So sánh giá trị nhân đạo trong Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ

Xuất bản: 10/05/2023 - Tác giả:

So sánh giá trị nhân đạo trong Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ, hướng dẫn lập dàn ý chi tiết và tham khảo top 2 bài văn mẫu hay so sánh giá trị nhân đạo của hai tác phẩm

Với mục đích giúp các em có một bài văn so sánh giá trị nhân đạo trong Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ hay và sâu sắc, Đọc Tài Liệu đã tổng hợp gửi tới các em một số bài văn mẫu và kèm theo gợi ý cách triển khai bài văn. Cùng tham khảo ngay!

Dàn ý bài văn so sánh giá trị nhân đạo trong Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ

1. Mở bài

- Giới thiệu khái quát về hai tác giả và tác phẩm: Vợ nhặt của Kim Lân và Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài

- Nêu vấn đề cần nghị luận: So sánh điểm giống và khác nhau trong giá trị nhân đạo của Kim Lân và Tô Hoài được thể hiện qua hai tác phẩm Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ.

2. Thân bài

a) Định nghĩa về giá trị nhân đạo

- Giá trị nhân đạo là thái độ thương yêu trân trọng những phẩm chất tốt đẹp của con người, sự đồng cảm với những đau khổ, ngợi ca và đề cao những khát vọng của con người, lên án tố cáo những thế lực áp bức, bóc lột người lao động,…

b) Giá trị nhân đạo trong Vợ nhặt:

- Số phận bi thảm của con người: cảnh ngộ, số phận của các nhân vật như Tràng, người vợ nhặt, Bà Cụ Tứ.

- Khát khao hạnh phúc, hướng tới tương lai

- Tôn vinh những phẩm chất đáng quý và khát vọng sống của con người

- Những mảnh đời nghèo đói đến với nhau, cùng chắp lại thành một cuộc đời ấm áp, nhen nhóm hy vọng về một ngày mai rạng rỡ hơn, một cuộc đời mới được sưởi ấm bởi ánh sáng của “ngọn đèn” vĩnh cửu là cách mạng.

c) Giá trị nhân đạo trong Vợ chồng A Phủ

- Số phận bi thảm của con người: Mị là nạn nhân của đồng tiền và các thế lực phong kiến cường quyền tàn ác với nỗi đau bị đày đọa về thể xác, áp bức về tinh thần.

- Sức sống tiềm tàng, mãnh liệt: Mị khao khát sống, khao khát hạnh phúc. Sức sống, sức trẻ, tình thương vốn tiềm tàng trong Mị đã giúp cô đủ sức mạnh để cởi trói cho A Phủ, cùng nhau chạy trốn đến Phiềng Sa.

d) So sánh điểm giống và khác nhau trong giá trị nhân đạo của hai tác phẩm:

- Giống nhau: Cả hai đều thể hiện một lòng thương cảm sâu sắc đối với số phận của người nông dân trong xã hội cũ, đồng thời lên án và chỉ trích những thế lực tàn bạo đã gây ra bi kịch cho con người, bày tỏ sự trân trọng vẻ đẹp và phẩm chất cao quý của người lao động.

- Khác nhau:

+ Ở “Vợ nhặt”: Tác giả đặt nhân vật vào một tình huống đặc biệt, bày tỏ sự cảm thương trước số phận bi thảm của người nông dân bị nạn đói dồn đẩy đến bước đường cùng, giá trị con người trở nên rẻ mạt; tố cáo tội ác của bọn thực dân, phát xít đã gây ra nạn đói khủng khiếp; phát hiện và ngợi ca khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc, tình cảm cưu mang đùm bọc lẫn nhau giữa những người cùng chung cảnh ngộ và niềm tin hướng về tương lai của họ.

+ Ở “Vợ chồng A Phủ”: Nhà văn cảm thông trước số phận bi thảm của người lao động vùng cao Tây Bắc, đặc biệt là thân phận người phụ nữ dưới ách áp bức bóc lột của bọn chúa đất phong kiến. Tố cáo, lên án tội ác của giai cấp phong kiến thống trị. Trân trọng khát vọng tự do, tinh thần đấu tranh phản kháng của quần chúng bị áp bức.

e) Lí giải nguyên nhân có sự giống nhau và khác nhau đó:

- Do hoàn cảnh sáng tác.

- Do phong cách, cá tính sáng tạo của mỗi nhà văn.

3. Kết bài

- Đánh giá lại vấn đề: Giá trị nhân đạo của thời kỳ này không chỉ dừng lại ở sự đồng cảm thương yêu con người, sự trân trọng phẩm chất tốt đẹp của con người mà các nhà văn đã có ý thức thể hiện, bộc lộ sự chống lại nguyên nhân gây nên nỗi khổ ấy.

Top 2 bài văn so sánh giá trị nhân đạo trong Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ

So sánh giá trị nhân đạo trong Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ mẫu số 1:

Kim Lân và Tô Hoài là hai tác giả nổi tiếng và xuất sắc trong văn học hiện đại Việt Nam. Qua tác phẩm Vợ Nhặt và Vợ chồng A Phủ, cả hai đã thể hiện rõ ngòi bút xuất chúng của mình. Nhờ đó, chúng ta thấy được tư tưởng nhân đạo luôn hướng về con người, tôn vinh và bảo vệ lẽ phải của hai nhà văn.

Trong một tác phẩm, giá trị nhân đạo được xem như xương sống, là thể hiện ở phương diện nội dung. Tuy nhiên, trên tất cả, đó chính là thái độ yêu thương những phẩm chất tốt đẹp của con người, đồng thời lên án và tố cáo những thế lực áp bức bóc lột người dân. Một tác phẩm được cho là có tính nhân văn sâu sắc khi nó bao hàm và mang được những yếu tố ấy thể hiện trong tác phẩm của mình. Trong tác phẩm Vợ nhặt, những khía cạnh bi thảm của sự mỏng manh, tầm thường và số phận đáng thương của con người được thể hiện rõ. Tác phẩm cũng đưa ra cái nhìn chân thực về cuộc sống khốn khó và thể hiện tình cảm nhân đạo một cách rõ ràng.

Họ khao khát hạnh phúc và có một tương lai tươi sáng. Tác phẩm Vợ Nhặt không chỉ khiến chúng ta thêm trân trọng số phận và cảm thông với họ mà còn giúp chúng ta hiểu được một điều vô cùng quan trọng, đó là khao khát sống của họ. Dù đối mặt với nghèo đói, cái chết và khổ đau, những điều này có thể làm tha hóa một phần nhân cách của họ. Tuy nhiên, hạnh phúc vẫn tồn tại và bằng cách này hay cách khác con người luôn mong muốn và khao khát hạnh phúc. Và như một nguồn sinh lực, nó truyền sức mạnh cho cuộc sống của họ.

Mối lương duyên đặc biệt giữa Tràng và người vợ nhặt trên đường phố được coi là một minh chứng tiêu biểu. không phải trước đây, Tràng không khao khát một cuộc sống gia đình, một tổ ấm bình yên, đàn gà ấp nở trong sân, vợ chồng, mẹ con vui vầy đầm ấm... Những cảnh chết chóc tàn khốc luôn hiện diện trước mắt, âm thanh tiếng khóc tỉ tê tưởng như khiến con người không còn đủ sức vươn tới những niềm hạnh phúc dù nhỏ bé. Tuy nghèo đói, nhưng họ đã cho chúng ta thấy khát vọng sống và hạnh phúc trọn vẹn. Cuộc gặp gỡ của những cuộc đời nghèo khó đã nhen nhóm lên những tia hy vọng nhỏ bé. Hình ảnh "lá cờ đỏ" hiện lên như một biểu tượng của sự tin tưởng và hy vọng vượt qua hoàn cảnh khó khăn. Kim Lân đã truyền tải thông điệp về một tương lai tươi sáng hơn, tràn đầy niềm tin và hy vọng, miễn là họ không chấp nhận thua cuộc trước số phận và luôn tiến về phía trước.

Trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ, chúng ta được thấy hình ảnh và chân dung của một người phụ nữ và một chàng trai. Cả hai đều là những con người tài năng và có ý chí, nhưng đã phải chịu nhiều đau đớn và khổ cực dưới sự áp bức và bóc lột của chế độ phong kiến. Cô Mị từng là một người trẻ trung và ham sống, đã trở thành một tâm hồn bị giam cầm, sống mà như chết. A Phủ bị trói và phải chịu đau đớn không tưởng. Tuy nhiên, qua những tình huống này, tác giả đã khắc họa sức mạnh tiềm tàng và hình ảnh của Mị cởi trói giải thoát cho A Phủ và tự cứu mình. Điều này thể hiện khát vọng, niềm tin và thái độ vượt lên trên hoàn cảnh khó khăn.

Thông qua ngòi bút của mình, Kim Lân và Tô Hoài đã ca ngợi, tôn vinh và khẳng định những phẩm chất và giá trị tốt đẹp của họ. Qua đó đặc biệt nhấn mạnh giá trị nhân đạo và niềm tin truyền vào tâm hồn của độc giả. Đồng thời, họ cũng tố cáo những tội ác của bọn phát xít và chế độ phong kiến tàn bạo. Tóm lại, thông qua hai tác phẩm văn xuôi cách mạng, chúng ta đã thấy được một cuộc sống khốn khó và tuyệt vọng, nhưng vẫn khơi dậy niềm tin trong họ. Điều này là một trong những đóng góp riêng, mới mẻ của nhà văn, tạo ra một hình ảnh mới, diện mạo mới cho văn học thời kỳ này và góp tiếng nói nhân đạo dành cho con người.

So sánh giá trị nhân đạo trong Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ mẫu số 2:

Kim Lân và Tô Hoài là hai cây bút truyện ngắn nổi tiếng trong nền văn xuôi hiện đại của Việt Nam. Hai tác phẩm "Vợ nhặt" và "Vợ chồng A Phủ" đều mang giá trị nhân đạo sâu sắc, nhưng tư tưởng nhân đạo của mỗi nhà văn trong từng tác phẩm lại có những đặc trưng riêng.

Giá trị nhân đạo trong văn chương truyền thống được thể hiện qua nhiều khía cạnh và phương diện. Tuy nhiên, nhìn chung, nó đại diện cho thái độ yêu thương và tôn trọng những tác phẩm tốt đẹp của con người. Nó biểu hiện cho sự đồng cảm với những nỗi đau và đánh giá cao những khát vọng của con người, đồng thời lên án và tố cáo những thế lực áp bức và bóc lột người lao động. Một tác phẩm chứa đựng những nội dung này được coi là mang tính nhân văn sâu sắc.

Tô Hoài dành sự chia sẻ và cảm thông cho những nhân vật trong tác phẩm của mình. Ông dành một tình cảm yêu thương và trân trọng đặc biệt cho nhân vật Mị trong truyện "Vợ chồng A Phủ". Sự trân trọng này được thể hiện qua việc miêu tả tâm lý, tình cảm và những nỗi đau khổ của nhân vật rất tài tình. Tô Hoài đã lựa chọn, chắt lọc cẩn thận các chi tiết và nhịp văn để làm nổi bật cuộc sống khốn khổ và đau buồn của Mị. "Ngày ngày cô ngồi bên một tảng đá, cạnh tàu ngựa, cúi mặt buồn rười rượi". Mị đã bị người ta quên đi vai trò là con dâu của gia đình thống lí. Trên thực tế, cuộc đời của Mị là cuộc đời nô lệ, chôn vùi tuổi thanh xuân và sắc đẹp của cô. Mị là nạn nhân của tiền bạc và những thế lực phong kiến tàn ác. Cô sống trong im lặng, lao động vất vả suốt ngày đến mức quên cả thời gian.

Trong vai trò con dâu, Mị đã sống như một con nợ, bề ngoài là con dâu nhưng bên trong thực chất lại là con nợ. Thông thường một con nợ dù khốn khổ vẫn giữ hy vọng rằng một ngày nào đó sẽ thoát khỏi tình trạng nợ nần khi đã thanh toán đầy đủ cho chủ nợ. Tuy nhiên, điều đáng buồn là Mị không chỉ là con nợ mà còn là con dâu, tâm hồn của Mị đã bị đem đi "trình ma" nhà thống lí. Mị không thể trốn chạy hay thoát khỏi, chỉ có thể chờ đợi ngày rũ xương tại đây.

Mị chịu đựng sự đày đọa về thể xác, bị tê liệt về tinh thần và sức phản kháng. Sau thời gian dài chịu đựng nỗi đau, Mị đã quen với nó. Bây giờ, Mị tưởng mình cũng là con trâu, con ngựa. Cuộc sống trở nên nhàm chán, mệt mỏi, Mị cúi mặt không còn suy nghĩ mà chỉ nhớ lại những việc giống nhau, liên tiếp nhau, diễn ra mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng và lặp đi lặp lại. Sau Tết, Mị lên núi hái thuốc phiện, đến giữa năm lại giặt đay se đay, đến mùa lại đi nương, bẻ bắp. Dù khi đi hái củi, bung ngô hay làm bất cứ việc gì, Mị luôn cài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Con ngựa và con trâu ít nhất còn có thời gian nghỉ ngơi, buổi tối chúng được đứng để gãi chân, nhai cỏ, nhưng phụ nữ và con gái nhà này thì ngập đầu trong công việc cả ngày lẫn đêm. Mị trở thành một con rùa nuôi trong xó cửa.

Mị bị đày đọa về tinh thần. Cô Mị, ngày xưa tràn đầy sự trẻ trung, giờ đây chỉ còn như một xác vô hồn, sức phản kháng hoàn toàn bị tê liệt. Căn phòng nơi Mị nằm hoàn toàn kín mít, chỉ có một cửa sổ, một lỗ vuông bằng lòng bàn tay. Mỗi khi nhìn ra, Mị luôn thấy ánh trăng trắng, không biết đó là sương hay ánh nắng. Đó là một hình ảnh tuyệt mỹ hay có thể là một biểu tượng tù đày tinh thần, nó không giam cầm thể xác của Mị nhưng nó tách rời tâm hồn cô với cuộc sống. Nó vùi dập tuổi xuân và sự sống của cô. Với tư cách người viết, tác giả lên tiếng tố cáo chế độ phong kiến vì đã làm khô héo tinh thần sống, dập tắt ngọn lửa niềm vui sống trong những con người xứng đáng được sống. Cuộc sống của Mị bị giam hãm, bị đày đọa trong nhà thống lí Pá Tra với nhịp sống u ám, đầy gánh nặng của những công việc vất vả, lặp đi lặp lại.

Dàn trải nỗi đau khổ, nhục nhã mà Mị chịu đựng trên trang giấy cũng là nỗi khổ đau của Tô Hoài. Ông viết lên sự thật, mặc dầu rơi lệ, xót xa cho nhân vật. Ông đã không dè đặt tố cáo các thế lực đã đẩy con người vào vực thẳm cuộc đời. Trước ngòi bút của Tô Hoài, cuộc sống yên ổn của người dân miền núi còn là một cái gì đó rất xa xôi.

Khung cảnh mùa xuân ở Hồng Ngài năm ấy thật lộng lẫy, rực rỡ, có sức say người với những chiếc váy hoa sặc sỡ trên những mỏm đá cùng tiếng cười rộn rã của đám trẻ đợi Tết chơi đùa trước nhà. Âm thanh của tiếng sáo gọi bạn. Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha bổi hổi. Tiếng sáo là biểu tượng của tình yêu và tự do. Mị ngồi nhẩm thầm lời bài hát:

“Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu.”

Ngôn từ bài hát mộc mạc, giản dị, vậy mà chất chứa cả cái lối sống phóng khoáng, tự do của con người. lẽ phải đơn sơ ấy đã vọng vào tâm hồn cô gái đã có một thời thổi sáo rất hay.

Cô ấy đã tìm đến rượu. Mị lén lấy hũ rượu, uống từng bát như thể đang nuốt đi cay đắng của quá khứ, như thể khao khát niềm vui cho phần đời còn lại. Mị đã say nhưng lòng Mị vẫn nhớ về những ngày xưa, ý thức dần trở lại. Tiếng sáo vang lên từ làng kề bên như một lời mời gọi, khích lệ và mời Mị đến. Mị nhớ về ngày xưa Mị là người thổi sáo giỏi và cảm thấy trong lòng bỗng dưng phơi phới, tràn đầy niềm vui như những ngày tết trước đó. Mị còn trẻ, Mị vẫn trẻ, Mị muốn đi chơi. Rồi một ý nghĩ lạ lùng nhưng chân thực đã xuất hiện trong đầu Mị. Nếu Mị có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn ngay cho chết. Đó chính là sự phản kháng của Mị với hoàn cảnh, chứng tỏ Mị đã lấy lại ý thức và nhận ra tình cảnh đau khổ dai dẳng này.

Tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lơ lửng bay ngoài đường, thôi thúc Mị tìm đến với khát vọng tự do, hạnh phúc. Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Đó là hành động thức tỉnh, như thắp sáng lên phần đời còn lại của mình. Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo, tiếng sáo như một hiện tượng ngoại cảnh đã xâm nhập vào nội tâm của Mị, hiện hữu trong tâm hồn Mị. Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi. Mị quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách. Hành động của Mị khiến cho A Sử ngạc nhiên, hắn đã trói Mị vào cột làm cho Mị không cúi không nghiêng được nữa.

Nhưng A Sử chỉ có thể trói thân xác của Mị, không thể trói buộc tâm hồn cô. Tiếng sáo vẫn kéo Mị đi qua những trò chơi, những cuộc vui. Mị bước đi nhưng tay chân đau đớn không thể chịu đựng. Mị tự nhận thấy mình không bằng một con ngựa. Cả đêm ấy Mị phải trói đứng như thế, lúc thì khắp người bị dây trói khít lại đua nhức, lúc lại nồng nàn tha thiết nhớ, hơi rượu tỏa. Tiếng sáo, tiếng chó sủa xa xa, Mị lúc mê lúc tỉnh. Mị còn nhớ lại câu chuyện ngày xưa người ta hay kể. Trước kia ở nhà thống lí Pá Tra, có một người trói vợ ba ngày rồi đi chơi, khi trở về thì phát hiện vợ đã chết. Mị sợ hãi, Mị cựa quậy để kiểm tra liệu mình còn sống hay đã chết.

Khép lại khát vọng được đi chơi, được sống tự do. Trong đêm tình mùa xuân, Mị lại rơi vào tình cảnh bi đát còn hơn trước đó. Nhưng ít ra cô cũng đã có những thay đổi về tâm lí, cô muốn sống hơn là chết. Có thể nói nhà văn Tô Hoài có sự đồng cảm sâu sắc với khát vọng của Mị. Ông đã khám phá ra quy luật của cuộc sống trong nhân thân bé nhỏ của Mị. Ông hiểu rằng không có điều gì có thể chôn vùi đi khát vọng tự do và hạnh phúc trong cuộc sống của Mị, dù cuộc đời có khắc nghiệt đến đâu. Và việc Mị phản kháng là điều không thể tránh khỏi. Sức sống, sự trẻ trung và tình thương vốn đã tiềm tàng trong tâm hồn cô, giúp cô có đủ sức mạnh để cởi trói cho A Phủ.

Ban đầu, Mị ngồi thổi lửa hơ tay mà không mảy may, như thể A Phủ chỉ là một xác chết đứng đấy, không có sự quan tâm hay cảm xúc nào. Đó là một thái độ lạnh lùng và vô tình. Tâm hồn của Mị đã bị chai sạn vì nỗi đau quá lớn, không còn quan tâm đến bất kỳ ai khác nữa. Bởi điều này cũng là những cảnh tượng xảy ra thường xuyên trong nhà thống lí.

Đêm khuya, Mị dậy thổi lửa, ngọn lửa bùng cháy rực rỡ. Mị lóe mắt trông sáng thì thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở. Một giọt nước mắt lấp lánh rơi xuống hai hõm má đã trở nên xám đen lại. Đó là giọt nước mắt của sự tuyệt vọng, bất lực và hoàn toàn bế tắc. Mị đột nhiên nhớ về một đêm trong quá khứ, khi A Sử trói Mị, Mị xúc động và đau xót, cảm thông với nỗi đau của A Phủ. Nhận thức rõ bản chất ác độc của kẻ thù, lòng thương người trong Mị dần dần trỗi dậy, áp đảo nỗi sợ hãi. Mị quyết định cắt đứt sợi dây trói cho A Phủ. Hành động này mang ý nghĩa phản kháng quyết liệt, chống lại chế độ cường quyền và sự áp đặt của thần quyền. Sau khi giải thoát cho A Phủ, Mị đứng im trong bóng tối, trong lòng đầy dằng xé, nhưng cùng với đó là khát vọng sống mạnh mẽ trỗi dậy. Mị bắt đầu chạy theo cùng A Phủ hướng về tự do, theo đuổi ước mơ khát vọng của mình.

Như vậy, với Mị, Tô Hoài đã thể hiện mình là một ngòi bút tâm lí sâu sắc, tinh tế, đạt đến trình độ bậc thầy. Nhân vật Mị là kết tinh cho lòng yêu thương con người sâu sắc của nhà văn. Điều đó đã làm nên giá trị nhân đạo bền vững cho tác phẩm.

Trong “Vợ nhặt”, giá trị nhân đạo biểu hiện ở số phận bi thảm của con người, khát khao hạnh phúc, hướng tới tương lai. Tràng nhà nghèo, dân ngụ cư, xấu trai, ế vợ. Xét về hoàn cảnh gia đình và bản thân thì anh khó mà lấy được vợ. Thị, người không có nguồn gốc xuất thân rõ ràng, không biết họ tên cụ thể và công việc không ổn định. Lần đầu gặp Tràng, Thị rất hồn nhiên và vô tư. Nhưng khi họ gặp lại lần hai, thị rách quá, quần áo tả tơi như tổ đỉa. Thị trông gầy sọp hẳn, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt. Sự tàn nhẫn của hoàn cảnh đã khiến thị trở thành một kẻ cong cớn, trơ trẽn và trân tráo. Thị mắng Tràng "Điêu! Người như thế mà điêu!" và sau đó gợi ý để được ăn. Khi Tràng đáp ứng và cho thị ăn, thị đâm đầu vào ăn một chặp bốn bát bánh đúc một cách vội vã mà không chuyện trò gì. Và sau lời đùa của Tràng, thị đã quyết định đi theo anh về nhà.

Cụ Tứ già nua, gầy ốm, bị bệnh, có con trai có vợ giữa những ngày đói khiến lòng mẹ buồn tủi vô cùng. Ban đầu, bà im lặng, vừa than thở vừa thương xót cho số phận của đứa con trai. Bà cảm thấy đau lòng khi "người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mày mở mặt sau này, còn mình thì…". Trong ánh mắt ướt át của bà, hai dòng nước mắt lặng lẽ rơi xuống. Bà còn lo lắng không biết liệu chúng nó có thể tự nuôi sống nhau và vượt qua cơn khốn khó đói khát này không.

“Vợ nhặt” không chỉ cho chúng ta thêm trân trọng những phẩm chất đáng quý của con người mà còn giúp ta hiểu thêm về khát vọng sống của họ. Cái đói, cái chết có thể khiến người ta phần nào tha hóa nhân cách nhưng hạnh phúc đã như một nguồn sinh lực thay đổi cuộc đời họ.

Cuộc hôn nhân đặc biệt lạ lùng giữa Tràng và người vợ được tìm thấy bên đường là một minh chứng tiêu biểu. Không phải trước đây, Tràng không có khát khao hạnh phúc gia đình, có một người vợ để chăm sóc mẹ già trong lúc đau yếu. Không phải Tràng không mơ ước về ngày nhà cửa sẽ sạch sẽ, gọn gàng và con gà sẽ ấp nở trong sân, vợ chồng và mẹ con hạnh phúc sum vầy. Cảnh tượng đau lòng, tiếng khóc bi thảm và cái đói khát rợn ngợp đã khiến họ có lúc nghĩ rằng họ không đủ sức để đạt được hạnh phúc nhỏ bé đó. Chỉ khi đọc giả chứng kiến ánh mắt rạng rỡ, niềm vui tràn đầy của cả Tràng và bà cụ Tứ trước ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn hiếm hoi, chúng ta mới hiểu rằng khao khát đó đã cháy bỏng trong lòng họ đến mức nào. Mặc dù hai hào dầu phải hy sinh phung phí, nhưng những điều đó mang lại một chút sáng sủa chào đón niềm hạnh phúc của con trai khiến bà cụ Tứ trở nên khỏe mạnh và trẻ trung hơn.

Những thân phận nghèo khó đã gặp nhau và tạo nên một hành trình ấm áp, đầy hy vọng. Chủ nghĩa nhân đạo của nhà văn Kim Lân được truyền tải qua nhân vật và tác phẩm của ông, thể hiện qua tâm trạng của nhân vật và bố cục câu chuyện. Thời gian trong truyện diễn biến theo chiều hướng từ chiều tàn, đêm tăm tối đến ánh sáng từ lòng tuyệt vọng đến hy vọng tràn đầy từ một ngọn đèn hiếm hoi được khêu lên cho đến hình ảnh "lá cờ đỏ" phấp phới trong ký ức của Tràng. Tất cả đều mang tính tích cực, là sự tin tưởng vào khả năng thay đổi cuộc sống và hoàn cảnh của nhà văn và nhân vật. Một nhân cách, một khát vọng và một sự chuẩn bị cho tương lai yên ổn chắc chắn sẽ khiến mỗi người tự tin hơn. Và có lẽ qua lá cờ đỏ trên con đê, Kim Lân muốn tiên đoán một ngày mai tươi sáng hơn, một cuộc sống mới được sưởi ấm bởi ánh sáng của ngọn đèn cách mạng vĩnh cửu.

Một lần nữa, ta nhận thấy rằng nhân đạo luôn là giá trị cốt lõi của các tác phẩm văn học dù ở bất kể đề tài hay góc nhìn nào. Nhờ có giá trị nhân đạo, trong hơn nửa thế kỷ qua, người đọc vẫn cảm thấy gắn bó với nhân vật, với những diễn biến của câu chuyện. Nỗi khổ cực của con người cùng với khát vọng sống của họ vẫn luôn là vấn đề trung tâm của văn học. Mỗi khám phá mới của một nhà văn đều nhằm hoàn thiện con người, chính họ và cách nhìn của con người với cuộc đời.

Giá trị nhân đạo của hai tác phẩm Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ đều thể hiện sự cảm thông sâu sắc trước số phận bi thảm của con người, nhất là người nông dân trong xã hội cũ, tố cáo, lên án các thế lực tàn bạo đã gây ra bi kịch cho con người và sự trân trọng vẻ đẹp phẩm chất của người lao động.

Ở truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, nhà văn cảm thông trước số phận bi thảm của người lao động cùng cao Tây Bắc, đặc biệt là thân phận của người phụ nữ dước ách áp bức bóc lột của bọn chúa đất phong kiến điển hình là cha con thống lí Pa Tra: bắt trả lãi cắt cổ, bắt người gạt nợ, trói người đã man, tục trình ma, xử kiện không công bằng,…; tố cáo, lên án tội ác của giai cấp phong kiến thống trị; trân trọng khát vọng tự do, tinh thần đấu tranh phản kháng của quần chúng bị áp bức.

Còn trong truyện “Vợ nhặt”, nhà văn đặt nhân vật vào một tình huống đặc biệt, độc đáo, bất ngờ và bày tỏ sự thương cảm trước số phận bi thảm của người nông dân bị nạn đói dồn đẩy đến bước đường cùng, giá trị con người trở nên rẻ mạt. Ngoài ra, tác giả còn tố cáo tội ác của bọn thực dân, phát xít đã gây ra nạn đói khủng khiếp, phát hiện và ngợi ca khát vọng sống, hạnh phúc, tình cảm cưu mang đùm bọc lẫn nhau giữa những người cùng chung cảnh ngộ và niềm tin hướng về một tương lai tươi sáng.

Tóm lại, từ hai tác phẩm văn xuôi cách mạng trên, ta nhận thấy rõ rằng giá trị nhân đạo trong thời kỳ này không chỉ giới hạn ở sự đồng cảm và yêu thương con người, sự tôn trọng những phẩm chất đáng trân trọng của con người mà các nhà văn đã có ý thức thể hiện, biểu lộ sự chống lại nguyên nhân gây ra cơn khốn khó đó. Đặc biệt, những nhà văn cách mạng đã tìm ra những giải pháp để giải thoát con người khỏi sự bế tắc, u ám. Đóng góp riêng của từng nhà văn đã góp phần làm phong phú và mang tính đột phá cho truyền thống nhân đạo của văn học dân tộc (đặc biệt là với tư duy lạc quan và niềm tin vào tương lai), tạo nên một hình ảnh mới cho văn xuôi trong giai đoạn 1945 - 1975.

-/-

Trên đây là nội dung chi tiết một số mẫu bài văn so sánh giá trị nhân đạo trong Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ - Văn mẫu 12 do Doctailieu tổng hợp và biên soạn chi tiết hi vọng sẽ giúp các em có thêm nguồn tài liệu tham khảo hữu ích để có một bài văn cảm nhận hay và sâu sắc.

Bạn còn vấn đề gì băn khoăn?
Vui lòng cung cấp thêm thông tin để chúng tôi giúp bạn
Hủy

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM