Phân tích Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu)

Xuất bản: 08/04/2024 - Tác giả: - Tham vấn bởi:

Tuyển chọn những bài văn mẫu hay phân tích Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu để thấy chiều sâu tư tưởng của nhà văn gửi gắm qua nhân vật

    Phân tích Chiếc thuyền ngoài xa là một trong những đề văn phân tích thường gặp trong chương trình Ngữ văn lớp 12 phần Tập làm văn. Cùng tham khảo chi tiết cách làm và một bài văn mẫu hay phân tích Chiếc thuyền ngoài xa ngắn gọn

 dưới đây để có thêm tư liệu, những ý văn hay khi làm bài nhé!

Hướng dẫn làm bài phân tích Chiếc thuyền ngoài xa

Đề bài: Phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu.

1. Yêu cầu đề bài

- Yêu cầu về nội dung: Phân tích nội dung, nghệ thuật của tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa.

- Phạm vi tư liệu, dẫn chứng: các hình ảnh, chi tiết, câu nói... thuộc phạm vi văn bản Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu.

- Phương pháp lập luận chính: phân tích.

2. Luận điểm phân tích Chiếc thuyền ngoài xa

- Luận điểm 1: Tình huống truyện bất ngờ và hai phát hiện của Phùng

- Luận điểm 2: Nhân vật người đàn bà hàng chài - trung tâm câu chuyện.

- Luận điểm 3: Nhân vật Phùng và tấm ảnh được chọn, qua đó nhận ra nghệ thuật chân chính không bao giờ tách rời khỏi cuộc sống.

3. Sơ đồ tư duy phân tích Chiếc thuyền ngoài xa

So do tu duy phan tich truyen Chiec thuyen ngoai xa

>>> Tham khảo ngay sơ đồ tư duy Chiếc thuyền ngoài xa - hệ thống kiến thức về truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa

ngắn gọn, dễ hiểu nhất.

4. Kiến thức cần nắm vững về tác giả, tác phẩm

a) Tác giả Nguyễn Minh Châu

- Nguyễn Minh Châu (1930 - 1989) tên khai sinh là Nguyễn Thí, quê ở làng Văn Thai, tên nôm là làng Thơi, xã Sơn Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.

- Ông tốt nghiệp trường Kỹ nghệ Huế (1945) và học chuyên khoa trường Huỳnh Thúc Kháng tại Nghệ Tĩnh (1950), sau đó gia nhập quân đội học ở trường sĩ quan lục quân Trần Quốc Tuấn.

- Ông về công tác tại phòng Văn nghệ quân đội năm 1962 và sau đó là tạp chí Văn nghệ quân đội.

- Năm 1972, ông được kết nạp vào Hội nhà văn Việt Nam.

- Năm 2000, ông được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

- Nguyễn Minh Châu là một nhà văn tài năng có ảnh hưởng quan trọng đối với văn học Việt Nam giai đoạn chiến tranh Việt Nam và thời kỳ đầu của đổi mới. Ông có nhiều cống hiến và luôn trăn trở về cuộc đời con người cũng như là sứ mệnh người nghệ sĩ.

- Quá trình sáng tác:

+ Trước năm 1975: viết về đề tài chủ nghĩa anh hùng trong chiến đấu, mang thiên hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.

+ Sau năm 1975: cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức, mang tính triết lí sâu sắc; ngôn ngữ đời thường, bình dị, gần gũi.

- Các tác phẩm chính: Cửa sông (tiểu thuyết, 1966), Những vùng trời khác nhau (truyện ngắn, 1970), Dấu chân người lính (tiểu thuyết, 1972), Miền cháy (tiểu thuyết, 1977), Lửa từ những ngôi nhà (tiểu thuyết, 1977) Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (truyện ngắn, 1983), Bến quê (truyện ngắn, 1985), Mảnh đất tình yêu (tiểu thuyết, 1987), Cỏ lau (truyện vừa, 1989)...

- Quan niệm mới về con người và cuộc đời:

+ Con người không nhất phiến, đơn chiều, lí tưởng. Con người rất bề bộn, phức tạp, được ánh xạ qua nhiều mối quan hệ với hiện thực (cả mặt tốt lẫn mặt xấu - “rồng phượng lẫn rắn rết”…)

+ Cuộc sống đa chiều, đầy những vết nham nhở, sần sùi, có cả niềm vui, sự thanh thản lẫn nỗi buồn, sự vật vã, bức bối đầy phức tạp và biến động. Chính nhà văn đã từng nói: “Con người thì đa đoan, cuộc đời thì đa sự”.

- Quan niệm về nghệ thuật: “Văn học và đời sống là những vòng tròn đồng tâm, mà tâm điểm là con người” (1986).

- Chủ đích sáng tạo: “Gắng đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu trong tâm hồn con người”, không ngừng trăn trở về số phận nhân dân và trách nhiệm của một nhà văn.

b) Tác phẩm truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa

- Hoàn cảnh sáng tác: 

+ Đầu những năm 80 của thế kỉ XX, nước ta lâm vào cơn khủng hoảng kinh tế nặng nề. Thực tế đòi hỏi phải có những cơ chế mới thích hợp để thay thế cơ chế quan liêu bao cấp đã lỗi thời, kể cả phải thay đổi lối bao cấp về tư tưởng.

+ Truyện "Chiếc thuyền ngoài xa" được viết vào tháng 8 năm 1983, khi cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đã kết thúc. Tác phẩm là một trong số những sáng tác tiêu biểu của văn học Việt Nam từ sau năm 1975 đến cuối thế kỉ XX.

- Nội dung chính: Truyện kể lại chuyến đi thực tế của một nghệ sĩ nhiếp ảnh và những chiêm nghiệm sâu sắc của Nguyễn Minh Châu về nghệ thuật và cuộc đời.

- Đặc sắc nghệ thuật:

+ Xây dựng cốt truyện độc đáo.

+ Cách kể truyện tự nhiên, khách quan với điểm nhìn là nhân vật Phùng

+ Nghệ thuật khắc họa nhân vật đặc sắc

+ Xây dựng nhiều hình ảnh, hình tượng vừa chân thực vừa chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa sâu sắc.

- Tóm tắt Chiếc thuyền ngoài xa:

    Một nghệ sĩ nhiếp ảnh đến một vùng ven biển miền Trung để chụp một tấm ảnh về cảnh biển buổi sớm có sương để in làm bộ lịch nghệ thuật. Tại đây, anh đã phát hiện và chụp được một cảnh tượng “trời cho” - đó là cảnh một chiếc thuyền ngoài xa đang ẩn hiện trong biển sớm mờ sương. Nhưng khi chiếc thuyền vào bờ, người nghệ sĩ đã chứng kiến cảnh một gã chồng vũ phu đánh đập người vợ hết sức dã man. Ba hôm sau, cảnh tượng ấy lại diễn ra, người đàn bà được mời đến tòa án huyện. Tại đây, người nghệ sĩ lắng nghe câu chuyện về cuộc đời của người đàn bà hàng chài kể lại và đó như một lời giải thích vì sao chị ta không bỏ chồng dù người chồng tàn bạo.

Tình huống truyện Chiếc thuyền ngoài xa: Phùng - một nghệ sĩ nhiếp ảnh có tài - đang trong giây phút thăng hoa tuyệt đỉnh, khám phá vẻ đẹp “trời cho” của con thuyền biển buổi sớm mai thì chứng kiến đôi vợ chồng từ trên con thuyền bước xuống, lão đàn ông đánh vợ một cách hung bạo và vô lí. Sự việc lặp lại một lần nữa, Phùng không chỉ thấy thái độ nhẫn nhịn, câm lặng chịu đựng của người đàn bà mà còn thấy được thái độ, hành động bảo vệ mẹ của chị em Phác trước sự dã man của cha đối với mẹ. Từ đó, anh nhận ra những ngang trái, nghịch lí trong gia đình thuyền chài, hiểu sâu thêm tính cách người đàn bà, người đàn ông, người đồng đội (Đẩu) và chính bản thân mình.

-  Chủ đề: Bằng cảm hứng thế sự và tài năng của một cây bút giàu bản lĩnh, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện tình yêu tha thiết đối với những cảnh đời, thân phận trớ trêu của con người và gửi gắm chiêm nghiệm sâu sắc của mình về nghệ thuật: nghệ thuật chân chính phải luôn luôn gắn với cuộc đời; người nghệ sĩ không thể nhìn đời nhìn người một cách giản đơn, mà phải nhìn nhận con người - cuộc sống một cách đa diện, nhiều chiều trong từng hoàn cảnh cụ thể.

Chi tiết dàn ý phân tích Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả Nguyễn Minh Châu và tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa

+ Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại với nhiều cống hiến, luôn trăn trở về cuộc đời con người cũng như về sứ mệnh người nghệ sĩ.

+ Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa chứa đựng những giá trị nhân văn, những triết lý sâu sắc về đời người bằng ánh nhìn đa diện, nhiều chiều của tác giả, về mối liên quan chỉ cách nhau một ranh giới thật mỏng manh là hiện thực cuộc đời và nghệ thuật.

Tham khảoTOP 10+ mở bài Chiếc thuyền ngoài xa hay và sáng tạo nhất

2. Thân bài phân tích Chiếc thuyền ngoài xa

* Khái quát về truyện

- Chiếc thuyền ngoài xa (1983) rút ra từ tập truyện ngắn cùng tên in năm 1987, là một trong những truyện ngắn vô cùng xuất sắc mang đậm phong cách tự sự - triết lí của nhà văn Nguyễn Minh Châu

- Truyện với ngôn từ rất dung dị và đời thường, kể về chuyến đi công tác của một nghệ sĩ nhiếp ảnh và những chiêm nghiệm vô cùng sâu sắc của người nghệ sĩ ấy về nghệ thuật và cuộc đời.

a) Luận điểm 1: Tình huống truyện bất ngờ và hai phát hiện của Phùng

- Phát hiện cảnh đắt trời cho:

+ Cảnh chiếc thuyền lưới vó cập bến dưới ánh nắng hồng hồng mờ ảo - Bức tranh mực tàu của danh họa thời cổ.

+ Vẻ đẹp toàn bích toàn diện khiến Phùng bối rối, ngỡ ngàng và hạnh phúc.

+ Vẻ đẹp của nghệ thuật là vẻ đẹp của đạo đức.

- Phát hiện thứ hai - Nghịch lý cuộc sống, vẻ xấu xí sau cái hoàn mỹ, toàn bích:

+ Người đàn bà xấu xí bước ra

+ Cảnh người chồng bạo lực người vợ, cảnh con đánh bố, cảnh bố đánh con.

+ Phùng vỡ lẽ hóa ra ranh giới giữa cái vẻ đẹp toàn mỹ, toàn bích và sự thật nghiệt ngã xấu xa của cuộc sống chỉ cách nhau một bức màn mỏng manh, chúng chẳng thể chịu được sự tàn phá của hiện thực cuộc đời đầy xấu xí.

b) Luận điểm 2: Nhân vật người đàn bà làng chài - trung tâm câu chuyện:

- Hiện thân chung cho sự khốn khổ của những người phụ nữ miền biển, chị mang trên mình ba nỗi đau lớn:

+ Ngoại hình xấu xí: Cao to, thô kệch, mặt rỗ,… vì thế nên cơ hội hạnh phúc ít hơn những người khác mặc dù gia đình khá giả, có nhà ở trên phố.

+ Lai lịch: là người đàn bà không tên, nghèo túng, đông con, thuyền chật.

+ Số phận: bị bạo hành gia đình, phải nhẫn nhục chịu đựng, tổn thương cả về thể xác lẫn tinh thần dai dẳng.

- Vẻ đẹp của người phụ nữ đằng sau lớp vỏ xấu xí, khốn khổ:

+ Lòng bao dung, thông cảm, biết ơn với người chồng vũ phu, luôn nhận hết lỗi về mình. Chị đã từ chối lời đề nghị giải thoát ra khỏi lão chồng vũ phu với lí lẽ: “Đàn bà trên thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không phải sống cho mình như trên đất được”. 

+ Tình mẫu tử thiêng liêng, đức hi sinh cao cả, chỉ sống vì con cái, luôn nghĩ về những lúc gia đình hòa thuận ấm êm, luôn chắt chiu, trận trọng những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi, đời thường. Hành động thương con: gọi con, ôm chầm lấy con, đau đớn khi con đã chứng kiến cảnh bạo lực gia đình.

+ Sự thâm trầm, thấu tình đạt lý, chỉ ra sự ngây thơ và đơn giản trong cách nhìn cuộc sống của Phùng và Đẩu, khiến họ thông suốt về hiện thực cuộc sống. Cách nhìn của người đàn bà về người chồng của mình, trong khi mọi người nhìn người đàn ông như một ác nhân thì người phụ nữ nhìn anh ta như một nạn nhân của cái đói cái nghèo, gánh nặng mưu sinh. => Sự cam chịu, nhẫn nhục đầy vô lí ấy lại chứa đựng cái lý của sự hi sinh.

c) Luận điểm 3: Nhân vật Phùng và tấm ảnh được chọn.

- Đặc điểm tính cách:

+ Phùng là một nghệ sĩ chân chính xuất thân từ một người lính bước ra từ chiến tranh, nhạy cảm và có tình yêu cái đẹp mãnh liệt

+ Tâm hồn tinh tế với những rung cảm rất mãnh liệt, luôn khao khát tìm kiếm cái đẹp hoàn mỹ, say mê công việc và có ý thức trách nhiệm với nghề nghiệp.

+ Có cách cảm nhận sâu sắc về cuộc sống và con người.

+ Là một người lính với tấm lòng nhân hậu, cao đẹp.

- Nghệ sĩ Phùng vẫn mang tấm ảnh đó về tòa soạn, quả nhiên tấm ảnh đã được chọn, được treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật:

- Phùng vẫn luôn nhận thấy trong bức ảnh của mình:

+ “cái màu hồng hồng của sương mai” (biểu tượng cho nghệ thuật) và người đàn bà nghèo khổ bước ra từ bức tranh (hiện thân cho đời thực).

=> Nghệ thuật chân chính không thể tách rời, thoát li khỏi cuộc sống. Nghệ thuật chính là cuộc đời và phải vì cuộc đời.

- Nhận ra rằng không thể giải phóng con người khỏi đói nghèo, khỏi bạo lực gia đình chỉ bằng lòng tốt và pháp luật.

- Hiểu rằng không thể chỉ dùng cái nhìn phiến diện một chiều để đánh giá toàn thể sự việc, mà phải dùng đôi mắt trực quan nhiều chiều để suy xét và tìm hiểu.

* Một số nhân vật khác

- Chánh án Đẩu:

+ Là người đại diện cho công lý, luật pháp; có lòng tốt, sẵn sàng bảo vệ công lý.

+ Đẩu mới nhìn cuộc đời của người đàn bà vùng biển ở một phía, anh chưa thực sự đi sâu vào đời sống nhân dân.

- Nhân vật người chồng

+ Vốn là một “anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm”

+ Một gã đàn ông vũ phu, tàn nhẫn, ích kỉ.

+ Một nạn nhân của hoàn cảnh sống khắc nghiệt.

- Thằng bé Phác

+ Một cậu bé giàu tình cảm yêu thương đối với mẹ: Tuy sống xa mẹ từ nhỏ, thiếu sự chăm sóc, quan tâm từ mẹ nhưng Phác vẫn luôn cảm nhận được tình thương của mẹ và yêu quý, bảo vệ cho mẹ. Vì mẹ mà Phác lao vào cha, không suy nghĩ để bênh vực cho mẹ, như một người đàn ông mạnh mẽ bảo vệ người mình thương yêu.

+ Nhưng cũng giống như Đẩu, Phùng, nó mới chỉ nhìn thấy ở cha nó ở khía cạnh độc ác, tàn nhẫn mà chưa hiểu được “lẽ đời” bên trong.

+ Phác là nạn nhân của bạo hành gia đình, là hình ảnh tiêu biểu của những đứa trẻ trong những gia đình có nạn bạo hành. Mai đây, Phác cũng có thể trở thành người đàn ông thứ hai và tương lai của nó cũng sẽ giống như cha nó. Đó chính là vấn đề cần giải quyết cho tương lai của đứa trẻ đang có nguy cơ bị hủy hoại.

=> "Hãy cứu lấy nhân tính của những con người, đặc biệt là những đứa trẻ đáng thương và tội nghiệp!"

d) Đặc sắc về nội dung và nghệ thuật

- Giá trị nội dung:

+ Nguyễn Minh Châu sâu sắc nhận ra rằng “Ngọc lành có vết, việc đời đa đoan”, làm chi đâu có cảnh toàn bích, toàn mỹ, chẳng qua ấy chỉ là bề nổi, ẩn sâu sau đó là những hiện thực phũ phàng.

+ Người nghệ sĩ phải dùng một đôi mắt đa diện, thấu hiểu để nhìn nhận những vẻ đẹp đạo đức và nhân văn, chớ nên chạy theo những vẻ đẹp dẫu hào nhoáng mà trống rỗng, vô hồn.

- Giá trị nghệ thuật: Xây dựng hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa giàu giá trị biểu tượng; lựa chọn điểm nhìn trần thuật sắc sảo, giàu suy tư; ngôn ngữ kể chuyện khách quan, chân thực, giàu sức thuyết phục.

3. Kết bài

- Khái quát lại giá trị của tác phẩm: Chiếc thuyền ngoài xa đã xây dựng được tình huống và khắc họa nhân vật sắc sảo, mang đến bài học về cách nhìn cuộc sống và con người.

- Cảm nhận của em về truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa".

   Ví dụ mẫu: Có thể khẳng định: Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kì đổi mới đã đi sâu khám phá sự thật đời sống, dũng cảm thể hiện những góc khuất của cuộc đời ngay trong chế độ xã hội tốt đẹp của chúng ta. Đúng như lời của nhà văn Nguyễn Minh Châu đã nói: “Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản và nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử”.

    Để nắm rõ hơn cách thức triển khai bài viết theo hệ thống dàn ý đã cho ở trên, mời các em tham khảo một số bài văn mẫu phân tích Chiếc thuyền ngoài xa được chúng tôi tổng hợp dưới đây:

TOP 15+ bài văn đạt điểm cao phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa

     Dưới đây là 15+ bài văn phân tích Chiếc thuyền ngoài xa đạt điểm cao mà Đọc tài liệu đã sưu tầm, tổng hợp được gửi đến các em tham khảo, hi vọng sẽ giúp các em có thêm vốn từ ngữ phong phú hơn trong khi làm bài.

Mẫu số 1 Phân tích Chiếc thuyền ngoài xa - Nghệ thuật phải gắn liền với hiện thực

Là cây bút tiên phong trong thời kì đổi mới với nhiều tác phẩm truyện ngắn xuất sắc, các tác phẩm văn học của Nguyễn Minh Châu luôn chứa đựng những triết lý, những chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời. Trong số đó phải kể đến các tác phẩm như Mảnh trăng cuối rừng, Bến quê, Chiếc thuyền ngoài xa,… Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất mang đậm phong cách tự sự - triết lý của Nguyễn Minh Châu.

Tác phẩm được viết vào năm 1983 với nội dung kể về nhân vật Phùng - một người nghệ sĩ nhiếp ảnh. Anh được giao nhiệm vụ chụp một bộ ảnh về cảnh biển để in lên bộ lịch mới nên đã thực hiện chuyến đi thực tế ở một vùng biển - nơi từng là chiến trường cũ của mình để kiếm tìm cảm hứng nghệ thuật. Tại đây, anh đã có được hai phát hiện lớn lao, một là một bức ảnh tuyệt đẹp mà anh cho là cảnh “đắt giá trời cho” khiến anh phải say mê, ngây ngất, hai là phát hiện về một sự thật trần trụi đến đau lòng ngay đằng sau vẻ đẹp hoàn mỹ anh vừa tìm ra.

Sau vài ngày “phục kích” săn ảnh mà vẫn chưa ưng ý, cuối cùng Phùng cũng “bắt gặp” được một khung cảnh “trời cho”, đó là bức ảnh với những nét đẹp hoàn mỹ nhất: “Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ”. Khung cảnh ấy thật quá đẹp và với Phùng, đó là một “bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ”, nó vừa đẹp đẽ lại vừa quý giá vô cùng. Bức tranh ấy “đơn giản và toàn bích”, một vẻ đẹp, một khung cảnh hoàn hảo đến diệu kì. 

Phùng nghĩ rằng “có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh “đắt” trời cho như vậy”. Trước khung cảnh hoàn mỹ ấy, anh cảm thấy sự bồi hồi và có chút bối rối bởi cái đẹp ấy dường như chỉ có trong những bức họa xa xưa, nó khiến anh cảm thấy “trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Và chính khoảnh khắc áy, Phùng cảm thấy dường như “chính mình vừa khám phá thấy cái chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”, và anh còn cho rằng phải chăng “cái đẹp chính là đạo đức”. Bởi cái đẹp nó không chỉ mang đến cho con người ta những rung động mà còn thanh lọc tâm hồn và mang đến “hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình”.

