Soạn bài Viết văn bản nghị luận về một tác phẩm văn học lớp 11 tập 2 CTST

Xuất bản: 31/10/2023 - Cập nhật: 23/01/2024 - Tác giả:

Soạn bài Viết văn bản nghị luận về một tác phẩm văn học (bài thơ) hoặc tác phẩm nghệ thuật (bức tranh, pho tượng), hướng dẫn chi tiết cách viết bài văn nghị luận về tác phẩm văn học nghệ thuật trang 68 - 74 SGK Ngữ văn 11 tập 2 Chân trời sáng tạo.

Tài liệu cung cấp nội dung hướng dẫn chi tiết soạn bài Viết văn bản nghị luận về một tác phẩm văn học (bài thơ) hoặc tác phẩm nghệ thuật (bức tranh, pho tượng), tham khảo cách trả lời các câu hỏi gợi ý cách viết bài văn nghị luận trang 68- 74 SGK Ngữ văn 11 tập 2 Chân trời sáng tạo.

Soạn bài Viết văn bản nghị luận về một tác phẩm văn học (bài thơ) hoặc tác phẩm nghệ thuật (bức tranh, pho tượng lớp 11 CTST

Đọc ngữ liệu tham khảo 1

Trả lời các câu hỏi trang 70 SGK Ngữ văn 11 tập 2 Chân trời sáng tạo - Văn bản Con chào mào, một thông điệp đa nghĩa

Câu 1: Cách mở bài của văn bản trên có gì đặc sắc?

Trả lời:

Cách mở bài của văn bản trên có nét đặc sắc đó là từ thực tế của việc hủy hoại môi trường dẫn dắt vào hình ảnh chim chào mào trong bài thơ; đồng thời, nêu được tên tác giả, tác phẩm.

Câu 2: Các luận điểm trong văn bản bàn về vấn đề gì? Những câu nào là câu chủ đề của mỗi luận điểm?

Trả lời:

- Các luận điểm trong bài thơ nêu lên nhận định của tác giả về nội dung và hình thức nghệ thuật của bài thơ "Con chào mào" của Mai Văn Phấn. Các luận điểm nhỏ làm căn cứ, cơ sở, minh chứng cho luận điểm lớn.

- Câu chủ đề của mỗi luận điểm:

+ Luận điểm 1: Về nội dung, bài thơ gợi ra những thông điệp đa nghĩa.

+ Luận điểm 2: Về hình thức nghệ thuật, bài thơ có nhiều nét đặc sắc.

Câu 3: Tác giả đã sử dụng những lí lẽ, bằng chứng nào để làm sáng tỏ luận điểm?

Trả lời:

- Để làm sáng tỏ luận điểm thứ nhất, tác giả đã dùng hai lí lẽ:

+  Câu chuyện về mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên;

+  Giúp người đọc phân biệt được cái đẹp và cái có ích.

- Để làm sáng tỏ luận điểm thứ hai, tác giả đã dùng hai lí lẽ:

+  Hình ảnh tượng trưng, giàu ý nghĩa;

+  Ngôn ngữ thơ giản dị, gần gũi, có sức gợi cảm, kết hợp tự sự, miêu tả và biểu cảm.

- Để tăng sức thuyết phục cho lí lẽ, tác giả đã sử dụng các bằng chứng từ bài thơ: khung nắng, khung gió, nhành cây xanh; con chào mào đầm trắng mũ đỏ; tôi ôm khung nắng, khung gió

Đọc ngữ liệu tham khảo 2

Trả lời các câu hỏi trang 71 SGK Ngữ văn 11 tập 2 Chân trời sáng tạo - Văn bản Thiếu nữ chơi dàn nguyệt – tranh lụa của Mai Trung Thứ

Câu 1: Nội dung luận điểm thứ nhất và luận điểm thứ hai là gì?

Trả lời:

- Nội dung của luận điểm thứ nhất là: Những đóng góp và giá trị của bức tranh Thiếu nữ chơi đàn nguyệt

- Nội dung của luận điểm thứ hai: Giá trị nghệ thuật của bức tranh Thiếu nữ chơi đàn nguyệt

Câu 2: Tác giả đã dùng những lí lẽ, bằng chứng nào để làm sáng tỏ luận điểm?

Trả lời:

-Để làm sáng tỏ những luận điểm, tác giả đã dùng những lí lẽ, bằng chứng cụ thể:

- “Thiếu nữ chơi đàn hướng ánh nhìn khỏi khán giả nhưng ánh mắt của cả thiếu nữ thứ hai trong bức tranh lẫn người xem đều hướng về phía người chơi đàn” (lí lẽ)

- “hướng nhìn linh hoạt này cũng như các góc được tạo thành từ cơ thể họ… do di chuyển quanh bức tranh” (bằng chứng)

- “ánh mắt trầm ngâm và có phần xa cách… đóng vai trò như một phương tiện giao tiếp đầy lý thú giữa người xem và tác phẩm” (bằng chứng)

- “phông nền màu xanh ngọc lục bảo dịu nhẹ và những bông hoa trắng cắm trong bình”

Câu 3: Cách kết luận của bài viết này có điểm gì khác với cách kết luận của bài viết "Con chào mào", "một thông điệp đa nghĩa".

Trả lời:

Trong khi cách kết luận của "Con chào mào", một thông điệp đa nghĩa là tóm tắt nội dung, nghệ thuật của bài thơ thì cách kết luận của "Thiếu nữ chơi đàn nguyệt” - tranh lụa của Mai Trung Thứ khẳng định giá trị cũng như vai trò của bức tranh trong việc mở ra một chương mới trong lịch sử nghệ thuật Việt Nam.

Thực hành viết theo quy trình

Đề bài: Hãy viết bài văn nghị luận về một bài thơ hoặc một bức tranh/pho tượng mà bạn yêu thích.

Dàn ý tham khảo:

1. Mở bài:

- Giới thiệu chung về bài thơ và xác định vấn đề sẽ được tập trung bàn luận trong bài viết.

2. Thân bài:

- Cảm giác chung mà cấu tứ cùng những hình ảnh và cách diễn tả khác lạ trong bài thơ đã gợi cho người đọc.

- Sự khác biệt của bài thơ này so với các bài thơ khác trên phương diện xây dựng hệ thống hình ảnh và tạo sự kết nối giữa các bộ phận cấu tạo trong bài thơ (thực hiện những so sánh cần thiết để chỉ ra được sự khác biệt).

- Những khả năng hiểu (cắt nghĩa) khác nhau đối với một số yếu tố, hình ảnh trong bài thơ 9 (cần nêu cụ thể).

- Điều được làm sáng tỏ qua việc đọc thăm dò và thử nghiệm các cách đọc khác nhau đối với bài thơ.

- Sự gợi mở về cách nhìn mới đối với thế giới và con người được đề xuất từ mạch ngầm văn bản bài thơ.

3. Kết bài:

- Khẳng định lại sự độc đáo của bài thơ và ý nghĩa của nó đối với việc đem lại cách nhìn, cách đọc mới cho đọc giả.

Một số bài văn mẫu:

Mẫu 1:

Hồ Xuân Hương là một trong những nữ sĩ tài danh của nước ta vào nửa cuối thể kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX. Dù là người con gái tài danh nhưng cuộc đời truân chuyên, hồng nhan bạc mệnh như bao người phụ nữ sống dưới xã hội phong kiến đầy bất công. Bà đã rất nhiều lần mang cái thân phận nhỏ bé ấy của người phụ nữ sống dưới chế độ cũ vào trang thơ của mình. Tự tình là một trong những sáng tác hay của Hồ Xuân Hương khi thể hiện nỗi đau đớn, buồn tủi trước những tình cảnh éo le của mình, đồng thời thể hiện khát khao mãnh liệt về hạnh phúc cuộc đời.

Bài thơ được thể hiện dưới dạng thể thơ thất ngôn bát cú đường luật. Mở đầu bài thơ là hai câu đề giới thiệu không gian và thời gian của nhân vật trữ tình:

“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn

Trơ cái hồng nhan với nước non”

Nhà thơ mở đầu bài thơ với thời gian là một đêm khuya vắng. Người ta thường nói “đêm khuya” thường là lúc con người ta bắt đầu suy tư, đầy tâm trạng. Và ở đây với Hồ Xuân Hương cũng vậy. Thời điểm rất hợp với những tâm sự chất chứa trong lòng bà. Âm thanh “văng vẳng” của tiếng trống canh dồn cho người đọc thấy được đó là những âm thanh từ xa vọng lại cứ văng vẳng bên tai người thi sĩ. Và hẳn là một đêm đã khuya lắm rồi, yên tĩnh lắm mới cảm nhận được tiếng trống từ xa vọng lại như thế. Hai từ “hồng nhan” kết hợp với tính từ “trơ” được đảo lên đầu câu thơ như nhấn mạnh sự buồn tủi, cô đơn đến bẽ bàng của người phụ nữ. “Nước non” là một không gian rộng lớn bao la, hình ảnh ẩn dụ của cả một xã hội đầy rẫy những bất công. Hình ảnh “hồng nhan” thật nhỏ nhoi đối lập với sự rộng lớn của “nước non” càng gợi lên sự nhỏ bé, tủi hổ của người phụ nữ trước cuộc đời này. Chỉ có một hồng nhan đương đầu với nước non càng khẳng định sự trống vắng, cô liêu và sự đơn độc trong tâm hồn người thi sĩ.

