1. Định hướng
1.1. Ở Bài 1, các em đã được rèn luyện kĩ năng phân tích một tác phẩm văn học, đối tượng phân tích là một bài thơ trọn vẹn. Bài 2 tiếp tục rèn luyện kĩ năng phân tích một đoạn trích gắn với truyện thơ Nôm.
1.2.
Để viết bài văn phân tích đoạn trích từ một tác phẩm lớn (ở đây là truyện thơ Nôm: Truyện Kiều hoặc Truyện Lục Vân Tiên), các em cần chú ý:- Đọc kĩ đoạn trích, chú ý đặc điểm thể loại truyện thơ Nôm đã học và xác định rõ vị trí đoạn trích trong tác phẩm.
- Xác định nội dung và các yếu tố hình thức nổi bật. Chỉ ra mối quan hệ giữa hình thức và nội dung; từ đó, làm rõ giá trị của các yếu tố hình thức trong việc thể hiện nội dung, chủ đề của tác phẩm.
- Xác định luận đề và các luận điểm trong bài viết, lựa chọn bằng chứng từ đoạn trích cho mỗi luận điểm.
- Suy nghĩ, nhận xét về ý nghĩa và sự tác động của các tác phẩm đối với người đọc cũng như bản thân em.
2. Thực hành
2.1. Thực hành viết theo các bước
Bài tập: Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích (trích Truyện Kiều của Nguyễn Du).
a) Chuẩn bị
- Đọc kĩ đề bài, xác định yêu cầu cần thực hiện.
- Xem lại phần Kiến thức ngữ văn về truyện thơ Nôm, nội dung đọc hiểu văn bản Kiều ở lầu Ngưng Bích, chú ý xuất xứ để biết nội dung câu chuyện trước và sau của đoạn trích.
- Xác định nội dung và hình thức nghệ thuật nổi bật nhất của văn bản (chú ý đặc điểm thơ lục bát trong tác phẩm Truyện Kiều).
b) Tìm ý và lập dàn ý
- Tìm ý cho bài viết bằng cách đặt và trả lời các câu hỏi sau:
+ Nội dung chính của đoạn trích là gì?
=> Nội dung chính: Đoạn trích đã miêu tả chân thực cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi, đáng thương, nỗi nhớ người thân da diết và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo vị tha của Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích
+ Nghệ thuật của đoạn trích có gì đặc sắc?
=> Đặc sắc nghệ thuật của đoạn trích: Thể thơ lục bát cổ truyền; Nghệ thuật miêu tả nội tâm đặc sắc với bút pháp tả cảnh ngụ tình tinh tế kết hợp các biện pháp tu từ quen thuộc (ẩn dụ, nhân hóa, từ láy, thành ngữ ...) …
+ Các yếu tố hình thức nghệ thuật ấy đã làm thay đổi nội dung của đoạn trích như thế nào?
=> Các yếu tố hình thức nghệ thuật ấy nhằm thể hiện tâm trạng buồn đau, cô đơn hiu quạnh trước khung cảnh thiên nhiên cùng bao nỗi nhớ ùa về trong lòng Kiều khi ở lầu Ngưng Bích.
+ Qua đoạn trích, Nguyễn Du đã thể hiện được tấm lòng (chữ tâm) và tài năng (chữ tài) như thế nào?
=> Thông qua hình ảnh cô đơn, nỗi buồn chua xót, lo sợ vô vọng, sự nhớ thương gia đình của kiều. Tác giả đã bày tỏ sự cảm thương, đau xót đối với số phận nghiệt ngã của Kiều hay chính là số phận của những người phụ nữ phong kiến. Đồng thời tác giả ngợi ca tấm lòng thủy chung son sắt, nhân hậu của người phụ nữ Việt Nam.
- Lập dàn ý bằng cách sắp xếp các ý đã tìm được theo bố cục ba phần
Mở bài
Giới thiệu khái quát về Truyện Kiều và đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích.
Thân bài
+ Nêu tóm tắt bối cảnh câu chuyện trước đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích và chủ đề, âm hưởng bao trùm đoạn trích này.
+ Phân tích khung cảnh gợi nỗi nhớ của Thuý Kiều qua đoạn mở đầu (từ đầu đến “Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”). Chú ý nghệ thuật lựa chọn không gian, thời gian và các hình ảnh.
