bốn nghề đều thông thạo. Nguyễn Du mồ côi cả cha lẫn mẹ nên ông phải ở với người anh khác mẹ là Nguyễn Khản. Năm 1780, Nguyễn Khản là anh cả của Nguyễn Du đang làm Trấn thủ Sơn Tây bị khép tội mưu loạn trong Vụ án năm Canh Tý bị bãi chức và bị giam ở nhà Châu Quận công. Nét nổi bật trong tác phẩm của Nguyễn Du chính là sự đề cao xúc cảm. Nguyễn Du là nhà thơ có học vấn uyên bác, nắm vững nhiều thể thơ của Trung Quốc, như: ngũ ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật, thất ngôn luật, ca, hành... nên ở thể thơ nào, ông cũng có bài xuất sắc. Đặc biệt hơn cả, là tài làm thơ bằng chữ Nôm của ông, mà đỉnh cao là Truyện Kiều, đã cho thấy, thể thơ lục bát có khả năng chuyển tải nội dung tự sự và trữ tình to lớn trong thể loại truyện thơ.

Thuyết minh về đoạn trích Chí khí anh hùng từ câu 2213 đến câu 2230 trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, nói về Từ Hải, một hình tượng nhân vật lí tưởng thể hiện ước mơ lãng mạn về một người anh hùng có những phẩm chất, phi thường. Bốn câu mở đầu đoạn trích là khát vọng lên đường của Từ Hải:

"Nửa năm hương lửa đương nồng

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương

Trông vời trời bể mênh mang

Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong".

Khoảng thời gian nửa năm ấy có biết bao nhiêu kỷ niệm đẹp bên Thúy Kiều, tình yêu đang lúc mặn nồng thì Từ Hải quyết định ra đi, rời xa người vợ tài sắc để thực hiện lí tưởng nam nhi của mình. Từ Hải là một tráng sĩ, một người có chí khí mạnh mẽ, là người đàn ông có tài năng xuất chúng. Từ Hải đã "động lòng bốn phương", ý chí muốn làm nên nghiệp lớn. Hình ảnh "trời bể mênh mang" như thể hiện được ý chí lớn lao của Từ Hải. Khát khao được vẫy vùng, tung hoành bốn phương là một sức mạnh tự nhiên không có gì ngăn cản nổi. Trước lúc gặp gỡ và kết duyên với Thúy Kiều, Từ Hải vốn đã là một anh hùng hảo hán "Dọc ngang nào biết trên đầu có ai", đã từng "Nghênh ngang một cõi biên thùy". Cái chí nguyện lập nên công danh, sự nghiệp ở chàng là rất lớn, không có gì cản được bước chân chàng.

Bất kể cuộc chia li nào cũng đẫm nước mắt và nỗi buồn, Thúy Kiều và Từ Hải cũng không ngoại lệ:

"Nàng rằng: Phận gái chữ tòng

Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi"

Trong lúc "hương lửa đương nồng" nàng không muốn cách xa Từ Hải- người chồng đồng thời là ân nhân cứu mạng thoát khỏi chốn lầu xanh. Thúy Kiều một lòng một dạ muốn theo chồng mình "Nàng rằng: Phận gái chữ tòng", nhắc đến chữ tòng trong lễ giáo phong kiến, có chồng thì phải theo chồng để được đi theo. Nàng muốn đi theo chồng để nâng khăn sửa túi, có người bầu bạn, cùng chia sẻ những khó khăn cuộc đời mà chồng phải chịu. Dù biết là rất gian nan và khó khăn nhưng vẫn một lòng xin theo. Đó là mong muốn chính đáng, hợp lí, thuận tình.

Từ Hải đã từ chối mong muốn của Kiều, đó là phản ứng tất yếu của một người anh hùng chân chính:

"Từ rằng: Tâm phúc tương tri

Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?"

"Tâm phúc tương tri" nghĩa là hai người đã hiểu nhau sâu sắc, Từ Hải coi Kiều là tri kỉ, hiểu mình hơn ai hết tại sao vẫn chưa thoát khỏi "nữ nhi thường tình". Đó là một lời trách nhẹ Thuý Kiều tại sao không thấu hiểu cho hành động của mình đồng thời đó còn là lời động viên, khuyên nhủ Thúy Kiều vượt lên thứ tình cảm thông thường để làm vợ một người anh hùng, vượt qua những bất trắc trước mắt để hướng về một tương lai tốt đẹp hơn. Từ Hải hứa với Thúy Kiều bằng tình cảm sâu nặng:

"Bao giờ mười vạn tinh binh

Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.

