Tham khảo bài soạn Các thao tác nghị luận do Đọc Tài Liệu biên soạn ngay sau đây để hiểu được khái niệm thao tác nghị luận, nắm được một số thao tác nghị luận thường gặp và yêu cầu đối với việc vận dụng các thao tác đó. Từ đó có thể rèn luyện những kĩ năng phân tích và vận dụng các thao tác nghị luận ấy trong bài văn của mình một cách dễ dàng thông qua một số bài tập SGK.
A- Kiến thức cơ bản cần nắm vững
I. Khái niệm thao tác nghị luận
- Thao tác nghị luận là những động tác được thực hiện theo trình tự và yêu cầu kĩ thuật được quy định trong hoạt động nghị luận.
- Thao tác nghị luận là một trong những loại thao tác mà con người vẫn thường tiến hành trong đời sống.
II. Một số thao tác nghị luận cụ thể
1. Các thao tác đã học: phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp
- Tổng hợp: kết hợp các phần (bộ phận), các mặt (phương diện), các nhân tố của vấn đề cần bàn luận thành một chỉnh thể thống nhất để xem xét.
- Phân tích: chia nhỏ vấn đề cần bàn luận ra thành hợp các phần (bộ phận), các mặt (phương diện), các nhân tố để có thể xem xét kỹ càng.
- Quy nạp: từ cái riêng suy ra cái chung, từ những sự vật cá biệt suy ra nguyên lý phổ biến.
- Diễn dịch: từ những tiền đề chung, có tính phổ biến suy ra những kết luận về những sự việc, hiện tượng riêng
2. Thao tác so sánh
- So sánh là sự đối chiếu hai hay nhiều đối tượng, nhiều sự kiện, nhiều hiện tượng với nhau dựa trên một mối liên hệ nào đó, nhằm tìm hiểu sự khác biệt giữa các đối tượng được đem so sánh, đồng thời làm nổi bật được đối tượng đang được xem xét, đánh giá.
- Mục đích của so sánh là làm sáng rõ đối tượng đang nghiên cứu trong tương quan với đối tượng khác.
- So sánh đúng làm cho bài văn nghị luận sáng rõ, cụ thể, sinh động và có sức thuyết phục.
- Muốn thuyết phục được người đọc tin và nghe theo những điều đã trình bày trong văn bản, người viết cần tìm các yếu tố, hiện tượng có hình thức hoặc đặc điểm tương xứng với nhau và từ việc nêu ra những đặc trưng, ý nghĩa hay giá trị của từng yếu tố mà người viết nêu ra được những nhận định, những đánh giá, những chân lý mang tính phổ quát.
- Sử dụng thao tác lập luận này, người viết không chỉ dẫn dắt người đọc đến với những kết luận khoa học, chính xác mà còn giúp cho lời văn trong văn bản sinh động, hấp dẫn, nhiều hình ảnh. Đó cũng là cách mà người viết tạo sức thuyết phục đối với độc giả.
B- Hướng dẫn trả lời câu hỏi bài tập soạn bài Các thao tác nghị luận
I. Khái niệm
1. Thao tác được dùng để chỉ việc thực hiện những động tác theo đúng trình tự và yêu cầu kĩ thuật nhất định.
Ví dụ: thao tác mở - đóng máy vi tính, bật - tắt ti vi; khởi động và đi xe máy; ghép cây, quá trình làm đất trồng màu.
2. So sánh thao tác nghị luận với các loại thao tác khác
– Tương đồng: Thao tác nghị luận cũng là một loại thao tác, do đó cũng bao gồm những quy định chặt chẽ về động tác, trình tự kĩ thuật và yêu cầu kĩ thuật.
– Khác biệt: Trong thao tác nghị luận, các động tác đều là các hoạt động của tư duy và được thực hiện nhằm mục đích nghị luận, nghĩa là thuyết phục người đọc (người nghe) hiểu và tin theo ý kiến bàn luận của mình.
II. Một số thao tác nghị luận cụ thể
1. Ôn lại các thao tác phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp
a. Nhớ lại để điền chính xác định nghĩa về các thao tác: phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp phù hợp với các câu đã cho, điền theo thứ tự đúng là: tổng hợp, phân tích, quy nạp, diễn dịch.
b. Trong lời tựa “Trích diễm thỉ tập”, Hoàng Đức Lương nhận định: "Thơ văn không lưu truyền hết ở đời là vì nhiều lí do”. Tiếp đó, ông lần lượt trình bày bốn lí do. Anh (chị) thấy tác giả sử dụng thao tác phân tích hay diễn dịch? Vì sao? Việc dùng diễn dịch (hay phân tích) như thế có tác dụng gì?
- Tác giả đã dùng thao tác phân tích chứ không phải thao tác diễn dịch vì ở đây tác giả đã chia vấn đề cần bàn luận thành bốn bộ phận để xem xét chứ không phải từ một tiền đề chung có tính phổ biến để diễn giải những sự vật, hiện tượng riêng.
- Việc sử dụng thao tác phân tích của tác giả có tác dụng chia một nhận định thành các mặt, từ đó làm rõ nguyên nhân khiến thơ ca không lưu truyền hết ở đời.
c. Dựa vào kết quả tìm hiểu trên, hãy nhận xét và đánh giá về cách sử dụng thao tác nghị luận của Thân Nhân Trung trong Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba (SGK tr. 132).
- Từ câu thứ nhất sang câu thứ hai, tác giả sử dụng thao tác phân tích để xem xét hai mặt của mối quan hệ giữa hiền tài và đất nước.
- Từ hai câu đầu sang câu thứ ba, tác giả chuyển từ thao tác phân tích sang thao tác diễn dịch. Tác giả đã dựa vào luận điểm: “hiền tài là nguyên khí quốc gia” để suy ra một cách đầy sức thuyết phục: phải coi trọng việc bồi đắp nguyên khí, gây dựng nhân tài.
d. Kết quả của Hoàng Đức Lương (câu c, SGK tr. 132) là tổng hợp hay quy nạp. Đọc đoạn trích và cho biết tác giả sử dụng thao tác tổng hợp hay quy nạp? Vì sao?
- Dẫn chứng rút ra từ bài tựa "Trích diễm thi tập”: Tác giả sử dụng thao tác tổng hợp nhằm thâu tóm những ý bộ phận vào một kết luận chung khiến cho kết luận ấy bao gồm được toàn bộ sức nặng của các luận điểm riêng trước đó.
- Dẫn chứng rút ra từ bài Hịch tướng sĩ: Tác giả sử dụng thao tác quy nạp. Những dẫn chứng khác nhau được sử dụng làm cho kết luận "Từ xưa các bậc trung thần nghĩa sĩ bỏ mình vì nước, đời nào không có?” càng trở nên đáng tin cậy, có sức thuyết phục mạnh mẽ đối với người nghe (người đọc) cả về lí trí lẫn tình cảm.
e. Những nhận định nêu dưới đây (SGK) đúng hay không? Vì sao?
- Nhận định thứ nhất đúng với điều kiện tiền đề để diễn dịch phải chân thực và cách suy luận khi diễn dịch phải chính xác. Khi đó, kết luận rút ra sẽ mang tính tất yếu, không thể bác bỏ, cũng không cần phải chứng minh.
- Nhận định thứ hai chưa chính xác. Chừng nào sự quy nạp còn chưa đầy đủ (chưa xét toàn bộ các trường hợp riêng) thì chừng đó, mối liên hệ giữa tiền đề và kết luận còn chưa chắc chắn, tính xác thực của kết luận còn phải chờ thực tiễn chứng minh.
- Nhận định thứ ba đúng vì phải có quy trình tổng hợp sau khi phân tích thì công việc xem xét, tìm hiểu một sự vật, hiện tượng mới thực sự hoàn thành.
2. Thao tác so sánh
a. Trong bài "Tinh thần yêu nước của nhân dân ta”, sau khi dẫn ra những tấm gương của sự cống hiến, hi sinh cho kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh tổng kết: “Những cử chỉ cao quý đó, tuy khác nhau nơi việc làm, nhưng đều giống nhau nơi lòng nồng nàn yêu nước”.
Tác giả dùng thao tác nào? Câu văn nhấn mạnh sự khác nhau hay giống nhau?
- Tác giả sử dụng thao tác so sánh. So sánh tinh thần yêu nước của nhân dân ta thời xưa với tinh thần yêu nước của đồng bào ta ngày nay.
- Câu văn được viết nhằm nhấn mạnh đến sự giống nhau.
b. Đoạn “Bàn về việc so sánh đức Lý và nhà Lê” trong Đại Việt sử kí của Lê Văn Hưu (mục 2.b SGK tr. 133) có cùng mục đích nhấn mạnh sự khác nhau (hoặc giống nhau) như đoạn trên không? Từ đó suy ra thao tác so sánh gồm mấy loại chính?
- Đoạn văn của Lê Văn Hưu sử dụng thao tác so sánh nhằm nhấn mạnh đến sự khác nhau, khác nhau giữa Lý Thái Tổ và Lê Đại Hành trong hai việc: “dẹp gian bên trong, đánh giặc bên ngoài để làm mạnh nước Việt” và “ân uy rõ rệt, lòng người vui vẻ suy tôn, làm cho vận nước lâu dài, để phúc lại cho con cháu”.
- Từ (a) và (b) suy ra: thao tác so sánh gồm hai loại chính, so sánh nhằm nhận ra sự giống nhau và so sánh nhằm nhận ra sự khác nhau.
c) Có người hoài nghi tác dụng của so sánh vì cho rằng “mọi so sánh đều khập khiễng”. Anh (chị) có tán thành ý kiến đó không? Vì sao?
- Ý kiến cho rằng “mọi so sánh đều khập khiễng” cũng có lí khi mà trong so sánh ta đòi hỏi đối tượng so sánh phải hoàn toàn tương đồng hoặc tương phản. Nhưng không nên vì thế mà hoài nghi tác dụng của so sánh, bởi vì so sánh sẽ giúp ta nhận thức về đối tượng một cách rõ nét và sâu sắc hơn.
- Trong bốn câu SGK đưa ra, câu trả lời thứ hai chưa đúng (“Những đối tượng được so sánh phải hoàn toàn tương đồng hoặc tương phản nhau”). Các câu còn lại đều đúng. Trước hết, muốn so sánh thì đối tượng phải có mối liên quan với nhau về một mặt (một phương diện) nào đó. So sánh phải dựa trên những tiêu chí cụ thể, rõ ràng và có ý nghĩa quan trọng đối với sự nhận thức bản chất của vấn đề (sự vật, hiện tượng) Những kết luận rút ra từ so sánh phải chân thực, mới mẻ, bổ ích, giúp cho việc nhận thức vấn đề (sự vật, hiện tượng) được sáng tỏ và sâu sắc hơn.
III. Luyện tập
Câu 1: Tìm hiểu đoạn trích trong Nguyễn Trãi - Nhà văn hoá lớn (SGK trang 134) và trả lời câu hỏi.
a. Tác giả muốn chứng minh điều gì?
b. Để làm rõ điều phải chứng minh, tác giả đã sử dụng những thao tác nghị luận chủ yếu nào?
c. Cách dùng những thao tác nghị luận đó hay ở chỗ nào?
Trả lời:
a. Tác giả muốn chứng minh: “Thơ Nôm Nguyễn Trãi đã tiếp thu nhiều thành tựu của văn hoá dân gian”.
b. Thao tác nghị luận chủ yếu được tác giả sử dụng để làm rõ điều phải chứng minh là thao tác phân tích. Tác giả đã phân chia luận điểm chung thành những bộ phận nhỏ (thi liệu dân gian, ngôn ngữ dân gian...). Mỗi bộ phận nhỏ lại được chia thành những bộ phận nhỏ hơn (chẳng hạn, ngôn ngữ dân gian được chia thành tục ngữ, thành ngữ, ca dao, thanh điệu...). Nhờ thế, luận điểm của đoạn trích được xem xét một cách cặn kẽ, thấu đáo.
c. Từ trường hợp riêng của Nguyễn Trãi, tác giả đã nâng lên thành sứ mệnh, thành chức năng cao quý của văn chương nghệ thuật. Nhờ thao tác quy nạp, tầm vóc tư tưởng của đoạn trích được nâng lên rõ rệt.
Câu 2:
Viết một đoạn văn nghị luận theo các yêu cầu của SGK (mục 2, trang 134).Gợi ý:
Học sinh cần chú ý:
- Những vấn đề đang được đặt ra cấp thiết trong đời sống như: vấn đề an toàn giao thông; phòng chống tệ nạn xã hội; vấn đề lí tưởng của thanh niên hiện nay;...
Người viết cần tìm hiểu kĩ một trong các vấn đề gợi ý trên để đưa ra được những luận điểm xác đáng, có sức thuyết phục.
- Căn cứ vào nội dung nghị luận và xác định đối tượng người đọc (người nghe) để lựa chọn các thao tác nghị luận thích hợp.
- Bài viết chỉ yêu cầu viết một đoạn văn nên ngoài viết cần tập trung vào một vài luận điểm chính.
Tham khảo một số đoạn văn mẫu sau đây:
* Mỗi năm, có hơn 4,8 triệu tấn chất thải nhựa được đẩy ra ngoài biển và đại dương. Những chất thải nhựa này chủ yếu là túi nilon, bong bóng, nắp chai, bật lửa, nút nhựa tổng hợp từ quần áo… Cụ thể, có khoảng 580.000 phế phẩm từ nhựa trôi nổi trên diện tích 1 km vuông nước biển và con số này đang ngày một tăng lên theo cấp số nhân. Nếu vào năm 1960, số lượng nhựa được phát hiện trong bụng của các loài chim biển chỉ khoảng 5% thì vào năm 2010, con số này đã tăng lên tới 80%. Rác thải từ nhựa đặc biệt nguy hiểm đối với sự sống của các sinh vật biển. Các sinh vật này không phân biệt được đâu là thức ăn, đâu là rác thải từ nhựa như túi nilon, chai lọ, … nên chúng ăn các loại phế phẩm này và nhanh chóng bị các chất độc trong nhựa giết chết. Do đó, tất cả hãy cùng hành động để bảo vệ môi trường chỉ bằng những việc làm thường ngày:
– Mang theo làn đi chợ.
– Sử dụng túi giấy thay vì túi nilon.
– Không sử dụng ống hút.
– Chuyển sang sử dụng nước uống trong chai thuỷ tinh thay vì nước trong chai nhựa.
– Phân loại rác và để rác đúng nơi quy định.
* Mỗi năm có khoảng 15.000 người chết vì tai nạn giao thông. Đó là con số mà ông Khuất Việt Hùng – phó chủ tịch chuyên trách Ủy ban An toàn giao thông quốc gia – cho biết tại lễ kí kết giữa văn phòng Ủy ban An toàn giao thông quốc gia và Bosch Việt Nam sáng ngày 20/09/2017. Theo ông Hùng, cụ thể trong 8 tháng đầu năm 2017, cả nước xảy ra 12.775 vụ tai nạn giao thông làm 5.422 người chết và 10.543 người bị thương. So với 8 tháng đầu năm 2016, tai nạn giao thông giảm 859 vụ, giảm 318 người chết và giảm 1.226 người bị thương. Nguyên nhân chính gây ra những vụ tai nạn nghiêm trọng chí là do ý thức của người dân khi tham gia giao thông. Số vụ tai nạn giao thông vẫn tiếp tục gia tăng nếu không cải thiện ý thức cho người tham gia giao thông. Để khắc phục tình trạng này, cần tuyên truyền cho người dân thấy rõ những hậu quả nghiêm trọng của tai nạn giao thông và phòng tránh bằng nhiều cách:
– Đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông
– Chấp hành đúng và đủ luật giao thông
– Không lạng lách, đánh võng
– Không tụ tập, đua xe trái phép
Xem thêm: 4 bài nghị luận về ô nhiễm môi trường hay nhất
-/-
---TỔNG KẾT---
- Thao tác nghị luận là những động tác được thực hiện theo trình tự và yêu cầu kĩ thuật được quy định trong hoạt động nghị luận.
- Phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp và so sánh là những thao tác thường gặp trong hoạt động nghị luận.
- Mỗi thao tác đều có ưu thế riêng và cũng có thể có hạn chế riêng. Người nghị luận cần nắm vững các ưu thế và hạn chế đó để có thể vận dụng những thao tác thích hợp, bảo đảm cho hoạt động nghị luận đạt được hiệu quả cao.