+ Phân tích nỗi nhớ thương của Thuý Kiều qua đoạn tiếp theo (từ “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng” đến “Có khi gốc tử đã vừa người ôm?”). Chú ý nghệ thuật lựa chọn ngôn từ và bút pháp miêu tả độc thoại nội tâm nhân vật.
+ Phân tích diễn biến tâm trạng của Thuý Kiều qua tám dòng thơ cuối. Chú ý các biện pháp nghệ thuật: điệp ngữ, lựa chọn hình ảnh, không gian và thời gian, câu hỏi tu từ,…
Kết bài
Nêu những suy nghĩ và cảm xúc của bản thân về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích.
c) Viết
Dựa là dàn ý đã làm để viết một bài văn phân tích một đoạn trích thơ. Trong khi viết, chú ý vận dụng cách phân tích các yếu tố hình thức thơ. Có thể viết cả bài, mở bài, kết bài hoặc viết một đoạn ở phần thân bài.
Bài văn tham khảo
Đoạn trích “Kiều ở lầu ngưng bích” nằm ở phần hai “Gia biến và lưu lạc” của “Truyện Kiều”. Trước đó, khi biết mình bị mắc mưu Tú Bà, Kiều đã tự sát. Tú Bà muốn dỗ dành Kiều nên đã đưa nàng ra ở lầu Ngưng Bích, hứa hẹn sẽ tìm người xứng đáng để gả chồng cho nàng. Thực chất, Tú Bà muốn buộc nàng phải trở thành kĩ nữ ở lầu xanh. Sáu câu thơ đầu, Nguyễn Du khắc họa hoàn cảnh cô đơn, tội nghiệp của Kiều:
"Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình, nủa cảnh, như chia tấm lòng"
Hai chữ “khóa xuân” đã cho thấy tình cảnh đáng thương, khốn khổ của nàng. Rơi vào tay Tú Bà, tuổi xuân của Kiều bị giam lỏng ở nơi đây, tương lai vô định không biết hướng về đâu. Trong khi đó, quá khứ cũng chứa đầy sự tủi nhục, đau đớn. Hiện tại thì bơ vơ, cô quạnh. Nguyễn Du đã để Kiều tự bộc lộ tiếng lòng của mình. Kiều đứng trên lầu mà ngóng trông ra xa dường như để tìm kiếm niềm an ủi nhưng chỉ thấy một không gian quạnh quẽ. Cặp từ đối lập “xa” - “gần” diễn tả sự mênh mông, rợn ngợp của cảnh vật. Chỉ có bóng dáng núi phía xa và ánh trăng trên cao lẻ loi. Câu thơ “Bốn bề bát ngát xa trông” đã cho thấy sự rộng lớn, thoáng đãng nhưng vắng vẻ của khung cảnh. Dường như không có chút âm thanh, hình ảnh nào gợi lên sự sống. Trải mắt khắp bốn bề chỉ thấy thiên nhiên hoang vu, bát ngát. Cồn cát, bụi hồng, tất cả đều gợi sự cô đơn, trống trải đến tột cùng. Không có ai tâm sự, bầu bạn, Kiều sống trong trạng thái buồn bã, đau đớn, một mình đối diện với chính mình. Cụm từ “mây sớm đèn khuya” gợi vòng thời gian tuần hoàn, khép kín. Cả không gian và thời gian như cùng nhau kìm kẹp con người, bủa vây lấy Kiều, nhấn chìm nàng trong sự cay đắng, tủi hờn, bẽ bàng, cô độc. Người xưa thường tìm đến thiên nhiên để bầu bạn, gửi gắm nỗi lòng. Ấy thế mà Kiều ngắm nhìn cảnh vật lại thấy cõi lòng như bị xé làm đôi, càng thêm tan tác: “Nửa tình, nửa cảnh, như chia tấm lòng”.
Tám câu thơ tiếp theo là nỗi nhớ thương của Kiều dành cho Kim Trọng và cha mẹ. Trong đó, Kiều nhớ Kim Trọng trước:
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bờ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”
Nỗi nhớ đầu, Kiều dành cho Kim Trọng. Nàng nhớ người thương da diết, mãnh liệt. Nguyễn Du đã rất tinh tế khi phát hiện ra quy luật tâm lí này. Đối với cha mẹ, việc nàng bán mình chuộc cha đã phần nào thể hiện chữ “Hiếu”. Nhưng với chàng Kim, Kiều lại cảm thấy mình là kẻ phản bội, chưa làm trọn chữ “Tình”. Tình yêu là điều vô cùng thiêng liêng, quý giá. Kim Trọng và Kiều đã cùng uống rượu dưới trăng, thề nguyền mãi thủy chung son sắt. Giờ đây, Kiều đang trong tình cảnh lưu lạc, bị Mã Giám Sinh làm nhục. Nàng thấy cắn rứt, hổ thẹn như một kẻ phụ tình. Kiều tưởng tượng ra cảnh ở nơi xa, Kim Trọng đang tìm kiếm, ngóng trông tin tức của mình trong vô vọng. “Tấm son” có thể là tấm lòng thủy chung, nỗi nhớ thương Kim Trọng không bao giờ nguôi, cũng có thể là lời tâm can Kiều giằng xé: tấm thân trong sáng đã bị ô nhục, biết bao giờ mới gột rửa được? Càng nhớ Kim Trọng, Kiều càng thấm thía tình cảnh trống trải, bơ vơ của mình, nuối tiếc những kỉ niệm đẹp và ý thức sâu sắc về nỗi đau đã trải qua. Qua nỗi đau, ta thấy được tấm lòng son sắt, sự vị tha hết mực của Kiều.
“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”
Tiếp đến, Kiều xót xa, nhớ thương cha mẹ. Nàng xót xa nghĩ đến cảnh cha mẹ vẫn ngóng trông nàng bên bục cửa hằng ngày. Nàng khổ tâm, day dứt, xót thương cha mẹ đã già mà không có ai sớm tối chăm sóc. Thành ngữ “Quạt nồng ấp lạnh”, điển cố “Sân Lai”, “gốc tử” đều nói về sự hiếu thuận của con cái dành cho bậc sinh thành đã chứng minh lòng hiếu thảo của Kiều. Cụm từ “cách mấy nắng mưa” diễn tả sự xa xôi cách trở, cho thấy tâm trạng âu lo của Kiều khi nghĩ tới cha mẹ. Nàng tự trách bản thân không thể báo đáp ơn sinh thành, dưỡng dục. Qua nỗi nhớ người yêu và cha mẹ được bộc lộ bằng ngôn ngữ độc thoại nội tâm, ta thấm thía hoàn cảnh bất hạnh, đáng thương và tấm lòng nặng tình nặng nghĩa, thủy chung, hiếu thảo của Kiều.
Tám câu thơ cuối là tâm trạng đau buồn, âu lo của Kiều qua cách nhìn cảnh vật. Đây là đoạn thơ tiêu biểu cho bút pháp tả cảnh ngụ tình. Mỗi cảnh vật lại khơi gởi ở người con gái đa sầu đa cảm những xúc cảm khác nhau:
"Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi"
Hai câu đầu như vẽ nên bức tranh chiều hôm nhớ nhà. Từ xưa đến nay, buổi chiều xuất hiện trong văn học trung đại luôn gợi nỗi buồn nhớ. Hiện lên trên ráng chiều cùng không gian mênh mông của cửa biển là cánh buồm xa xăm như ảo ảnh. Khung cảnh cho thấy thân phận tha hương, nỗi nhớ nhung quê nhà da diết, khao khát được gặp người thân khôn cùng. Đại từ phiếm chỉ “ai” mang một âm điệu bi ai, sầu thảm, câu hỏi ngân dài rồi lại chìm vào bốn bề bát ngát. Hai câu thơ tiếp cho thấy Kiều đã đưa mắt hướng về không gian gần hơn. Cánh hoa trôi man mác trong dòng nước kia sao mà giống thân phận Kiều đến vậy? Kiếp hồng nhan tựa như cánh hoa tàn, mỏng manh, yếu ớt và vô định. Kiều tự xót thương cho chính thân mình. Hai câu: “Buồn trông nội cỏ dầu dầu/Chân mây mặt đất một màu xanh xanh” lại càng buồn bã hơn. Cũng là sắc xanh của cỏ nhưng không phải màu xanh tươi nõn nà, mơn mởn như “Thanh minh trong tiết tháng Ba” mà là màu xanh nhàn nhạt, héo úa. Màu xanh ấy trải xa tít tắp như cuộc sống buồn đau không biết khi nào mới kết thúc. Hai câu thơ cuối gợi thời gian đã xế chiều, màu sắc cảnh vật dường như tối hơn, cảnh cũng trở nên mịt mờ, âm thanh dữ dội hơn. Tiếng sóng nổi lên “ầm ầm” do gió cuốn như đang vây quanh ghế Kiều ngồi. Âm thanh đó là dấu hiệu báo trước những biến cố đoạn trường tiếp theo hay chính là tiếng kêu đau đớn xé ruột xé gan của Kiều đang lẫn vào thiên nhiên?
Thiên nhiên trong đoạn trích được nhìn theo quy luật: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”… “Buồn trông” nghĩa là buồn mà hướng mắt ra xa, trông ngóng, hi vọng nhưng lại tuyệt vọng. Bức tranh phong cảnh đã trở thành tâm cảnh. Cảnh được cảm nhận từ xa tới gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động để diễn tả sự biến động trong tâm khảm Kiều. Kiều đi từ buồn bã, nhớ thương đến âu lo, bế tắc, chao đảo, sợ hãi. Điệp ngữ kết hợp với các hình ảnh thiên nhiên cùng hệ thống từ láy diễn tả nỗi buồn theo cấp độ tăng tiến như lớp lớp sóng trào. “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là mẫu mực cho bút pháp tả cảnh ngụ tình. Đoạn trích cho thấy tình cảnh đáng thương và vẻ đẹp tâm hồn, thế giợi nội tâm sâu sắc của Kiều cùng tinh thần nhân đạo cao cả của Nguyễn Du.
d) Kiểm tra và chỉnh sửa
- Đọc lại bài văn đã viết.
- Tham khảo các yêu cầu đã nêu ở Bài 1, phần Viết, mục d (trang 25,26) và đối chiếu với dàn ý đề văn đã làm ở bài này để kiểm tra, chỉnh sửa.
2.2. Rèn luyện kĩ năng viết: Phân tích văn học.
a) Cách thức
Phân tích văn học là chai tách đối tượng (tác phẩm văn, thơ, kí, kịch) thành nhiều phần, xem xét từ nhiều bình diện (nội dung, nghệ thuật); từ đó, chỉ ra giá trị (cái hay, cái đẹp, ý nghĩa, tác dụng) của đối tượng ấy.
Phân tích tác phẩm văn học cần thấy được sự gắn bó giữa nội dung và hình thức nghệ thuật, thể hiện bằng việc nhân ra các yếu tố nghệ thuật đặc sắc và chỉ ra tác dụng của chúng trong việc thể hiện nội dung. Ví dụ: Phân tích tám dòng thơ cuối đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích dưới đây:
“Tám câu thơ, mỗi cặp câu gợi ra một nỗi buồn sâu thẳm. “Buồn trông” là buồn mà nhìn xa, nhưng cũng là buồn mà trông ngóng một cài gì mơ hồ sẽ đến làm thay đổi tình trạng hiện tại. Hình như nàng mong một cánh buồm, nhưng cánh buồm chỉ thấp thoáng, xa xa, không rõ như một ước vọng mơ hồ, mỗi lúc một xa. Nàng lại trông ngọn nước […], ngọn sóng xô đẩy cánh hoa phiêu dạt, không biết về đâu […]
Tám câu thơ, câu nào cũng vừa thực, vừa hư, vừa là cảnh thực, vừa là tâm cảnh. Toàn là hình ảnh về sự vô vọng, sự dạt trôi, sự bế tắc và sự chao đảo, nghiêng đổ. Đây chính là lúc mà tình cảm Kiều trở nên mong manh và yếu đuối nhất, là lúc mà nàng rất dễ rơi vào cạm bẫy…”.
b) Bài tập
Bài tập: Hãy phân tích một đoạn thơ trích từ Truyện Kiều (Nguyễn Du) hoặc Truyện Lục Vân Tiên (Nguyễn Đình Chiểu) mà em yêu thích.
Bài viết tham khảo
Trong dòng chảy văn học trung đại, mỗi nhà văn, nhà thơ đều góp phần làm nên diện mạo của nền văn học Việt Nam qua nhiều tác phẩm xuất sắc thuộc nhiều thể loại khác nhau. Và khi nhắc đến Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, bạn đọc mọi thế hệ không thể không nhắc tới tác phẩm “Truyện Kiều”. Đọc những trang Kiều, người đọc như thấm thía nỗi đau mà Kiều phải chịu đựng nhưng ẩn sau đó chính là vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của nàng. Có thể nói, đoạn trích trích từ câu “Khi tỉnh rượu lúc tàn canh” đến “Ai tri âm đó mặn mà với ai?” là một minh chứng tiêu biểu cho điều đó.
Trước tình cảnh đầy trớ trêu nơi chốn lầu xanh, trong Thúy Kiều luôn hiện lên bao nỗi niềm đau đớn, xót thương cho thân phận, cuộc đời của mình.
Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,
Giật mình mình lại thương mình xót xa.
Câu thơ “Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh” đã mở ra thời gian ban đêm, khi những cuộc vui đã tàn, đó là thời điểm hiếm hoi Kiều được sống là chính mình, đối diện với chính mình cùng bao nỗi niềm, suy tư, trăn trở. Trong chính khoảnh khắc ít ỏi ấy, Kiều “giật mình” bởi sự bàng hoàng, thảng thốt trước thực tại cuộc sống của mình. Để rồi, sau cái giật mình ấy chính là nỗi thương mình, xót xa cho chính bản thân mình và nỗi thương mình, sự xót xa ấy của Kiều xét đến cùng chính là sự tự ý thức về nhân cách của Thúy Kiều. Trong nỗi niềm xót xa, sự cô đơn đến tột cùng ấy, Thúy Kiều đã đi tìm nguyên nhân để lí giải chúng.
Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân.
Nghệ thuật đối đã được tác giả sử dụng thành công thông qua việc sử dụng hàng loạt các hình ảnh đối lập nhau, giữa một bên là “phong gấm rủ là” gợi những tháng ngày quá khứ êm đềm, hạnh phúc với một bên là những hình ảnh “tan tác”, “hoa giữa đường”, “dày gió dạn sương”, “bướm chán ong chường” để gợi lên hiện tại phũ phàng, bị chà đạp, vùi dập. Thể hiện sự đối lập giữa quá khứ với hiện tại, tác giả Nguyễn Du đã tô đậm cuộc sống cùng tâm trạng ê chề, nhục nhã, chán chường của Thúy Kiều trong hoàn cảnh đầy trớ trêu. Thêm vào đó, với việc sử dụng hàng loạt từ để hỏi “khi sao”, “giờ sao”, “mặt sao”, “thân sao” đã tạo nên giọng điệu chất vấn, Thúy Kiều như đang tự hỏi, tự dằn vặt chính bản thân mình. Trong nỗi niềm chua xót, đầy giày vò ấy, Thúy kiều đã nhận thức rõ sự đối lập đau xót và chua chát giữa ta và người.
Mặc người mưa Sở mây Tần
Những mình nào biết có xuân là gì.
Không chỉ đối lập giữa cuộc sống ở quá khứ và hiện tại, mà giờ đây, trong Thúy Kiều còn hiện hữu rõ nét sự đối lập giữa cảnh vật bên ngoài với nỗi niềm tân trạng của chính mình. Bi kịch ấy của Thúy Kiều được thể hiện rõ nét trong những tám câu thơ cuối của đoạn trích.
Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?
Đòi phen nét vẽ câu thơ,
Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa
Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó mặn mà với ai?
Cuộc sống nơi chốn lầu xanh ở khung cảnh bên ngoài với đầy đủ những nét thanh cao, tao nhã, phong lưu được tác giả tái hiện lại thông qua các hình ảnh giàu sức gợi “gió tựa hoa kề”, “tuyết ngậm”, “trăng thâu”, “nét vẽ”, “câu thơ”, “cung cầm”, “nước cờ”. Nhưng ẩn sâu bên trong đó là bản chất phũ phàng và đầy xót xa, đầy tủi nhục và nhơ nhớp. Và bởi vậy, cảnh vật ở nơi đây đối với Thúy Kiều chính là một sự giả tạo và nàng không thể tìm thấy bầu bạn, không thể tìm thấy tri âm và nàng thờ ơ với mọi thứ xung quanh mình. Đặc biệt, với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, tác giả Nguyễn Du đã cho thấy tâm trạng của Thúy Kiều khi sống ở nơi đây, đó chính là sự gượng gạo, tự thương, tự xót xa cho số phận của chính mình. Đặc biệt, tâm trạng đau đớn như xé lòng của Kiều được thể hiện qua việc sử dụng hàng loạt các câu hỏi tu từ.
Tóm lại, đoạn trích với việc sử dụng thành công nghệ thuật đối cùng những hình ảnh giàu sức gợi đã thể hiện một cách rõ nét và sâu sắc nỗi niềm tâm trạng, sự xót thương số phận của Thúy Kiều. Đồng thời, ẩn sau đó người đọc cũng cảm nhận được vẻ đẹp nhân cách của nàng.