Làm cho rõ mặt phi thường

Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia"

"Mười vạn tinh binh”, “Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường” nghĩa là tương lai thành công. Chàng phải đi đến khi nào lập nên sự nghiệp, có tinh binh đi sau, có lá cờ rợp đất thì mới trở về tìm nàng để cho nàng có một cuộc sống sung sướng. “Rõ mặt phi thường” chứng tỏ được tài năng xuất chúng. Từ Hải nói lên niềm tin tưởng sắt đá vào tương lai, sự nghiệp. “Rước nàng nghi gia” nghĩa là cho Kiều danh phận, cuộc sống viên mãn. Từ Hải là người anh hùng có chí khí, thống nhất giữa khát vọng phi thường và tình cảm sâu nặng với người tri kỉ.

Để từ chối khéo ước nguyện muốn đi theo của Kiều, Từ Hải đã sử dụng những lời lẽ hết sức thuyết phục:

"Bằng nay bốn bể không nhà

Theo càng thêm bận biết là đi đâu?

Đành lòng chờ đó ít lâu

Chầy chăng là một năm sau vội gì!"

Chàng không cho Kiều đi theo vì không muốn vợ mình phải chịu khổ cực, vất vả. Bốn bể không có nhà thì làm sao một người con gái như nàng Kiều có thể chịu đựng được. Việc gây dựng sự nghiệp không phải ngày một ngày hai nên Từ Hải không muốn vướng bận ảnh hưởng đến việc lớn, nếu Kiều đi theo sẽ không chăm sóc được cho nàng một cách trọn vẹn. Vì thế đành hứa hẹn và an ủi nàng "Đành lòng chờ đó ít lâu". Từ Hải là một người chồng tâm lí, người anh hùng nhưng vẫn rất chân thực, đời thường. Là con người có khát vọng lớn lao, tin tưởng vào tương lai, có thể đem lại hạnh phúc cho Kiều.

Cuộc chia tay của Thúy Kiều và Từ Hải trong đoạn trích được miêu tả với sự dứt khoát:

"Quyết lời dứt áo ra đi

Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi".

Hành động "dứt áo ra đi" của chàng thể hiện thái độ dứt khoát, không chút tơ vương, vướng bận chuyện cá nhân. Qua đó, ta có thể khẳng định được Từ Hải chính là bậc anh hùng cái thế, có tầm vóc phi thường, sánh ngang với trời đất, vũ trụ. Tư thế ra đi của Từ Hải được thể hiện qua hình ảnh ẩn dụ chim bằng thật oai phong và có sức mạnh phi thường. Đó là cái nhìn thể hiện tâm hồn lãng mạn của một nhà thơ trung đại.

Với nghệ thuật sử dụng nhiều hình ảnh ước lệ, tượng trưng; lời thoại bộc lộ tính cách, hình ảnh ẩn dụ Nguyễn Du đã xây dựng nên hình tượng một người anh hùng có khí phách hiên ngang, phi thường. Một con người khí chất hơn người, hoài bão lớn lao và niềm tin sắt đá vào tài năng của mình. Nhân vật Từ Hải được Nguyễn Du xây dựng bằng bút pháp ước lệ tượng trưng cùng với ngôn ngữ hàm súc, mang tính biểu đạt cao. Đây cũng là yếu tố góp phần tạo nên sự thành công trong nghệ thuật khắc họa nhân vật của tác giả. Từ Hải xứng đáng là bậc nam nhi "vẫy vùng trong bốn bể", không vì "hương lửa đương nồng" mà chùn chân, nhụt chí.

Thuyết minh đoạn trích Chí khí anh hùng mẫu số 5

Trên diễn đàn văn học Việt Nam, Thúy Kiều xuất hiện trong trang thơ của đại thi hào Nguyễn Du với số phận “hồng nhan bạc mệnh” qua mười lăm năm lưu lạc. Nhưng trong quãng đường đầy rẫy oan khổ đó, có những lúc nàng Kiều được tận hưởng những niềm hạnh phúc về lứa đôi, về gia đình. Đó chính là thời điểm nàng gặp gỡ Từ Hải. Vị anh hùng “đầu đội trời, chân đạp đất” đó đã đem đến cho người phụ nữ tài sắc vẹn toàn một danh phận, một vị trí xứng đáng. Đoạn trích “Chí khí anh hùng” đã khắc họa thành công bức chân dung nhân vật Từ Hải với phẩm chất, chí khí, lí tưởng hiên ngang và mang tầm vóc vũ trụ.

Trong tác phẩm “Đoạn trường tân thanh”, “Chí khí anh hùng” là trích đoạn thuộc phần “Gia biến và lưu lạc”. Sau khi rơi vào lầu xanh lần thứ hai, Thúy Kiều tình cờ gặp Từ Hải – vị anh hùng “đầu đội trời, chân đạp đất”. Khác với Thúc Sinh, Từ Hải đã cho Kiều một danh phận chính đáng. Với cảm hứng ngợi ca kết hợp bút pháp lãng mạn hóa, tác giả Nguyễn Du đã phác họa thành công vẻ đẹp của hình tượng nhân vật anh hùng Từ Hải với chí khí, tầm vóc, phẩm chất phi thường.

Trước hết, tác giả Nguyễn Du đã gợi ra không gian cuộc sống “Nửa năm hương lửa đương nồng” của Từ Hải và Thúy Kiều. Mặc dù đã tìm được “tri âm, tri kỉ” nhưng cuộc sống ấm êm, hạnh phúc vẫn không thể dập tắt khát vọng của Từ Hải: “Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương”. Tác giả Nguyễn Du đã dùng từ “trượng phu” kết hợp cụm từ ước lệ “lòng bốn phương” với thái độ trân trọng, ngưỡng mộ, khâm phục để diễn tả chí nguyện lập công, lập danh lớn lao của người anh hùng. Và tư thế làm chủ, hướng ra phương trời tự do đã được tái hiện rõ nét hơn nữa:

“Trông vời trời bể mênh mang

Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”

Rõ ràng, Từ Hải không phải là con người của những đam mê, khát vọng thông thường. Đó là bậc trượng phu luôn hướng đến những không gian bao la, mang tầm vóc vũ trụ của “trời bể mênh mang”. Trong không gian vĩ mô đó, con người hiện lên với khát vọng làm chủ: Một người, một ngựa, một gươm hiên ngang, mạnh mẽ “lên đường thẳng rong”, tự tin về tương lai phía trước. Như vậy, với thái độ trân trọng, ngợi ca, ngưỡng mộ và kính phục, tác giả đã khắc họa nhân vật Từ Hải với tư thế hiên ngang cùng những khát vọng phi thường.

Ý chí quyết tâm trong việc “lập công, lập danh” của Từ Hải càng được thể hiện rõ nét hơn nữa trong cuộc đối thoại với Thúy Kiều. Là bậc tri kỉ của người anh hùng, Thúy Kiều thấu hiểu những khát vọng của chồng và xin đi theo chàng. Trước mong muốn của nàng, Từ Hải cũng đưa ra những lí lẽ từ chối “thấu tình đạt lí”:

“Từ rằng: Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”

Qua những lời lẽ đó, chúng ta có thể thấy được Từ Hải không hề quyến luyến, bịn rịn mà quên đi khao khát, ước vọng lớn lao của bản thân. Thậm chí, chàng còn tự tin khẳng định về niềm tin vào viễn cảnh tương lai của bản thân. Tác giả đã sử dụng những hình ảnh thuộc phạm trù không gian để thể hiện niềm tin sắt đá đó: “mười vạn tinh binh”, “tiếng chiêng dậy đất”, “bóng tinh rợp đường”. Và thời gian mà chàng hứa hẹn với Thúy Kiều “một năm sau vội gì” càng khẳng định rõ nét hơn quyết tâm, niềm tin mãnh liệt thực hiện đến cùng lí tưởng của người anh hùng:

“Quyết lời dứt áo ra đi

Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”

Hành động dứt khoát, mạnh mẽ, không do dự của người anh hùng đã được thể hiện rõ qua những động từ “quyết”, “dứt áo”, “ra đi”. Bằng cảm hứng ngợi ca, khẳng định và lí tưởng hóa, tác giả đã tái hiện viễn cảnh không gian ra đi mang tầm vóc vĩ mô của người anh hùng. Giữa không gian “gió mây”, “dặm khơi” kì vĩ, rộng lớn, con người hiện lên với tư thế sánh ngang tầm vũ trụ. Hình ảnh “chim bằng” sải cánh trên bầu trời cao rộng, trong bao la “dặm khơi” cùng gió, cùng mây đã làm nổi bật tư thế của người anh hùng có bản lĩnh phi thường, quyết tâm ra đi vì nghiệp lớn. Đó là khát vọng vùng vẫy bốn bể trong khung trời tự do và thoát khỏi mọi khuôn khổ, bế tắc để làm nên sự nghiệp lẫy lừng.

Như vậy, qua thuyết minh đoạn trích Chí khí anh hùng, ta thấy đại thi hào Nguyễn Du đã khắc họa thành công hình tượng người anh hùng với khát vọng lớn lao vùng vẫy “bốn bể năm châu” cùng ý chí sắt đá, tư thế hiên ngang, lẫm liệt làm chủ vũ trụ thông qua những hình tượng có tính ước lệ như “lòng bốn phương”, “mặt phi thường”,.... Qua đó, chúng ta có thể thấy được thái độ trân trọng ngợi ca của tác giả đối với hình tượng nhân vật.

-/-

Trên đây là mẫu dàn ý và một số bài văn mẫu thuyết minh về đoạn trích Chí khí anh hùng do Đọc tài liệu sưu tầm và biên soạn, các em có thể dựa vào đó kết hợp với những hiểu biết của mình về tác phẩm Truyện Kiều để viết thành một bài thuyết minh hoàn chỉnh. Chúc các em học tốt!

Sưu tầm và tuyển chọn Văn mẫu 11 hay nhất / Đọc Tài Liệu

Bạn còn vấn đề gì băn khoăn?
Vui lòng cung cấp thêm thông tin để chúng tôi giúp bạn
Hủy

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM