Để giúp các em có thêm tài liệu tham khảo, và biết cách viết bài văn nêu suy nghĩ về một bài thơ. Trong bài viết này Đọc tài liệu sẽ hướng dẫn các em lập dàn ý và tổng hợp 3 bài văn mẫu hay cho đề bài "Suy nghĩ về bài thơ Bảo Kính cảnh giới 43 của Nguyễn Trãi".
Dưới đây là nội dung chi tiết, mời các em tham khảo:
Dàn ý Suy nghĩ về bài thơ Bảo Kính cảnh giới 43 của Nguyễn Trãi
I. Mở bài
- Nguyễn Trãi một nhà thơ, nhà văn tài năng kiệt xuất của dân tộc, ông đã có nhiều đóng góp lớn cho nền văn học nước nhà.
- “Cảnh ngày hè” một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp và tấm lòng yêu nước thương dân của tác giả.
II. Thân bài
- Bức tranh cảnh ngày hè nổi lên với bức tranh thiên nhiên ngày hè rực rỡ:
+ Cây hòe có sức sống mãnh liệt giờ tán là xanh che phủ cả khoảng không gian.
+ Sắc đỏ của cây thạch lựu tô đậm thêm cho khung cảnh ngày hè.
+ Hương hoa sen tỏa ngát bay theo làn gió.
⇒ Cảnh vật ngày hè tươi tắn tràn đầy sức sống.
- Nghệ thuật ngôn từ được sử dụng:
+ Từ láy “đùn đùn, lao xao, dắng dỏi”: gợi cảnh ngày hè xôn xao, náo nức, không khí rất nhộn nhịp.
+ Động từ “rợp, đùn, tiễn”: khiến cho người đọc thấy được cảm giác sức sống trỗi dậy của cảnh vật mùa hè.
- Nhà thơ đã cảm nhận cái tinh tế, thú vị của ngày hè qua thị giác và thính giác:
+ Nhà thơ nhìn những tán lá xanh cây hòe, màu đỏ rực của thạch lựu, tiếng ve kêu ran cả khoảng không gian và hình ảnh người dân làng chài mỗi sớm thức dậy và bóng người kéo lưới buổi chiều ta.
+ Ngày hè cảm nhận qua thính giác khi nhà thơ thấy được hương sen thoảng theo gió.
⇒ Tâm hồn nhà thơ Nguyễn Trãi được hòa vào thiên nhiên, nói lên được tác giả là người rất yêu đời, yêu cuộc sống.
- Tình yêu nước thương dân của Nguyễn Trãi:
+ Phong thái ung dung tự tại của nhà thơ khi về ở ẩn không muốn vướng bận đến chuyện quan trường.
+ hững trong thâm tâm ông luôn nghĩ về dân, lo cho dân, lo cho nước, ông luôn khao khát nhân dân được hưởng một cuộc sống thái bình, no đủ.
+ Ca ngợi các đời vua ngự trị anh minh mang đến cuộc sống hạnh phúc, ấm no.
III. Kết bài
- Nhấn mạnh lại tình yêu thiên nhiên của tác giả đồng ca ngợi đức tính tốt đẹp của bậc thi nhân dù xin cáo quan về ở ẩn nhưng vẫn một lòng lo cho sự nghiệp chung đất nước.
Tham khảo thêm: Viết đoạn văn phân tích yếu tố phá cách trong bài Bảo kính cảnh giới
Top 3 văn mẫuSuy nghĩ về bài thơ Bảo Kính cảnh giới 43 của Nguyễn Trãi
Từ việc xác định ý chính cho bài văn nêu suy nghĩ về một bài thơ thông qua lập dàn ý, các em sẽ triển khai bài văn nêu suy nghĩ của em về tác phẩm. Dưới đây là tuyển chọn những bài văn hay mà Đọc tài liệu đã tổng hợp để các em có thêm tài liệu tham khảo để viết tốt bài văn nêu suy nghĩ về Bảo Kính cảnh giới
Suy nghĩ về bài thơ Bảo Kính cảnh giới ngắn gọn - Mẫu 1
“Bảo Kính cảnh giới” là một trong những bài thơ nổi tiếng của Nguyễn Trãi. Tác phẩm được nhà thơ sáng tác khi đã cáo quan, lui về ở ẩn. Trong đó, bức tranh thiên nhiên ngày hè được miêu tả thật sinh động.
Trước hết, Nguyễn Trãi là một nhà thơ có tình yêu thiên nhiên tha thiết. Bức tranh thiên nhiên Bảo Kính cảnh giới được ông khắc họa thật sinh động. Câu thơ mở đầu đọc lên nghe thật êm đềm gợi một cuộc sống yên bình, thư thái: “Rồi hóng mát thuở ngày trường”. Từ “rồi” ở đây có nghĩa là rảnh rỗi, nhàn hạ. Rảnh rỗi trong suốt “ngày trường” có nghĩa là ngày dài, để ngồi “hóng mát” - một hoạt động an nhàn, tĩnh tại, thư thái. Từ đó ta thấy được tâm thế an nhàn, thảnh thơi của tác giả. Nguyễn Trãi đã một đời bận rộn, tận tâm vì đất nước, chính lúc này là những giây phút rảnh rỗi hiếm hoi của cuộc đời.
Nhờ có vậy, ông được gần gũi với thiên nhiên hơn. Bức tranh Bảo Kính cảnh giới nổi lên với bức tranh thiên nhiên ngày hè rực rỡ:
“Hoè lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”
Nguyễn Trãi cảm thấy say mê, thích thú trước vẻ đẹp của thiên nhiên ngày hè. Cây hoa hòe có sức sống mãnh liệt giờ tán là xanh che phủ cả khoảng không gian. Cùng với sắc đỏ của cây thạch lựu tô đậm thêm cho khung cảnh. Ao sen tỏa hương ngan ngát bay theo làn gió. Cảnh thiên nhiên được nhà thơ cảm nhận qua màu sắc, hương thơm. Phải là người có tấm lòng yêu thiên nhiên sâu sắc thì Nguyễn Trãi mới có những phát hiện tinh tế, tuyệt vời đến vậy.
Nhà thơ còn cảm nhận bức tranh thiên nhiên qua những âm thanh:
“Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”
Việc sử dụng nhiều từ Hán Việt như “ngư phủ, cầm ve, tịch dương” kết hợp nhuần nhuyễn với những từ thuần Việt như “lao xao”, dắng dỏi” tạo nên vẻ đẹp vừa mộc mạc, bình dị, vừa trang trọng tao nhã. Cuộc sống của con người không chỉ được cảm nhận bằng thị giác mà còn được cảm nhận bằng thính giác. Đó là âm thanh từ làng chợ cá, của tiếng ve râm ran mỗi độ hè về. Những âm thanh đặc trưng của ngày hè nơi làng quê khiến ngày hè trở nên vui vẻ, nhộn nhịp. Thế mới thấy được một tâm hồn luôn tha thiết với cuộc sống làng quê của Nguyễn Trãi.
Bài thơ “Bảo Kính cảnh giới” không chỉ đặc sắc về nội dung mà còn về nghệ thuật. Từ đó, người đọc cảm nhận được tâm hồn yêu thiên nhiên tha thiết của Nguyễn Trãi.
Suy nghĩ về bài thơ Bảo Kính cảnh giới - Mẫu 2
Nguyễn Trãi là đại thi hào dân tộc, là danh nhân văn hóa của Đại Việt, đồng thời ông còn là tác giả áng thiên cổ hùng văn "Bình ngô đại cáo". Ngoài ngòi bút sắc bén, lập luận đanh thép với dẫn chứng thuyết phục trong những áng văn chính luận, ta còn bắt gặp một Nguyễn Trãi với phong thái nhàn tản, giao cảm hòa hợp cùng thiên nhiên trong "Bảo kính cảnh giới 43". Không chỉ mang chất trữ tình sâu sắc, bài thơ chứa đựng cả nội dung mang tính giáo huấn người đời, ngời sáng tâm hồn lí tưởng của bậc thi sĩ lớn Ức Trai.
Trước hết, bài thơ thể hiện tình yêu cũng như tâm hồn tinh tế và sự giao cảm mạnh mẽ đối với thiên nhiên của tác giả Nguyễn Trãi. Nhân vật trữ tình xuất hiện trong phong thái ung dung tự tại: "Rồi hóng mát thuở ngày trường". Như chúng ta đã biết, Nguyễn Trãi là nhà thơ nặng lòng với thiên nhiên và luôn mở lòng với thiên nhiên trong mọi hoàn cảnh, nhưng khoảnh khắc rảnh rỗi vào một ngày khí trời mát mẻ, trong lành thì quả là hiếm hoi. Nếu người xưa thường thiên về vịnh cảnh thì Nguyễn Trãi lại vận dụng bút pháp tả. Và rồi bằng sự quan sát tinh tế của nhân vật trữ tình, bức tranh thiên nhiên đầy sức sống đã hiện lên:
"Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương"
Những sắc màu của cảnh vật hiện lên trong sự giao hòa: Màu lục của lá hòe cùng màu đỏ của hoa thạch lựu đan cài vào nhau trong ánh mặt trời buổi chiều. Đặc biệt hơn, cảnh vật được miêu tả trong sự chuyển động tạo nên một bức tranh căng tràn sức sống. Tác giả đã sử dụng những động từ mạnh: "đùn đùn", "trương", "phun" gợi nên sự tràn đầy và sức sống từ nội tại đang ứa căng và không kìm lại được và phải bộc phát ra bên ngoài. Đại thi hào Nguyễn Du cũng đã từng miêu tả cảnh sắc mùa hè bằng sắc hoa lựu: "Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông" (trích "Truyện Kiều"). Với từ "lập lòe", tác giả Nguyễn Du đã tạo nên sự độc đáo trong việc tạo hình sắc, còn Nguyễn Trãi lại nhấn mạnh sức sống của cảnh vật, thể hiện rõ cái nhìn tinh tế đối với cảnh vật của hai thi sĩ tài ba. Thi nhân đã vận dụng nhiều giác quan: thị giác, thính giác và khứu giác kết hợp cùng trí tưởng tượng phong phú để đón nhận vẻ đẹp của thiên nhiên, cho thấy sự giao cảm mạnh mẽ nhưng vô cùng tinh tế của Ức Trai đối với cảnh vật.
Không chỉ dừng lại ở đó, bên cạnh màu sắc tác giả còn tô điểm cho bức tranh thiên nhiên âm thanh, đường nét hệt như một người họa sĩ tài ba tạo nên một kiệt tác có hồn của tạo vật. "Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ" với sự kết hợp của động từ "phun" và "thức"- màu vẻ, dáng vẻ, câu thơ đã diễn tả thành công cái hồn và thần thái của cảnh vật. Cảnh vật mùa hè còn được miêu tả qua hình ảnh rất đặc trưng: Đóa sen trong ao đã tỏa hương thơm ngát, tạo nên một bức tranh hài hòa về màu sắc và hương vị.
Bài thơ còn khắc họa bức chân dung của một con người luôn hết lòng vì dân, vì nước. Mặc dù đang hòa mình đắm say trong vẻ đẹp sinh động, đáng yêu và tràn trề sức sống của thiên nhiên nhưng tác giả vẫn hướng đôi mắt quan sát của mình đến cuộc sống của con người:
"Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương"
Bức tranh mùa hè được bổ sung thêm những nét vẽ về cuộc sống của con người với thanh âm của "lao xao" của chợ cá tại một làng chài ven sông cùng tiếng dắng dỏi của cầm ve. Cuộc sống yên vui, no đủ của người dân đã gợi lên trong lòng tác giả một mong ước hết sức cao đẹp:
"Dẽ có Ngu Cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ, khắp đòi phương"
Tác giả mong ước có được chiếc đàn của vua Thuấn để gảy nên khúc Nam Phong ca ngợi đời sống ấm no hạnh phúc của nhân dân. Câu thơ kết thúc bài được kiến tạo theo cách ngắt nhịp 3/3, thể hiện rõ sự rồn nén cảm xúc của bài thơ. Mở đầu bằng bức tranh thiên nhiên giàu hình ảnh, màu sắc, hình khối, đường nét nhưng kết thúc bằng câu thơ nói về con người cho thấy điểm kết mà tác giả muốn hướng đến không phải ở thiên nhiên tạo vật mà chính ở con người. Điều này đã thể hiện rõ tâm hồn hết sức cao cả và vĩ đại của Nguyễn Trãi- vị anh hùng dân tộc luôn mong muốn cho dân được ấm no, hạnh phúc.
Như vậy, thông qua bài thơ, chúng ta có thể thấy được tình yêu cùng sự giao hòa đối với thiên nhiên của tác giả, giống như ông đã từng bộc bạch: "Non nước cùng ta đã có duyên" ("Tự thán"- bài 4). Là một thi sĩ, ông đến với thiên nhiên trong mọi hoàn cảnh nhưng cuối cùng, tâm hồn của ông vẫn hướng đến nhân dân, đến đất nước. Qua lời tâm sự và mong ước về cuộc sống của nhân dân, độc giả có thể thấy được tâm hồn và lí tưởng cao đẹp của tác giả Nguyễn Trãi. Tình yêu thiên nhiên, tạo vật đã quyện hòa và làm ngời sáng hơn nữa tình yêu đối với đất nước, nhân dân.
Suy nghĩ về bài thơ Bảo Kính cảnh giới - Mẫu 3
Thơ Quê Hương của Nguyễn Bỉnh Khiêm nói nhiều đến sự an phận, trầm tĩnh của một con người hành ít tàng nhiều, cuộc đời hầu như gắn liền với thôn dã. Nguyễn Du hẳn trong tâm trí người đọc nỗi đau day dứt, của kẻ xa quê, lênh đênh góc bể chân trời. Thơ Nguyễn Trãi khác hẳn. Con người anh hùng đó, dù buồn phiền, chán nản cho sự nghiệp kinh bang tế thế không trọn vẹn vẫn không nhìn quê hương, nơi dừng chân cuối cùng của đời mình, như một lồng sắt giam lỏng cánh chim bằng. Tấm lòng ông đối với quê hương bao giờ cũng chân thành, hồn hậu, trầm lắng nhưng mãnh liệt. Nguyễn Trãi hội nhập rất nhanh vào đời sống thôn dã tĩnh lặng. Ông không bức bối, buồn phiền nhiều mà còn rất vui, rất tự hào khi thốt lên: Quê cũ nhà ta thiếu của nào (Mạn thuật 13), khi gọi mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông là bạn, khi cho rằng dòng suối ở Côn Sơn là nơi có thể giúp mình gột rửa hết mọi vẩn đục của cuộc đời quan trường. Cái “tâm” của nhà thơ bao giờ cũng trong sáng, vững chãi trước đổi thay dâu bể. Bài Bảo kính cảnh giới 43 là một ví dụ tiêu biểu cho cái “tâm” đó.
Những năm tháng cuối đời là chặng đường đầy gian khổ, thử thách đổi với Nguyễn Trãi. Sự nghiệp củng cố, xây dựng triều đình nhà Lê của ông chưa được thực hiện trọn vẹn. Chốn triều đình đầy hiềm thù, nghi kị. Nơi thôn dã Côn Sơn chỉ là chỗ dừng chân bắt buộc đối với một con người khát khao cống hiến đời mình cho đất nước, dân tộc như Nguyễn Trãi. Thế nhưng, trong thơ ông, bao giờ ta cũng bắt gặp một phong thái ung dung, tự tại, một trái tim yêu đời, yêu người luôn rộng mở, nhạy cảm. Chính nhịp điệu của câu thơ đầu tiên trong Bảo kính cảnh giới 43 giúp ta nhận ra phong thái rất riêng đó:
"Rồi hóng mát thuở ngày trường."
Nhịp cắt của câu thơ gợi từng bước đi khoan thai, đĩnh đạc, đầy tự tin và tâm thế nhẹ nhõm, thoải mái của Nguyễn Trãi. Con người đó, tuổi đã cao, thảnh thơi, tự hào, thỏa mãn về sự nghiệp mà mình thực hiện được thời trai trẻ, giờ thì tạm rỗi rảnh, thong dong hóng mát, hòa mình vào cảnh đẹp, vào cuộc đời để thêm yêu đời, yêu cuộc sống. Phong thái ung dung này hiện diện trong rất nhiều câu thơ khác của Nguyễn Trãi. Nhà thơ đủng đỉnh chiều hôm dắt tay (Mạn thuật), Thưởng mai về đạp bóng trăng (Ngôn chí 15), ngồi trên thuyền dạo chơi trong cái thế hứng khởi của gió, của trăng:
“Mái thác trăng dường thế hứng
Buồn nhân gió mặc khi phiêu”
(Tự thuật 31)
Đó là tính cách riêng của Nguyễn Trãi, một người luôn chủ động, tự tin trước mọi hoàn cảnh dù khó khăn buồn phiền nhất mà quả thật là ông đang buồn phiền! Cái thuở ngày trường được nhấn mạnh ở đây không hẳn chỉ là để xác định khoảng thời gian mùa hè như một hiện tượng địa lí. Nó là khoảng thời gian tâm tưởng. Nó bị chi phối bởi cảm giác, bởi nỗi buồn sâu lắng của nhà thơ trong hoàn cảnh bị bắt buộc ở ẩn. Vì là những ngày tháng vô vị, chờ đợi nên nó thăm thẳm, dằng dặc, nó dài một cách khác thường! Dù vậy, với bản lĩnh, nghị lực mạnh mẽ của mình nhà thơ vẫn có thể bình tĩnh, thoải mái trong cái tư thế của một người thưởng ngoạn. Phẩm chất đẹp đẽ đó chỉ có thể được hình thành trong quá trình vượt qua bao nỗi thăng trầm gian nan của một người anh hùng.
"Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương"
Màu xanh lục của cây hòe xum xuê cành lá được nhấn mạnh ngay ở câu thứ 2 và đó là cái nền màu chủ yếu trong bức tranh hè của Nguyễn Trãi. Nó đập vào mắt người đọc đầu tiên bằng ấn tượng mãnh liệt của một màu xanh đậm đặc, của một sức sống đang đùn lên, che mát của một khoảng sân. Có thể cảm nhận được sức sống đó bằng hai từ có mối liên hệ tăng tiến được dồn vào một câu thơ: đùn đùn, rợp. Cảm giác về cái gay gắt của nắng hè không còn nữa, cái rực rỡ của nắng chỉ làm cho màu xanh lục thêm tươi tắn, lóng lánh. Dùng gam màu lạnh mà vẫn tạo cảm giác ấm cúng, sảng khoái bởi lẽ Nguyễn Trãi đã chấm phá trên liền màu ấy những bông hoa lựu đỏ thẫm chợt bật lên bằng một từ phun giàu sức gợi tả và cũng nằm trong mối quan hệ với hai từ độc đáo ở câu trên. Sự tương phản giữa màu đỏ của lựu và màu xanh của hòe tạo tiếp một ấn tượng mới mẻ về sự vận động của màu sắc, sự sống mãnh liệt của hoa lá. Chúng tranh nhau đùn ra, phùn ra tạo một cảm giác choáng ngợp! Hồ Xuân Hương cũng là một nhà thơ nổi tiếng với tài sử dụng màu sắc tương phản gay gắt mà sống động lạ thường: Cửa son đỏ loét bùm bum nóc - Bật đá xanh rì lún phún rêu (Đèo Ba Dội), hay Một trái trăng thu chín mõm mòm - Nảy vừng quê đỏ, đỏ lòm lom (Hỏi trăng 1). Đó là thứ màu không nhàn nhạt như thuốc nước mà đậm đặc, thô ráp ấn tượng chân thật và có sức tác động mạnh mẽ.
Câu 4 thể hiện sự cảm nhận tinh tế của tác giả trong khung cảnh tĩnh lặng của bức tranh. Quả thật, cảnh phải thật sự tĩnh lặng, người làm thơ phải thật sự đắm mình trong khung cảnh êm đềm mới nhận ra hương sen chỉ còn thoang thoảng đâu đó giữa không gian cuối hè. Tĩnh nhưng thật là (lộng bởi tác giả dùng tĩnh để tả động, dùng thuở êm vắng của ngày trường để tả sức sống của thiên nhiên.
"Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương"
Đến câu 5, 6 tác giả lại dùng động để tả tĩnh, khắc họa tiếng lao xao xa xa của người, tiếng dắng dỏi của cầm ve. Những âm thanh ấy lại là bước chuyển, gọi tiếp cho tác giả liên tưởng đến một âm thanh khác, không có thực. Nó nằm trong mơ ước của nhà thơ. Đó là tiếng đàn. Tiếng đàn ấy lại mở tiếp cho người đọc hình dung được những âm thanh khác: tiếng cười nói hạnh phúc của những người dân sống trong cảnh ấm no, thanh bình. Và cũng chỉ có được sự vắng lặng thanh bình, mơ ước của nhà thơ mới được gợi mở, ngân vang thành một tiếng đàn! Nét tinh tế của bài thơ là vậy.
Từ mơ ước đó, ta thấy được cái tâm trong sáng, chân thành luôn chan hòa trong những bài thơ viết về quê hương của ức Trai.
-/-
Hy vọng với những bài văn mẫu "Suy nghĩ về bài thơ Bảo Kính cảnh giới 43 của Nguyễn Trãi" mà Đọc tài liệu tổng hợp giúp các em có thêm tài liệu tham khảo. Cùng với trọn bộ văn mẫu lớp 10 là những tài liệu hữu ích giúp các em học tốt Ngữ Văn 10!