Trước không gian buồn vắng, nhà thơ tiếp tục nói lên hoàn cảnh eo le và nỗi đau cho thân phận của mình trong hai câu thực:

“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”

Không một ai quan tâm, không một ai để giãi bày tâm sự, người thi sĩ mượn “chén rượu” để giải tỏa cho nỗi lòng của mình. Nhưng dường như càng uống lại càng tỉnh, tỉnh lại say. Cụm từ “say lại tỉnh” cho thấy tâm trạng đau đớn, xót xa của Hồ Xuân Hương. Bà uống say để quên đi những ưu phiền nhưng rồi cứ say lại tỉnh và đã tỉnh lại nghĩ đến nỗi đau, day dứt của bản thân. Không chỉ có rượu mà trong câu còn xuất hiện vầng trăng như một người bạn. Nhưng vầng trăng ấy cũng không được tròn đầy viên mãn, mà lại “khuyết chưa tròn”. Bà nhìn lên vầng trăng cũng chỉ thấy một vầng trăng “khuyết”. Đó là hình ảnh ẩn dụ cho sự dang dở trong hạnh phúc cuộc đời bà. Đúng như Nguyễn Du có viết “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Khi buồn thì nhìn đâu cũng chỉ thấy cảnh sầu mà thôi.

Từ những nỗi phẫn uất trong lòng, tâm trạng nhà thơ thêm dồn nén như muốn tức nước vỡ bờ:

“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám

Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”

Nhà thơ nhìn thấy những hình ảnh thiên nhiên chỉ thấy “đất”, “rêu”, “mây”, “đá”. Cảnh vật xơ xác, hoang tàn không một sức sống mà chỉ thấy một màu u ám, cứng nhắc. Các động từ mạnh “xiên ngang”, “đâm toạc” được đảo lên đầu câu nhấn mạnh một sự đấu trọi của thiên nhiên. Sự đối chọi nhỏ bé của “rêu” với mặt đất rộng, của “mấy hòn đá” nhỏ nhoi với “chân mây” lớn như hình ảnh ẩn dụ cho cái sự bức bối, muốn phá phách, muốn vùng lên phản kháng của người phụ nữ. Đọc tới đây, người đọc nhận thấy một sự mãnh mẽ muốn đạp lên những bất công để đòi lại công bằng cho thân phận bé nhỏ của nhà thơ. Tâm trạng ở những câu thơ này dường như dâng lên đến cao trào.

Kết lại bài thơ thất ngôn bát cú, thi sĩ quay lại với tâm trạng chán nản đến ngao ngán, đau khổ trước tình duyên ngang trái, éo le:

“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại

Mảnh tỉnh san sẻ tí con con”

Từ “ngán” được đặt ở đầu câu thơ nhấn mạnh nỗi chán chường trong lòng người thi sĩ. Cụm từ “xuân đi” đối lập với “xuân lại lại” thể hiện một sự buồn chán và tẻ nhạt. Cụm từ “mảnh tình” cho thấy một thứ tình cảm nhỏ bé như một “mảnh” có thể đếm đong được. Đã nhỏ bé đến mức có thể đong đếm được lại còn phải “san sẻ” cho người khác từng “tí con con”. Cụm từ “tí con con” càng cho thấy thứ tình cảm đang phải san sẻ kia quá nhỏ bé, nhỏ bé đến mức không còn nhỏ hơn được nữa. Đọc tới đây, người đọc càng hiểu được nỗi niềm buồn đau của nữ sĩ. Điều đó cũng từng được thể hiện trong bài thơ khác:

“Chém cha cái kiếp lấy chồng chung

Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”

Tự tình là một bài thơ đặc sắc của nhà thơ Hồ Xuân Hương. Bài thơ đã thể hiện sâu sắc nỗi buồn đau, tủi hổ và cô đơn của thân phận người phụ nữ trước tình cảnh éo le trong tình duyên. Qua đó cũng thể hiện niềm khát khao mãnh liệt muốn vùng lên vượt khỏi bi kịch cuộc đời ấy nhưng vẫn chưa tìm ra lối thoát. Bài thơ điển hình cho nỗi đau chung của người phụ nữ sống trong xã hội cũ, để lại những ấn tượng sâu lắng trong trái tim độc giả.

Mẫu 2: 

Mona Lisa là bức tranh nổi tiếng của họa sĩ Lê-ô-na đờ-vanh-xi vẽ vào khoảng năm 1503, vẽ nàng Mona Lisa - một thành viên của gia đình Gherardini ở Florence và Tuscany. Đánh giá của mọi người về “Mona Lisa” là cực kỳ cao, coi đó là một mô hình chân dung điển hình thời Phục Hưng. Nghệ sỹ kiêm nhà viết tiểu sử Vasari tin rằng “Mona Lisa” là sản phẩm của tả thực đạt đến trình độ cao nhất. Thật vậy, từ quan điểm kỹ thuật, sự mô tả đặc điểm nhân vật của Da Vinci là hoàn hảo và không có kẽ hở.

Biểu cảm nụ cười trong các tác phẩm của Da Vinci không phải là hiếm; nhưng trong thời đầu, ngoại trừ bức “Benois Madonna“, hầu hết các biểu cảm đó đều được giấu đi, nghĩa là nụ cười bị tan biến trong ánh sáng tinh tế và bóng tối của cơ mặt. Ví dụ, trong các chi tiết và khuôn mặt của Thánh mẫu và các Thiên thần trong “The Madonna of the Rocks“, nụ cười ẩn hiện cộng với sự tường hòa trên gương mặt thể hiện được tình mẫu tử từ ái.

Bức tranh “Mona Lisa” đã mang lại cho người xem những cảm xúc khác nhau. Nhân vật nhìn thẳng vào khán giả. Khi khán giả và nhân vật “bốn mắt nhìn nhau”, sẽ mang lại cảm giác như đang đối mặt với một ánh mắt rất sống động, cũng thể hiện một trong những màn trình diễn kỹ thuật tuyệt vời của Da Vinci, đặc biệt là trong không khí u ám của bức tranh, biểu cảm như vậy vô tình khiến đối phương bất an.

Có lẽ vì ánh sáng và bóng tối trong bức tranh rất khó phân biệt rõ ràng, nên mọi thứ đều có vẻ không ổn định. Từ các góc độ khác nhau, dưới ánh sáng khác nhau hoặc từ các phiên bản in khác nhau, biểu hiện của “Mona Lisa” là khác nhau. Thoạt nhìn, tưởng rằng đó là một gương mặt an tường, dễ gần. Nhưng khi nhìn kỹ lại cho thấy sự mơ hồ và tham vọng, thái độ cao quý, lại tựa hồ như lộ ra vẻ chế giễu với sự khinh miệt… Vì vậy, trong nhiều thế kỷ, nụ cười của “Mona Lisa” được cho là “độc nhất”, “tà khí” và “mê hoặc”. Có lẽ Da Vinci đã hợp nhất tất cả những tính cách trái ngược, đem dung hợp vào một nơi, khiến đó trở thành phần làm người xem khó hiểu nhất trong toàn bộ bức tranh.

Tranh góp phần tạo ra nguồn du lịch lớn lao cho nước Pháp và gián tiếp làm ra lợi nhuận không kém gì một nhà máy loại lớn nhất. Về mặt chuyên môn, danh họa Leonardo da Vinci để lại cho hậu thế một số bài học kỹ thuật kỳ diệu như hiệu quả và độ bền 5 thế kỷ của chất sơn tự chế, sự đột phá khi dám tả cảnh thiên nhiên làm nền cho chân dung, quái chiêu tạo ra các ảo giác… và trên hết, các khán giả đến xem tranh mà không biết rằng: ngược lại, chính họ luôn bị nhân vật nhìn như thấu vào tâm can bằng một cái nhìn lúc nào cũng dịu dàng, đằm thắm.

-/-

Các bạn vừa tham khảo xong nội dung chi tiết soạn bài Viết văn bản nghị luận về một tác phẩm văn học (bài thơ) hoặc tác phẩm nghệ thuật (bức tranh, pho tượng) lớp 11 tập 2 CTST. Hi vọng thông qua việc giải đáp các câu hỏi hướng dẫn cuối bài các em sẽ nắm được kiến thức cơ bản về bài học một cách dễ dàng và ghi nhớ lâu hơn.

Bạn còn vấn đề gì băn khoăn?
Vui lòng cung cấp thêm thông tin để chúng tôi giúp bạn
Hủy

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM