Tài liệu hướng dẫn tả một đồ vật trong viện bảo tàng hoặc trong nhà truyền thống sẽ cung cấp cho các em cũng như các bậc phụ huynh dàn ý và những bài văn mẫu đề tài tả đồ vật trong viện bảo tàng hay nhà truyền thống dùng để đọc tham khảo trước khi làm bài.
Dàn ý tả đồ vật trong viện bảo tàng hoặc trong nhà truyền thống
Dàn ý chung
1. Mở bài
- Giới thiệu về đồ vật em muốn tả: Tên đồ vật là gì? Em nhìn thấy nó ở đâu?
- Nêu ấn tượng đầu tiên của em về đồ vật đó.
2. Thân bài
a) Tả chi tiết đồ vật
- Chất liệu, hình dáng, kích thước của đồ vật.
- Màu sắc, hoa văn, trang trí trên đồ vật.
- Vị trí trưng bày đồ vật.
- Cấu tạo, chức năng của đồ vật.
- Nét độc đáo, đặc biệt của đồ vật.
b) Giá trị và ý nghĩa của đồ vật
- Giá trị lịch sử, văn hóa của đồ vật.
- Tượng trưng cho điều gì?
- Gợi cho em những suy nghĩ, cảm xúc gì?
- Kể về câu chuyện liên quan đến đồ vật (nếu có)
3. Kết bài
- Nêu cảm nghĩ của em về đồ vật.
- Nêu ý nghĩa của việc giữ gìn và bảo vệ những đồ vật truyền thống.
* Gợi ý một số đồ vật trong viện bảo tàng có thể quan sát và tả:
- Trống đồng Đông Sơn.
- Áo dài truyền thống.
- Nón lá.
- Bộ tranh Đông Hồ
- ...
Dàn ý tả chiếc khăn rằn của Mẹ Việt Nam Anh hùng Trần Thị Lướt
Dưới đây là dàn ý tả chiếc khăn rằn của Mẹ Việt Nam Anh hùng Trần Thị Lướt, dựa vào đây các em có thể triển khai tương tự với đồ vật khác trong viện bảo tàng:
1. Mở bài
- Giới thiệu đồ vật em muốn tả: Chiếc khăn rằn của Mẹ Việt Nam Anh hùng Trần Thị Lướt cũng là một kỉ vật trong viện bảo tàng ở Nam Bộ.
- Tình huống: Em quan sát chiếc khăn nhân chuyến đi thăm viện bảo tàng cùng với liên đội trường em.
2. Thân bài
- Chiếc khăn rằn dệt bằng vải bố.
- Chiều ngang chừng 0,6 m, chiều dài khoang 1,2 m.
- Mặt khăn in đậm hình ka-rô màu đỏ sẫm; nền khăn màu trắng.
- Hai đầu khăn có những tua vải làm tăng vẻ đẹp duyên dáng của khăn.
- Nền khăn đã có những vết sừn bạc.
- Khăn giúp mẹ Trần Thị Lướt choàng ấm ở mùa đông, che nắng, thấm mồ hôi mùa hè.
- Khăn cùng mẹ đồng cam cộng khổ, gánh vác khó khăn, cùng mẹ giấu tài liệu vượt qua đồn bót địch.
- Khăn chứng kiến những thời khắc lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam.
3. Kết bài
- Mẹ Trần Thị Lướt đã hi sinh để lại chiếc khăn rằn với những ý nghĩa to lớn.
- Chiếc khăn đã ghi dấu ấn một chặng đường đấu tranh của dân tộc, nó là kỉ vật thiêng liêng mà viện bảo tàng đang cất giữ.
- Em thầm biết ơn mẹ và biết ơn các chiến sĩ cách mạng đã hi sinh cuộc đời cho dân tộc Việt Nam.
Tác giả: Võ Thị Hoài Tâm
Dàn ý tả cái trống trường cũ trong nhà truyền thống
1. Mở bài
- Trong nhà truyền thống của trường em có một chiếc trống cũ.
- Đó là chiếc trống có từ ngày trường em thành lập.
2. Thân bài
- Trống được thầy hiệu trưởng đầu tiên chọn mua và đánh những tiếng đầu tiên khai giảng khóa đầu.
- Trống cao khoảng hơn một mét, hai đầu thon, ở giữa phình, nhìn xa giống như cái bom bia.
- Bao quanh mặt trống là thanh gỗ dẹt được sơn son thếp vàng, có đóng đinh tre gắn liền với thân trống.
- Thân trông ghép bằng những mảnh gỗ màu nâu đỏ, viền quanh bằng đai da to bằng đốt ngón tay giống một chiếc thắt lưng.
- Hai mặt trống làm bằng da trâu dày, nhẵn, ngả màu ố vàng.
- Vỗ vào mặt trông thấy những tiếng “Tùng tùng” vang vọng chứng tỏ trống vẫn còn tốt.
- Trống không còn mới nhưng vẫn được trân trọng lưu giữ trong nhà truyền thống, ngày khai giảng lại được đem ra sơn sửa và thầy hiệu trưởng lại đánh trống để mở đầu cho năm học mối.
3. Kết bài
- Trống được giữ gìn, coi trọng như một kỷ vật của trường.
- Nó là nhân chứng cho truyền thống thi đua phấn đấu của thầy và trò trong trường.
TOP 7+ bài văn hay tả một đồ vật trong viện bảo tàng hoặc trong nhà truyền thống
Tả một đồ vật trong viện bảo tàng bài số 1: Chiếc trống đồng Đông Sơn
Vào kì nghỉ hè năm ngoái, ba mẹ cho em đi nghỉ mát ở Cửa Lò. Thời gian nghỉ ở đây, cả gia đình em đến thăm viện bảo tàng ở tỉnh Thanh Hóa. Trong những di vật được trưng bày, em thích nhất là bộ sưu tập trống đồng Đông Sơn.
Trống đồng Đông Sơn đa dạng không chỉ về hình dáng, kích thước mà cả về phong cách trang trí, sắp xếp hoa văn. Giữa mặt trống có hình ngôi sao nhiều cánh tỏa ra xung quanh. Tiếp đến là những hình tròn đồng tâm khắc hình vũ công nhảy múa, hình chim bay, hươu nai có gạc…
Nổi bật trên mặt trống đồng là hình ảnh con người lao động, họ săn bắn, đánh cá bằng những dụng cụ thô sơ. Họ vui sướng nhảy múa khi họ được làm chủ hoàn toàn thành quả lao động của mình sau những ngày tháng vất vả. Bên cạnh hình ảnh về cuộc sống lao động, con người còn thể hiện bản sắc văn hóa của mình qua những hành động đánh trống, thổi kèn và những điệu múa. Con người hòa nhập với thiên nhiên, thiên nhiên được thể hiện ở mặt trống cũng rất đa dạng và phong phú: những cánh cò bay lả bay la, những con chim Lạc, chim Hồng tung bay giữa bầu trời cao rộng, những đàn cá tung tăng bơi lội. Tất cả hòa nhập với nhau tạo nên cuộc sống sinh động nhiều màu sắc. Những hình ảnh trên mặt trống đồng thể hiện sự khát khao một cuộc sống ấm no, yên vui của người dân Việt Nam.
Trống đồng Đông Sơn phản ánh nền văn hóa của một thời kì lịch sử cổ xưa của ông cha ta. Nó là niềm tự hào của dân tộc ta trong nền văn hóa Đông Sơn.
Tả một đồ vật ở viện bảo tàng lớp 5 bài số 2: Đôi dép cao su
Hè năm nay, em được bố mẹ dẫn đi bảo tàng Hà Nội. Tại đây có trưng bày rất nhiều những đồ vật quý, có từ thời xa xưa như trống đồng Đông Sơn hay có cả những chiếc xích lô, những chiếc súng trong thời kỳ dân tộc ta kháng chiến. Nhưng em ấn tượng nhất chính là đôi dép cao su của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Nghe bố em kể rằng, đôi dép cao su có từ thời dân tộc ta kháng chiến chống Pháp. Đôi dép cao su ấy được để trong hộp kính thật trang trọng, bên cạnh là tấm biển nhỏ có ghi dòng chữ "Đôi dép cao su của Chủ tịch Hồ Chí Minh". Đôi dép cao su ấy, nhìn trông thật gọn nhẹ. Nó màu đen, đã cũ do bùn lầy dính vào, đế cũng đã mòn, còn bị bong tróc lớp cao su nữa. Đúng như tên gọi của nó, đôi dép ấy được làm bằng cao su và nó được bộ đội ta sử dụng thường xuyên vì nó rất phù hợp với nhiều kiểu loại thời tiết: trời mưa cũng có thể đi, trời nắng cũng đi được,...
Đôi dép cao su ấy phần đầu có hai quai vắt chéo nhau tạo thành hình chữ X. Phía dưới ấy cũng có hai quai nhưng không phải vắt thành hình chữ X là hai quai nằm ngang, song song với nhau. Với thiết kế như vậy thì khi đi, chiếc dép sẽ ôm vào chân, tạo cảm giác thoải mái, đặc biệt là trong những năm tháng kháng chiến, lúc ấy cả dân tộc ta còn nghèo, miếng ăn còn khó nên mọi việc người dân phải hết sức tiết kiệm, thì việc tận dụng những lốp xe đã cũ để làm dép đi thật là tiện lợi. Đặc biệt khi dép bị đứt quai thì có thể sửa lại để đi bình thường vô cùng dễ dàng. Chiếc dép cao su ấy thực sự rất có lợi đối với bộ đội ta, Chính vì vậy mà Bác Hồ kính yêu của chúng ta cũng sử dụng loại dép này, chẳng thế mà mọi người vẫn hay là đôi dép Bác Hồ ấy thôi.
Đôi dép ấy đã đồng hành cùng Bác, cùng với bộ đội ta trong năm tháng kháng chiến đầy vất vả, gian khổ và cả chiến thắng vang dội của ta nữa. Không chỉ trong thời chiến mà đến bây giờ, đôi dép ấy vẫn được nhiều người sử dụng vì nó rất tiện, gọn, nhẹ mà giá thành lại vô cùng hợp lý.
Mải ngắm đôi dép cao su, em thấy mình như vượt thời gian để quay trở về với những năm tháng hào hùng của dân tộc. Nhờ có lớp cha anh đi trước mà chúng em bây giờ mới được sống trong bầu không khí độc lập, tự do ấy. Vì vậy, chúng em phải cố gắng học tập thật tốt để đền đáp công ơn ấy, đồng thời phải lưu giữ, và truyền lại những gì là tinh hoa, những gì là minh chứng cho một thời đại của dân tộc.
Tả một đồ vật trong viện bảo tàng bài số 3: Lá cờ giải nhất Đố vui để học
Phòng Truyền thống trường em nằm cùng dãy nhà với phòng Thiết bị và Thư viện. Phòng Truyền thống trưng bày các hình ảnh, giải thưởng từ những phong trào mà nhà trường đã tham gia. Cùng với cúp thể thao và huy chương, lá cờ giải nhất "Đố vui để học" được trưng bày ở ngăn thứ hai của tủ kính.
Lá cờ hình tam giác, cạnh đáy tam giác là đầu cờ. Cờ rộng hai mươi bảy xăng-ti-mét, dài ba mươi lăm xăng-ti-mét. Cờ may bằng vải sa-tanh bóng màu đỏ thắm. Xung quanh cờ viền rua màu vàng đậm. Lá cờ được treo trong khung gỗ có chân đế. Chân đế khung cờ khắc chạm hoa văn vòng tròn và hình thoi xen kẽ nhau. Chân đế được đánh vec-ni bóng loáng nổi vân gỗ màu nâu sậm tuyệt đẹp. Đầu cờ được may chần hai xăng-ti-mét để luồn nẹp cứng treo vào khung. Trên nền cờ đỏ, nổi bật hàng chữ: Giải I - Đố vui để học - Huyện Cần Giờ - niên khoá 2011 - 2012 thêu bằng chỉ vàng đậm. Ở phần nhọn của lá cờ, người ta thêu một quyển sách mở rộng trang giấy cạnh một cây nến đã thắp sáng. Cờ được luồn nẹp và lồng dây rua vàng treo vào khung. Lá cờ được đặt trang trọng cạnh những cúp thể thao mà nhà trường đã giành được trong các kì thi Hội khoẻ Phù Đổng, các kì cắm trại của Liên chi đội trưởng.
Lá cờ tuy nhỏ nhưng nó là vật biểu tượng cho thành tích dạy và học của thầy trò trường em. Lá cờ còn mang ý nghĩa động viên, cổ vũ cho toàn trường dạy tốt và học tốt. Cờ được giữ gìn và trưng bày để chúng em phát huy năng lực học tập, học tốt, học giỏi hơn.
Ngắm lá cờ ở phòng Truyền thống nhà trường,em càng thêm yêu mến ngôi trường Tiểu học thân quen. Em tự hào trường em có nề nếp tốt, học tập giỏi. Em thấy mình cần phải nỗ lực hơn nữa trong học tập để không hổ thẹn là anh chị lớn, cánh chim đầu đàn của mái trường Tiểu học.
Tả một đồ vật trong viện bảo tàng bài số 4: Chiếc xe thồ
Tuần trước, lớp em được cô giáo dẫn đến thăm bảo tàng Dân tộc học. Em rất ấn tượng với cái xe đạp thồ.
Dạo quanh một lượt khu bảo tàng, chúng em thích thú với tất cả mọi hiện vật. Nhiều thứ bỡ ngỡ, lạ lẫm vô cùng. Bạn nào cũng tròn xoe đôi mắt, lắng tai nghe cô giáo thuyết minh. Khi vào sâu bên trong, ai nấy đều trầm trồ trước cái xe đạp thồ. Nhìn nó thật lạ mắt. Nó không giống với chiếc xe đạp bây giờ. Có lẽ nó đã nhiều tuổi rồi vẻ bên ngoài trông “tiều tụy” lắm. Lớp sơn tróc hết vỏ, để lộ những thanh sắt khẳng khiu màu đen. Cái xe đạp này cũng thô sơ, thiếu thốn đủ thứ. Xe không có chỗ ngồi phía sau. Tay lái đơn giản, không có dây phanh. Yên xe đã cũ, rách gần hết. Xe đạp có một thanh ngang nối đầu xe với thân xe nhìn có vẻ chắc chắn nhất. Hai lốp xe dường như không thể cũ hơn, đã mòn gần hết. Những cái đũa xe han gỉ, nằm im lìm. Bàn đạp đã mất một bên nhìn như chú thương binh vậy.
Tuy cái xe đạp cũ và chẳng có vẻ gì hấp dẫn nhưng được rất nhiều người quan tâm. Bởi lẽ nó có một lịch sử rất oai hùng. Nhìn bên ngoài ít ai biết được những việc nó đã “gánh vác”. Trong năm tháng chiến tranh của đất nước, những chiếc xe đạp thồ này không biết đã chở được bao chuyến hàng, đi được bao cây số, vượt qua bao nhiêu bom đạn... để tiếp viện cho tiền tuyến. Mặc cho bom rơi đạn lạc, những anh xe thồ này vẫn dũng cảm vượt qua. Vì thế giờ đây có vẻ già nua nhưng nó vẫn khoẻ lắm. Ai đến thăm cũng phải trầm trồ thán phục.
Anh xe đạp thồ nhìn xấu xí nhưng lại đẹp biết bao khi làm được những việc phi thường. Em rất yêu chiếc xe đạp thồ này.
Tả một đồ vật trong viện bảo tàng bài số 4: Bản gốc Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến
Trong chuyến đi tham quan triển lãm của Viện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, em đã may mắn được tận mắt quan sát "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" bản gốc, do chính tay Chủ tịch Hồ Chí Minh viết ra.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người cha già, là vị lãnh tụ vĩ đại của cả dân tộc Việt Nam ta. Bác đã đi xa, nên những bút tích Bác để lại đều mang một ý nghĩa vô cùng to lớn với dân tộc. Và bản thân "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" cũng đã mang một vai trò quan trọng then chốt đối với cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta. Vì vậy, khi được tận mắt quan sát bản viết tay "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" em đã xúc động vô cùng. Bút tích đó được viết trên hai mặt giấy A4. Vì đã trải qua khá lâu rồi nên trang giấy đã ố vàng. Nhưng nó vẫn còn rất nguyên vẹn, rõ ràng nét chữ nhờ được bảo quản tốt. Những dòng chữ của Bác trên trang giấy chẳng cần kẻ dòng vẫn thẳng lối. Nét bút ngay ngắn, dứt khoát, thể hiện sự mạnh mẽ, cương trực, thẳng thắn của người viết. Nội dung của "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" em đã được đọc trước đây rồi, nhưng khi đọc ở đây, từ chính nét bút của Bác, em vẫn thấy xúc động vô cùng. Em cảm giác sôi sục trong lồng ngực tình yêu nước và lòng căm thù giặc, tưởng chừng như muốn xông ra tiền tuyến để chiến đấu bảo vệ quốc gia. Toàn bộ bản "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" được đặt trong tủ kính để bảo vệ, và chúng em sẽ nhìn từ bên ngoài.
Em rất vịnh dự và may mắn khi được quan sát bút tích của Bác qua "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" một cách toàn vẹn và đầy đủ. Hạnh phúc xiết bao khi chúng em vẫn còn cơ hội được “gặp gỡ” Bác qua những đồ vật như thế này.
Tả một đồ vật trong viện bảo tàng bài số 5: Chiếc bình gốm thời nhà Nguyễn
Chủ nhật vừa rồi, em đã được bố mẹ cho đi thăm quan Viện bảo tàng của thành phố nơi em sinh sống. Tại đây, em đã có dịp chiêm ngưỡng rất nhiều những hiện vật lịch sử của dân tộc nhưng em cảm thấy ấn tượng nhất chính là chiếc bình làm bằng gốm từ thời nhà Nguyễn.
Chiếc bình được trưng bày trong một tủ kính có nắp đậy, kê trên một phiến đá nhỏ. Chiếc bình được làm theo hình dáng phần thân rộng còn phần cổ bình thì khum lại. Chiếc bình được tráng một lớp men sứ và được thiết kế hoa văn hết sức tinh xảo. Bình được đặt ở trung tâm của sảnh ở viện bảo tàng, ánh đèn flat rực rỡ từ trần nhà chiếu xuống càng làm chiếc bình trở nên đẹp, lộng lẫy và nổi bật hơn trong mắt những người đến thăm quan. Chiếc bình này có niên đại khá cổ, được làm từ thời triều đình nhà Nguyễn và tồn tại cho tới tận bây giờ.Tương truyền rằng, chiếc bình là nơi chứa đựng tinh hoa của đất trời, là vật linh thiêng có thể kết nối với các vị thần. Bởi vậy mà chiếc bình này luôn được trân trọng và nâng niu như một báu vật.
Toàn bộ chiếc bình là màu trắng của men sứ kết hợp hoàn hỏa cùng những hoa văn màu xanh lam tạo ra màu sắc hài hòa và thanh nhã. Hoa văn trên bình được chia làm ba phần riêng biệt: phần cổ bình, phần thân bình và cuối cùng là phần đáy bình. Phần cổ bình được thiết kế mềm mại với những dây leo lượn sóng đan kết vào nhau khiến cho người nhìn có cảm giác hài hòa mỗi khi chiêm ngưỡng. Tiếp theo là hoa văn ở thân bình, vẫn là những nét hoa văn xanh uốn lượn như sợi dây leo, nhưng lần này những sợi dây leo đó lại xuất phát từ những bông hoa được thiết kế ở góc trái của bình. Những cánh hoa được nghệ nhân vẽ rất mềm mại và sống động, trông giống như những bông hoa thật vậy. Cuối cùng là phần đáy bình. Lần này, không còn những đường vân, những bông hoa nữa mà thay vào đó là hai nét mực xanh tạo thành kết cấu hoàn chỉnh cho cả chiếc bình.
Màu men sứ trắng như tuyết kết hợp với màu xanh khiến cả chiếc bình mang vẻ đẹp vừa hài hòa, sống động vừa cổ kính, trang trọng. Ngay từ lần đầu tiên nhìn thấy chiếc bình này, em đã không thể rời mắt khỏi nó, bởi nó mang nét đẹp cuốn hút và tinh tế. Chính vì nét đẹp ấy, mà nhiều người giống như em đến cùng chiêm ngưỡng vẻ đẹp của chiếc bình và lắng nghe lịch sử của nó.
Em rất thích chiếc bình ấy. Sau buổi tham quan hôm ấy, hình ảnh chiếc bình như in đậm trong tâm trí em. Em sẽ cố gắng học thật giỏi để có thể lại được bố mẹ cho đi thăm bảo tàng lần nữa.
Tả một đồ vật trong viện bảo tàng bài số 6: Những chiếc máy bay trong chiến tranh
Chuyến thăm quan do trường tổ chức năm vừa rồi chúng em đã được tới thăm Bảo tàng Phòng không – Không quân. Viện bảo tàng những “chiến sĩ thép” có khuôn viên rộng và đẹp nằm ngay trên con đường Trường Chinh, đường tàu bay, không mấy xa lạ với nhiều chiến sĩ lão thành.
Từ ngoài cổng, chúng em đã có thể thấy một tòa nhà rất lớn với hàng chục bậc thềm lát đá dẫn lên sảnh trưng bày hiện vật chính trong nhà. Căn bảo tàng có kiến trúc hiện đại mà cũng rất cứng cáp với những cột trụ lớn ngay phía mặt tiền, tất cả không gian đó khiến chúng em không những choáng ngợp bởi những chiến tích lịch sử oai hùng được tìm hiểu ở nơi đây mà còn thấy mình bé nhỏ trước một không gian cũng thật rộng lớn.
Bảo tàng có một không gian trưng bày ngoài sân rất rộng, đây là nơi chúng em có thể tận tay sờ vào những chiếc máy bay đã từng tung hoành trên bầu trời và làm quân xâm lược phải khiếp sợ. Từ những chiếc F11, MIC, trực thăng… cho tới những bệ pháo cao xạ… tất cả đều gợi nhớ lại một thời oanh liệt nhưng cũng rất đau thương.
Em thích nhất chiếc Mic nhanh nhẹn mặc dù không đồ sộ như B52 của địch nhưng đã làm kè thù phải khiếp sợ. Mỗi chiếc máy bay đều có những câu chuyện của riêng mình, những chiến công đã được các cô các chú sĩ quan trong bảo tàng ghi lại tóm tắt trong một tấm bảng giới thiệu ngay phía bên dưới, nhưng dù có nói bao nhiêu cũng không thể đủ! Ai có thể hình dung đuợc bộ đội ta chỉ ngồi trên mâm pháo do Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa viện trợ đã lạc hậu mà nhờ mưu trí, sáng tạo, nhạy bén đã tính toán chính xác tọa độ để bắn rơi không biết bao nhiêu máy bay tối tân của địch khiến chúng tới giờ vẫn đi tìm câu trả lời.
Qua một vòng tham quan ngoài trời, chúng em quay trở vào khu nhà lớn và được cô hướng dẫn viên đưa tới tham quan một bức tượng nữ chiến sĩ đang giương cao khẩu súng ngắm bắn máy bay giặc, em cảm thấy một không khí trang nghiêm lạ thường, chưa hết ngạc nhiên này lại tới ngạc nhiên khác, chúng em được giới thiệu những bức ảnh đen trắng ghi lại những cảnh tra tấn các chiến sĩ cách mạng của ta khi xưa, những hố bom hay những nơi chôn xác B52 của kẻ thù… Chúng em được tận mắt thấy các loại súng, vũ khí, đạn dược chiến sĩ ta từng dùng trong các trận đánh và làm nên chiến thắng.
Trạm dừng chân cuối cùng là khu mô hình, chúng em được xem mô phỏng trận địa của một trận đánh, với cả sơ đồ, âm thanh và hình ảnh, tất cả như mới chỉ hôm qua vậy mà đã mấy chục năm gói lại.
Đi một ngày đàng, học một sàng khôn. Chỉ nghe kể qua những giờ học Lịch sử quả thực là chưa đủ, có sờ tận tay, có xem tận mắt những chiến tích đó mới thấy những con người Việt Nam anh dũng thế nào và giúp chúng em bổ sung vào bảo tàng tri thức của mình thêm nhiều trải nghiệm.
Tả một đồ vật trong viện bảo tàng bài số 7: Khẩu súng trường
Hôm nay là 27/7, ngày thương binh liệt sĩ, trường em đã tổ chức cho chúng em đi tham quan viện bảo tàng quân đội. Lần đầu được đến đây, em thấy thích thú vô cùng, có biết bao nhiêu thứ mới mẻ em chưa từng được thấy. Trong đó, em thích nhất là khẩu súng trường màu lục rất đẹp.
Khẩu súng này được bày trong một tủ kính được khóa chặt, tránh cho người bên ngoài có thể lấy trộm, bên cạnh có mảnh giấy ghi chú tên loại súng và một bức hình hai người chiến sĩ đang khoác vai nhau. Nghe cô hướng dẫn viên nói, khẩu súng này là của họ, được bày ở đây như một sự tôn kính, tri ân. Nhìn tổng thể, khẩu súng có màu xanh thẫm như màu áo lính, nặng tới bốn cân. Em tự nghĩ và thầm cảm thán sao cha ông ta khi xưa có thể mang chúng khắp một chặng đường dài, trên vai còn hành lí, ba lô nặng trịch. Cô hướng dẫn viên giới thiệu sơ qua về khẩu súng và phương thức vận hành của nó. Trước hết là tay cầm màu nâu, rồi hộp đạn màu đen, khóa nòng, lắp khóa nòng,...
Khẩu súng này có nhiều mức độ điều chỉnh, có thể bắn từng viên một, lại có thế bắn liên thanh. Khi bắn, các chiến sĩ của ta phải ngắm bắn kĩ mục tiêu, chỉnh hướng, góc bắn theo bộ phận ngắm được lắp sẵn. Sau khi bóp cò, búa đạp vào kim hỏa, kim hỏa lại chọc vào hạt lửa. Khi đó, khí thuốc truyền qua lỗ truyền khí, đẩy vỏ đạn ra ngoài và viên đạn bắn thẳng về phía trước. Khẩu súng còn có một dây đeo cũng màu xanh để các chiến sĩ tiện mang theo bên mình. Súng có tầm bắn rất xa, có thể bắn tới 1000m. Súng còn có lưỡi lê gắn ở phía trên để khi đánh giáp lá cà có thể dễ dàng chiến đấu.
Đặt bên cạnh là một túi cát nhỏ có công dụng để kê khi bộ độ ta ngắm bắn. Nghe cô hướng dẫn viên giới thiệu, giải thích tỉ mỉ về cây súng, trong đầu em bỗng hiện lên hình ảnh chiến trường năm nào ác liệt, những khẩu súng đồng hành cùng những binh đoàn đi khắp nơi tìm lại tự do cho Tổ quốc, những ngày tháng gian lao vất vả, cây súng như kim chỉ nam lí tưởng, hướng các anh tiến về phía trước.
Cây súng có lẽ đã trở thành lí tưởng của một thời hoa lửa. Nhìn khẩu súng lặng im nằm trong tủ kính, ta càng thêm yêu, thêm trân trọng cuộc sống yên bình ngày hôm nay đã phải đánh đổi bao nhiêu xương máu của thế hệ đi trước, để không ngừng cố gắng, không ngừng nỗ lực đi lên.
Nguồn văn mẫu: Sưu tầm & Tổng hợp
Các em vừa tham khảo qua bài văn mẫu lớp 5 tả một đồ vật trong viện bảo tàng hoặc trong nhà truyền thống mà em có dịp quan sát do Đọc tài liệu tổng hợp và biên soạn. Hy vọng với tài liệu này, các em có thêm những ý văn hay để bổ sung cho nội dung bài viết của mình được hấp dẫn hơn, phục vụ tốt cho việc học bộ môn tap lam van lop 5.