Cùng Đọc Tài Liệu tham khảo những bài văn mẫu trình bày nêu suy nghĩ, cảm xúc và lí do yêu thích của bản thân đối với một bài thơ đã học ở sách Ngữ văn 7, tập hai, hy vọng sẽ giúp các em có thêm nguồn tài liệu tham khảo hữu ích trong quá trình ôn luyện kĩ năng làm văn.
Gợi ý dàn ý chi tiết Suy nghĩ, cảm xúc và lí do yêu thích của bản thân đối với một bài thơ
1. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả: tên tuổi, bút danh, vị trí trong nền văn học, chủ đề sáng tác, phong cách sáng tác, những đóng góp của tác giả đối với phong trào văn học, giai đoạn văn học và nền văn học dân tộc.
- Giới thiệu về bài thơ: hoàn cảnh xuất xứ, nội dung chính.
2. Thân bài
- Khái quát về vị trí trích đoạn, bố cục, mạch cảm xúc chủ đạo của bài thơ.
- Phân tích bài thơ/đoạn thơ: trích thơ rồi lần lượt phân tích những từ ngữ, hình ảnh, biện pháp tu từ,… trong từng câu thơ, giải mã đúng từ ngữ, hình ảnh đó để giúp người đọc cảm thấy được những cái hay, cái đặc sắc về nội dung, nghệ thuật của bài thơ.
- Nhận xét đánh giá bài thơ:
+ Đánh giá về nội dung, tư tưởng của bài thơ
+ Đánh giá về nghệ thuật biểu hiện đặc sắc
+ Đánh giá về phong cách tác giả
3. Kết bài
- Khẳng định lại toàn bộ gia trị về nội dung, nghệ thuật của bài thơ.
- Liên hệ bản thân và cuộc sống (nếu có).
Top 5 bài văn hay nêu suy nghĩ, cảm xúc và lí do yêu thích của bản thân đối với một bài thơ
Dưới đây là một số bài văn hay trình bày suy nghĩ, cảm xúc và lí do yêu thích của bản thân đối với một bài thơ do Đọc Tài Liệu tổng hợp được hi vọng sẽ giúp các em có thêm vốn từ ngữ và rút kinh nghiệm về cách trình bày.
Suy nghĩ, cảm xúc và lí do yêu thích của bản thân đối với một bài thơ mẫu số 1:
Những cánh buồm của Hoàng Trung Thông là Bài thơ giàu chất suy tư, trầm lắng trong hình ảnh thơ hai cha con với những hoài bão trong sáng làm xúc động lòng người.
Hình ảnh những cánh buồm là hình tượng thể hiện ước mơ được bay xa của nhà thơ. Nó xuyên suốt cả bài thơ.
Hình ảnh hai cha con giữa thiên nhiên, chan hòa màu sắc rực rỡ:
Hai cha con bước đi trên cát
Ánh mặt trời rực rỡ biển xanh
Bóng cha dài lênh khênh
Bóng con tròn chắc nịch
Hai cha con bước đi trên cát, chan chứa một hơi ấm lan truyền chan hòa trong sắc trời đại dương thật kỳ diệu. bóng hai cha con nổi bật hẳn với sự bé nhỏ của con người trước khung cảnh thiên nhiên bao la. Hình ảnh đối lập thật dễ thương đó là bóng lênh khênh của cha bên cái bóng tròn chắc nịch thể hiện sự khác biệt giữa hai thế hệ cha con đang trên cùng một hướng đi.
Đại dương chứa chang huyền diệu, sau trận mưa biển càng đẹp càng trong, cũng như hai cha con trong bóng chân dài và gầy để cho con sự chắc nịch khỏe khoắn. đó là quy luật của tạo hóa. Những gì cha mơ ước ngày trước sự rả rích của trận mưa thì ngày sau người con lại tiếp tục đưa ước mơ bay xa. Người cha chỉ dẫn cho con đi trong thế giới màu hồng của một chân trời trong tương lai rộng mở.
Với tâm trạng náo nức của người con làm cho người cha muốn đưa con trai mình đi tìm ước mơ mới. bay xa hơn. Những lời tâm sự của người cha làm cho người con thêm một tí hi vọng, một tí mơ ước và những hình ảnh bền bỉ bước đi của cha và con.
Đó chính là những ước muốn táo bạo của người con muốn khám phá một trong những cánh buồm đầy ước mơ của trẻ thơ. Muốn đi khắp nơi, muốn xông pha trên biển cả. đó chính là những lời nói hôn nhiên ấp ủ một hoài bão ước mơ. Tác giả đã thể hiện một cách tinh tế và đặc sắc một cách khát vọng sống đang cháy bổng trong mỗi con người.
Bài thơ đặc sắc với những hình ảnh tượng thơ độc đáo, nhịp thơ vừa trầm vừa lắng, vừa bay bổng như dàn trải ào ạt những cảm xúc dào dạt của tác giả. Đó là tầm cao của ước mơ, của khát vọng được chinh phục, được khám phá thiên nhiên được làm chủ nó.
Bài thơ đã gieo vào lòng thế hệ trẻ những ước mơ bay bổng, thúc giục chúng ta tìm tòi, học hỏi và khám phá để vươn tới chiếm lĩnh chinh phục thế giới vũ trụ. Nó động viên chúng ta phấn đấu không ngừng để vươn tới tầm cao của thời đại. Bài thơ đã gây xúc động lòng người nhà thơ đã thổi cho cánh buồm của tuổi thơ một phần nào hơi gió của cuộc sống mà tương lai lớp trẻ sẽ căng phồng vượt xa trong chân trời mới đang rộng mở.
Suy nghĩ, cảm xúc và lí do yêu thích của bản thân đối với một bài thơ mẫu số 2:
Những mùa quả mẹ tôi hái được
Mẹ vẫn trông vào tay mẹ vun trồng
Những mùa quả lặn rồi lại mọc
Như mặt trời khi như mặt trăng
Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên
Còn những bí và bầu thì lớn xuống
Chúng mang dáng giọt mồ hôi mặn
Rỏ xuống lòng thầm lặng mẹ tôi
Và chúng tôi, một thứ quả trên đời
Bảy mươi tuổi mẹ đợi chờ được hái
Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi
Mình vẫn còn một thứ quả non xanh.
Bài thơ là một hiện minh thuyết phục về luật nhân - quả trong cuộc sống con người - thế giới khách quan với tính biện chứng sâu sắc của nó. Hình tượng Mẹ và Quả xuyên suốt toàn bài thơ làm sáng rõ thêm cho luật nhân - quả (nhân nào thì quả ấy...) đã tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm, tâm hồn mỗi chúng ta.
Những mùa quả mẹ tôi hái được
Mẹ vẫn trông vào tay mẹ vun trồng
Hai câu thơ mở đầu là một sự khẳng định, định hướng tính biện chứng về luật nhân - quả. Vì sao như vậy? Vì:
"Những mùa quả mẹ tôi hái được
Mẹ vẫn trông vào tay mẹ vun trồng"
Dẫu tay của ai khác có thể khoẻ, chắc (!) hơn tay mẹ nhưng phẩm chất của mẹ là tự lực cánh sinh. Là người từng trải mẹ không thiếu kinh nghiệm về sự trả giá đó. Mẹ chỉ thu hoạch được, hái được những mùa quả từ tay mẹ vun trồng mà thôi. Những mùa quả với mẹ cần thiết biết bao, không thể thiếu nó được. Và nữa, những mùa quả không phải lúc nào cũng có, thậm chí có khi "thất bát" trắng tay nhưng thường là tuần tự theo một chu kỳ nhất định, lặn rồi lại mọc – như mặt trời khi như mặt trăng. Cho nên theo mẹ không thể “Đại Lãn chờ sung" mà được, phải có thời gian vun trồng, chăm sóc và chờ đợi. Sự “vun trồng” của mẹ phụ thuộc vào mẹ, vun trồng chu đáo kỹ lưỡng ắt sẽ được quả tốt, ngược lại, thì...
Thời gian chăm sóc - chờ đợi là thời gian quả lặn. Còn khi thu hoạch (quả chín, quả đến kỳ hái được), chính là thời gian quả mọc. Hai từ "lặn" và "mọc" thật ấn tượng. Đây là một ẩn dụ đầy tính sáng tạo của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm khi nói về luật nhân - quả trong chu kỳ trồng trọt của nhà nông.
Nhưng vấn đề không dừng lại ở quy luật trồng trọt của nhà nông. Điều chính yếu là trong bài thơ này là Nguyễn Khoa Điềm nói đến công lao dưỡng dục sinh thành của người mẹ đối với con cái. Tay mẹ như có phép thần nên "lũ chúng tôi" (là con của mẹ) cứ thế lớn lên qua sự chăm sóc nuôi dưỡng của mẹ.
"Còn những bí và bầu thì lớn xuống
Chúng mang dáng giọt mồ hôi mặn
Rỏ xuống lòng thầm lặng mẹ tôi".
Các câu thơ đọc lên nghe thật ấm áp, dân giã, tưởng như không có gì dân giã hơn, bởi đó là lời ăn tiếng nói hàng ngày gắn bó thân thiết của nhà nông. Nguyễn Khoa Điềm đã chọn quả bí, quả bầu với đặc trưng của nó là "lớn xuống", hình dáng lại "mang dáng giọt mô hôi mặn" nhằm diễn tả nỗi khổ nhọc, vất vả của mẹ. Biết bao giọt mồ hôi mặn của mẹ đã nhỏ xuống âm thầm, lặng lẽ để “kết nên” những quả bí, quả bầu.
Điều thiết thực là, chính những quả bí, quả bầu này (có thể còn nhiều loại hoa màu khác) lại là nguồn sống nuôi dưỡng cho "lũ chúng tôi" lớn lên. Hẳn là mẹ rất vui và tin tưởng vào sự "vun trồng" của mình sẽ được đền bù xứng đáng. Không có người mẹ nào nuôi con mà kể công lao. Trái lại, con cái nhiều khi... Thế nên, dân gian mới truyền đời
"Mẹ nuôi con biển hồ lai láng
Con nuôi mẹ tính tháng ngày công".
Ngẫm thật chạnh lòng phải không bạn?! Chính vậy mà cha ông vẫn luôn răn dạy con trẻ rằng:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Như vậy, đủ thấy các bậc làm cha làm mẹ luôn mong muốn gì ở các con? Nguyễn Khoa Điềm đã lý giải điều đó một cách chân thành, mộc mạc và thấm thía qua khổ thơ cuối của bài. Từ chuyện quả thật do cây tạo ra đến quả - con người do dưỡng dục mà thành – là một chuyển ý bất ngờ độc đáo của nhà thơ:
Và chúng tôi, một thứ quả trên đời
Bảy mươi tuổi mẹ đợi chờ được hái
Tứ của bài thơ chính là ở hai câu này. Đời của mẹ đã bao lần hái được quả nhưng điều để mẹ toại nguyện hơn cả là mong muốn các con trở thành một thứ "quả lành có ích" cho đời vì mẹ đã "thất thập cổ lai hy" rồi. Tưởng thế là đủ không cần phải nói gì thêm. Đọc tiếp hai câu cuối của bài thơ mới thấy chữ HIẾU của đứa con đặt ra vượt hẳn trên sự nghĩ bình thường của mẹ, của nhân gian:
Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi
Mình vẫn còn một thứ quả non xanh.
Thật là tài tình. Đứa con Nguyễn Khoa Điềm nghĩ được như vậy quả là đại hiếu đối với mẹ. Đằng sau nỗi day dứt thường niên đó là một tấm lòng "cho tròn chữ hiếu mới là đạo con" của nhà thơ. Rằng, bất cứ ai đọc Mẹ và Quả, hẳn đều cảm ơn mẹ - chính mẹ đã có công sinh thành, dưỡng dục nên một người con tuyệt vời là tác giả của bài thơ trên.
Dẫu không phải xếp lớp "tập này tập nọ" nhưng công chúng yêu thơ đã "đọc anh" là "bắt mắt" liền.
Âm hưởng sử thi và trữ tình công dân là hai cảm hứng chủ đạo, thông qua bút pháp tả thực và điển hình hoá cao độ trên cái nền cuộc sống đầy biến động được tinh lọc qua nhãn quan sáng suốt, nên Nguyễn Khoa Điềm luôn trụ vững với thời gian, tạo một vị thế xứng đáng trong nền thơ dân tộc. Mẹ và Quả trên đây là một trong rất nhiều bài thơ hay "không thể kể hết" của nhà thơ.
Suy nghĩ, cảm xúc và lí do yêu thích của bản thân đối với một bài thơ mẫu số 3:
Một bài thơ với lời thơ bình dị, giàu cảm xúc chất chứa tình cảm mà người đọc sẽ nhớ mãi của người con dành cho mẹ của mình trong chương trình Ngữ văn 7 mà em cảm thấy vô cùng yêu thích đó là bài thơ Mẹ và quả của tác giả Nguyễn Khoa Điềm.
Ngay từ nhan đề bài thơ tưởng chừng như đơn giản nhưng lại đọng lại, gợi thức cho chúng ta nhiều suy ngẫm về người mẹ đã vất vả sớm hôm, chăm chút cho nhiều thứ quả trên đời. Tác giả mở đầu bài thơ bằng những lời tâm tình chia sẻ với bạn đọc về những kỉ niệm than thương về mẹ, về mái ấm gia đình:
Những màu quả mẹ tôi hái được
Mẹ vẫn trông vào tay mẹ vun trồng
Những màu quả lặn rồi lại mọc
Như mặt trời, như khi mặt trăng
Những công việc hàng ngày mẹ vất vả vun trồng hàm chứa nhiều công lao của mẹ. Ý thơ của Nguyễn Khoa Điềm đã hiện ra những mảnh vườn xanh tốt, thấp thoáng bóng dáng mẹ sau những giàn bầu giàn bí. Kết quả của những công lao khó nhọc đó là những mùa quả mọc rồi lặn, tiếp nối nhau đem lại cuộc sống no đủ cho đàn con thơ.
Từ vườn cây cảu mẹ Nguyễn Khoa Điềm bẳt nhịp sangvườn người:
Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên
Còn những bầu và bí thì lớn xuống
Chúng mang dáng những giọt mồ hôi mặn
Rỏ xuống lòng thầm lặng mẹ tôi
Nguyễn Khoa Điềm hình dung những giọt mồ hôi của mẹ trong việc trồng cây, trồng người khi rơi xuống đất mà “rỏ xuống lòng thầm lặng mẹ tôi”. Nhà thơ đã thấu hiểu những giọt lòng đau đáu vì con. Thế nhưng mẹ chẳng than phiền khó nhọc, mẹ chỉ lau vội những giọt mồ hôi, giấu sự vất vả vào lòng đề các con mẹ được hưởng hạnh phúc.
Đến khi tay mẹ đã mỏi mà mình vẫn là một thứ quả xanh non:
Và chúng tôi một thứ quả trên đời
Bảy mươi tuổi mẹ mong chờ được hái
Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi
Mình vẫn còn một thứ quả non xanh
Trên đời này ai trồng cây mà không mong đến ngày hái quả. Và quả của mẹ chính là những đứa con khôn lớn trưởng thành. Mẹ luôn mong mỏi các con của mẹ trưởng thành, mẹ luôn dõi theo các con. Ý thơ làm lay động tất cả những đứa con. Hãy sống sao để mẹ được yên lòng, đừng biến thành quả sâu quả héo để mẹ buồn nghe không!
Vần thơ Mẹ và quả ngân lên như lời tỉ tê tâm sự của tác giả với mỗi chúng ta và tình cảm yêu kính, biết ơn của tác giả về mẹ của mình.
Suy nghĩ, cảm xúc và lí do yêu thích của bản thân đối với một bài thơ mẫu số 4:
Trong chương trình Ngữ văn lớp 7, học kì II, bài thơ mà tôi cảm thấy ấn tượng nhất chính là "Mẹ và quả" của Nguyễn Khoa Điềm. Tác phẩm đã mang đến thông điệp vô cùng ý nghĩa về tình cảm gia đình, tình mẫu tử thiêng liêng, cao quý.
Viết về một chủ đề vô cùng quen thuộc nhưng "Mẹ và quả" vẫn tạo ra được nét riêng độc đáo. Với những hình ảnh ẩn dụ giàu ý nghĩa, bài thơ đã thành công khơi gợi sự đồng cảm của người đọc. Thông qua đó, gửi gắm giá trị nhân văn về tình mẫu tử thiêng liêng, cao quý.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh người mẹ - người phụ nữ tần tảo, giàu đức hi sinh. Bà chăm chút cho vườn cây với quả bí, quả bầu từ ngày này qua tháng khác. Nhờ đó mà những thứ quả kia dần "lớn xuống" trĩu nặng, mang hình dáng của giọt mồ hôi mẹ. Không một lời kêu ca, than vãn, người phụ nữ ấy vẫn ngày ngày âm thầm vun đắp, làm lụng, nuôi dưỡng những đứa con thơ nên người. Đôi bàn tay mẹ nuôi lớn quả bầu, quả bí và cả con. Người con cũng chính là "thứ quả" mà "mẹ đợi chờ được hái" nhất. Vất vả, lam lũ suốt bao năm nhưng điều mẹ mong đợi nhất không phải thứ gì cho bản thân mà lại là sự lớn khôn của những đứa con thơ.
Cũng chính vì lẽ đó mà nhân vật trữ tình luôn biết ơn, ghi nhớ công lao sinh thành, dưỡng dục cũng như sự hi sinh cao cả của mẹ. Nhờ có mẹ mà đứa con mới có thể trưởng thành. Yêu thương đấng sinh thành, người con giật mình thảng thốt: "Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi/Mình vẫn còn một thứ quả non xanh". Nhân vật trữ tình lo lắng rằng đến khi mình "chín" thì mẹ đã không còn. Mẹ vất vả vì ta suốt bao nhiêu năm, liệu ta có thể đền đáp công ơn ấy kịp lúc trước khi tay người "mỏi"? Câu hỏi này ám ảnh nhân vật trữ tình, cũng khiến độc giả phải suy tư, chiêm nghiệm.
Với ngôn ngữ giản dị, giọng điệu từ tốn cùng những hình ảnh thơ đơn giản, quen thuộc, giàu sức gợi, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã mang cho kho tàng văn học Việt Nam một tác phẩm vô cùng ý nghĩa. Từ đó, bài học về tình yêu thương, lòng biết ơn được gửi gắm đến độc giả một cách hết sức tinh tế.
Qua bài thơ, ta được cảm nhận rõ hơn về tình mẫu tử thiêng liêng cũng như sự hi sinh cao cả mà người mẹ dành cho những đứa con của mình. "Mẹ và quả" tuy ngắn gọn, đơn giản nhưng lại vô cùng ý nghĩa, sâu sắc. Tác phẩm chính là một điểm sáng trong sự nghiệp của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm nói riêng và văn học Việt Nam nói chung.
Suy nghĩ, cảm xúc và lí do yêu thích của bản thân đối với một bài thơ mẫu số 5:
“Mây và sóng” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Ta-go. Bài thơ đã gợi ra cho người đọc cảm nhận sâu sắc về tình mẫu tử thiêng liêng. Em bé trong bài thơ được mời gọi đến thế giới kỳ diệu ở “trên mây” và “trong sóng”. Với sự hiếu kỳ của một đứa trẻ, em đã cất tiếng hỏi: “Nhưng làm thế nào mình lên đó được?”, “Nhưng làm thế nào mình ra ngoài đó được?”. Nhưng khi em bé nhớ đến mẹ vẫn luôn chờ đợi mình ở nhà, em đã từng chối đầy kiên quyết: “ Làm sao có thể rời mẹ mà đến được?”, “Làm sao có thể rời mẹ mà đi được?”. Chẳng có niềm hạnh phúc nào bằng được ở bên cạnh mẹ mặc dù thế giới ngoài kia nhiều hấp dẫn. Để rồi, em bé đã sáng tạo ra những trò chơi còn thú vị hơn của những người “trên mây” và “trong sóng”. Trong trò chơi đó, em sẽ là mây, là sóng tinh nghịch nô đùa; còn mẹ sẽ là vầng trăng, là bờ biển dịu hiền, ôm ấp và che chở con. Những câu thơ giàu tính tự sự và miêu tả nhưng lại góp phần bộc lộ cảm xúc của nhân vật trong bài thơ. Ta-go đã sử dụng trong bài thơ những lời thoại, chi tiết được kể tuần tự, vừa lặp lại vừa biến hóa kết hợp với hình ảnh giàu tính biểu tượng. Bài thơ chính là một câu chuyện cảm động về tình mẫu tử thiêng liêng, bất diệt.
-/-
Vừa rồi là nội dung chi tiết một số mẫu bài văn nêu suy nghĩ, cảm xúc và lí do yêu thích của bản thân đối với một bài thơ đã học - Văn mẫu lớp 7 do Doctailieu tổng hợp và biên soạn chi tiết hi vọng sẽ giúp các em có thêm nguồn tài liệu tham khảo hữu ích để có một bài văn cảm nhận hay và sâu sắc. Chúc các em học tốt !