Hướng dẫn làm bài văn thuyết minh giải thích một hiện tượng tự nhiên, dàn ý chi tiết kèm theo TOP 5 bài văn thuyết minh hay giải thích một hiện tượng tự nhiên mà bản thân quan tâm.
Dàn ý thuyết minhgiải thích một hiện tượng tự nhiên
Mở bài
- Giới thiệu khái quát về hiện tượng tự nhiên sẽ thuyết minh.
- Ấn tượng, cảm xúc của bản thân về hiện tượng tự nhiên đó.
Thân bài
- Khái niệm về hiện tượng tự nhiên đó
- Miêu tả các biểu hiện điển hình của hiện tượng tự nhiên:
+ Thời gian, địa điểm xuất hiện của hiện tượng.
+ Hình dạng, màu sắc, kích thước,... của hiện tượng.
+ Âm thanh, mùi,... của hiện tượng.
- Giải thích nguyên nhân, cơ chế dẫn đến hiện tượng tự nhiên:
+ Các yếu tố tự nhiên tác động đến hiện tượng.
+ Các quy luật khoa học chi phối hiện tượng.
- Lợi ích hoặc tác hại của hiện tượng tự nhiên
- Tác động của hiện tượng tự nhiên đến đời sống con người.
Kết bài
- Khẳng định lại vai trò, ý nghĩa của hiện tượng tự nhiên vừa giới thiệu đối với đời sống con người.
TOP 5 + bài văn thuyết minh giải thích một hiện tượng tự nhiên
Thuyết minh giải thích một hiện tượng tự nhiên bài số 1: Hiện tượng sao băng
Thế giới tự nhiên quanh ta luôn có những điều kì thú, bí ẩn. Một trong những hiện tượng tự nhiên mà em yêu thích nhất là sao băng.
Sao băng là những hạt bụi, đá nhỏ trong vũ trụ khi rơi vào bầu khí quyển Trái Đất với tốc độ lớn (khoảng 100.000 km/h) sẽ bị đốt cháy, tạo ra những vệt sáng trên bầu trời. Sao băng thường xuất hiện vào ban đêm, khi bầu trời quang đãng, ít mây. Chúng có thể xuất hiện ở bất cứ nơi đâu trên Trái Đất, nhưng thường tập trung ở những vùng có bầu khí quyển trong lành, ít ô nhiễm.
Sao băng có nhiều kích thước khác nhau, từ vài mm đến vài cm. Những sao băng nhỏ thường chỉ tạo ra những vệt sáng ngắn, vụt tắt nhanh chóng. Những sao băng lớn hơn có thể tạo ra những vệt sáng dài, kéo dài trong vài giây hoặc thậm chí vài phút. Sao băng có thể xuất hiện riêng lẻ hoặc theo nhóm. Những nhóm sao băng lớn thường được gọi là mưa sao băng. Mưa sao băng thường xuất hiện theo chu kỳ hàng năm và thường trùng với thời điểm Trái Đất đi qua một đám mây bụi hoặc đá từ một sao chổi.
Sao băng là một hiện tượng tự nhiên vô cùng đẹp đẽ và kì thú. Chúng mang đến cho chúng ta một góc nhìn mới về thế giới vũ trụ rộng lớn. Sao băng có vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu vũ trụ. Chúng giúp các nhà khoa học hiểu rõ hơn về nguồn gốc, thành phần của các thiên thể trong vũ trụ.
Em rất yêu thích hiện tượng sao băng. Mỗi lần nhìn thấy sao băng, em lại cảm thấy như mình đang được tiếp cận với một thế giới mới, rộng lớn và huyền bí.
Thuyết minh giải thích một hiện tượng tự nhiên bài số 2: Hiện tượng mưa
Mưa là những giọt nước xinh đẹp mà bầu trời ban tặng cho con người. Có thể chúng chỉ là những hạt nước nhỏ bé, nhưng khi nhiều hạt như thê tập hợp lại thì chúng tạo ra một sức mạnh ghê gớm. Mưa là một hiện tượng thời tiết có ích, nhưng nó cũng có thể tạo ra những cơn lũ lụt giết chết nhiều sinh mạng và tàn phá hơn bất kì một thiên tai nào khác. Đó chính là sức mạnh đáng sợ của những cơn mưa.
Châu Âu vào đầu những năm 1985 bị ảnh hưởng bởi những cơn mưa như trút nước. Phần lớn người dân Hà Lan bị ngập trong nước và họ phải chống chọi cật lực để bảo vệ nhà cửa và tài sản của họ, một cuộc chiến mà con người luôn phải đối mặt từ xưa đến nay. Cách đây không lâu, dòng sông Mi-xi-xi-pi vỡ bờ dẫn đến một trận lụt tồi tệ nhất nước Mĩ trong vòng 66 năm qua. Những trận lũ lụt như thế sẽ làm thiệt hại rất lớn, nhất là khi con người không được cảnh báo.
Một trận lũ bất ngờ đã xảy ra tại một hẻm núi ở bang Cô-lô-ra-đô vào ngày 31-7-1976, khi mà mọi người đang tập trung ở đó nghỉ ngơi nhân dịp 100 năm ngày thành lập bang này. Khi đó dự báo cho biết sẽ có mưa vào buổi chiều, nhưng hầu như không ai chuẩn bị gì để đối phó với tin thời tiết xấu này. Hơn 3000 người rải rác dọc các hẻm núi, họ vui chơi và ca hát một cách vô tư. Vào lúc chiều tôi, một cơn bão xuất hiện, trút xuồng hẻm núi một lượng nước cao hơn 250mm so với mức trung bình. Nước nhanh chóng dâng lên, tạo nên những dòng thác lũ. Chỉ trong 5 phút, những căn lều, những quán cà phê, những ngôi nhà bị cuốn theo dòng nước đang cuồn cuộn gào thét, va vào cây cối rồi vỡ tung thành những mảnh vụn. Khi trời sáng, những chiếc trực thăng vẫn tiếp tục tìm kiếm những người mất tích hay bị kẹt trên các hẻm núi. Hơn 145 người chết, hơn 400 ngôi nhà bị phá hủy, 300 ngôi nhà bị hỏng nặng. 13 ô tô bị chìm sâu dưới đáy sông, mức thiệt hại lên đến 35,5 triệu đô la.
Lũ lụt vẫn tiếp tục hoành hành ở khắp nơi trên đất Mĩ. Năm 1997, ở Tếch-dát, một cơn lũ đã cuốn trôi một trường Tiểu học khiến cho 10 em bị chết đuối dù những đội cứu hộ đã hết sức cố gắng.
Sức mạnh của nước nằm ở trọng lượng của nó. Chỉ cần dòng lũ cao 60cm là có thể cuốn trôi một chiếc ô tô dễ dàng. Hơn 60% số người chết trong những trận lũ là do họ mắc kẹt trong xe và bị lũ cuốn đi.
Mưa không chỉ đem lại cho con người tai họa mà nó cũng là yếu tố mang lại sự sống trên trái đất. Không có mưa, trái đất sẽ trở thành sa mạc. Câu chuyện của mưa bắt đầu từ mặt đất, từ những đại dương. Chúng ta biết rằng nước chiếm % bề mặt diện tích của trái đất và dưới ánh nắng mặt trời, nước bốc hơi bay lên cao. Những cơn sóng bắn những hạt nước nhỏ vào không khí góp phần tạo ra hơi nước nhiều hơn. Hơi nước khi lên cao gặp lạnh tạo thành những mảng mây và ngưng tụ thành hạt rồi rơi xuống mặt đất. Nếu chúng ta tập hợp những giọt nước từ một cơn mưa thì một đám mây bình thường cũng có thể nặng khoảng 500 tấn. Trong mỗi đám mây là những hạt nước nhỏ, hàng triệu giọt li ti đó mới tạo thành một giọt nước mưa.
Đo kích thước của một giọt nước mưa từng là một thách thức đối với các nhà khí tượng học khi nghiên cứu về mưa cho đến khi họ tìm ra một phương pháp đơn giản nhưng hiệu quả. Họ sàng phấn hoa vào một cái khay, để nó dưới mưa trong vài giây và sau đó làm khô trong 20 phút với nhiệt độ 177 độ c. Cuối cùng họ sàng lọc một lần nữa để thu lây những hạt mưa hoàn hảo. Những hạt mưa đạt 0,5mm mới được công nhận là mưa còn nếu nhỏ hơn thì được xem là mưa phùn. Mưa phùn có xu hướng hình thành từ những đám mây mỏng. Những hạt mưa lớn thường hình thành trong vùng nhiệt đới khi mà những đám mây ở độ cao nhất và nơi có thể những cơn bão mạnh nhất trên trái đất. Hệ thống rừng nhiệt đới phụ thuộc vào những cơn mưa. Có những vùng mưa suốt 365 ngày trong một năm, nhưng cũng có những nơi không bao giờ mưa hàng trăm năm.
Tuy mưa nhiều, nhưng lũ lụt thì lại rất hiếm khi xảy ra vì mặt đất và những cánh rừng nhiệt đới tựa như những miếng xốp hút nước nhanh chóng. Mưa chỉ là một trạng thái tạm thời của nước. Những hạt mưa thâm qua đất rồi tạo thành những dòng suối đổ ra các đại dương, những giọt nước bốc hơi để bắt đầu một cuộc đời mới.
Mưa có ảnh hưởng đến tất cả chúng ta, mưa không phân biệt văn hóa, tôn giáo và xã hội. Nó có sức mạnh khủng khiếp, nó có thể tạo ra sự sống nhưng cũng chính là kẻ hủy diệt. Mưa là món quà tuyệt vời nhất nhưng cũng là mối nguy hiểm lớn nhất mà thiên nhiên ban tặng cho con người.
Thuyết minh giải thích một hiện tượng tự nhiên bài số 3: Hiện tượng thủy triều đỏ
Thủy triều đỏ là cách gọi thông thường, nhưng các nhà khoa học thường gọi là hiện tượng nở hoa của tảo ở biển.
Hiện tượng tảo nở hoa (có tài liệu còn gọi là hiện tượng nở hoa của nước) gây ra bởi các loài vi tảo và vi khuẩn lam sống trong nước biển hoặc nước ngọt khi chúng phát triển rất nhanh, bùng phát quá mức về mật độ tế bào hoặc sinh khối. Hiện tượng tảo nở hoa xảy ra cả ở biển và nước ngọt, khi xảy ra ở biển thì gọi là thủy triều đỏ. Tảo nở hoa có thể sống ở bề mặt nước hoặc ở tầng đáy.
Đặc biệt, những thực vật phù du và sinh vật nguyên sinh đơn bào, các sinh vật như thảo mộc có thể hình thành những đám dày đặc, các vết có thể nhìn thấy ở gần bề mặt nước. Một số loài thực vật phù du, tảo chứa sắc tố quang hợp khác nhau về màu sắc từ xanh sang nâu đỏ.
Khi mật độ tảo tập trung cao, nước sẽ đổi màu hay xỉn lại, từ tím đến gần như màu hồng, thường là màu đỏ hoặc màu xanh lá cây. Không phải tất cả việc nở rộ tảo đều dày đặc đủ để làm cho nước đổi màu và không phải tất cả những nước đổi màu có liên quan đến nở rộ tảo đều đỏ.
Hiện tượng tảo nở hoa có thể do các loài tảo có độc tố và các loài không có độc tố. Khi các tảo độc nở hoa, chúng tiết ra các độc tố thuộc về 3 nhóm: nhóm độc tố gan, nhóm độc tố thần kinh, nhóm độc tố gây tiêu chảy. Chúng không chỉ gây độc cho các sinh vật sống trong nước như cá, giáp xác, động vật thân mềm, động vật có vú ở biển (như cá voi, sư tử biển)… mà còn gây độc cho cả một số loài chim, cho con người khi ăn phải thủy sản bị nhiễm độc, khi tiếp xúc hoặc uống phải nguồn nước bị nhiễm độc.
Các độc tố có thể ảnh hưởng tới không khí, gây khó thở. Ngoài việc tạo ra các độc tố, chúng còn làm ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nước do chuyển màu, có mùi tanh khó chịu, hàm lượng oxy giảm đột ngột do phân hủy một lượng sinh khối lớn. Tảo không độc khi nở hoa cũng làm ảnh hưởng đến chất lượng nước khi lượng sinh khối lớn của chúng bị chết và phân hủy.
Tóm lại, hiện tượng nở hoa của tảo, đặc biệt là tảo độc gây tác hại tới hệ sinh thái biển, ảnh hưởng đến đa dạng sinh học, ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đối với con người, gây thiệt hại cho ngành kinh tế khai thác, nuôi trồng thủy sản. Thực tế, không phải đợt bùng phát tảo biển nở hoa nào cũng có hại. Chúng có thể có lợi vì là thức ăn cho sinh vật trong đại dương.
Theo một cuốn sách của ông Kin-Chung Ho, Đại học Mở Hong Kong, sự xuất hiện của thủy triều đỏ ở một số địa điểm dường như là hoàn toàn tự nhiên, do sự chuyển động của các dòng hải lưu nhất định. Tuy nhiên, hiện tượng này cũng có thể do phú dưỡng hóa nguồn nước - thải quá nhiều vào nước chất dinh dưỡng như nitrat hay phốt phát từ hoạt động nông nghiệp hay hiện tượng nước trồi - dòng nước lạnh đặc và nhiều dinh dưỡng di chuyển từ phía sâu lên bề mặt đại dương, thay thế dòng nước nóng hơn. Thủy triều đỏ đã xảy ra ở nhiều nước: Hoa Kỳ, Brasil, Úc, Philippines, Trung Quốc, Anh, Malaysia… và gây ra nhiều thiệt hại.
Năm 1968, tại Anh có 78 trường hợp người bị ngộ độc do ăn sò xanh nhiễm độc tố của tảo Alexandrium tamarense. Tính đến năm 1995, tại Philippines đã có 1422 người bị ngộ độc do ăn cá nhiễm độc tảo Pyrodinium bahamense var compressum và 82 người trong số này đã tử vong. Năm 1998, một loài tảo mới xuất hiện ở vùng biển Hong Kong đã gây ra thủy triều đỏ, ảnh hưởng đến 20 trong tổng số 26 khu vực nuôi cá, hủy hoại hơn 80 % trữ lượng cá thường xuyên. Năm 2013, hai người Malaysia đã chết do ăn cá nhiễm tảo độc từ thủy triều đỏ ở bờ biển đảo Borneo.
Tất cả các bang ven biển của Hoa Kỳ đều bị thủy triều đỏ và chịu nhiều thiệt hại do thủy triều đỏ gây ra, đặc biệt là ở New England, Florida, khu vực gần Vịnh Mexico… Thiệt hại do thủy triều đỏ gây ra đối với nuôi trồng, khai thác thủy sản, du lịch lên tới hàng chục triệu đô la.
Tại Việt Nam, hiện tượng thủy triều đỏ cũng đã xảy ra ở nhiều nơi. Tuy nhiên, khu vực biển Bình Thuận là nơi có tần suất nở hoa của vi tảo cao nhất. Tháng 6 - 7/2014, thủy triều đỏ tạo nên các trận bọt biển màu đỏ vàng ở bãi biển Mũi Né - Hòn Rơm (Phan Thiết, Bình Thuận). Xác cá và nhiều động vật, rong tảo biển dạt vào và phân hủy, bốc mùi hôi thối gây ô nhiễm môi trường. Cư dân ở đây cho biết hiện tượng thủy triều đỏ thường xuất hiện ở vùng biển này vào tháng 6 hàng năm.
Đồng thời, nghề sản xuất giống thủy sản và nuôi lồng các loài tôm hùm, cá mú cũng thải ra môi trường một lượng dinh dưỡng đáng kể cũng là một điều kiện kích thích sự nở hoa. Hiện tượng nở hoa nước thường xảy ra trong các hồ nước ngọt và các ao nuôi thủy sản. Hiện tượng tảo nước ngọt nở hoa cũng đã gặp ở Hồ Hoàn Kiếm (Hà Nội), hồ Xuân Hương (thành phố Đà Lạt) và gần đây, trong tháng 4/2016 tại sông Ba, đoạn chảy qua xã Chư Ngọc huyện Krông Pa, Gia Lai.
Theo các nhà khoa học, hiện tượng thủy triều đỏ và nở hoa nước là một trong những vấn đề cấp bách cần được quan tâm nghiên cứu cụ thể, lâu dài như: Về quy luật phát sinh và lan truyền của hiện tượng thủy triều đỏ và nở hoa nước; về sinh thái phát triển và sản sinh độc tố của một số loài vi tảo kể cả các loài đang hình thành có khả năng nở hoa. Trên cơ sở đó, có sự cảnh báo để bảo vệ sức khỏe cộng đồng, đồng thời đánh giá đầy đủ về những thiệt hại mà nó gây ra.
Thuyết minh giải thích một hiện tượng tự nhiên bài số 4: Hiện tượng sóng thần
Sóng thần là một hiện tượng tự nhiên có sức tàn phá vô cùng nặng nề. Đến nay, nó vẫn được xem là loại hình thiên tai đáng sợ nhất của biển cả.
Nguyên nhân gây xuất hiện sóng thần chính là các hiện tượng như động đất, núi lửa phun trào, thiên thạch va chạm… Những hiện tượng đó tạo ra những chấn động lớn trên mặt đất và cả dưới mặt nước, khiến một thể tích khổng lồ nước biển bị chuyển dịch chớp nhoáng, biến thành những cơn sóng khổng lồ, di chuyển rất nhanh. Các cơn sóng thần có thể quét sạch mọi thứ trên đường nó đi qua trong phạm vi hàng trăm km với tốc độ không tưởng. Đặc biệt, sau khi quét qua, sóng thần còn để lại một lượng nước lớn, nhấn chìm mọi thứ trong hàng giờ liền. Điều đó gây thiệt hại nặng nề về người và của cho xã hội. Đối mặt với sóng thần, cách duy nhất chính là sơ tán, bỏ chạy về vùng an toàn. Bởi không điều gì có thể ngăn cản được sức công phá của sóng thần cả. Dù khoa học kĩ thuật hiện nay đã vô cùng phát triển nhưng việc dự báo chính xác sự xuất hiện của sóng thần vẫn không thể sớm được. Chỉ khi nó đã hình thành ở trong biển, chúng ta mới biết về sự hiện diện của nó. Và chỉ cần một thời gian ngắn, sóng thần đã dịch chuyển vào tới đất liền. Vì vậy, người dân ở những khu vực có thể xảy ra sóng thần, sẽ luôn trong tình huống sẵn sàng bỏ chạy.
Sóng thần là ác mộng của những thành phố, khu dân cư ven biển. Sự xuất hiện của nó chỉ có đem đến thiệt hại nặng nề và sự mất mát. Dù vậy, chúng ta chỉ có thể học cách sống cùng với nó, bởi đây là một loại hình thiên tai mà con người không thể khống chế và dự đoán trước được. Đặc biệt là trong tình trạng trái đất nóng lên, các thiên tai ngày càng đáng sợ và khó đoán hơn rất nhiều.
Thuyết minh giải thích một hiện tượng tự nhiên bài số 5: Hiện tượng hiệu ứng nhà kính
Các nhà khoa học cho rằng, hiệu ứng nhà kính chính là nguyên nhân “gốc rễ” nhất dẫn đến sự nóng lên của Trái Đất. Khi Trái Đất nóng dần lên kéo theo các thảm kịch vô cùng lớn, với sự xuất hiện của các kiểu thời tiết cực đoan nguy hiểm.
Hiệu ứng nhà kính diễn ra khi khí quyển chứa khí đã hấp thụ tia cực quang. Hơi nóng từ mặt trời xuống Trái Đất đã bị giữ lại ở tầng đối lưu, tạo ra hiệu ứng nhà kính ở bề mặt các hành tinh hoặc các Vệ tinh. Cơ cấu hoạt động này không khác nhiều so với một nhà kính (dùng để cho cây trồng) thật, điều khác biệt là nhà kính (cây trồng) có các cơ cấu cách biệt hơi nóng bên trong để giữ ấm không bị mất qua quá trình đối lưu. Hiệu ứng nhà kính được khám phá bởi nhà khoa học Joseph Fourier vào năm 1824, thí nghiệm đầu tiên có thể tin cậy được là bởi nhà khoa học John Tyndall vào năm 1858, và bản báo cáo định lượng kĩ càng được thực hiện bởi nhà khoa học Svante Arrhenius vào năm 1896. Một ví dụ về Hiệu ứng nhà kính làm cho nhiệt độ của không gian bên trong của một nhà trồng cây làm bằng kính tăng lên khi Mặt Trời chiếu vào. Nhờ vào sức ấm này mà cây có thể đâm chồi, ra hoa và kết trái sớm hơn.
Ngày nay người ta hiểu khái niệm này rộng hơn, dẫn xuất từ khái niệm này để miêu tả hiện tượng nghẽn nhiệt trong bầu khí quyển của Trái Đất được Mặt Trời chiếu sáng là hiệu ứng nhà kính khí quyển. Trong hiệu ứng nhà kính khí quyển, phần được đoán là do tác động của loài người gây ra được gọi là hiệu ứng nhà kính nhân loại (gia tăng). Hiện nay thế kỷ thứ 21 loài người đang phải đối mặt với tình trạng ấm lên do con người gây ra, tuy nhiên vấn đề vẫn đang được tranh cãi, gây ra nhiều tác hại nguy hiểm.
Các vật đen có nhiệt độ từ Trái Đất khoảng 5.5°C. Từ khi bề mặt Trái Đất phản lại khoảng 28% ánh sáng mặt trời, nếu không có hiệu ứng nhà kính thì nhiệt độ có thể rất thấp khoảng -18 hoặc -19°C thay vì nhiệt độ có thể cao hơn là khoảng 14°C.
Hiệu ứng nhà kính, xuất phát từ effet de serre trong tiếng Pháp, do Jean Baptiste Joseph Fourier lần đầu tiên đặt tên, dùng để chỉ hiệu ứng xảy ra khi năng lượng bức xạ của tia sáng mặt trời, xuyên qua các cửa sổ hoặc mái nhà bằng kính, được hấp thụ và phân tán trở lại thành nhiệt lượng cho bầu không gian bên trong, dẫn đến việc sưởi ấm toàn bộ không gian bên trong chứ không phải chỉ ở những chỗ được chiếu sáng.
Hiệu ứng này đã được sử dụng từ lâu trong các nhà kính trồng cây. Ngoài ra hiệu ứng nhà kính còn được sử dụng trong kiến trúc, dùng năng lượng mặt trời một cách thụ động để tiết kiệm chất đốt sưởi ấm nhà ở.
Thuyết minh giải thích một hiện tượng tự nhiên bài số 6: Hiện tượng thiên thạch
Thiên thạch là một hiện tượng thiên văn vô cùng kỳ thú và bí ẩn. Bất cứ ai khi chứng kiến cảnh tượng một thiên thạch lao vút trên bầu trời đêm đều không khỏi ngỡ ngàng và thán phục.
Thiên thạch là những mảnh vỡ của các tiểu hành tinh, sao chổi hoặc các vật thể khác trong vũ trụ. Khi chúng đi vào bầu khí quyển Trái Đất, dưới tác động của sức hút trọng lực, chúng bị đốt nóng và phát sáng. Đây chính là những gì chúng ta nhìn thấy trên bầu trời đêm. Thiên thạch có nhiều kích thước khác nhau, từ vài cm đến hàng chục mét. Những thiên thạch nhỏ thường bị đốt cháy hoàn toàn trong bầu khí quyển, không để lại dấu vết. Những thiên thạch lớn hơn có thể rơi xuống Trái Đất và gây ra những hậu quả nghiêm trọng.
Thiên thạch là sản phẩm của quá trình va chạm giữa các thiên thể trong vũ trụ. Khi các thiên thể va chạm, chúng bị phá hủy và tạo ra những mảnh vỡ. Những mảnh vỡ này có thể rơi vào quỹ đạo của Trái Đất và va chạm với bề mặt hành tinh. Ngoài ra, thiên thạch cũng có thể được hình thành từ những sao chổi bị mất nước. Khi sao chổi bay gần Mặt Trời, băng trên bề mặt của chúng sẽ tan chảy và tạo thành một đám mây bụi và khí. Đám mây này có thể bị lực hấp dẫn của Trái Đất hút vào và tạo thành thiên thạch.
Thiên thạch có thể gây ra những tác động khác nhau đến đời sống con người, tùy thuộc vào kích thước và thành phần của chúng. Những thiên thạch nhỏ thường không gây ra thiệt hại đáng kể. Tuy nhiên, chúng có thể gây ra những đám cháy nhỏ ở những khu vực rừng rậm. Những thiên thạch lớn có thể gây ra những vụ nổ lớn, phá hủy các công trình xây dựng, gây ra thương vong cho con người và động vật. Thiên thạch còn có thể gây ra những tác động lâu dài đến môi trường, chẳng hạn như thay đổi khí hậu, làm ô nhiễm môi trường.
Thiên thạch là một hiện tượng tự nhiên vô cùng kỳ thú và bí ẩn. Chúng mang lại cho chúng ta những trải nghiệm vô cùng thú vị. Tuy nhiên, chúng cũng có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho đời sống con người. Vì vậy, chúng ta cần có những biện pháp để phòng tránh những tác hại của thiên thạch.
Thuyết minh giải thích một hiện tượng tự nhiên bài số 7: Hiện tượng cầu vồng
Cầu vồng là một hiện tượng tự nhiên rất dễ để bắt gặp và được nhiều người yêu thích bởi vẻ đẹp và ý nghĩa của mình.
Hiện tượng cầu vồng còn được gọi là quang phổ. Bản chất của nó là hiện tượng tán sắc của những tia sáng mặt trời, khi chúng được khúc xa qua các giọt nước và phản chiếu lại. Do đó, cầu vồng thường xuất hiện vào cuối các cơn mưa lớn, khi tia nắng bắt đầu xuất hiện trở lại. Cũng bởi vì cầu vồng được tạo ra từ ánh sáng, cho nên nó không phải là một khối vật chất, chỉ có thể nhìn ngắm chứ không thể chạm vào. Kích thước thật của cầu vồng là khá lớn và có hình dáng cong theo độ cong của Trái Đất. Vì vậy, cầu vồng mà chúng ta nhìn thấy chỉ là một phần của quang phổ mà thôi. Đó chính là nguyên nhân, mà ta thường thấy chân cầu vồng lẩn trong mây hay ở phía rất xa. Nếu muốn nhìn thấy toàn bộ cầu vồng, thì chúng ta chỉ có thể chọn cách quan sát bằng vệ tinh hoặc từ tàu vũ trụ.
Có một điều mà chúng ta thường nhầm lẫn về mặt trời là màu sắc của nó. Người ta thường cho rằng cầu vồng chỉ gồm bảy màu gồm đỏ, cam, vàng, xanh lá, xanh lam, chàm, tím - tức bảy sắc cầu vồng. Nhưng thật ra đó là một thông tin chưa chính xác. Bảy màu đó của cầu vồng chỉ là bảy màu dễ nhìn thấy nhất bằng mắt thường ở cự li xa mà thôi. Thật ra, bản thân tia sáng mặt trời đã chứa rất nhiều màu sắc. Đó là một tập hợp gồm nhiều màu khác nhau mà mắt thường không thể thấy và phân biệt được. Do đó, khi chúng khúc xạ qua hạt mưa tạo ra cầu vồng, thì những tia sáng đó sẽ bị bẻ cong thành một dải nhiều màu sắc liên tục. Dải màu đó chỉ có thể thấy rõ và đầy đủ khi ta quay lưng với mặt trời và có góc nhìn 42 độ. Còn nếu chỉ đứng nhìn một cách thông thường từ mặt đất, thì ta sẽ chỉ thấy bảy màu cơ bản và đậm nhất mà thôi.
Cầu vồng là một hiện tượng tự nhiên đẹp mắt, đem lại hiệu ứng tích cực cho tinh thần người xem. Vì vậy, hiện tượng này đã được con người yêu chuộng vào đưa vào thi ca, nhạc họa. Đặc biệt nhiều nền văn hóa còn cho rằng hiện tượng cầu vồng xuất hiện là tín hiệu của sự may mắn và phước lành nên rất trân trọng nó.
Có thể nói, hiện tượng cầu vồng là một hiện tượng tự nhiên vô cùng phổ biến và được con người yêu thích. Bởi sự xuất hiện với tần suất lớn không phải tính toán và chờ đợi như nhật thực hay nguyệt thực. Và bản thân nó cũng không đem đến những tác hại như sóng thần hay núi lửa phun trào.
-/-
Trên đây là mẫu dàn ý và một số bài văn thuyết minh giải thích một hiện tượng tự nhiên do Đọc tài liệu sưu tầm và tổng hợp, các em có thể dựa vào đó kết hợp với những hiểu biết của mình về một hiện tượng tự nhiên trong đời sống để viết thành một bài thuyết minh hoàn chỉnh nhất. Chúc các em học tốt!
Sưu tầm và tuyển chọn Văn mẫu lớp 8 hay nhất / Đọc Tài Liệu