Phải nói rằng, Phùng là một người nghệ sĩ tâm huyết có đam mê, trách nhiệm với nghề, bởi để có được một bức ảnh ưng ý nhất, anh đã sẵn sàng “phục kích” hàng tuần liền trên biển, dù đã chụp được rất nhiều ảnh về cảnh biển nhưng anh đều không ưng ý mà tiếp tục tác nghiệp. Hơn thế, anh cũng là một người nghệ sĩ nhạy cảm với cái đẹp để có thể khám phá, phát hiện ra một bức tranh hoàn mỹ để mà thu lấy, mà cái đẹp ấy chỉ diễn ra trong tích tắc.

Thế nhưng, lại ít ai để ý rằng, nơi mà Phùng gác chiếc máy ảnh của mình để thu trọn cái cảnh đẹp toàn mỹ kia chẳng phải là một nơi có thể bao quát được toàn cảnh mà lại chỉ là bên một “bánh xích của chiếc xe tăng” - tàn tích của chiến tranh xưa để lại. Có lẽ chính vì thế mà lần đầu tiên nhìn thấy cảnh đẹp ấy, Phùng mới chỉ nhìn thấy vẻ ngoài của khung cảnh mà không phải là toàn bộ bức ảnh. Và những phát hiện, những sự thật phía sau bức ảnh “toàn bích” kia đã khiến anh bất ngờ và hụt hẫng vô cùng. Đó là khi Phùng phải chứng kiến một cảnh đời vô cùng tàn nhẫn, ngang trái và bi kịch. Từ trong những con thuyền ấy bước ra một người đàn ông cao to thô lỗ và một người đàn bà tội nghiệp. Lão đàn ông ấy “hùng hổ, mặt đỏ gay”, rút chiếc thắt lưng của mình ra và “quật tới tấp vào lưng người đàn bà”, lão vừa đánh lại vừa nói ra những lời nguyền rủa độc ác “chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Và thật kì lạ làm sao, người đàn bà ấy vẫn ngồi đó chẳng chút phản kháng, cũng chẳng kêu thân một tiếng nào mà vẫn “cam chịu đầy nhẫn nhục” hứng chịu từng trận đòn roi.

Chứng kiến cảnh đó, Phùng đã vô cùng kinh ngạc, anh chỉ biết “đứng há mồm ra mà nhìn”. Bởi anh không thể hiểu được cái điều nghịch lý đang diễn ra trước mắt mình. Anh từng là một người lính ở chiến trường đầy khói lửa, những sự dã man, tàn bạo nhất anh đều đã từng chứng kiến, thế nhưng cảnh tượng vô lí trước mắt vẫn khiến anh khó lòng mà chấp nhận. Càng kinh ngạc hơn khi hình ảnh của một đứa bé lao vút qua người anh, rồi giằng lấy chiếc thắt lưng và quật vào ngực người đàn ông kia. Đứa bé đó là Phác, là đứa con trai của hai vợ chồng người đàn bà đáng thương đó. Và đáp lại hành động đó là hai cái tát nảy lửa giáng xuống mặt thằng bé khiến nó ngã nhào. Khi thấy cảnh này, người đàn bà hàng chài mới bật khóc, ôm lấy đứa con nhỏ tội nghiệp và rồi lại buông ra vội vã “đuổi theo lão đàn ông” và trở lại con thuyền.

Tất cả những sự việc diễn ra trước mắt khiến Phùng ngơ ngác và khó hiểu, sự việc quái đản diễn ra quá bất ngờ khiến anh chẳng thể nào hiểu nổi. Chiếc thuyền kia đã biến mất “như trong câu chuyện cổ quái đản”, nhưng lại để lại trong Phùng những cảm xúc khó diễn tra, để lại cho anh nhiều điều băn khoăn, nhiều điều bối rối. Cái hình ảnh trần trụi đến đau lòng mà anh vừa chứng kiến đã thay đổi cảm quan bên trong con người anh. Anh phát hiện ra rằng dường như ranh giới giữa cái đẹp và cái xấu, cái hoàn mỹ về đạo đức và cái dã man tàn độc chỉ cách nhau một tấm màn mỏng. Một bức tranh tuyệt mỹ như vậy nhưng ẩn chứa trong nó là bao nhiêu cái dã man, tàn nhẫn và xấu xa vô cùng. Nó cũng là những điều cần chiêm nghiệm mà nhà văn Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm, ông cho rằng nghệ thuật tuy hướng về cái đẹp thế nhưng nó cũng phải gắn liền với hiện thực dù nó có trần trụi đến mức nào. Không thể lấy cái đẹp mà che giấu đi những điều xấu xa, tàn ác bên trong được. Và một người nghệ sĩ chân chính phải là người có cái nhìn đa chiều, đa diện nhìn thấu cả cái đẹp bên ngoài và cả nội dung phía trong nữa.

Sau khi chứng kiến cảnh bạo lực gia đình vô cùng dã man và vô lí ấy, Phùng đã ở lại bãi biển vài ngày để giúp đỡ người đàn bà ấy. Anh cùng Đẩu muốn khuyên giải người đàn bà ly hôn để thoát khỏi cuộc hôn nhân “địa ngục”. Thế nhưng người đàn bà ấy đến tòa án huyện với một vẻ sợ sệt, lo lắng hiện rõ trên khuôn mặt, dù rằng đây là lần thứ hai bà ta đến đây để giải quyết công chuyện gia đình. 

Phải sống trong địa ngục trần gian đầy đau đớn với những trận đòn roi liên tục “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” từ người chồng, thế nhưng chị ta lại nhẫn nhịn cam chịu những tổn thương về cả thể xác và tinh thần chứ một mực không chịu bỏ chồng, thậm chí chị ta còn quỳ lạy van xin Đẩu và Phùng không bắt mình bỏ chồng “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó…”. Ban đầu, Phùng và Đẩu vô cùng bất bình và cũng thấy ngạc nhiên trước thái độ và hành động không sao hiểu nổi của người đàn bà, thế nhưng khi lắng nghe câu chuyện về cuộc đời của chị và về người đàn ông kia, hai người bỗng hiểu ra tất cả.

Khi kể về câu chuyện cuộc đời mình, người đàn bà ấy đã đổi cách xưng hô từ con với quý tòa sang chị với các chú, điều này thể hiện rằng chị ta muốn tâm sự với họ như những người em thân thiết, cũng muốn trải lòng với sự chân thành của mình. Chị ta chấp nhận sống cùng người chồng vũ phu, độc ác và cam chịu những trận đòn roi vô lí ấy là bởi chị ta biết ơn và cũng hiểu được tâm tính cũng như nỗi khổ của người chồng. Người đàn ông vũ phu ấy trước kia cũng đã từng là “một anh con trai cục tính nhưng hiền lành”, ông ta cũng là người duy nhất đã chấp nhận cưu mang người phụ nữ xấu xí, quá lứa lỡ thì là chị ta. Bởi vậy với người chồng bạo tàn, hung dữ hiện tại, người đàn bà không chỉ có sự thấu hiểu, tình nghĩa mà còn ở đó còn là sự biết ơn sâu sắc.

Những lời kể chân thật của người đàn bà đã khiến cho cả hai người họ sững sờ. Lúc này họ mới chợt hiểu ra tấm lòng của một người phụ nữ, nó bao dung khoan nhường và hi sinh đến dường nào! Người đàn bà ấy thấu hiểu bản chất thật và sự thay đổi của người chồng, nó cũng chỉ vì cái đói cái khổ mà ra, chị lại còn đẻ nhiều con nên người chồng mới trở nên cục cằn, bạo lực như thế. Chị cũng hiểu về cuộc sống vất vả, cực khổ trên biển, một con thuyền lênh đênh trên biển không thể thiếu đi bàn tay chèo lái của người đàn ông, nhất là khi biển động, bão bùng, sóng gió. Và sự cam chịu của chị ta càng trở nên có ý nghĩa hơn khi sự cam chịu hy sinh ấy sẽ giúp cho những đứa con của mình có một gia đình hoàn chỉnh, có đủ bố mẹ.

Câu chuyện của người đàn bà cùng khổ ấy đã giúp Phùng và Đẩu hiểu rõ rằng cái nguồn gốc, căn nguyên của bạo lực gia đình đó chính là cái nghèo, cái đói. Phùng ngỡ ngàng nhận ra bản chất xù xì, thô nhám của hiện thực, đó có thể là những nghịch lí, những sự thật trái ngang vẫn tồn tại trong cuộc sống mà nếu chỉ nhìn qua vẻ bề ngoài, quan sát bằng đôi mắt hời hợt, khách quan, phiến diện thì không thể nhận ra. Hiện thực ấy cũng giúp Phùng chiêm nghiệm ra một chân lý rằng: nghệ thuật không thể chỉ có lãng mạn, đẹp đẽ và thi vị hóa, mà nó đôi khi còn lại sự thật đầy ngang trái, nghịch lý. 

Sau khi trở về tòa soạn và bức ảnh kia đã được chọn thì trong lòng Phùng lại luôn canh cánh, ẩn chứa những điều mà ít ai có thể thấu hiểu. Bức ảnh ấy đã diễn tả một cảnh đẹp tinh khôi, hoàn mỹ và trở thành bức ảnh nghệ thuật sáng giá “được treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật”. Thế nhưng, chỉ riêng Phùng mới có thể nhìn thấy từ đằng sau bức tranh đẹp đẽ ấy bước ra “một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch”. Ở đây, Nguyễn Minh Châu đã cố ý lồng ghép vào đó những hình ảnh mang tính biểu tượng. Một là “màu hồng hồng của ánh sương mai”, đó chính là biểu tượng cho cái đẹp, cho cái thơ mộng, cho vẻ đẹp toàn bích, hoàn mỹ mà con người ta luôn tìm kiếm. Hai là hình ảnh người đàn bà hàng chài với dáng vẻ mệt mỏi, tiều tụy, đau khổ đó là hiện thực, đó là cái nhìn có chiều sâu, khám phá vào tận sâu bên trong bản chất của sự vật, hiện tượng, để thấy được những điều ẩn chứa phía sâu bên trong cái đẹp và có đôi khi, cái nằm ở phía sâu bên trong ấy lại trái ngược hoàn toàn với vẻ đẹp bên ngoài.

Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm một giá trị nhân văn sâu sắc thông qua nội dung truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” đó là nghệ thuật phải gắn liền với hiện thực, không được tách rời với hiện thực. Và người nghệ sĩ chân chính phải là người có cái nhìn đa chiều, đa diện để phát hiện ra cái bản chất thật bên trong về đẹp bề ngoài rực rỡ, hào nhoáng.

Mẫu số 2 Phân tích Chiếc thuyền ngoài xa - Người nghệ sĩ không thể nào nhìn đời một cách hời hợt và giản đơn

Nhà văn Nguyễn Minh Châu sinh vào năm 1930, quê ở xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lưu, thuộc tỉnh Nghệ An. Ông tham gia vào bộ đội năm 1950, chiến đấu tại vùng địch hậu thuộc đồng bằng Bắc Bộ rồi đi vào chiến trường Quảng Trị, Thừa Thiên. Nguyễn Minh Châu là một nhà văn tiêu biểu trong nền văn học Việt Nam thời chống giặc Mỹ, đồng thời cũng là một người tiên phong xuất sắc trong công cuộc đổi mới văn học giai đoạn sau năm 1975. Ở giai đoạn trước, ông chính là ngòi bút với khuynh hướng lãng mạn và sử thi. Ở thời kỳ sau, ngòi bút của ông bắt đầu chuyển sang đề tài thế sự, quan tâm hơn đến đời sống của con người trong đời thường bao gồm những vấn đề về đạo đức và về triết lí nhân sinh. Tập truyện ngắn Những vùng trời khác nhau (viết năm 1970), tiểu thuyết Dấu chân người lính (viết năm 1972) với hình tượng chính là những người lính đang ngày đêm chiến đấu chống quân xâm lược Mĩ, để giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước đã khẳng định thêm tài năng cũng như tên tuổi của Nguyễn Minh Châu trong nền văn học hiện đại. Ông cũng là nhà văn mở đường trong công cuộc đổi mới văn học cùng mối quan tâm đặc biệt đến phẩm giá, đạo đức và quan niệm sống của một con người sống trong đời thường. Điều ấy được thể hiện thông qua những tác phẩm như tiểu thuyết Miền cháy (viết năm 1977), Lửa từ những ngôi nhà (viết năm 1977) và những truyện ngắn bao gồm Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Khách ở quê ra, Bến quê, Bức tranh. Năm 2000, Nguyễn Minh Châu đã được Nhà nước trao tặng danh hiệu, Giải thưởng Hồ Chí Minh về lĩnh vực văn học và nghệ thuật.

Chiếc thuyền ngoài xa được sáng tác vào năm 1983 là một truyện ngắn vô cùng xuất sắc của ông trong thời kì sau; nội dung kể về chuyến đi công tác của một nghệ sĩ nhiếp ảnh, qua đó cũng thể hiện được cách nhìn của tác giả về hiện thực của cuộc sống, một cái nhìn vô cùng thấu hiểu và thấm đẫm tình thương cùng biết bao băn khoăn, day dứt về thân phận của con người. Tác giả gửi gắm trong truyện ngắn này về những chiêm nghiệm sâu sắc của bản thân về nghệ thuật. Nghệ thuật chân chính phải luôn luôn gắn liền với cuộc đời. Người nghệ sĩ không thể nào nhìn đời một cách hời hợt và giản đơn mà cần phải nhìn nhận cuộc sống cùng con người bằng cái nhìn vô cùng tỉnh táo và sáng suốt của lý trí kết hợp với sự rung động chân thành của trái tim nhân hậu. Tác giả đã khắc họa lên phẩm chất vô cùng tốt đẹp của những con người lao động trong cuộc mưu sinh đầy khó khăn và hành trình kiếm tìm hạnh phúc. Những “hạt ngọc tâm hồn” không hiện ra ở trong lửa đạn của chiến tranh, mà ẩn sâu giữa đời thường đầy bão tố.

Nói tới nghệ thuật viết truyện ngắn, người ta thường nhắc tới ba yếu tố chính: Nhân vật, giọng điệu trần thuật cùng với tình huống truyện. Trong đó, việc sáng tạo được một tình huống truyện hấp dẫn và độc đáo đóng vai trò then chốt và quyết định nên thành công của toàn tác phẩm. Có ba loại tình huống phổ biến nhất ở trong các tác phẩm truyện ngắn: tình huống về hành động, tình huống thể hiện tâm trạng và tình huống về nhận thức. Nếu tình huống về hành động chủ yếu nhắm tới hành động thể hiện bước ngoặt của nhân vật, tình huống thể hiện tâm trạng chủ yếu khám phá về diễn biến của tình cảm, cảm xúc của nhân vật thì tình huống về nhận thức chủ yếu cắt nghĩa những giây phút “giác ngộ” chân lý của từng nhân vật. Chiếc thuyền ngoài xa vốn dĩ được đánh giá là một tác phẩm xuất sắc bởi vì tác giả đã xây dựng được một tình huống truyện vô cùng độc đáo. Đó là tình huống về nhận thức và khám phá về cuộc sống cũng như nghệ thuật của hai nhân vật là Đẩu và Phùng.

Tình huống bất ngờ xuất hiện trong đã làm thay đổi hoàn toàn nhận thức của hai người trước những nghịch lý trong cuộc sống. Trong khi thiên nhiên mang vẻ đẹp toàn bích thì cảnh đời lại mang sự u ám, đáng buồn. Người có thiện chí giúp đỡ người gặp nạn lại bị chính nạn nhân từ chối quyết liệt. Người vợ luôn bị chồng hành hạ và ngược đãi, thế nhưng vẫn luôn cam chịu, quyết không từ bỏ chồng mà lại còn muốn bênh vực. Người chồng vẫn có trách nhiệm đối với gia đình nhưng ngày nào cũng trút giận bằng cách hành hạ vợ. Đứa con còn dám đánh bố mình vì quá thương mẹ…

Nội dung của câu chuyện có thể được tóm tắt như sau: Phùng là một người nghệ sĩ nhiếp ảnh được trưởng phòng giao cho một nhiệm vụ là đi chụp một cảnh biển sớm mai nhằm bổ sung vào bộ ảnh lịch. Anh đã về vùng ven biển miền Trung, nơi mà trước đây cũng đã từng tham gia vào chiến đấu chống giặc Mỹ. Phùng gặp lại Đẩu, một người bạn chiến đấu năm xưa và giờ là chánh án của tòa án huyện và được Đẩu giúp đỡ nhiệt tình. May mắn thay, sau vài buổi sáng kiên nhẫn “mai phục”, Phùng cũng đã bắt được khoảnh khắc kỳ diệu của Cái Đẹp trong nghệ thuật: “Có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh “đắt" trời cho như vậy: trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù màu trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi, toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có gì bóp thắt vào.”

Đoạn văn phía trên đẹp tựa bài thơ. Nguyễn Minh Châu đã sử dụng những ngôn ngữ một cách tài tình để vẽ một bức tranh với cảnh biển buổi sáng mờ sương mang đủ đường nét, sắc màu, ánh sáng và cả hình ảnh của những con người. Trong màn sương sớm được miêu tả trắng như sữa, phớt chút hồng ấm của ánh ban mai, hình ảnh của chiếc thuyền từ ngoài xa đang hướng mũi vào với bến bờ đẹp như mơ. Trên mui thuyền, những dáng người ngồi im ắng đầy nét tạo hình. Cận cảnh chính là tấm lưới vó, viễn cảnh của một chiếc thuyền thoát ẩn thoát hiện trong sương. Khung cảnh trở nên hài hòa đến độ toàn bích khiến cho trái tim của người nghệ sĩ nhiếp ảnh như bị thắt lại vì cảm giác quá sung sướng và hạnh phúc. Đó cũng chính là niềm hạnh phúc dành cho sự khám phá và sáng tạo, của sự cảm nhận Cái Đẹp tuyệt đẹp.

Dường như khi nhìn thấy được hình ảnh của chiếc thuyền ngoài xa bồng bềnh giữa biển trời mờ sương, Phùng cảm thấy tâm hồn của mình được thanh lọc và trở nên trong trẻo, tinh khôi bằng vẻ đẹp kỳ ảo của thiên nhiên. Chẳng cần phải lựa chọn hay xê dịch gì, anh đã nhanh nhẹn gác máy lên bánh xích của chiếc xe tăng hồng, bấm máy liên tục, thu vào một phần tư cuộn phim niềm hạnh phúc tột đỉnh của sự khám phá, sáng tạo ấy.

Khi cái cảm giác ngất ngây, thỏa mãn do những cảnh đẹp kỳ ảo vừa mang đến cho mình chưa kịp tan đi thì ngay lúc sau, Phùng đã tình cờ chứng kiến một cảnh tượng vô cùng đau lòng xảy ra ở ngay trước mắt: “Ngay lúc ấy, chiếc thuyền đâm thẳng vào trước chỗ tôi đứng. Một người đàn ông và một người đàn bà rời chiếc thuyền. Họ phải lội qua một quãng bờ phả nước ngập đến quá đầu gối. Bất giác tôi nghe người đàn ông nói chõ lên thuyền như quát: “Cứ ngồi nguyên đấy. Động đậy tao giết cả mày đi bây giờ”.”

Họ hiện ra ở một khoảng cách vô cùng gần, đủ để cho Phùng nhận thấy từng nét rõ ràng trên khuôn mặt của người đàn bà cùng vẻ mặt rất độc ác, đáng sợ của người đàn ông: “Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rõ mặt Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ. Người đàn ông đi sau. Tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào cũng nhìn dán vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng của người đàn bà… Hai người đi qua trước mặt tôi. Họ đi đến bên chiếc xe rà phá mìn. Người đàn bà đứng lại, ngước mắt nhìn ra ngoài mặt phá nước chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng, rồi đưa một cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân.”

Những gì xảy ra ở trước mắt khiến cho Phùng không thể tưởng tượng ra nổi. Bãi cát, nơi mà xác chiếc xe rà phá mìn bị hỏng cũng trở thành nơi hành tội: “Khi người đàn bà đứng lại, ngước mắt nhìn ra ngoài mặt phá chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng thì: Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa,… quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”.”

Thật kì lạ thay người đàn bà khốn khổ ấy không hề kêu rên một tiếng, không hề chống trả, cũng không trốn chạy mà luôn nhẫn nhục cam chịu. Cảnh tượng ấy đã làm cho nhân vật Phùng ngạc nhiên đến mức, trong vài phút đầu… cứ đứng đó há mồm ra mà nhìn. Lúc anh vứt chiếc máy ảnh xuống đất rồi chạy nhào tới thì có một thằng bé con bỗng giận dữ như một viên đạn đang lao thẳng tới đã nhắm thẳng vào mục tiêu là lão đàn ông. Đứa bé với sức mạnh vô cùng ghê gớm đã giằng được chiếc thắt lưng, rồi liền rướn thẳng người lên vung chiếc khóa sắt quật luôn vào giữa vùng ngực trần vạm vỡ đã cháy nắng… của lão. Giằng không được chiếc thắt lưng da, lão ta liền dang thẳng cánh tay cho thằng bé đó hai tát khiến cho thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi dụi xuống cát… Đứa con đã liều lĩnh lao tới cứu mẹ, để chặn đôi bàn tay tàn ác của người cha đang giận dữ đến điên cuồng.

Khi thấy có người lạ chứng kiến cảnh bạo lực vừa diễn ra, người đàn bà dường như mới cảm nhận được sự đau đớn - vừa đau đớn lại vừa xấu hổ và nhục nhã. Tiếng gọi: “Phác, con ơi!” của người đàn bà tội nghiệp ấy cất lên một cách tủi nhục và cay đắng. Hình ảnh của người đàn bà ngồi bệt xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm lấy đứa con rồi lại buông tay ra, chắp tay vái vài vái, rồi lại dang tay ôm chầm lấy… thật khác lạ những cũng thật xúc động. Chị ta đã lạy đứa con mình vì sợ con quá thương mẹ, bênh mẹ mà lại đánh bố thì lại phạm vào tội bất hiếu. Và hình ảnh của thằng nhỏ im lặng đưa mấy ngón tay khẽ sờ vào khuôn mặt của người mẹ như đang muốn lau đi những giọt nước mắt chất chứa trong từng nốt rỗ chằng chịt đã để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm trí Phùng.

Cảnh tượng diễn ra và cũng kết thúc quá nhanh chóng khiến cho Phùng ngơ ngác nhìn về phía bờ phải khi người đàn bà đã buông đứa con ra, đi thật nhanh chóng và đuổi theo lão đàn ông. Cả hai người lại quay trở về chiếc thuyền. Điều kì lạ đó là: Như trong câu chuyện cổ đầy sự quái đản, chiếc thuyền lưới vó đã biến mất khiến cho Phùng phải bàng hoàng và sững sờ không hiểu tại sao! Nguyễn Minh Châu đã phản ánh được một nghịch lý trong cuộc sống: khung cảnh thiên nhiên thì thật toàn bích nhưng cảnh tượng đời thường thì lại hết đỗi tăm tối và đáng buồn.

Lần thứ hai thấy cảnh bạo hành, Phùng chạy đến để bênh vực người đàn bà. Lão đàn ông cũng đánh anh bị thương. Anh được đưa tới trạm y tế của tòa án huyện rồi tình cờ anh đã nghe được người đàn bà bất hạnh ấy kể về gia cảnh của mình. Phùng và Đẩu đã lắng nghe với tất cả sự cảm thông và thương xót thật sự.

Sau khi thấy được những biện pháp giáo dục và răn đe người chồng không thấy kết quả, Đẩu với tư cách là một chánh án đã mời người đàn bà ấy đến tòa án nhằm trao đổi về vấn đề đó. Tuy đây là lần thứ hai được gọi đến tòa, nhưng người đàn bà vẫn mang một vẻ sợ sệt và lúng túng. Lúc đầu, chị ta cũng chỉ dám ngồi vào một góc tường, Đẩu mời thêm lần nữa mới rón rén bước đến ngồi ghé vào mép chiếc ghế nhưng vẫn cố thu người lại. Khi nghe vị chánh án hỏi: “Thế nào, chị đã nghĩ kĩ chưa? thì người đàn bà ngước lên nhìn rồi lại cúi mặt xuống đáp nhò: Thưa…”

Chánh án Đẩu tưởng rằng người đàn bà ấy hiểu được ý mình nên cũng có thái độ thân thiện và chân thành hơn nữa: “Đẩu gật đầu. Anh đứng dậy. Tự nhiên anh rời chiếc bàn đến đứng vịn vào lưng ghế người đàn bà đang ngồi, giọng trở nên đầy giận dữ, khác hẳn với giọng một vị chánh án: - Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không có một người chồng nào như hắn. Tôi chưa hỏi tội của hắn mà tôi chỉ muốn bảo ngay với chị: Chị sống không nổi với cái lão đàn ông vũ phu ấy đâu! Chị nghĩ thế nào?”.

Đẩu khuyên chị ấy nên li hôn để thoát khỏi lão chồng hành hạ và ngược đãi. Có lẽ Đẩu tin vào giải pháp của mình đưa ra là đúng đắn, nhưng sau cuộc nói chuyện thì mọi lý lẽ của anh đều bị người đàn bà khốn khổ đó từ chối, bác bỏ. Vị chánh án vừa dứt lời thì người đàn bà cũng sợ hãi ngước lên nhìn rồi sau đó lại cúi đầu xuống. Chị ta lại chắp tay vái lia lịa và xưng con với chánh án Đẩu: “Con lạy quý tòa… Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó… Đẩu ngạc nhiên bật hỏi: Sao, sao? tỏ vẻ không hiểu được sự éo le đó. Còn Phùng, sau câu nói của người đàn bà ấy, anh cảm thấy rằng gian phòng lồng lộng gió biển của chánh án Đẩu tự nhiên bị hút hết không khí rồi trở nên ngột ngạt.

Sau khi nghe vị chánh án gọi mình bằng chị mà bỗng nhiên chuyển qua gọi bằng bà và nói về chủ trương kêu gọi hòa thuận - nghĩa là đồng ý với sự cầu xin của mình thì người đàn bà ấy thấy ngơ ngác hết nhìn vào Đẩu lại nhìn vào Phùng. Đến lúc hiểu ra, chị ta liền có sự thay đổi trong cách xưng hô, tự xưng chị, gọi Đẩu và Phùng là các chú bằng một giọng điệu vô cùng thân mật và chân tình: “Chị cám ơn các chú!… Đây là chị nói thành thực, chị cảm ơn các chú. Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc…”.

Rồi chị ta lại tâm sự về chuyện lấy chồng của bản thân. Thời trẻ, vì ngoại hình xấu nên chị không được bất cứ ai để mắt tới. Rồi chị có mang với một anh chàng làm nghề đánh cá tính tình cục cằn nhưng hiền lành lắm,… tức là lão chồng hung ác bây giờ. Chị ta than thở về cảnh nghèo đói, chiếc thuyền lưới vó thì rất nhỏ hẹp. Chị lại đẻ quá nhiều, nuôi không nổi. Vì vậy mới ra nông nỗi: “…bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu… Giá mà lão uống rượu… thì tôi còn đỡ khổ… Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão… đưa tôi lên bờ mà đánh…”

Đẩu và Phùng đã lắng nghe từng lời chị ta nói về nỗi vất vả mà người đàn bà trên một chiếc thuyền đánh cá khi không có người đàn ông, nhất là những lúc biển động. Giọng nói của chị ta như đang giãi bày, mong nhận được sự chia sẻ từ người nghe: “Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất liền được! Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng bắt tôi bỏ nóỊ”. Vẻ mặt của người đàn bà ấy bớt sầu não phần nào khi kể về cuộc sống lam lũ và cực nhọc nhưng đôi khi vẫn có những niềm vui. Ấy là lúc vợ chồng con cái sống hòa thuận vui vẻ với nhau, vui nhất là khi nhìn đàn con được ăn no.

Chứng kiến cảnh người chồng vũ phu luôn đánh đập vợ một cách tàn nhẫn và nghe từ lời kể của nạn nhân, Phùng và Đẩu bỗng nhận ra được nghịch lý thứ hai của tình huống đó là: Người vợ thường xuyên bị người chồng đánh đập và ngược đãi; nhưng vẫn luôn nhẫn nhục cam chịu, quyết không từ bỏ chồng mà còn bênh vực lão. Người chồng vẫn mang trên mình trách nhiệm với gia đình nhưng ngày càng khó khăn và quen cái thói hành hạ vợ. Tất cả những điều đó đã tác động đến nhân vật Đẩu và Phùng, khiến cho họ có sự thay đổi ở trong nhận thức và riêng Phùng đã phát hiện ra nhiều bất ngờ trong quan hệ giữa hiện thực đời sống với nghệ thuật.

Trong Chiếc thuyền ngoài xa, tình huống truyện tựa như một vòng tròn đồng tâm mà người nghệ sĩ Phùng cũng như chánh án Đẩu cũng đều phải quay theo nó để rồi có được giây phút giác ngộ ra bản chất của cuộc sống cùng sự vỡ lẽ nhiều điều mà trước đó họ chỉ có suy nghĩ một chiều hoặc chưa từng nghĩ tới. Chẳng hạn như đằng sau sự vô lý lại có cái hợp lý. Chuyện người đàn bà sống lam lũ bị chồng của mình hành hạ tàn nhẫn thường xuyên là điều quá vô lý, nhưng người đàn bà đó không muốn từ bỏ chồng lại vô cùng hợp lý. Vấn đề tưởng chừng rất đơn giản nhưng lại chất chứa rất nhiều điều phức tạp.

Phùng và Đẩu với những nghề nghiệp khác nhau: một người là nghệ sĩ, một người là chánh án, nhưng sự thay đổi trong nhận thức của họ lại hoàn toàn giống nhau và đều bắt nguồn từ tấm lòng nhân hậu và từ mục đích tốt đẹp. Sau khi nghe được câu chuyện về người đàn bà hàng chài, cả hai đều thấy ngạc nhiên và ngỡ ngàng, rồi vỡ ra nhiều điều vô cùng mới mẻ: Cuộc đời này đã đầy rẫy những tình huống trái ngang mà sách vở chưa từng nhắc tới; còn có rất nhiều góc khuất ở trong tâm hồn của con người mà nghệ thuật vẫn chưa từng đề cập đến.

Là một chánh án, Đẩu vừa phải làm đúng phận sự là người đại diện cho pháp luật nhưng lại vừa phải thực hiện mệnh lệnh theo trái tim. Anh muốn cứu người đàn bà khỏi những trận đòn tàn ác của lão chồng bằng lời khuyên về cuộc ly hôn. Anh tin rằng lời khuyên của mình là đúng đắn nhưng anh đã sai. Ban đầu, Đẩu tưởng rằng chỉ cần ly hôn là cách giải quyết dứt điểm nhất khỏi sự bạo hành, là giải thoát được người đàn bà bất hạnh, nhưng khi nghe lời chị ta tâm sự thì anh bỗng nhận thấy quan hệ của vợ chồng họ trở nên phức tạp hơn nhiều. Từ ấy, anh hiểu được rằng: Muốn giải quyết được những vấn đề phức tạp trong cuộc sống, không phải chỉ dựa vào thiện chí hay vào pháp luật hoặc lý thuyết trong sách vở, mà còn cần phải thấu hiểu và cần có giải pháp thiết thực nhất. Hóa ra lòng tốt của anh lại chính là lòng tốt phi thực tế. Kiến thức trong sách vở mà anh đã được học cũng trở nên vô nghĩa trước những lý lẽ vừa mộc mạc lại sâu sắc của người đàn bà thất học đó. Sự yên ấm của một gia đình và tương lai của những đứa con bắt buộc chị ta phải im lặng và chịu đựng mọi thứ. Chị ta chỉ có một nguồn an ủi nhỏ nhoi duy nhất đó là cuộc sống của mình không chỉ toàn là những trận đòn roi tàn bạo của người chồng, mà còn có những giây phút vô cùng hạnh phúc như khi mà vợ chồng chung sống hòa thuận hoặc khi nhìn thấy đàn con của mình được ăn no.

Là một người lính xuất ngũ về làm chánh án của tòa án huyện vùng biển, Đẩu vẫn giữ nguyên nét lính vừa thẳng thắn lại nhiệt tình chống lại những cái ác, cái xấu. Phẫn nộ trước sự độc ác của người chồng, xót thương cho người vợ bị bạo hành liên tục với ba ngày một trận nhẹ, năm ngày lại một trận nặng nên anh đã đi trái với phương châm lấy hòa giải lên đầu trong khi xử những vụ án ly hôn mà khuyên thẳng với người đàn bà: “Chị không sống nổi với lão đàn ông vũ phu ấy đâu!”. Anh thực thi luật pháp dựa vào lý thuyết sách vở và những nguyên tắc về đạo đức. Chính vì thế mà anh đã phán quyết có phần hơi đơn giản trước một cảnh ngộ đặc biệt ấy của người đàn bà hàng chài. Đáp lại lòng tốt của anh, người đàn bà đã tế sống và năn nỉ xin tòa đừng bắt chị phải bỏ nó. Người đàn bà dân chài ấy tuy thất học nhưng bằng sự từng trải sâu sắc cũng khiến một thứ gì đó vừa mới xuất hiện ra trong đầu vị Bao Công phố huyện. Có thể Đẩu đã bắt đầu hiểu được rằng muốn giúp mọi người thoát khỏi cảnh sống vừa đau khổ lại tăm tối thì cần có những giải pháp thiết thực hơn chứ không chỉ là thiện chí hay lí thuyết đẹp đẽ nhưng quá xa rời thực tiễn. Câu chuyện của người đàn bà đã giúp cho chúng ta hiểu rõ sự thật về nguyên nhân xảy ra bi kịch bạo hành trong gia đình, đó chính là cảnh đói nghèo, bế tắc ở trong cuộc sống. Đồng thời, chúng ta cũng có thể hiểu sâu hơn về đức dám hi sinh cùng tâm lý của người phụ nữ lao động trong tất cả nghịch cảnh của cuộc đời.

Sau khi đã chứng kiến cuộc nói chuyện của người đàn bà hàng chài với chánh án Đẩu, Phùng chợt nhận ra rất nhiều điều. Cái đẹp ở ngoại cảnh có thể che khuất đi cái xấu trong đời sống. Ban đầu, Phùng cũng ngây ngất trước vẻ đẹp rất thơ mộng và huyền ảo của chiếc thuyền ngoài xa. Về sau, anh lại nhận thấy rằng cái vẻ đẹp bên ngoài ấy đã che giấu đi thực tế nhức nhối ở bên trong. Ngược lại, cái xấu cũng có thể lấn át được cái đẹp. Tìm hiểu sâu thêm về hoàn cảnh người đàn bà hàng chài, Phùng lại thấy rằng thực tế nhức nhối đã làm cho những vẻ đẹp của con người bị lu mờ dần đi. Từ mối quan hệ vô cùng phức tạp ấy, Phùng đã suy ngẫm và rút ra cho mình nhận xét: Để hiểu được bản chất của một đời sống thì người nghệ sĩ không chỉ nhìn nhận một cách hời hợt và đơn giản, mà cần có cái nhìn đa chiều sâu, tỉnh táo và thực sự sâu sắc. Phùng đã phát hiện ra được những vẻ đẹp khác đang ẩn chứa phía sau những bức ảnh mà anh đã bỏ rất nhiều công sức mới có thể chụp được. Nó không toàn bích như một tấm ảnh về chiếc thuyền ngoài xa mà nó phản ánh vẻ đẹp của đời thường có phần đa đoan, đa sự. Người nghệ sĩ đừng bao giờ sử dụng cái nhìn đơn điệu và một chiều trước cuộc sống vốn dĩ đã phức tạp và bí ẩn.

Nghịch lý cuộc đời vẫn luôn là một điều thách thức đối với tất cả chúng ta nên đừng vì khao khát với tới Cái Đẹp nghệ thuật mà quên đi hiện thực, bởi vì nghệ thuật chân chính sẽ được bắt nguồn từ cuộc đời và được sáng tạo cho cuộc đời. Trước khi là người nghệ sĩ biết rung động trước những Cái Đẹp thì hãy là một con người biết yêu, biết ghét, biết vui và buồn trước những lẽ thường tình, biết hành động vì những điều tốt đẹp trong cuộc sống.

Mẫu số 3 Phân tích Chiếc thuyền ngoài xa giãi bày những trăn trở của nhà văn về cuộc sống đa chiều

    Nguyễn Minh Châu là cây bút tiên phong của văn học thời kì đổi mới, nhà văn "thuộc một trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay” (Nguyên Ngọc). Trước năm 1975, trang văn của ông thiên về khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn với quan niệm: cái đẹp là cái anh hùng cao cả, tiêu biểu là truyện ngắn Mảnh trăng cuối rừng in trong tập Dấu chân người lính (1972). Sau 1975, bằng sự tìm tòi, đổi mới, ngòi bút của ông hướng vào những vấn đề thế sự, đời tư, đậm chất triết lí nhân sinh. Bằng cái nhìn đa diện đa chiều, ông đã đi sâu khai thác đời sống con người trong những mối quan hệ xã hội phức tạp để khám phá "hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người". Các truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Bến quê, Bức tranh của ông đều khai thác khá sâu sắc số phận cá nhân và thân phận con người trong cuộc sống mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách. Chiếc thuyền ngoài xa sáng tác vào tháng 8/1983 là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975, đồng thời cũng là một tác phẩm xuất sắc của văn học Việt Nam thời kì đổi mới.

    Truyện kể về chuyến đi thực tế của Phùng, một nghệ sĩ nhiếp ảnh tài hoa, thiết tha với cái đẹp, tâm huyết với nghề, một con người có trái tim giàu lòng trắc ẩn. Theo yêu cầu của trưởng phòng, Phùng đã đến một vùng ven biển miền Trung cũng là chiến trường xưa của anh thời kháng chiến chống Mỹ để chụp một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương về bổ sung cho bộ lịch năm sau. Sau một tuần "phục kích", anh đã chụp được một "cảnh đắt trời cho": cảnh chiếc thuyền đánh cá thu lưới lúc bình minh. Nhưng khi chiếc thuyền ấy vào bờ, anh đã vô cùng ngạc nhiên khi chứng kiến cảnh bạo lực trong gia đình hàng chài: người chồng đánh vợ một cách tàn nhẫn mà người vợ không kêu, không chống trả, không chạy trốn, còn thằng con vì bảo vệ mẹ mà đánh cha rồi lại bị cha đánh. Ba ngày sau, cảnh tượng đó lại diễn ra và lần này Phùng đã xông ra buộc lão đàn ông phải chấm dứt hành động độc ác. Lão đàn ông đánh trả, Phùng bị thương, anh được đưa về trạm y tế của tòa án huyện. Ở đấy, anh đã gặp chánh án Đẩu, bạn chiến đấu năm xưa của mình. Và cũng tại đây, anh đã nghe câu chuyện của người đàn bà hàng chài với bao sự cảm thông và ngỡ ngàng. Anh đã ngạc nhiên khi chứng kiến việc người đàn bà đáng thương kia được chánh án Đẩu mời đến để giải quyết công việc gia đình đã van lạy quý tòa đừng bắt bà bỏ người chồng vũ phu. Phùng và Đẩu đã vỡ lẽ ra nhiều điều sau khi nghe câu chuyện cuộc đời của người đàn bà.

     Rời vùng biển với tấm ảnh ưng ý, Phùng đã hoàn thành nhiệm vụ mà trưởng phòng giao. Sau đó, mỗi lần ngắm kĩ tấm ảnh ấy, Phùng vẫn thấy hiện lên màu hồng hồng của ánh sương mai và nếu nhìn lâu hơn, Phùng lại thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh. Vậy là trong chuyến đi ấy, Phùng đã chụp được bức ảnh chiếc thuyền ngoài xa và chứng kiến một câu chuyện đẫm nước mắt, đầy trái ngang của một gia đình làng chài để rồi anh đã nhận thức ra nhiều điều về con người, về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật. Từ câu chuyện về một bức ảnh nghệ thuật và sự thật cuộc đời đằng sau bức ảnh, truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa đã mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cách nhìn đa diện, nhiều chiều, về cách phát hiện ra bản chất sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng. Theo câu chuyện kể cùng những phát hiện của Phùng, nhà văn đã gửi gắm nhiều thông điệp có ý nghĩa triết lí nhân sinh sâu sắc. Đây cũng là cách xây dựng cốt truyện hấp dẫn, tình huống truyện độc đáo của Nguyễn Minh Châu.

    Nguyễn Minh Châu đã dụng công khi đặt cho truyện ngắn của mình một nhan đề độc đáo, gợi nhiều liên tưởng sâu xa. Hình ảnh “chiếc thuyền” vốn rất quen thuộc trong đời sống đã trở thành là hình ảnh ẩn dụ trong nghệ thuật. “Chiếc thuyền” vừa gợi ra sự thi vị, thơ mộng vừa gợi ra sự lênh đênh, bất trắc. Còn “ngoài xa” là giới định không gian, gợi ra sự xa vời, khó tới, mông lung, vô định. Khi đặt hình ảnh “chiếc thuyền ngoài xa” trong mối quan hệ với các nhân vật thì nhan đề ấy lại gợi ra nhiều ý nghĩa. Với nghệ sĩ Phùng, “chiếc thuyền ngoài xa” trong sương sớm là cảnh đắt trời cho, một vẻ đẹp toàn bích mà anh đã mất công tìm kiếm, là biểu tượng của cái đẹp mà khi chiêm ngưỡng nó, anh thấy tâm hồn mình trong ngần. Nhưng với một gia đình hàng chài đông con thì chiếc thuyền đó lại là không gian sinh sống chật chội, là cuộc sống mưu sinh khó nhọc, bấp bênh. Hơn nữa, nhìn xa thì đẹp thế, còn thuyền đó về bờ lại diễn ra cảnh tượng đau lòng: chồng đánh vợ, con đánh cha, cha đánh con. Những hình ảnh ấy, cảnh tượng ấy nếu nhìn từ xa sẽ không bao giờ thấy được.

     Vậy là chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, còn sự thật cuộc đời thì ở rất gần, người nghệ sĩ đừng vì nghệ thuật mà bỏ quên cuộc đời. Xa và gần, bên ngoài và thẳm sâu, đẹp và xấu, thiện và ác... đó cũng là cách nhìn, cách tiếp cận của nghệ thuật chân chính. Vì thế người nghệ sĩ không thể nhìn nhận, đánh giá sự vật, con người một cách đơn giản, đừng nhầm lẫn hiện tượng với bản chất, hình thức bên ngoài và nội dung bên trong không phải bao giờ cũng thống nhất, đừng vội đánh giá con người sự vật ở dáng vẻ bề ngoài, phải phát hiện bản chất thực sau vẻ ngoài đẹp đẽ của hiện tượng. Người nghệ sĩ cần có cái nhìn đa diện nhiều chiều, có cả sự cảm thông, thấu hiểu chân thành sâu sắc thì mới có thể gắn bó và khám phá bản chất cuộc đời đa đoan, đa sự, để phản ánh hiện thực ẩn kín từ cuộc sống, từ con người bên trong. “Chiếc thuyền ngoài xa” đúng là một nhan đề đặc sắc vừa có ý nghĩa tả thực vừa có ý nghĩa biểu tượng về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật, về cách nhìn con người của người nghệ sĩ. Với nhan đề này, Nguyễn Minh Châu đã gửi gắm những trăn trở của mình về nghệ thuật cùng sự tin yêu, khắc khoải lo âu đối với cuộc sống và con người.

Phân tích nhân vật Phùng

    Trong truyện ngắn này, nhà văn đã xây dựng thành công nhân vật Phùng, nhân vật tôi, người trần thuật tham dự, một nghệ sĩ nhiếp ảnh có tài có tâm. Phùng được khắc họa theo kiểu nhân vật tư tưởng. Qua câu chuyện kể và quá trình nhận thức của Phùng, nhà văn đã phát hiện và ca ngợi vẻ đẹp của người nghệ sĩ nhiếp ảnh ấy, một người vừa thiết tha với cái đẹp, tâm huyết với nghề lại có một trái tim giàu lòng trắc ẩn. Qua nhân vật này, nhà văn đã cho người đọc thấy hành trình tìm kiếm chân lí của chính mình.

   Trước hết, vẻ đẹp của Phùng hiện ra trong hành trình kiếm tìm cái đẹp và lưu giữ cái đẹp. Trước khi là nghệ sĩ nhiếp ảnh, Phùng từng là một người lính. Là người bước ra từ cuộc chiến, Phùng tự cho mình là người hiểu đời nhưng trước những biến đổi không ngừng của cuộc sống đã khiến Phùng phải suy tư trăn trở: “Đời chúng tôi, cái đám lính của một thời chống Mĩ, từ sau 1975 thật chẳng ít chuyện trớ trêu và bất ngờ”. Trong tư cách mới là một phóng viên, một nghệ sĩ nhiếp ảnh, Phùng đã tự khám phá thêm về chính mình và cũng hiểu sâu sắc hơn về cuộc đời, con người khi về vùng biển miền Trung theo yêu cầu của trưởng phòng để chụp một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù về bổ sung cho bộ lịch năm sau. Anh đã tìm về chiến trường xưa cách nơi làm việc 600 km để vừa tìm lại chính mình vừa thể hiện lòng yêu nghề, khát khao sáng tạo cùng trách nhiệm với công việc được giao.

    Sau một tuần phục kích, lăn lộn, tìm kiếm, lựa chọn, thức khuya dậy sớm, đắn đo cân nhắc nhiều lần, anh đã chụp được một "cảnh đắt trời cho": cảnh thuyền đánh cá thu lưới lúc bình minh. Đó là cảnh "thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù màu trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi...". Đó là một khung cảnh tuyệt mĩ với chiếc thuyền mơ mộng, thanh bình. Quả thực đây là bức họa kì diệu, mĩ lệ mà tạo hóa đã ban tặng cho con người. Trong con mắt của người nghệ sĩ, khung cảnh vùng nước phá ấy thật thơ mộng, quyến rũ, một khung cảnh mà bất cứ người nghệ sĩ nào cũng mong muốn bắt gặp một lần trong đời làm nghệ thuật của mình.

    Phùng đã bấm "liên thanh" một hồi hết một phần tư cuộn phim, thu vào chiếc Pra-ti-ca của mình cái khoảnh khắc đẹp như mơ của thiên nhiên. Khi bất ngờ gặp cảnh đắt trời cho ấy, Phùng  đã "cảm thấy bối rối, trong tim như có cái gì bóp chặt vào, tâm hồn mình được thanh lọc", gột rửa và một niềm hạnh phúc trào dâng trong lòng. Phùng như đã khám phá thấy “cái chân lí của sự hoàn thiện, cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Và tâm hồn anh vì thế ngập tràn hạnh phúc, cái "hạnh phúc do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại”. Đó còn là khoảnh khắc thăng hoa trong nghệ thuật. Cũng nhờ đó, anh đã chiêm nghiệm “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”.

    Phùng vừa hoàn thành nhiệm vụ mà cấp trên giao cho, nhưng hơn cả là Phùng đã tìm thấy tuyệt tác nghệ thuật. Phùng đã phát hiện ra vẻ đẹp của thiên nhiên và đã ghi lại vẻ đẹp ấy trong những bức ảnh nghệ thuật của mình bằng tất cả sự nhạy cảm, tinh tế, say mê của một tâm hồn nghệ sĩ. Nếu không khát khao sáng tạo, không chấp nhận sự sao chép, đại khái, lặp lại và nếu không có sự rung động chân thành của một tâm hồn mẫn cảm thì Phùng không thể có được bức ảnh ấy và tâm trạng ấy. Chỉ với những phẩm chất này, Phùng đã được đánh giá là một người nghệ sĩ chân chính. Có một điều mà bạn đọc cần lưu ý, đó là nơi nhà nhiếp ảnh ngồi bấm máy chẳng phải chốn Bồng Lai mà chỉ là một bãi biển còn đầy tàn tích chiến tranh với bao xác xe tăng, xe rà phá mìn của công binh Mỹ thua chạy bỏ lại. Phùng ngồi bấm máy phải "rúc vào bên bánh xích của một chiếc xe tăng để tránh mưa". Chi tiết này rất quan trọng, nó cho thấy cảnh biển mù sương và con thuyền trong bình minh tuy có đẹp, nhưng cái đẹp ấy chưa trọn vẹn. Vết thương chiến tranh còn in hằn trên bãi biển và trong lòng ngư dân. Chỉ vì Phùng, với tâm hồn lãng mạn của người nghệ sĩ, anh mới thi vị hóa, thần tiên hóa hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa, để rồi sau đó, anh sẽ bị hụt hẫng khi chiếc thuyền đó về bờ.

    Không chỉ có tâm hồn nhạy cảm, say mê cái đẹp, tâm huyết với nghề, Phùng còn là một con người có trái tim giàu lòng trắc ẩn, là người luôn trăn trở về thân phận con người và cuộc đời. Vẻ đẹp này được thể hiện rõ qua tâm trạng, thái độ và hành động của Phùng khi phát hiện ra những sự thật đằng sau chiếc thuyền đẹp như mơ khi nó về bờ và khi nghe câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện. Phùng phát hiện ra đằng sau bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp kia là một cảnh tượng phi thẩm mĩ, chứa đựng những sự thật đau lòng về con người. Một hiện thực trần trụi đã mở ra trước mắt Phùng, khi chiếc thuyền ấy về gần bờ, Phùng đã trông thấy một người đàn bà “trạc ngoài bốn mươi, cao lớn với những đường nét thô kệch, mặt rỗ, mệt mỏi”, đi sau là người đàn ông "cao lớn, dữ dằn, tấm lưng rộng và cong như lưng của một chiếc thuyền với hai con mắt đầy vẻ độc dữ". Người đàn ông đi phía sau, không nói một lời, nhưng bỗng nhiên trở nên “hùng hổ, mặt mũi đỏ gay” dùng ngay chiếc thắt lưng vụt tới tấp vào người vợ. “Lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống, lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết đi cho ông nhờ”. Người vợ bị chồng đánh đập một cách tàn nhẫn nhưng không kêu van, không chống trả cũng không chạy trốn, còn thằng con vì bảo vệ mẹ mà “giằng thắt lưng, rướn thẳng người, vung chiếc khóa sắt quật mạnh vào ngực cha rồi chính nó lại bị cha tát hai cái khiến nó lảo đảo ngã dúi xuống cát”. Người đàn bà lúc này mới “cảm thấy đau đớn - vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã” vì đứa con đã nhìn thấy cảnh mình bị đánh đập. Bà mếu máo, ngồi xệp xuống, ôm chầm lấy con, vái lấy vái để, rồi khóc, “những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt”.

    Phùng "ngơ ngác nhìn" ra bờ phá khi người đàn bà buông đứa con ra, đi thật nhanh đuổi theo lão đàn ông vừa đánh mụ, rồi cả hai cùng đi về thuyền. Bãi cát hoang sơ mà mênh mông, tiếng sóng kêu ồ ồ cất lên. Bức ảnh thế sự ấy diễn ra "như trong truyện cổ quái đản", chiếc thuyền vó đã biến mất, chắc đã làm cho cách nghĩ, tầm nhìn và cảm quan nghệ thuật của nghệ sĩ Phùng thay đổi? Bức ảnh thế sự trần trụi ấy đã được Nguyễn Minh Châu kí họa, đã được nhà nhiếp ảnh Phùng mục kích và bấm máy thật giàu ý nghĩa. Nghệ thuật hướng về cái đẹp, nhưng không thể là sự lừa dối. Lãng mạn hóa cuộc đời, bôi hồng tô son hiện thực cuộc đời là vô nghĩa khi cuộc đời còn nhiều mồ hôi và nước mắt! Phùng có thể coi đây là một chuyến đi nhiều ý nghĩa: chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, ẩn hiện trong sương mù, còn sự thật cuộc đời thì lại trần trụi, ở rất gần ngay trước mắt.

    Qua đó, ta càng thấy rõ một điều: chân lí cuộc đời có lúc không phải là chân lí nghệ thuật. Nguyễn Minh Châu qua "Chiếc thuyền ngoài xa" đã nêu lên bài học về cái nhìn đa diện, cái nhìn khám phá trong sáng tạo nghệ thuật đối với nhà nghệ sĩ chân chính giàu bản lĩnh. Thì ra đằng sau cái đẹp tuyệt mĩ mà Phùng vừa mới phát hiện lại là khung cảnh vô cùng tàn nhẫn, nơi mà bạo lực gia đình diễn ra hết sức khủng khiếp. Ba ngày sau, cảnh tượng ấy lại tiếp diễn, nhưng lần này xuất hiện thêm con chị ngăn thằng em, không cho thằng em giết bố. Cảnh tượng đau lòng ấy đặt cạnh bức tranh thơ mộng kia chẳng khác nào một trò đùa ác đầy trớ trêu, phi lí. Trước cảnh tượng ấy, người nghệ sĩ “kinh ngạc đến thẫn thờ”, “mấy phút đầu cứ đứng há mồm ra mà nhìn”, “chết lặng” rồi chính anh đã sẵn sàng vứt chiếc máy ảnh xuống để giúp đỡ người phụ nữ tội nghiệp, anh còn giận dữ lao ra can ngăn người đàn ông vũ phu bằng đôi bàn tay rắn chắc của người lính vì anh cho rằng “bất luận hoàn cảnh nào cũng không cho phép hắn đánh một người đàn bà, cho dù đó là vợ hắn”. Vốn là con người ngay thẳng, nay gặp cảnh tượng tàn nhẫn với người đàn bà bất hạnh kia, anh không thể khoanh tay đứng nhìn, anh không thể làm ngơ trước nỗi đau của người khác.

    Cũng qua lời xác nhận của cô y tá: “đàn ông vạn chài ai cũng thế” càng giúp anh hiểu ra hiện thực của vùng nước phá mà thiếu chút nữa anh không nhận ra. Anh đã hiểu ra rằng tuy chiến tranh đã kết thúc nhưng nỗi khổ đau của con người thì vẫn còn, cái ác vẫn hiện hình trong cuộc sống tưởng đã bình yên này. Lúc trước, anh nghĩ mình đã thành công, nay thấy mình đã lầm. Anh không thể ngờ đằng sau vẻ đẹp diệu kì của tạo hóa kia lại có cái ác, cái xấu đến không thể tin được. Anh đau đớn nhận ra khi màn sương mờ ảo của bức tranh tan dần để lộ ra những đau thương của kiếp người. Cảnh tượng này đã giúp nghệ sĩ Phùng nhận thức đầy đủ và chân thực hơn về cuộc sống: cuộc sống vốn không đơn giản, xuôi chiều mà chứa đựng rất nhiều nghịch lí, cuộc đời luôn tồn tại cả xấu - tốt, đúng - sai, rồng phượng - rắn rết. Bởi vậy, khi nhìn nhận bất cứ vấn đề nào cũng phải nhìn sâu, nhìn kĩ, đừng vội vã đánh giá sự vật hiện tượng qua vẻ bề ngoài của nó. Anh phát hiện ra cái đẹp tuyệt mĩ, nhưng đằng sau cái đẹp lại là cái xấu, là hiện thực trần trụi. Chiếc thuyền ngoài xa chính là hình ảnh cuộc đời khi nhìn ở xa, khi quan sát với cái nhìn hời hợt. Bởi vậy, cần nhìn nhận con người, sự việc thấu đáo, toàn diện, thấy được bản chất bề bộn, biến động với những bất ngờ của cuộc đời.

    Là một người có trái tim nhân hậu, giàu lòng trắc ẩn nên khi nghe xong câu chuyện của người đàn bà tại tòa án huyện, Phùng càng nhận ra nhiều điều về cuộc đời, nhất là những vẻ đẹp còn khuất lập trong bề sâu tâm hồn con người. Sau khi bị thương, anh được đưa về trạm y tế của tòa án huyện. Ở đấy, anh đã gặp lại Đẩu, bạn chiến đấu năm xưa giờ là chánh án huyện. Và cũng tại đây, anh đã thấy sửng sốt, sững sờ và cảm thấy ngột ngạt khi nghe người đàn bà hàng chài vừa vái lạy vừa van xin quý tòa: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Lời nói ấy, hành động ấy cho thấy chị đã nhận hết tội về mình, dứt khoát không bỏ người chồng vũ phu đã đánh mình theo quy luật “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Phùng đã không kìm chế nổi cảm xúc của mình, từ chỗ ngồi giấu mặt sau bức màn vải hoa, anh đã bước ra ngoài, hỏi dồn dập người đàn bà nhiều câu hỏi: "Lão ta hồi bảy nhăm có đi lính ngụy không? Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không? Cả đời chị có lúc nào hạnh phúc không?". Đó là sự tò mò, muốn biết nguyên nhân, muốn lí giải thái độ cam chịu, nhẫn nhịn kia của người đàn bà. Đó cũng là cách Phùng bộc lộ thái độ bất bình của mình trước những ngang trái, bất công. Những câu hỏi đó còn cho thấy sự cảm thông, xót xa chân thành của Phùng dành cho người đàn bà bất hạnh kia.

    Lúc đầu Phùng tham dự trong tư cách người nghe, sau đó Phùng tham dự cuộc đối thoại với mục đích giải tỏa những thắc mắc băn khoăn, Phùng thành người trong cuộc, cùng Đẩu tìm cách giải thoát cho người đàn bà khỏi bất hạnh. Nhưng chính người đàn bà quê mùa thất học kia với những lí lẽ sắc sảo, của một người từng trải, thấu hiểu lẽ đời, giàu đức hi sinh, giàu lòng vị tha lại là người giúp Phùng và Đẩu ngộ ra nhiều chân lí cuộc đời mà lí thuyết sách vở chưa thấu tỏ. Phùng nhận ra cuộc đời này còn nhiều góc khuất, nhiều trái ngang mà nghệ thuật cần vươn tới. Qua đây một lần nữa chúng ta thấy Phùng là một người nghệ sĩ giàu lòng nhân ái, biết cảm thông, chia sẻ với những số phận bất hạnh, biết đấu tranh với cái xấu, cái ác để bảo vệ cái đẹp, cái thiện. Cách Phùng quan tâm thấu hiểu người khác cũng là bài học cho nhiều người nghệ sĩ, bởi người nghệ sĩ không phải lúc nào cũng thấu suốt chuyện đời, nên khi làm nghệ thuật phải để tâm tìm hiểu, trực tiếp đối diện, đối thoại để có cái nhìn đúng đắn sâu sắc, yêu thương hơn đối với con người. Đó chính là triết luận sâu sắc của Nguyễn Minh Châu về trách nhiệm của người làm nghệ thuật với cuộc đời và con người được gửi gắm qua hình tượng nhân vật Phùng.

    Sau chuyến đi thực tế, thành quả mà Phùng thu được là nhiều hơn những gì Phùng mong đợi. Phùng đã chụp được nhiều bức ảnh đẹp đem về khiến trưởng phòng rất hài lòng về anh. Anh lại có thêm những hiểu biết, những chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời, nhất là về nghệ thuật. Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn để cho hình ảnh chiếc thuyền xuất hiện ở cả phần đầu và phần cuối của tác phẩm gắn với những tâm trạng, suy nghĩ khác nhau của Phùng. Sau khi gặp người đàn bà ở tòa án huyện, Phùng lại “khoác chiếc máy ảnh đi lang thang cho đến tận khuya”, rồi đêm đó trời đột ngột trở gió, biển bắt đầu gào thét, nhiều tàu thuyền đã tìm vào bờ để trú, duy ở giữa phá vẫn còn một chiếc thuyền lưới vó bè đang đậu. Nhìn chiếc thuyền đang chống chọi với sóng gió giữa phá ấy, Phùng không khỏi suy nghĩ về cuộc đời. Ở đây, cuộc sống không hề lãng mạn, thanh bình như người ta thường thấy mà nhiều lúc nó vô cùng dữ dội, khốc liệt. Còn con người ở đây mà tiêu biểu là người đàn bà hàng chài kia tuy nhỏ bé nhưng thật mạnh mẽ bền bỉ để chống chọi, để giành giật, để tồn tại trong cuộc đời còn lắm nỗi nhọc nhằn.

    Tất cả đã để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm trí của Phùng để mỗi một lần nhìn ngắm tấm ảnh được chọn trong bộ lịch năm ấy, hình ảnh người đàn bà kia lại xuất hiện. Tuy là “bức ảnh đen trắng nhưng khi ngắm kĩ”, Phùng vẫn “thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai”, hay là chất thơ của cuộc sống, là vẻ đẹp lãng mạn của cuộc đời, là biểu tượng của nghệ thuật. Khi ngắm lâu hơn, Phùng lại “thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lướt suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân giậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông”. Người đàn bà kia đã trở thành hiện thân của những lam lũ, khó nhọc của đời thường. Đây mới là sự thật cuộc đời, là đích đến của nghệ thuật chân chính. Phùng đã nhận ra một cách thấm thía về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời: nghệ thuật chân chính không bao giờ xa rời cuộc đời, thiếu bóng con người. Nghệ thuật không chỉ là nghệ thuật, vì nghệ thuật mà còn là cuộc đời, vì cuộc đời. Đó cũng chính là quan niệm nghệ thuật đúng đắn mà Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm qua hình tượng nhân vật Phùng.

    Với cách kể chuyện hấp dẫn, cùng cách tạo dựng tình huống truyện độc đáo, Nguyễn Minh Châu đã xây dựng thành công nhân vật Phùng, một người nghệ sĩ vừa thiết tha với cái đẹp, tâm huyết với nghề lại có một trái tim giàu lòng trắc ẩn. Nhà văn không lấy những người hùng làm nhân vật trung tâm mà đi sâu tìm tòi, phát hiện vẻ đẹp ở những con người bình thường. Tác phẩm cũng là những đúc kết thấu đáo về nghệ thuật và con người qua những phát hiện khác nhau của Phùng. Qua phát hiện đầu tiên về bức tranh nghệ thuật của Phùng, nhà văn khẳng định: niềm vui lớn nhất của nghệ thuật chân chính là khám phá và lưu giữ cái đẹp, cái đẹp phải tự nhiên, phải hài hòa giữa thiên nhiên và con người, còn trách nhiệm của người nghệ sĩ là phải kiên trì vượt khó, say mê trong hành trình khám phá và lưu giữ cái đẹp ấy. Đến phát hiện thứ hai về bức tranh hiện thực đời sống của Phùng, nhà văn lại đem đến thông điệp đầy ý nghĩa: trước khi là người nghệ sĩ, phải là một con người biết rung động trước nỗi đau, phải biết căm phẫn trước tội ác, biết hành động để cứu đồng loại. Còn phát hiện cuối cùng qua câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện, nhà văn khẳng định: đừng bao giờ nhìn nhận con người và cuộc đời dễ dãi, xuôi chiều, nghệ thuật chân chính phải gắn liền với cuộc đời, xuất phát từ cuộc đời và quay trở lại phục vụ cho cuộc đời còn người nghệ sĩ cần có tài, có tâm và có đôi mắt đúng, có trái tim biết yêu thương. Qua sự phân tích trên đây, ta có thể khẳng định lại một lần nữa, Phùng thuộc kiểu nhân vật tư tưởng, là nhân vật gửi gắm nhiều suy tư, chiêm nghiệm đầy tính triết lí của chính tác giả về cuộc đời và nghệ thuật.

Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài

    Nếu như nhân vật Phùng được xây dựng theo kiểu nhân vật tư tưởng, thì nhân vật người đàn bà hàng chài lại được Nguyễn Minh Châu xây dựng theo kiểu nhân vật tính cách, nhân vật số phận, xuất phát từ những quan điểm nghệ thuật mới về con người của nhà văn, của văn học Việt Nam thời kì đổi mới. Nhân vật này xuất hiện trong tác phẩm với cái tên gọi chung chung: “người đàn bà hàng chài”. Lúc khác nhà văn lại gọi là “mụ”, là “chị ta”. Không phải nhà văn “nghèo” ngôn ngữ đến mức không thể đặt cho chị một cái tên riêng mà đây là dụng ý của nhà văn: người đàn bà này cũng như bao người đàn bà khác ở vùng biển này, cũng như bao người phụ nữ Việt Nam từ xưa đến nay luôn lam lũ, nhọc nhằn, luôn hết lòng yêu thương chồng con, luôn giàu đức hy sinh và giàu lòng vị tha. Chị là một người đàn bà vô danh nhưng sự xuất hiện của chị giữa cuộc đời không hề vô nghĩa. Qua hình tượng người đàn bà vô danh ấy, Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm nhiều triết lí sâu sắc về cuộc đời.

    Trước hết, người đàn bà hàng chài là một người phụ nữ có ngoại hình thô nhám, xấu xí và số phận bất hạnh, đau khổ. Nguyễn Minh Châu với những nét vẽ tinh tế đã phác họa nên chân dung một con người độc đáo và đầy ấn tượng: từ nhỏ chị đã là “một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt sau một trận lên đậu mùa. Cũng vì xấu, trong phố không ai lấy”. Dù xuất thân khá giả nhưng thua thiệt về nhan sắc nên không ai để ý. Nhưng vì lỡ có mang với một anh con trai một nhà hàng chài giữa phá mà chị lấy anh ta, theo anh ta làm nghề chài lưới, nay đây mai đó. Cuộc sống gia đình bắt đầu rơi vào bi kịch khi họ sinh nhiều con, cuộc sống trên thuyền chật chội, bấp bênh, họ rơi vào cảnh cùng túng, quẫn bách. Anh chồng vốn hiền lành trở nên cục cằn, dữ dằn, thường lôi chị ra đánh. Cuộc sống ấy càng khiến người đàn bà này trở nên đáng thương, thân hình của chị càng trở nên thô nhám: “người đàn bà trạc ngoài 40, một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt, khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt, dường như đang buồn ngủ”.

     Một người phụ nữ gây ấn tượng cho người đọc ngay từ những dòng đầu tiên qua sự nhọc nhằn, lam lũ. Người đàn bà ấy còn gợi ở người đọc sự xót xa, thương cảm với “tấm áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng”. Chị chưa già nhưng ngoại hình thì quá thô nhám, xấu xí, thô kệch. Sự thua thiệt về nhan sắc ấy vừa toát lên sự nhọc nhằn vừa cho thấy chị đã phải gồng mình lên để chống chọi để mưu sinh giữa cuộc đời. Người đàn bà ấy còn có vẻ cam chịu và nhẫn nhục khi bị người chồng đánh đập tàn nhẫn và mắng nhiếc. Người chồng vũ phu thường dùng chiếc thắt lưng để vụt tới tấp vào người chị. “Lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống, lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết đi cho ông nhờ”. Tuy bị chồng đánh đập một cách tàn nhẫn nhưng chị “không kêu van, không chống trả cũng không chạy trốn”. Không phải mình chị bị đánh, thằng con trai của chị vì bảo vệ chị mà lại bị cha đánh. Chứng kiến cảnh ấy chị đau đớn, xấu hổ và nhục nhã, chị đã khóc và ôm lấy con. Ngay sau đó chị lại buông con chạy theo chồng như một minh chứng cho sự lệ thuộc và cam chịu. Sự việc ấy còn diễn ra thường xuyên theo quy luật: “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”, hễ lúc nào thấy khổ là chồng chị lại xách chị ra đánh, lão trút cơn giận như lửa cháy lên chị, mà chị vẫn tình nguyện sống với người chồng vũ phu ấy càng cho thấy sức chịu đựng bền bỉ, kiên cường của chị. Nhà văn đã khiến người đọc phải xót xa thương cảm cho một thân phận con người như chị, một nạn nhân đau khổ của cái đói, cái nghèo, cái lạc hậu và nhất là nạn nhân của bạo lực gia đình.

   Nếu chỉ có thế thì nhân vật người đàn bà chưa thể khiến người đọc cảm phục, trân trọng. Nhà văn đã đi sâu khám phá và ngợi ca vẻ đẹp ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn người đàn bà ấy bằng tất cả sự tin yêu của mình đối với con người, tin ở phẩm chất tốt đẹp của con người có thể bị che lấp nhưng không bao giờ mất đi. Vẻ đẹp khuất lấp mà nhà văn tìm kiếm chính là sự sắc sảo, từng trải, thấu hiểu lẽ đời, nhất là sự yêu thương và hy sinh cùng lòng vị tha ở một người đàn bà đầy nghị lực, biết vượt lên số phận kia. Đúng là đằng sau vẻ ngoài xấu xí kia là một nội tâm sâu sắc, một tâm hồn nhân hậu. Điều này đã được lộ rõ qua hành động, lời nói, thái độ cùng câu chuyện cuộc đời của chị khi chị đến gặp chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng ở tòa án huyện.

    Chị đến tòa án huyện theo lời mời của chánh án Đẩu để giải quyết việc gia đình. Lúc đầu, chị vẫn giữ cái dáng vẻ lam lũ, tội nghiệp vốn có với dáng đi mệt mỏi, chậm chạp, vẫn chiếc áo bạc phếch có miếng vá trên vai, chị sợ sệt, lúng túng, xưng hô lễ phép: xưng “con” với “quý tòa”, vừa vái lạy vừa van xin: “Con lạy quý tòa… Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó” khi nghe lời khuyên của chánh án, muốn chị li hôn vì “Chị không sống nổi với một người chồng vũ phu ấy đâu!”. Nhưng ngay sau đó để bảo vệ cho cái gia đình nhỏ của mình, chị đã thay đổi cách xưng hô: xưng “chị” với “các chú”, bằng thái độ chủ động, mạnh dạn khác hẳn lúc mới đến tòa án. Chị ngẩng đầu nhìn thẳng vào người đối diện, mất dần vẻ khúm núm, sợ sệt trước đó, chị tỏ ra tự tin, có lúc còn “thông cảm” với Phùng và Đẩu. Lời nói của chị lúc này tuy là của một người quê mùa thất học nhưng lại vô cùng sắc sảo, thấu hiểu lẽ đời, khiến Phùng và Đẩu ngạc nhiên: “Chị cảm ơn các chú! Đây là chị nói thành thực, chị cảm ơn các chú. Lòng các chú tốt nhưng các chú đâu phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc…” và những lời tiếp sau đó: “Là bởi vì các chú không phải là người đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên thuyền không có đàn ông… Đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa”. Đây là những trải lòng chân thành, là sự giãi bày không giấu giếm cảnh ngộ bất hạnh của chị với những người chị tin tưởng.

     Lời nói ấy chân thành mà chứa đựng bao ẩn ý của một người thấu hiểu sâu sắc lẽ đời. Chị phân tích cho Phùng và Đẩu hiểu những lí do để không muốn bỏ chồng: thứ nhất chị làm nghề chài lưới, trên một chiếc thuyền của gia đình thì không thể thiếu vai trò của người đàn ông, nhất là khi biển động. Thứ hai, với gánh nặng của cuộc sống mưu sinh, một mình chị không thể nuôi nấng chín mười người con. Thứ ba, cũng có lúc trên thuyền vợ chồng con cái quây quần, hạnh phúc, dù ít ỏi những nó cũng phần nào xoa dịu nỗi đau về thể xác sau mỗi lần bị chồng đánh. Những lí lẽ sắc sảo ấy của chị đã khiến Phùng và Đẩu nhận ra mình đã sai, đã phiến diện khi muốn giải quyết câu chuyện gia đình của người khác mà chỉ dựa vào lí thuyết sách vở hay công lí và lòng tốt. Và muốn hiểu con người và cuộc sống hơn cần phải thâm nhập, phải sống thực sự, đừng đứng ngoài cuộc mà phán xét. Kinh nghiệm sống ấy cho thấy chị tuy quê mùa thất học mà những nhận định, đánh giá về vấn đề của cuộc sống của chị lại vô cùng thực tế, không hề bao biện mà thẳng thắn đối diện để nhận thức. Người đọc vì thế thấy nể phục chị hơn bởi sự am hiểu lẽ đời và nhất là sự cứng cỏi, mạnh mẽ phi thường, không đầu hàng số phận, vượt lên trên số phận để sống, để giữ gìn tổ ấm bằng một khát vọng sống mãnh liệt.

   Không chỉ sống mạnh mẽ, người đàn bà ấy còn là người hết lòng yêu thương chồng con, luôn hy sinh vì gia đình. Đôi mắt của chị như xuyên sâu vào lòng người đọc, nó ám ảnh cho đến khi ta gấp trang sách lại. Ánh mắt của chị đầy thương xót, đầy ai oán và cũng đầy tình yêu thương dành cho những đứa con cho mình. Dọc theo hình trình đi tìm cái đẹp của nhiếp ảnh Phùng, người đàn bà đã trở thành tâm điểm cho vẻ đẹp ấy. Cách người đàn bà vái lạy để con trai không làm điều dại dột với bố, cũng như vái lạy quan tòa để đừng bắt mình li dị chồng càng toát lên sự hi sinh, vị tha trong chị. Khi đi đến tận cùng của nỗi đau, khi có một con đường giải thoát thì người đàn bà ấy vẫn lặng lẽ và cam tâm chịu đựng đau khổ? Là vì điều gì? Chẳng phải vì đức hi sinh của người mẹ đó sao? Lời tâm tình của người đàn bà về cuộc sống, về người chồng, về những đứa con khiến người khác vừa thương xót vừa khâm phục. Một người đàn bà yêu chồng, thương chồng mặc dù bị chồng ngược đãi. Chị sẵn sàng chịu những trận đòn roi của chồng để đàn con được ăn no, ngủ yên. Lo thằng Phác sẽ có những hành động sai trái, chị gửi nó lên ở với ông ngoại, để nó không nhìn thấy bố đánh mẹ, để nó khỏi đau lòng và không có những hành động trái với luân thường đạo lí. Chị yêu con, thương con, mong con khôn lớn nhưng không thể bảo vệ được tâm hồn của các con. Người đàn bà yêu con, thương con vô điều kiện mà không đòi hỏi bất cứ điều gì.

    Khi chị kể đến chi tiết “vui nhất là lúc được ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no” thì người đọc phải ứa nước mắt. Những đứa con là sức mạnh để chị có thể tồn tại, có thể sống sót và kiên cường đến bây giờ. Một người mẹ lặng lẽ hi sinh cuộc đời mình vì những đứa con, một người mẹ đã nhẫn nhục tất cả chỉ vì miếng cơm manh áo cho con. Một người mẹ nghèo, cố chấp nhưng yêu thương con vô bờ bến. Chị biết mình sống là vì ai, chị đã tâm sự: "Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như trên đất được!". Tình mẫu tử trong chị thật thiêng liêng cao cả! Cuộc đời của chị có quá nhiều đau thương và nước mắt nên chị càng trân trọng những chắt chiu hạnh phúc bình dị đời thường. Vẻ đẹp nhất ở chị đúng là đức hi sinh, là tình yêu thương chồng con sâu sắc và chị luôn sống với một tâm niệm thiêng liêng ấy.

      Nói tóm lại, nhà văn đã dụng công xây dựng nhân vật người đàn bà hàng chài để thể hiện quan điểm mới của mình về con người. Người đàn bà hàng chài là hình ảnh đại diện cho những con người vô danh, nghèo khổ, lam lũ nhưng lại có vẻ đẹp tâm hồn đáng quý khiến họ trở nên không hề nhỏ bé mà là hiện thân của những gì đẹp đẽ nhất. Người đàn bà quê mùa thất học nhưng không hề cam chịu một cách vô lí, không hề nông nổi một cách ngờ nghệch. Thực ra chị là người rất sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời. Chị có một cuộc sống nhọc nhằn lam lũ nhưng biết chắt chiu từng hạnh phúc bình dị đời thường. Chị luôn sống với một tâm niệm thiêng liêng là hy sinh vì chồng con. Chị có ngoại hình thô kệch nhưng tâm hồn đẹp đẽ, thấp thoáng bóng dáng của những người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu đức hi sinh và lòng vị tha. Không phải ngẫu nhiên tác giả chỉ gọi nhân vật là “người đàn bà”, có lẽ không phải chỉ một người đàn bà duy nhất, mà có thể chúng ta còn bắt gặp rất nhiều người đàn bà có chung cảnh ngộ ở bất cứ bãi biển nào. Nguyễn Minh Châu đã vẽ lên một bức chân dung khiến cho người đọc phải suy ngẫm, phải trăn trở về cuộc sống của rất nhiều người xung quanh chúng ta. Và cái hình ảnh mà nhiếp ảnh Phùng chụp được cũng như những gì anh nghĩ về người đàn bà này là triết lí, một triết lí cho cái nhìn nhận đa chiều về cuộc sống này. Người đàn bà đó chính là nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, cũng như tác giả đã dùng cái tâm để vẽ lên hình ảnh đó.

   “Chiếc thuyền ngoài xa” là một tác phẩm có tình huống truyện rất độc đáo, hấp dẫn. Nó được thể hiện qua những phát hiện chân thực của nhân vật Phùng. Tình huống truyện đầy bất ngờ và chứa nhiều câu chuyện mà qua đó tạo bước ngoặt trong nhận thức của nhân vật về nghệ thuật và cuộc sống. Chính tình huống đã làm cho truyện "Chiếc thuyền ngoài xa" vừa chân thực, vừa mang ý nghĩa phát hiện sâu sắc về đời sống.

   Về ngôn ngữ, dường như tác giả rất dụng công trong việc tỉ mỉ điều khiển đội quân ngôn ngữ của mình. Truyện ngắn cho ta thấy được sự tài hoa của ngòi bút Nguyễn Minh Châu trong việc tả cảnh, tả người, dựng đối thoại hay kể chuyện. Bên cạnh đó là thứ ngôn ngữ đậm màu sắc triết lí, ngôn ngữ kể chuyện theo lối đổi ngôi khiến câu chuyện vừa khách quan vừa thuyết phục. Về cách xây dựng nhân vật, nhà văn đã tạo ra những nhân vật vừa quen vừa lạ, có những vẻ đẹp khuất lấp, chứa đựng nhiều quan niệm về con người của Nguyễn Minh Châu. Về giọng văn thì thay đổi linh hoạt: lúc say sưa tả cảnh, lúc hài hước tự trào, lúc lại suy tư day dứt chiêm nghiệm,…

    Nói tóm lại, "Chiếc thuyền ngoài xa" là một truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Minh Châu. Cốt truyện của nó giản dị mà chứa đựng những tình huống mang tính khám phá về cuộc sống. Truyện ngợi ca con người và giãi bày những trăn trở của nhà văn về cuộc sống đa chiều, phức tạp với bao nhọc nhằn đè nặng lên số phận con người. Tác phẩm đặt ra vấn đề về cách nhìn nhận cuộc sống và con người, nhất là mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời.

(Tác giả: Nguyễn Thị Hồng Hải)

Mẫu số 4 Phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa với tình huống truyện đầy bất ngờ, độc đáo

    Nguyễn Minh Châu là một trong những cây văn viết văn xuôi giàu chất thơ và dằm sâu chất triết lý. Trong đó, “Chiếc thuyền ngoài xa” là một trong những sáng tác mang hơi hướng nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu mà qua đó ông còn thể hiện được nhiều triết lý, ý nghĩa qua những hình ảnh nhỏ. “Chiếc thuyền ngoài xa” là một tác phẩm có tình huống truyện rất độc đáo. Nó được thể hiện qua những phát hiện chân thực của nhân vật Phùng. Tình huống truyện đầy bất ngờ và chứa nhiều câu chuyện mà qua đó tạo bước ngoặt trong nhận thức của nhân vật về nghệ thuật và cuộc sống.

   Phát hiện đầu tiên dưới con mắt của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng là một bức tranh thiên nhiên hoàn mĩ. Sau một tuần kiên nhẫn phục kích làm việc nhưng Phùng vẫn chưa chụp được một bức ảnh ưng ý thì trong một buổi sáng sương mù, lác đác mấy hạt mưa Phùng đã có dịp ghi lại những cảnh đẹp thiên nhiên chân thực. Đó là hình ảnh một chiếc thuyền lưới vó, đó là bầu sương mù trắng như sữa và có vài bóng người… Những hình ảnh hiện lên vô cùng đơn giản và bình dị. Dường như tác giả rất dụng công trong việc tỉ mỉ điều khiển đội quân ngôn ngữ của mình.

   Qua đó thấy được sự tài hoa của ngòi bút Nguyễn Minh Châu trong việc tả cảnh cùng với việc sử dụng nghệ thuật so sánh đầy tài ba, từ láy có giá trị gợi hình rất cao giúp nhà văn chạm khắc được một bức tranh bằng ngôn ngữ tuyệt mĩ, chân thực và sinh động. Dường như ngòi bút Nguyễn Minh Châu còn đang tranh tài với tạo hóa để rồi ngoại cảnh kia hóa thân trong những trang văn rất đẹp của Nguyễn Minh Châu. Đây cũng là niềm vui, sự hứng khởi của nhân vật Phùng sau những ngày ròng rã chưa tìm được những chi tiết đắt giá, bức ảnh mà mình ưng ý. Có lẽ vì thế mà khiến anh bấm máy liên tục để ghi lại khoảnh khắc hạnh phúc, đẹp rạng rỡ này của thiên nhiên.

   Sau bức tranh thiên nhiên rạng rỡ ấy thì cũng là khi nhân vật Phùng tiếp tục phát hiện ra đằng sau nó là một bức tranh cuộc sống đầy nghịch lý. Lúc này, nhân vật Phùng đứng với cự ly gần hơn nên có thể nhìn rõ được hình ảnh người phụ nữ trạc ngoài 40 tuổi, cao lớn, thô kệch, mệt mỏi sau một đêm thức trắng. Còn người đàn ông kia với tấm lưng rộng và cong như một chiếc thuyền, chân đi hình chữ bát… Một hình ảnh hiện lên không có tính thẩm mỹ với sự thật trần trụi của cuộc sống hiện tại. Với những hình ảnh này nó đối lập hoàn toàn ngược lại với bức tranh tuyệt bích mà trước đấy nhân vật Phùng đã phát hiện. Đoạn văn miêu tả hành động cục súc mà người đàn ông vừa đánh vừa nguyền rủa người đàn bà.

   Trái lại, người đàn bà kia không có ý thức phản kháng mà cam chịu và không hề chống trả. Chưa dừng ở đó, tiếp tục hành động tát vào mặt những đứa trẻ. Đây đều là những hình ảnh xấu xí, phi nhân tính, phi đạo đức của cuộc sống và để lại nhiều ngỡ ngàng cho nhân vật Phùng. Anh không chỉ ngạc nhiên, giận dữ còn tỏ thái độ bất bình, ”vứt chiếc máy ảnh xuống đất định ngăn cản”… Nhưng chưa kịp thực hiện thì anh đã bị Phác lao tới ngăn cản. Qua đó, thấy được ở Phùng không chỉ là người nghệ sĩ yêu cái đẹp mà anh còn thể hiện là người dám lên án cái xấu, ngăn chặn cái xấu lại.

   Cũng chính những phát hiện đắt giá của nhân vật Phùng qua bức tranh cuộc sống đầy nghịch lý ấy mà Nguyễn Minh Châu cũng thể hiện được thông điệp đó là: Đằng sau cái đẹp không phải bao giờ cũng là cái thiện, cái đạo đức mà có cả những xấu xa, bất công. Và để có những phát hiện đầy đủ nhất thì người nghệ sĩ phải khám phá về mọi mặt để hiểu và trân trọng những thứ chân thực ở cuộc sống.

   Từ những phát hiện ấy mà Nguyễn Minh Châu còn hé mở và gieo vào lòng người đọc những nội dung mang tính triết lý hơn qua cảnh người đàn ông bạo hành những đứa trẻ nhỏ. Đó là một vấn đề rất đáng được quan tâm và là chi tiết đắt giá của toàn bài. Vấn đề bạo lực gia đình dường như vẫn còn nhen nhóm trong lòng tác giả. Thông qua tác phẩm, Nguyễn Minh Châu cũng thể hiện thông điệp của cuộc sống. Tác giả lên án thói vũ phu, tàn bạo của người đàn ông và ca ngợi tình mẫu tử thiêng liêng, lên tiếng bảo vệ cuộc sống tương lai cho những đứa trẻ khi phải sống trong cảnh bạo lực.

Nghe bài văn mẫu phân tích Chiếc thuyền ngoài xa

>> Xem thêmCảm nhận về truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa

Phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa mẫu số 5

   Nguyễn Minh Châu là người mở đường tinh anh cho thời kì đổi mới. Cả đời ông cầm bút lúc nào cũng trăn trở về số phận của con người và trách nhiệm của người nghệ sĩ với những số phận ấy. Sau thập kỉ 80 với tài năng của mình Nguyễn Minh Châu đã trở thành một người tiên phong cho văn học thời kì đổi mới. Trong giai đoạn này ông khám phá con người trong cuộc đời mưu sinh và trong hành trình nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc. Tiêu biểu cho những kiếm tìm đề tài và trách nhiệm của người nghệ sĩ là tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa.

   Chiếc thuyền ngoài xa được viết vào tháng 8/1983, tác phẩm ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử xã hội đặc biệt. Cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc, đất nước thống nhất trong nền độc lập, nhiều vấn đề của cuộc sống trước đây do hoàn cảnh của chiến tranh chưa được đặt ra. Tác phẩm ra đời như một tất yếu khách quan, văn học phải đổi mới do những tác động của đời sống chính trị kinh tế văn hóa xã hội.

   Trước hết tác phẩm mở đầu bằng một bức tranh tuyệt đẹp với người nghệ sĩ Phùng. Đây là một tình huống truyện nhận thức mang tính khám phá mà qua đó ta thấy được biết bao nhiêu là điều trong cuộc sống này. Trong bộ lịch năm ấy cấp trên có giao cho Phùng đi chụp một bức ảnh thuyền và biển. Chính vì thế mà Phùng có cơ hội được đi thực tế tại vùng biển kia nơi có người bạn của mình ở đó. Khi đến đây anh bắt gặp một bức tranh tuyệt đẹp đó là hình ảnh của thuyền và biển trong sương sớm, nhưng trong bức tranh ấy Phùng lại tìm ra hai phát hiện.

   Phát hiện thứ nhất là khung cảnh thiên nhiên hoàn mĩ. Người nghệ sĩ Phùng phát hiện ra một vẻ đẹp trên mặt biển mờ sương, đó là bức tranh thuyền và biển khiến cho người nghệ sĩ cảm thấy may mắn và hạnh phúc khi được chứng kiến. Nó giống như “một bức tranh mực tàu của một họa sĩ thời cổ”, “Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe… chiếu vào”. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con đang dần tiến vào bờ.

   Toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến màu sắc ánh sáng đều hài hòa với nhau làm nên một vẻ đẹp toàn bích. Tác giả gọi đó là cảnh “đắt” trời cho, vẻ đẹp mà trong cuộc đời diễm phúc lắm may ra bắt gặp được một lần. Nghệ sĩ Phùng tự nhận ra rằng cái đẹp chính là đạo đức. Trước bức tranh mực tàu ấy Phùng cảm thấy bối rối, trong tim anh như có cái gì đang bóp chặt lấy. Đó là khoảnh khắc trong ngần của cuộc đời. Anh nhanh chóng nhấc máy ảnh lên và chụp lại khoảnh khắc ấy. Phải chăng cái đẹp đã thanh lọc tâm hồn anh?

   Thế nhưng cảnh càng đẹp bao nhiêu thì thực tế cuộc sống lại đen tối bấy nhiêu. Đó chính là phát hiện thứ hai của Phùng trước khung cảnh tuyệt vời ấy. Hiện thực nghiệt ngã của con người với số phận bất hạnh của những con người nơi đây đặc biệt là người đàn bà hàng chài hiện lên. Bước ra chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ ấy là người phụ nữ xấu xí và người đàn ông hung dữ. Chính khuôn mặt nét người của họ đã nói lên phần nào cái cuộc sống khổ cực mà họ phải chịu. Người đàn bà ấy mặt thì dỗ, quần áo thì bạc phếch như bao nhiêu sương gió nắng mưa của đất trời chiếu thẳng vào người đàn bà ấy vậy.

   Còn người đàn ông thì cũng chẳng hơn gì. Ông ta đi chân chữ bát và có vẻ rất hung dữ. Một cảnh tượng diễn ra khiến cho nghệ sĩ Phùng không thể nào tin vào mắt mình và cái cảnh đẹp kia bỗng chốc biến thành một hình ảnh vô cùng thậm tệ. Hai con người khổ sở ấy đi vào phía bãi xe tăng hỏng và thật bất ngờ trước cảnh tượng ấy. Người đàn ông rút thắt lưng ra đánh tới tấp vào mặt người đàn bà khốn khổ kia. Phùng như không tin vào mắt mình. Khi ấy một thằng bé tên Phác chính là con của hai người ấy nhảy lên đánh vào mặt bố mình. Nó thậm chí còn muốn giết ông ta. Thế rồi nó bị bố tát cho một cái và ông ta bỏ ra ngoài thuyền trước. Những giọt nước mắt của người đàn bà hàng chài nhỏ xuống lấp đầy những nốt dỗ chằng chịt kia.

   Với hai phát hiện ấy Phùng chợt nhận ra rằng cuộc đời không đơn giản xoay một chiều mà chứa nhiều nghịch lý ngang trái. Cuộc sống luôn tồn tại những mặt đối lập, đẹp và xấu, thiện và ác. Ở đây nhà văn khẳng định đừng nhầm lẫn hiện tượng với bản chất, hình thức bên ngoài với nội dung bên trong. Khi nhìn nhận đánh giá cuộc đời thì phải có cái nhìn đa chiều nhiều phía.

   Chứng kiến cảnh ấy Phùng về nói với người bạn mình và hăng hái muốn chính quyền địa phương giải quyết vấn đề cho người phụ nữ ấy. Phùng và Đẩu đều có ý tốt mong cho người phụ nữ ấy thoát khỏi người chồng vũ phu. Người đàn bà hàng chài đến tòa án huyện theo lời mời. Ban đầu chị tỏ ra rất sợ hãi khép nép sau khi nghe những phân tích và sự giúp đỡ của Đẩu thì chị bỗng bình tĩnh và thay đổi cách xưng hô không còn khép nép nữa mà nói ra những tâm sự những suy nghĩ của bản thân mình. Chính vì thế mà Đẩu và Phùng như mở ra cho mình biết bao nhiêu điều chưa biết trong cuộc sống này.

   Người đàn bà kể lại rằng cuộc đời mình trước kia cũng là một người con nhà khá giả thế nhưng sau một trận thủy đậu làm cho bà dỗ hết mặt không ai thèm lấy bà. Khi ấy ông chồng của bà lại là người làm vườn. Bố mẹ mất đi người đàn ông ấy đã cứu vớt cuộc đời của bà chính vì thế mà bà bị đánh đập nhưng cũng không nỡ bỏ người chồng đồng thời cũng là ân nhân của mình. Hiện giờ cuộc sống của bà khổ về cả vật chất lẫn tinh thần.

   Gia đình bà sống cùng nhau trên một con thuyền nhỏ. Con thuyền ấy vừa là phương tiện kiếm sống lại vừa chính là nhà của gia đình bà. Về tinh thần thì bà thường xuyên bị đánh đập, ba ngày một trận nhẹ năm ngày một trận nặng. Thế nhưng bà lại không hề chống trả lại chồng mình. Bà coi việc bị đánh là một chuyện đương nhiên. Khi nghe những lời khuyên của Đẩu và Phùng thì bà biết lòng tốt của họ nhưng bà không thể bỏ chồng được vì người chồng là chỗ dựa tinh thần lớn nhất của gia đình nhất là khi phong ba bão táp. Người đàn bà cần chồng vì còn phải nuôi những đứa con kia. Và hơn nữa trên thuyền cũng có những lúc gia đình hạnh phúc vui vẻ. Bà cho đẻ nhiều con là cái tội của mình.

   Từ đó cho thấy bà tuy là một người phụ nữ không học hành nhưng lại có một trái tim nhân hậu tiêu biểu cho nét đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam. Bà chấp nhận hi sinh để sống cho các con cho chồng mình, muốn để cho chồng được hả cơn giận, vả lại chính cuộc sống nghèo khổ kia đã làm người chồng như thế chứ ngày xưa ông ta vốn là một người rất hiền lành. Qua đó ta cũng thấy được cuộc sống làm cho con người ta thay đổi rất nhiều.

   Trước những lẽ ấy thoạt đầu Đẩu và Phùng nghiêm nghị thấy bất bình nhưng về sau thì như vỡ lẽ ra nhiều điều. Cuộc sống này không chỉ sống cho riêng mình hay nó vốn là cái mình nhìn thấy trên bề nổi mà nó là phần chìm bên trong câu chuyện kia. Đó mới là cái giá trị đích thực của cuộc sống này. Từ một người đàn bà nhút nhát sợ hãi người đàn bà trở nên sâu sắc làm cho hai người đành phải để người phụ nữ ấy về với gia đình mình.

    Câu chuyện kết thúc khi tấm lịch năm ấy trong bức tranh thuyền và biển Phùng lại thấy một màu hồng nhỏ trong bức ảnh đen trắng ấy. Phải chăng đó chính là người phụ nữ hàng chài kia, bà hiện lên với vẻ đẹp của một tâm hồn chịu thương chịu khó hi sinh cho con mình. Tóm lại qua phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu gửi đến cho người đọc thông điệp rằng phải nhìn mọi thứ theo đa chiều chứ không nên nhìn mọi thứ một phía. Đồng thời cần phải chống lại nạn bạo lực gia đình.

Tham khảo thêm tại doctailieu.com:

Phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa mẫu số 6:

    Nguyễn Minh Châu (1930 - 1989) là nhà văn quân đội. Ông là một trong những cây bút tiên phong của nền văn học Việt Nam thời kì đổi mới (cuối thế kỉ XX). Những tập truyện ngắn: "Người đàn bà trên chuyến tốc hành", "Bến quê", "Chiếc thuyền ngoài xa", "Cỏ lau",... đã thể hiện tài năng nghệ thuật đặc sắc, im đậm phong cách tự sự - triết lí của Nguyễn Minh Châu. Truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" được tác giả viết vào năm 1983, xuất bản năm 1987. Trong tác phẩm, nhà nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, chánh án Đẩu, người đàn bà thuyền chài mặt rỗ và thằng bé Phác là những nhân vật được tác giả khắc họa khá sắc sảo, để lại cho người đọc bao ấn tượng, bao ám ảnh về màu sắc lãng mạn của nghê thuật và sự thật trần trụi của đời thường.

    Nghệ sĩ Phùng đã "vác" máy ảnh trở lại vùng biển nơi chiến trường cũ của anh thời đánh Mĩ. Cảnh biển buổi sáng có sương mù mà anh "phục kích" mấy buổi sáng vẫn chưa tìm ra. Anh háo hức muốn thu vào tờ lịch tháng bảy năm sau cảnh thuyền đánh cá thu lưới vào lúc bình minh thì sáng nay anh đã gặp "hên" một cảnh "trời cho", có lẽ suốt một đời cầm máy chưa bao giờ dám mơ tưởng đến. Đó là cảnh "thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù màu trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Và bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi...".

    Trong ánh mắt của người nghệ sĩ, Phùng cảm thấy trước mặt mình là "một bức tranh mực tầu của một danh họa thời cổ". Bao mĩ cảm đã dâng lên dào dạt trong lòng, anh xúc động "bối rối", và trái tim của anh "như có cái gì bóp thắt vào". Đối diện với bức tranh "thật đẹp và toàn bích" ấy, nghệ sĩ Phùng cảm thấy vô cùng hạnh phúc, anh mới thấm thía "bản thân trong cái đẹp chính là đạo đức" như ai đó lần đầu đã phát hiện ra; trong giây phút bối rối đó, anh "vừa khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn". Cái đẹp và nghệ thuật đã thanh lọc tâm hồn người, làm cho hồn người trở nên thánh thiện.

    Và khi đã chạm tới gấu áo của vị thần nghệ thuật, Phùng đã bấm "liên thanh" một hồi hết một phần tư cuộn phim, thu vào chiếc Pra-ti-ca. Cái khoảnh khắc ấy đối với anh là vô cùng hạnh phúc, và anh đã "ngộ" ra - "hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại".

    Có một điều mà bạn đọc cần lưu ý, đó là nơi nhà nhiếp ảnh ngồi bấm máy. Chẳng phải Lầu Hoàng Hạc hay một chốn Bồng Lai mà chí là một bãi biển còn đầy tàn tích chiến tranh với bao xác xe tăng, xe rà phá mìn của công binh Mỹ thua chạy bỏ lại. Phùng ngồi bấm máy phải "rúc vào bên bánh xích của một chiếc xe tăng để tránh mưa". Chi tiết này cho thấy cảnh biển mù sương và con thuyền trong bình minh tuy có đẹp, nhưng cái đẹp ấy chưa trọn vẹn. Vết thương chiến tranh còn in hằn trên bãi biển và trong lòng ngư dân. Chỉ vì Phùng, với tâm hồn lãng mạn của người nghệ sĩ, anh mới thi vị hóa, thần tiên hóa hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa, để rồi sau đó, anh sẽ bị hẫng.

    Một tình huống đầy bi kịch đã xảy ra. Một cảnh đời ngang trái, quá phũ phàng và vô cùng tàn nhẫn đã diễn ra khi chiếc thuyền "đâm thẳng" vào bờ, vào ngay trước chỗ nhà nhiếp ảnh đứng. Phùng không chỉ nhìn thấy, được chứng kiến mà còn được tham dự vào những chuyện trớ trêu, đau lòng. Còn đâu nữa cái màu trắng, màu hồng của bức tranh "toàn bích" khi một người đàn ông và một người đàn bà rời thuyền lội qua một quãng bờ phá đi lên bãi cát. Một tiếng nói chõ như quát cất lên: "Cứ ngồi nguyên đấy, động đậy tao giết cả mày bây giờ". Người đàn bà ngoài bốn mươi tuổi, cao lớn, thô kệch, rỗ mặt, mệt mỏi, tái ngắt... Người đàn ông đi sau "lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền; mái tóc tổ quạ, chân chữ bát, lông mày cháy nắng, rủ xuống",... Lão đàn ông con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào cũng nhìn dán vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân ướt sũng của người đàn bà".

    Những gì xảy ra đã xảy ra sau đó. Bãi cát, nơi xác chiếc xe rà phá mìn đã trở thành nơi hành tội. Khi người đàn bà "đứng lại, ngước mắt nhìn ra ngoài mặt phá chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng" (có thể người mẹ nhìn mấy đứa con) thì một sự việc diễn ra vô cùng khủng khiếp! Lão đàn ông "trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay", hắn lồng lên như một con thú dữ. Lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, cái vũ khí thường ngày của kẻ gần như mất hết cả nhân tính, "quật tới tấp vào lưng người đàn bà". Hắn "vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két". Lão "trút cơn giận như lửa cháy" vào người đàn bà tội nghiệp, đáng thương. Lão nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: "Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ!". Mày và chúng mày mà lão nói đến là vợ con của lão.

    Thật kì lạ là người đàn bà khổ nạn ấy không kêu một tiếng, không chống trả, không trốn chạy mà "cam chịu đầy nhẫn nhục". Hình ảnh đau lòng đó đã làm cho nhà nghệ sĩ nhiếp ảnh "kinh ngạc", "đứng há mồm ra mà nhìn" trong mấy phút. Khi Phùng vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới thì có một thằng bé con giận dữ "như một viên đạn lao tới đích đã nhắm" lao thẳng vào cái lão đàn ông. Đứa bé với một sức mạnh ghê gớm đã giằng được chiếc thắt lưng, vung chiếc khóa sắt quật vào giữa ngực trần vạm vỡ cháy nắng có những đám lông đen loăn xoăn của lão đàn ông. Giằng không được cái dây thắt lưng da, lão ta dang thẳng cánh cho thằng bé hai tát khiến thằng bé ngã dúi xuống cát.

    Tiếng gọi: "Phác, con ơi!" của người mẹ tội nghiệp cất lên. Hình ảnh người đàn bà "ôm chầm lấy thằng bé, rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để rồi ôm chầm lấy... Và hình ảnh thằng nhỏ "lặng lẽ đưa ngón tay khẽ sờ trên khuôn mặt người mẹ" lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt, tất cả đã làm cho nhà nhiếp ảnh Phùng, cho mỗi chúng ta tê tái bàng hoàng. Đứa con đến để cứu mẹ, để ngăn chặn bàn tay của con người thú. Phùng "ngơ ngác nhìn" ra bờ phá khi người đàn bà buông đứa con ra, đi thật nhanh đuổi theo lão đàn ông vừa đánh mụ, rồi cả hai cùng đi về thuyền. Bãi cát hoang sơ mà mênh mông, tiếng sóng kêu ồ ồ cất lên. Bức ảnh thế sự ấy diễn ra "như trong truyện cổ quái đản", chiếc thuyền vó đã biến mất, chắc đã làm cho cách nghĩ, tâm nhìn và cảm quan nghệ thuật của nghệ sĩ Phùng thay đổi? Bức ảnh thế sự trần trụi ấy đã được Nguyễn Minh Châu kí họa, đã được nhà nhiếp ảnh Phùng mục kích và bấm máy thật giàu ý nghĩa. Nghệ thuật hướng về cái đẹp, nhưng không thể là sự lừa dối. Lãng mạn hóa cuộc đời, bôi hồng tô son hiện thực cuộc đời là vô nghĩa khi cuộc đời còn nhiều mồ hôi và nước mắt!

    Với Phùng có thể coi đây là một chuyến đi nhiều ý nghĩa: chiếc thuyền nghê thuật thì ở ngoài xa, ẩn hiện trong sương mù, còn sự thật cuộc đời thì lại trần trụi, ờ rất gần ngay trước mắt. Qua đó, ta càng thấy rõ chân lí cuộc đời có lúc, có nơi không phải là chân lí nghệ thuật. Nguyễn Minh Châu qua "Chiếc thuyền ngoài xa" đã nêu lên bài học về cái nhìn đa diện, cái nhìn khám phá trong sáng tạo nghệ thuật đối với nhà nghệ sĩ chân chính giàu bản lĩnh.

    Câu chuyện người đàn bà làng chài ở trụ sở tòa án huyện đã lí giải cho Phùng và Đẩu, đã giúp chúng ta hiểu rõ sự thật trần trụi trước mọi bi kịch bạo hành trong gia đình, hiểu sâu hơn tấm lòng và tâm lí của người phụ nữ trong nỗi éo le cuộc đời.

    Người đàn bà mặt rỗ lúc đầu chỉ dám ngồi ở góc tường, khi được Đẩu mời, mụ mới "rón rén" đến ngồi vào mép chiếc ghế và cố thu người lại. Khi nghe vị Chánh án nói, mụ ngước lên nhìn rồi lại "cúi mặt xuống". Có lẽ lần đầu đến cơ quan nhà nước, mụ mới sợ như vậy. Mụ chắp tay vái lia lịa Đẩu và xưng là: "Con lạy quý tòa...". Mụ nhấp nhổm xoay mình như bị kiến đốt! Nghe mụ van xin mà xót xa: "Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó...". Sống với một kẻ vũ phu, "ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng" thế mà mụ vẫn van xin quý tòa "đừng bắt con bỏ nó". Chánh án Đẩu làm sao hiểu được nỗi éo le đó. Nhà nhiếp ảnh Phùng thì cảm thấy "ngột ngạt quá!".

    Khi nghe vị chánh án gọi bằng bà, và nói rõ chủ trương của toà án là kêu gọi hoà thuận, chị ta "ngơ ngác" nhìn Đẩu, nhìn Phùng, chị ta thay đổi cách xưng hô, tự xưng là chị, gọi Đẩu và Phùng là chú rất khẩn thiết, rất chân thành.

    Mụ kể về thời con gái của mình, mụ tâm sự về chuyện lấy chồng của mình: mặt rỗ, xấu gái, không ai lấy, rồi có mang với anh con trai... "lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi".

    Mụ kể chuyện từ ngày cách mạng về đỡ khổ, chứ trước đây những lần động biển, vợ chồng con cái toàn ăn xương rồng luộc chấm muối suốt hàng tháng trời. Chị ta than thở gia cảnh nghèo, thuyền quá nhỏ... Đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá; đàn ông ở thuyền hoặc uống rượu hoặc đánh vợ, bất kể lúc nào, hễ thấy khổ quá là xách vợ ra đánh. Chị ta cho biết nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông, nhất là những khi biển động sóng gió để chèo chống.

    "Ông trời sinh ra đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn, cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở đất được...". Chị cho biết chồng chị ngày trước cũng trốn đi lính ngụy. Chị cũng có niềm vui là khi vợ chồng con cái "sống hòa thuận vui vẻ", "vui nhất là ngồi nhìn đàn con được ăn no",...

    Sự nhẫn nhục, đức hi sinh của người đàn bà mặt rỗ thật bao la. Chị ta cam chịu khi bị chồng đánh. Chị ta chỉ xin chồng đừng đánh mình trước mặt đàn con. Chị ta sợ đứa con trai tên là Phác làm điều gì dại dột đối với bố nó nên phải gửi nó lên rừng ở với ông ngoại. Chị ta đã khóc khi nghe Phùng nhắc đến tên thằng Phác.

    Chỉ qua những lời giãi bày chân thật đó, ta mới có thể hiểu được nỗi khổ, sự cam chịu nhẫn nhục, đức hi sinh thầm lặng, tình thương con mênh mông của người đàn bà làng chài đáng thương; ta mới thấu hiểu được cái căn nguyên sâu xa của tệ nạn bạo lực trong các gia đình nghèo cực. Nếu hiểu sự việc một cách đơn giản, chỉ cần yêu cầu, chỉ kí quyết định bắt người đàn bà mặt rỗ bỏ chồng là xong. Nhưng nếu nhìn chuyện đời một cách thấu suốt, rất nhân tính, rất đời, thì ta sẽ thấy cách nghĩ, cách sống, cách xử sự của người vợ, người mẹ ở trong truyện là không thể khác được.

    Biết được đáy vực nông, sâu đã là khó. Biết được lòng người xấu, tốt, biết được nỗi lòng, nỗi đời, cảnh ngộ của con người đâu dễ! Qua câu chuyện người đàn bà ở tòa án huyện, ta càng thấy rõ: không thể đơn giản, dễ dãi khi nhìn người, nhìn đời, khi đánh giá hiện tượng trong xã hội, trong cuộc sống. Không thể hấp tấp vội vàng. Nếu thiên kiến, định kiến, duy ý chí là sai, có lòng tốt, ý định tốt chưa đủ mà phải suy xét, cân nhắc vừa có tình vừa có lí, vừa được việc vừa được người.

    Truyện "Chiếc thuyền ngoài xa" có nhiều tình huống rất bất ngờ hấp dẫn. Mỗi một tình huống xuất hiện, tính kịch của câu chuyện lại được nâng cao, được khắc sâu. Nhà nhiếp ảnh Phùng lúc đầu phát hiện ra hình ảnh chiếc thuyền chài hiện ra trong sương mù và đã bấm máy "liên thanh" hết một phần tư cuộn phim và ngây ngất trước cái đẹp của ngoại cảnh là một tình huống thơ mộng. Chuyện người đàn ông chân chữ bát dùng dây thắt lưng lính ngụy đánh mụ vợ mặt rỗ và thằng Phác đánh lại bố hắn để bảo vệ người mẹ thương yêu là một tình huống bất ngờ diễn ra trước mắt Phùng làm cho tính bi kịch đầy nước mắt.

    Chuyện lão thuyền chài lại đánh vợ, đánh bị thương Phùng - kẻ dám đến can ngăn; chuyện chị gái cướp lấy con dao mà thằng em trai định dùng làm vũ khí để bảo vệ người mẹ tội nghiệp, đều là tình huống cực kì cay đắng, dữ dội. Câu chuyện của người đàn bà mặt rỗ kể ở cơ quan toà án huyện... là tình huống nói về sự éo le của cuộc đời, về thân phận tủi nhục đắng cay của người đàn bà nghèo, đông con ở làng chài.

    Qua các tình huống đó, nhà nghệ sĩ Phùng mới thấm thía rằng: nghệ thuật không thể lãng mạn hóa, thi vị hoá cuộc đời khi cuộc đời còn đầy ngang trái. Chánh án Đẩu mới thấu hiểu tòa án không chỉ để thực thi công lí, pháp luật mà con phải soi sáng lòng dân, tình dân. Và mỗi chúng ta mới hiểu: cuộc sống đã và đang diễn ra là vô cùng phức tạp, không thể đơn giản hoặc chỉ nhìn một chiều, một phía, một cạnh.

    Tính tình huống đã làm cho truyện "Chiếc thuyền ngoài xa" vừa chân thực, vừa mang giá trị nhân bản sâu sắc. Phải chăng cuộc đời lam lũ nghèo khổ, nheo nhóc, sự tối tăm ngu dốt... là một trong những nguyên nhân gây ra nạn bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em trong một số gia đình Việt Nam lâu nay? Phải chăng Nguyễn Minh Châu đã kín đáo nói về một căn nguyên đầy nước mắt mà thi hào Nguyễn Du đã viết trong "Văn chiêu hồn" hơn hai thế kỉ trước:

"Đau đớn thay phận đàn bà,

Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?"

Phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa mẫu số 7:

Tác phẩm của Nguyễn Minh Châu được đánh giá mang tính chất tự sự và triết lí. Mỗi tác phẩm ông biêt lên luôn nhằm khám phá, phát hiện ra muôn van vẻ đẹp của cuộc sống. Chiếc thuyền ngoài xa là một trong những tác phẩm xuất sắc của họ, được viết năm 1983, khắc họa cái lãng mạn của nghệ thuật và sự trần trụi của hiện thực đời thường.

   Nhận được yêu cầu của thủ trường, Phùng đã mang máy ảnh về vùng chiến trường cũ, chụp một bức tranh kiệt tác để hoàn thành bộ lịch năm nay. Và trong lần ấy người nghệ sĩ đã chiêm nghiệm được biết bao chuyện, biết bao điều trong cuộc sống đầy những lo toan, vất vả này.

   Sau những ngày chật vật, quả thực hôm đó người nghệ sĩ Phùng đã gặp vận may hiếm có, cảnh đẹp trời cho hiện ngay trước mặt Phùng. Anh không chần chừ, vội vàng lôi máy ra tác nghiệp, khung cảnh trước mắt hiện ra vô cùng diệu kì: “thuyền in một nét mơ hồn lòe nhòe vào bầu sương mù màu trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Và bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi…”. Đây quả là bức tranh mực tàu của danh họa thời cổ. Trái tim anh dường như bị bóp nghẹn, bối rối không nói thành lời trước cái đẹp của thiên nhiên, tạo hóa. Lúc bấy giờ anh mới cảm thấm được “cái đẹp chính là đạo đức”. Cái đẹp và nghệ thuật đã thanh lọc tâm hồn con người, giúp tâm hồn con người ta trở nên thánh thiện hơn. Nhưng chúng ta cũng cần chú ý đến một chi tiết, đó là vị trí khi Phùng chụp ảnh vẫn còn ngổn ngang những tàn dư của chiến tranh để lại. Có phải chỉ vi đôi mắt thi vị hóa lãng mạn hóa của một người nghệ sĩ mới khiến Phùng cảm nhận được khung cảnh “trời ban kia”. Đồng thời, cũng chính bởi vậy, sau này khi phát hiện ra sự thật Phùng đã hụt hẫng biết nhường nào.

   Đằng sau bức tranh toàn bích kia lại là một hiện thức làm người ta nhói lòng. Trong cảnh thanh tĩnh là tiếng gầm ghè, đầy phẫn nộ “cứ ngồi nguyên đây, động đậy tao giết cả mày đi bây giờ” rồi hình ảnh người đàn bà dần dần lộ diện, to lớn, thô kệch đi sau người đàn ông hung ác, độc dữ. Những gì xảy ra sau đó làm cho Phùng quá đỗi bất ngờ và choáng váng. Người đàn ông rút chiếc thắt lưng, vừa quật tới tấp vào người đàn bà. Nhưng kì lạ thay người phụ nữ đó không hề kêu than lấy một tiếng, Điều đó làm Phùng “há mồm mà nhìn” vô cùng “kinh ngạc”. Sau nỗi kinh ngạc, Phùng vứt chiếc máy ảnh xuống vội vàng can ngăn. Thì chính lúc này, một cái bóng nhỏ con lao vụt đến, nhắm thằng vào ngời đàn ông.

   Người mẹ tội nghiệp, gọi tên đứa con “ôm chầm lấy thằng bé, rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để rồi lại ôm chầm lấy…”, khiến người đọc không khỏi xót thương, xúc động. Tất cả những hình ảnh đó làm Phùng bang hoàng, đau đớn. Rất nhanh gia đình nọ rời đi, khung cảnh trở về cảnh thanh tĩnh như nó vốn có. Với Phùng đây có lẽ là một chuyến đi nhiều ý nghĩa: “chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, ẩn hiện trong sương mù, còn sự thật cuộc đời thì trần trụi, ở ngay trước mắt”. Phùng đau đớn vì trước nay cái nhìn của mình quá giản đơn, xuôi chiều, mà hiện thực cuộc sống lại vô cùng đa đoan, phức tạp.

   Lần tiếp theo Phùng và người đàn bà hàng chài gặp lại nhau chính là ở trụ sở tòa án huyện. Và lần này cả Phùng và Đầu đều có những chiêm nghiệm riêng cho mình về con người và cuộc đời. Người đàn bà lúc này ngồi sâu nơi góc tường, cố thu mình lại, dáng vẻ vô cùng sợ sệt. Có lẽ đây là lần đầu tiên người đàn bà này đến cơ quan công quyền của nhà nước. Mụ phủ phục, lạy lấy lạy để vô cùng đáng thương: “con lấy quý tòa” “quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt bỏ nó”. Vì sao vậy? Vì sao mụ lại xin tha cho một kẻ độc ác, nhẫn tâm đánh ba ngày một trận nhẹ, bảy ngày một trận nặng. Nào Phùng và Đẩu có thể hiểu được. Sau những bỡ ngỡ ban đầu, người đàn bà có vẻ đã quen hơn, chị tâm sự về cuộc đời mình, về việc không ai lấy, tâm sự về người chồng hiện tại: “lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”. Rồi bà lí giải nguyên nhân vì sao chồng mình lại sinh ra tính như vậy. Bởi vì cảnh nghèo, bởi vì khổ quá, nên đàn ông trên thuyền chỉ biết hoặc uống rượu, hoặc đánh vợ mỗi khi cam thấy khổ quá. Bởi, trên vai người đàn ông đó phải gánh vác biết bao trách nhiệm, nhất là những lúc biển động: “ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn, cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được…”. Đó là lí do vì sao dù bị chồng đánh chị vẫn cam tâm tình nguyện, vẫn xin tha cho hắn. Bởi ngoài những lúc bị đánh đập qua, cuộc sống hòa thuận, nhìn đám con được ăn no chị cũng cảm thấy vô cùng vui lòng,…

Chỉ qua những lời chia sẻ hết sức ngắn gọn của chị ta có thể thấu hiểu được nỗi thống khổ, sự cam chịu, nhẫn nhục trong người phụ nữ này. Tình mẫu tử thiêng liêng đã khiến chị sẵn sàng hi sinh mọi thứ để con được sống, được ăn no. Đồng thời cũng giúp ta thêm hiểu căn nguyên của tình trạng bạo lực trong những gia đình nghèo khổ.

   Quả thực qua câu chuyện của người đàn bà hàng chài ta lại càng thấy rõ hơn không chỉ thể đánh giá một con người, một sự việc qua vẻ bề ngoài của nó. Sự việc, con người vốn nông sâu khôn lường, nếu không truy nguyên, không lắng lòng để nghe thì cả đời này chúng ta chỉ là những kẻ hời hợt, đi đánh giá mọi chuyện bằng con mắt thời ơ.

   Tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm này phải kể đến nghệ thuật tạo dựng tình huống bất ngờ, hấp dẫn. Nhà nhiếp ảnh phát hiện khoảnh khắc trời cho, nhưng đằng sau đó lại là cảnh bạo lực tàn nhẫn. Cho người đàn bà đến để nói chuyện, để phân tích lí giải nhưng nào ngờ chính Phùng và Đẩu lại được người phụ nữ tưởng như thô kệch ấy làm cho “sáng mắt”. Giúp họ hiểu hơn những quanh co, uẩn khúc trong cuộc đời, từ đó có những nhận xét đánh giá đứng đắn trước bất cứ sự việc, hiện tượng nào.

   Với tình huống truyện đặc sắc, chân thực Chiếc thuyền ngoài xa mang giá trị nhân đạo và nhân bản sâu sắc. Cuộc đời này gồm cả rồng phượng, gồm cả đúng sai, tốt xấu. Bởi vậy khi đnahs giá bất cứ điều gì cũng không nên hời hợt. Cuộc sống này vô cùng phức tạp, để hiểu nó cần phải soi ngắm từ nhiều phía, nhiều góc cạnh. Bài học cho Phùng và Đầu cũng chính là những gì Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm đến các thế hệ bạn đọc.

Phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa mẫu số 8:

Nguyễn Minh Châu: “Là một trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học”. Trước cách mạng sáng tác của ông thiên về khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, sau cách mạng bằng sự tìm tòi, đổi mới, ngòi bút của ông hướng hẳn vào những vấn đề thế sự, đời tư, đi sâu vào cuộc sống của con ngươi. Chiếc thuyền ngoài xa khai thác sâu sắc số phận cá nhân và thân phận con người trong cuộc sống muôn mặt đời thường. Tác phẩm mang đặc trưng phong cách sáng tác của ông sau cách mạng.

    Mở đầu tác phẩm là một khung cảnh tuyệt mĩ, là cảnh đắt trời cho với chiếc thuyền mơ mộng, thanh bình trong khung cảnh bầu trời sương lãng đãng, lại pha chút hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Cùng với đó là vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im như tượng trên chiếc mui khum khum đang hướng mặt vào bờ. Quả thực đây là bức họa kì diệu, mĩ lệ mà tạo hóa đã ban tặng cho con người. Khung cảnh này là khung cảnh mà bất cứ người nghệ sĩ nào cũng mong muốn bắt gặp một lần trong đời làm nghệ thuật của mình. Trước khung cảnh ấy, sao người nghệ sĩ có thể không rung động, Phùng cảm thấy tâm hồn mình được thanh lọc, gột rửa và một niềm hạnh phúc trào dâng trong lòng. Phùng vừa hoàn thành nhiệm vụ mà cấp trên giao cho, nhưng hơn cả là Phùng đã tìm thấy tuyệt tác nghệ thuật.

    Nhưng đằng sau bức tranh tuyệt đẹp đó là sự thật đau lòng đến đáng kinh ngạc. Hiện thực trần trụi mở ra trước mắt Phùng, người đàn bà xấu xí, mặt rỗ, đi sau là người đàn ông cao lớn, dữ dằn, tấm lưng rộng và cong như lưng của một chiếc thuyền… Thì ra đằng sau cái đẹp tuyệt mĩ mà Phùng vừa mới phát hiện lại là khung cảnh vô cùng tàn nhẫn, nơi mà bạo lực gia đình diễn ra hết sức khủng khiếp. Người đàn bà cam chịu, nhẫn nhục lẳng lặng đi trước, còn người đàn ông đi phía sau, không nói một lời, nhưng bỗng nhiên trở nên hùng hổ, mặt mũi đỏ gay dùng ngay chiếc thắt lưng vụt tới tấp vào người vợ. Trước khung cảnh ấy người nghệ sĩ Phùng“kinh ngạc đến thẫn thờ”, “mấy phút đầu cứ đứng há mồm ra mà nhìn”, “chết lặng”… Khung cảnh ấy đã cho nghệ sĩ Phùng nhận thức đầy đủ và chân thực hơn về cuộc sống: cuộc sống vốn không đơn giản, xuôi chiều mà chứa đựng rất nhiều nghịch lí, trong cuộc sống luôn tồn tại cả xấu – tốt, đúng – sai, rồng phượng, rắn rết. Bởi vậy, khi nhìn nhận bất cứ vấn đề nào cũng phải nhìn sâu, nhìn kĩ, đừng vội vã đánh giá sự vật hiện tượng qua vẻ bề ngoài của nó.

    Nếu như đầu tác phẩm người đàn bà hàng chài mới chỉ hiện lên ở những nét vẽ hết sức sơ xài, thì trong cuộc gặp gỡ ở toàn án huyện chân dung và số phận của chị đã được thể hiện rõ nét hơn. Người đàn bà hàng chài xuất hiện tại tòa án huyện là do anh đã vào can ngăn người chồng đánh lại chị. Tuy nhiên anh đã bị thương, sau lần đó, anh quyết định nhờ đến sự can thiếp của Đẩu – người đại diện cho công lí, pháp luật để giúp đỡ người phụ nữ khốn khổ này.

    Người đàn bà chạc ngoài bốn mươi tuổi, thân hình thô kệch, cao lớn, khuôn mặt xấu xí, lại bị rỗ mặt do một trận ốm. Người đàn bà xuất hiện trong tư thế sợ sệt, lúng túng, vì vốn quen với môi trường sông nước, lạ lẫm khi bước vào căn phòng toàn bàn ghế, giấy tờ…. Chị ngồi thu mình ở mép ghế, lo lắng, sợ hãi. Chị sợ sự xuất hiện của mình gây phiền hà, vướng víu cho người khác. Trên gương mặt chị không biểu lộ bất cứ điều gì, bình yên và phẳng lặng, nếu ta không có tìm hiểu có lẽ sẽ không bao giờ biết hết được về người đàn bà này.

    Thật nhẹ nhàng và bình thản chị kể về câu chuyện cuộc đời mình. Chị vốn được sinh ra trong một gia đình khá giả ở phố buôn bán những vật dụng phục vụ nghề chài lưới nhưng lại không được ưu ái về nhan sắc, sau một trận đậu mùa mặt bị rỗ chằng chịt. Chị gặp gỡ và lấy được người chồng hiện tại. Cuộc sống gia đình bắt đầu rơi vào bi kịch khi họ sinh nhiều con, cuộc sống trên thuyền chật chội, bấp bênh, họ rơi vào cảnh cùng túng, quẫn bách. Anh chồng vốn hiền lành trở nên cục cằn, dữ dằn, thường lôi chị ra đánh. Chị chính là nạn nhân của bạo lực gia đình.

Nhưng đằng sau vẻ ngoài xấu xí ấy, còn là một người có nội tâm sâu sắc, một tâm hồn đẹp, nhân hậu. Trước hết người đàn bà hàng chài là một người thấu hiểu sâu sắc lẽ đời. Chị không muốn bỏ chồng vì thứ nhất chị làm nghệ hàng chài, trên một chiếc thuyền của gia đình thì không thể thiếu vai trò của người đàn ông, nhất là khi biển động. Thứ hai một mình chị không thể gồng hành gánh nặng mưu sinh cho chín mười người con. Đối với chị hạnh phúc là khi được nhìn chúng ăn no. Thứ ba, cũng có đôi lúc trên thuyền vợ chồng chị cùng con cái quây quần, hạnh phúc, dù ít ỏi những nó cũng phần nào xoa dịu nỗi đau về thể xác sau mỗi lần bị chồng đánh.

    Không chỉ vậy, chị còn là người có tấm lòng nhân hậu, bao dung. Tất cả mọi người đều đề xuất giải pháp từ chối, tẩy chay gã đàn ông, riêng chị thì không. Chị sẵn sàng đứng im chịu trận, không chống trả, không bỏ chạy. Rất thấu hiểu chồng, thông cảm cho chồng. Và đẹp đẽ nhất chính là đức hi sinh, tình yêu thương con sâu sắc. Chị sẵn sàng chịu những trận đòi ròn của chồng để đàn con được ăn no, ngủ yên. Lo thằng Phác sẽ có những hành động sai trái, chị gửi nó lên ở với ông ngoại, để nó không nhìn thấy bố đánh mẹ, để nó khỏi đau lòng và không có những hành động trái với luân thường đạo lí. Đối với chị niềm vui, niềm hạnh phúc rất đơn giản, là khi gia đình hòa thuận, khi nhìn thấy lũ trẻ được ăn no. Chị yêu con, thương con, mong con khôn lớn nhưng không thể bảo vệ được tâm hồn của các con. Người đàn bà hàng chìa hiện ra là hình ảnh đại diện cho những con người vô danh, nghèo khổ, lam lũ nhưng lại có vẻ đẹp tâm hồn đáng quý khiến họ trở nên không hề nhỏ bé mà là hiện thân của những gì đẹp đẽ nhất.

    Bên cạnh người đàn bà hàng chài, ta cũng không thể không nhắc đến Phùng, một người nghệ sĩ tài hoa, nhạy cảm trước cái đẹp. Khi phát hiện ra cảnh đắt trời cho, trong lòng anh xúc cảm trào dâng: rung động, tâm hồn được thanh lọc, hạnh phúc tràn ngập tâm hồn, lôi máy ảnh ra bấm liên thanh…

    Không chỉ vậy anh còn là người có trách nhiệm, có tấm lòng với cuộc đời và con người. Khi chứng kiến cảnh bạo hành, anh sẵn sàng vứt chiếc máy ảnh xuống để giúp đỡ người phụ nữ tội nghiệp. Lần thứ hai can thiệp anh đã bị thương và vì vẫn còn lo lắng cho người phụ nữ kia anh đã nhờ đến sự giúp đỡ của chánh tòa án huyện. Ngoài ra, anh còn là người nghệ sĩ luôn trăn trở với thiên chức nghề nghiệp của mình. Anh phát hiện ra cái đẹp tuyệt mĩ, nhưng đằng sau cái đẹp lại là cái xấu, là hiện thực trần trụi. Chiếc thuyền ngoài xa chính là hình ảnh cuộc đời khi nhìn ở xa, khi quan sát với cái nhìn hời hợt. Bởi vậy, cần nhìn nhận con người, sự việc thấu đáo, toàn diện. Cùng với đó là bức tranh xuất hiện cuối tác phẩm, đem đến cho người nghệ sĩ Phùng một chiêm nghiệm khác chính là nghệ thuật phải gắn liền với cuộc sống, không được xa rời cuộc sống và phải quay trở về để phục vụ cuộc sống.

    Với sự cách tân đổi mới trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật Nguyễn Minh Châu đã tạo nên tác phẩm xuất sắc. Không lấy những người hùng làm nhân vật trung tâm mà đi sâu tìm tòi, phát hiện vẻ đẹp ở những con người bình thường. Tác phẩm cũng là những đúc kết thấu đáo về nghệ thuật và con người: về con người, phải nhìn nhận đa chiều, đa diện, không nên đánh giá phiến diện, một chiều; về nghệ thuật: nghệ thuật chân chính phải gắn liền với cuộc đời, xuất phát từ cuộc đời và quay trở lại phục vụ cho cuộc đời.

Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa mẫu số 9:

    Với Nguyễn Minh Châu, nhà văn tồn tại ở đời là để nâng giấc cho những con người cùng đường, tuyệt lộ, những người bị cái ác và sự xui rủi dồn đến chân tường tuyệt vọng, để bênh vực cho những con người không có ai bênh vực. Niềm khát khao bênh vực, bảo vệ những con người bị chà đạp, đày đọa hắt hủi như thế cùng với tấm lòng thiết tha truy tìm những vẻ đẹp tiềm ẩn sâu tận đáy tâm hồn của mỗi con người, đã trở thành nguồn sáng giúp Nguyễn Minh Châu viết nên tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, một trong những tác phẩm kiệt tác của nền văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới.

    Tác phẩm chứa đựng những giá trị nhân văn, những triết lý sâu sắc về đời người bằng ánh nhìn đa diện nhiều chiều của tác giả, về mối liên quan chỉ cách nhau một ranh giới thật mỏng manh là hiện thực cuộc đời và nghệ thuật.

    Nguyễn Minh Châu nổi tiếng với nhiều tác phẩm như Bến quê, Chiếc thuyền ngoài xa, Cỏ lau,… nhà văn Nguyễn Trung Thành từng ca ngợi “Nguyễn Minh Châu thuộc vào trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng” nhất của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới. Suốt cuộc đời cầm bút, ông luôn trăn trở, tìm tòi cái hạt ngọc quý vẫn ẩn giấu trong tâm hồn của mỗi con người bình thường nhất.

    Chiếc thuyền ngoài xa ra đời tháng 8/1983, in trong tập Bến quê (1985), sau trở thành nhan đề chung cho tập Chiếc thuyền ngoài xa. Tác phẩm là câu chuyện về chuyến công tác xa của một nhiếp ảnh tên Phùng, sau chuyến công tác ấy anh đã nhận ra những quan niệm mới mẻ về nghệ thuật, về cái đẹp và về đời người đầy những vết nham nhở, sần sùi.

    "Chiếc thuyền ngoài xa" bắt đầu bằng một cốt truyện độc đáo và bất ngờ, nếu nói mạch cảm xúc và cấu tứ là cái để người ta vịn vào tìm hiểu nội dung của một văn bản thơ, thì tình huống truyện chính là một khởi điểm chắc chắn để khai thác, tìm tòi những cái đặc sắc của một tác phẩm văn xuôi.

    Đó là những sự kiện éo le, bất ngờ, khác lạ để mở ra một câu chuyện dài ở phía sau, mà theo như ý của Nguyễn Minh Châu thì tình huống truyện là “cái tình thế mà ở đó sự sống hiện ra một cách đậm đặc, cái khoảnh khắc chứa đựng cả một đời người”. Từ tình huống truyện tính cách, số phận của nhân vật được gợi mở, cũng từ tình huống truyện mà chủ đề cũng như những giá trị mà tác giả xây dựng được hé lộ một cách tinh tế và độc đáo.

    Trong chuyến công tác dài ngày, sau nhiều buổi sáng “phục kích” tại bãi biển thì cuối cùng may mắn cũng đã đến với nhiếp ảnh gia là Phùng, một “cảnh đắt trời cho” đã xuất hiện ngay trước mắt mà có lẽ suốt cả cuộc đời cầm máy ảnh anh chưa từng được thấy bao giờ, đó là một cảnh được ví như là “bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”. Phùng sướng điên người, đến mức giơ máy ảnh lên bấm “liên thanh” hết cả một phần tư cuốn phim.

    Cảnh chiếc thuyền lưới vó cập bến, dưới cái ánh nắng “hồng hồng” tờ mờ hơi sương quả thực là tuyệt mỹ, khiến người ta lặng người, tim thắt chặt lại bởi cái sự “đơn giản và toàn bích”. Như vậy phát hiện thứ nhất của Phùng chính là “khám phá ra cái chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”, rằng vẻ đẹp của nghệ thuật là đạo đức.

    Nhưng những tưởng một cảnh đẹp ấy sẽ là mãi mãi không có một tỳ vết thì phát hiện thứ hai của Phùng lại dường như lật ngược lại vẻ toàn mỹ, phá tan đi cái sự toàn bích, toàn thiện, phá tan đi cái “im phăng phắc” của một buổi sớm mai đẹp đẽ bình yên. Một người đàn bà thô kệch, lam lũ lững thững bước ra từ “bức tranh mực tàu”, một người đàn ông thô lỗ, cục súc bước theo sau kèm theo tiếng quát dọa “giết” thật đáng sợ.

    Cảnh bạo lực gia đình diễn ra ngay trước mắt Phùng người đàn ông thẳng tay quất chiếc thắt lưng vào lưng người đàn bà, hắn ta vừa đánh điên cuồng vừa thốt những lời nguyền rủa độc địa “Mày chết đi cho ông nhờ! Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Không có một sự chống trả, người đàn bà lặng im chịu đựng trận đòn roi, không chạy trốn, dường như đã chai sạn, chán chường và nhẫn nhục.

    Phùng chết sững bởi chỉ mới trước đó thôi những con người ấy còn đóng một vai trong cái cảnh toàn bích, hoàn mỹ, mà trước mắt bây giờ lại là hiện thực tàn nhẫn, điều ấy như giáng một cái tát đau điếng vào tâm hồn của người nghệ sĩ yêu cái đẹp. Với tâm hồn lương thiện và đạo đức của một con người Phùng quăng ngay máy ảnh, định lao vào can ngăn cái cảnh khốn nạn kia, thế nhưng bất ngờ hơn khi đứa con trai của họ đã lao vào giằng lấy thắt lưng của người bố đánh trả để bảo vệ mẹ, lão đàn ông cho nó một cái tát như trời giáng, rồi bỏ đi.

    Ôi! Chuyện gì đang diễn ra giữa một buổi sáng thế này, Phùng bàng hoàng, Phùng sốc trước cảnh chồng đánh vợ, con đánh bố, rồi bố đánh con, thật hỗn loạn, phá nát hết cái vẻ đẹp tuyệt mĩ mà anh vừa mới nhận ra. Lúc này đây anh mới vỡ lẽ hóa ra ranh giới giữa cái vẻ đẹp toàn mỹ, toàn bích và sự thật nghiệt ngã xấu xa của cuộc sống chỉ cách nhau một bức màn mỏng manh, chúng chẳng thể chịu được sự tàn phá của hiện thực cuộc đời đầy xấu xí.

    Hiện thực và nghịch lý cuộc sống hầu như thể hiện một cách rõ nét trên hình ảnh người đàn bà hàng chài, chị là hiện thân cho nỗi khốn khổ, nhọc nhằn của những người phụ nữ miền biển của nước ta sau ngày đất nước giải phóng không lâu. Cuộc đời người phụ nữ nào phải nói là quá bất hạnh khi phải gánh trên lưng ba nỗi khổ lớn, thứ nhất là ngoại hình xấu xí, dáng dấp cao lớn, “đường nét thô kệch”, khuôn mặt lại chằng chịt những nốt rỗ sau một trận đậu mùa thời nhỏ, nét mặt thì nhợt nhạt vì thức đêm nhiều, lại phải lao động vất vả cả đêm.

    Bà vốn xuất thân khá giả nhưng khốn nỗi vì quá xấu nên không ai lấy, bởi vậy nên việc xấu xí đã là một bất hạnh to lớn trong cuộc đời người phụ nữ. Sau khi lấy chồng, sinh con thì chị lại tiếp tục mang trên vai nỗi khổ nghèo túng, nhà đông con thuyền thì nhỏ, cuộc sống quá đỗi vất vả, nhọc nhằn, đến nỗi có những ngày đằng đẵng phải ăn cả xương rồng luộc chấm muối.

    Cái nghèo đã hành hạ thể xác, còn hành hạ cả về tâm hồn của người phụ nữ này khi phải lo toan bộn bề cuộc sống. Sống vốn đã vất vả chị còn có nhiều con, mang nặng đẻ đau tới trên dưới mười đứa con tất cả, càng đẻ, cuộc sống càng khó khăn càng đè nặng trên đôi vai của chị, cuộc sống càng thêm túng quẫn. Đó là một cái vòng luẩn quẩn không lối thoát.

    Nghèo đói, đông con đã gần như làm đôi vai người đàn bà ấy sụp xuống thế nhưng chị vẫn phải tiếp tục chịu đựng sự vũ phu với những cơn đòn “ban ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” từ người chồng. Điều ấy không những đem lại đau đớn vô hạn về thể xác mà còn gây tổn thương sâu sắc đến tâm hồn của người đàn bà làng chài, khi bị người đầu ấp tay gối hằng ngày đánh đập, chì chiết. Và hơn cả là nỗi lo lắng về sự mất niềm tin, về những sang chấn tâm lý mà những đứa con nhỏ của chị phải gánh chịu, chị sợ chúng nó bị tổn thương ám ảnh về những kỷ niệm ấy thơ tàn nhẫn mà bố gây ra cho mẹ chúng nó.

    Phùng chứng kiến cái cảnh khốn khổ của người phụ nữ bất hạnh, nhiều lần khuyên chị ly hôn để giải thoát khỏi cái gã chồng vũ phu, nhưng chị một hai không đồng ý. Bề ngoài chắc có nhiều người lắc đầu vì sự cố chấp của người đàn bà ấy, nhưng mấy ai có thể hiểu vén lên cái bức màn nghiệt ngã, thì bao nhiêu uẩn khúc, bao nhiêu cái bất đắc dĩ mới dần lộ ra.

    Trong cái khốn khổ, bất hạnh của một người đàn bà xấu xí ta lại bất chợt nhận ra những vẻ đẹp tâm hồn thật đáng quý, chị không muốn bỏ chồng, trước là vì đã từng chịu ơn hắn ta, lòng biết ơn chồng vì đã cứu rỗi cuộc đời chị, đã cho chị một mái ấm gia đình mặc dù bây giờ nó cũng sứt sẹo, chẳng mấy hạnh phúc. Nếu như những người như thằng Phác, Phùng, chánh án Đẩu đều thấy lão chồng là một kẻ đáng ghét, man rợ, đáng bỏ thì chị lại cho rằng chồng chị là một người đáng thương cần được thông cảm, sẻ chia.

    Chị nhớ về những ngày xưa, nhớ về những điều tốt đẹp của người chồng “cục tính nhưng hiền lành không bao giờ đánh đập tôi”, vì trốn lính mà gia đình đâm túng quẫn , chính cái nghèo đói đã khiến chồng chị trở thành một kẻ vũ phu, cục súc. Người đàn bà khốn khổ vơ hết lỗi về mình “giá mà tôi đẻ ít đi”, chị nhẫn nhục chịu đựng, lại có tấm lòng bao dung vô bờ bến, nhìn và thấu hiểu những nỗi khổ mà người khác gánh chịu để cảm thông, chỉ duy nhất chị không bao dung cho bản thân mình.

    Người phụ nữ ấy hy sinh, nhẫn nhục cũng không chỉ vì lòng biết ơn, lòng thông cảm hay tình yêu với chồng mà trên tất cả là vì những đứa con thân yêu của mình. Lòng người mẹ lúc nào cũng bao la mà rộng rãi đến thế, chị còn phải nuôi hơn chục đứa con thơ dại, chị cần “một người đàn ông chèo chống lúc phong ba”. Chị mặc định “ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ” cho nên họ “phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”, cả cuộc đời người đàn bà làng chài có lẽ chỉ có hy sinh, với chị nhìn con được ăn no cũng là hạnh phúc lắm rồi, rồi cũng có những lúc gia đình chị “hòa thuận vui vẻ”.

    Người đàn bà làng chài còn là một người có suy nghĩ thâm trầm sâu sắc, hiểu lý lẽ, thấu tình đời, chị dễ dàng nhận ra cuộc sống trong đôi mắt của Phùng và chánh án Đẩu quá ngây thơ, quá giản đơn. Chị dùng những lý lẽ hết sức thuyết phục, chị mở lòng nói về đời mình để cho hai người họ hiểu được rằng tại sao chị không thể bỏ chồng, chị cũng biết khổ biết đau đớn chứ, nhưng đã vào trong cái khốn khổ ấy người ta mới phát hiện có những chuyện không thể nào làm khác.

    Đó chính là nghịch lý của cuộc sống, phải lúc này đây nhân vật Phùng mới thông suốt được, anh nhận ra rằng không thể giải phóng con người khỏi đói nghèo, khỏi bạo lực gia đình chỉ bằng lòng tốt và pháp luật . Cũng nhận thức được việc không thể chỉ dùng cái nhìn phiến diện một chiều để đánh giá toàn thể sự việc, mà phải dùng đôi mắt trực quan nhiều chiều để suy xét và tìm hiểu. Hơn cả là bài học rút ra rằng nghệ thuật phải gắn liền với cuộc đời, phải đi ra từ những hiện thực khốn khổ, phải đào sâu tìm kỹ, khai thác cho được cái hạt minh châu chôn giấu trong tâm hồn mỗi một số phận con người, đó mới là làm nghệ thuật chân chính.

    Nguyễn Minh Châu, Nam Cao và Nguyễn Huy Tưởng đều là những người có nhận thức rất sâu sắc và tinh tế về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời. Nam Cao từng thốt lên rằng “Chao ôi, nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật chỉ có thể là tiếng kêu đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than…”, còn Nguyễn Huy Tưởng viết trong Vũ Như Tô rằng: “Nghệ thuật mà không gắn liền với đời sống thì đó nó chỉ là những bông hoa ác mà thôi”.

    Nguyễn Minh Châu cũng đồng những quan điểm vậy, ông sâu sắc nhận ra rằng “Ngọc lành có vết, việc đời đa đoan”, làm chi đâu có cảnh toàn bích, toàn mỹ, chẳng qua ấy chỉ là bề nổi, ẩn sâu sau đó là những hiện thực phũ phàng. Mà từ đó người nghệ sĩ phải dùng một đôi mắt đa diện, thấu hiểu để nhìn nhận những vẻ đẹp đạo đức và nhân văn, chớ nên chạy theo những vẻ đẹp dẫu hào nhoáng mà trống rỗng, vô hồn.

Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa mẫu số 10:

    Nghệ thuật và hiện thực luôn có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau, một tác phẩm chân chính muốn toả sáng phải có sự hòa quyện với vẻ đẹp của cuộc sống chân thực. Nhà văn Nam Cao từng nói: “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối! Nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than…”.

    Nghệ thuật là lĩnh vực của sự sáng tạo mới mẻ nhưng phải gắn với con người thì mới giữ nguyên được giá trị chuẩn mực vốn có. Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu là một bức tranh hiện thực đầy màu sắc, ẩn sau đó chứa đựng cả câu chuyện về số phận, cuộc đời con người. Tác giả đã nhìn cuộc sống bằng đôi mắt đa diện, nhiều chiều, phản ánh đúng bản chất thật sau vẻ đẹp hoà nhoáng bên ngoài của hiện tượng.

    Nguyễn Minh Châu quê ở xã Quỳnh Hải (nay là Sơn Hải), huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Năm hai mươi tuổi ông gia nhập quân đội cho đến năm 1962 thì chuyển sang con đường sáng tác văn học. Trước thập kỷ 80 ngòi bút của ông thiên về tính sử thi hào hùng, lãng mạn với những tác phẩm tiêu biểu: Cửa sông (tiểu thuyết, 1967), Những vùng trời khác nhau (tập truyện ngắn, 1970), Dấu chân người lính (tiểu thuyết, 1972),… Cho đến những năm 80 đổ về sau, Nguyễn Minh Châu tập trung nghiên cứu về cuộc sống nhân dân, những tác phẩm của ông đều lấy cảm hứng từ các vấn đề đạo đức và triết lý nhân sinh, đặc sắc với những truyện ngắn: Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983), Bến quê (1985), Cỏ lau (1989),…

    Chiếc thuyền ngoài xa được ông sáng tác năm 1987, kể về chuyến đi công tác của người nhiếp ảnh gia và những chiêm nghiệm sâu sắc của ông về cái đẹp và cuộc đời. Có thể nói Nguyễn Minh Châu là một trong những cây bút xuất sắc, là nhà “mở đường tinh anh” cho nền văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới.

    Chiếc thuyền ngoài xa là tác phẩm văn học có tình huống truyện hết sức độc đáo, cuốn hút người đọc ngay từ những câu văn đầu tiên. Có thể nói tình huống truyện chính là chiếc chìa khoá để vận hành cả cốt truyện, là điểm tựa để người đọc khám phá trọn vẹn một tác phẩm văn xuôi. Tình huống truyện chính là những sự kiện éo le, bất ngờ, mới lạ,… Là điểm nhấn then chốt hấp dẫn người đọc, nhà văn Nguyễn Minh Châu cho rằng tình huống truyện là “tình thế của câu chuyện, là khoảnh khắc mà trong đó sự sống hiện ra rất đậm đặc”, sự kiện nổi bật ấy có thể là bước ngoặt thay đổi nhận thức,số phận của cả một đời người.

    Tình huống truyện cũng là khoảnh khắc mà ở đó nhận vật bộc lộ rõ tính cách, bản chất của mình từ đó chủ đề tư tưởng của truyện được thắp sáng. Bằng tài năng và phong cách nghệ thuật của mình, Nguyễn Minh Châu đã xây dựng tình huống truyện nhận thức đầy bất ngờ và chứa đựng những nghịch lý cuộc đời, đó chính là hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng.

    Vào một buổi sáng tinh mơ, trời đầy sương mù, những hạt mưa nhỏ lác đác rơi, Phùng vẫn tiếp tục công việc “phục kích” để tìm cho ra một bức ảnh chiếc thuyền đánh cá thu lưới khi bình minh. Người nghệ sĩ đã bỏ ra nhiều công sức nhưng chưa có một bức ảnh nào thật đặc sắc, mới lạ để in trong lịch tết năm sau. Trong lúc đang lúi húi thay phim, lúc ngẩng lên anh đã chứng kiến một chuyện hơi lạ, một cảnh sắc đẹp ngỡ ngàng làm cho trái tim người nghệ sĩ dường như rung động mãnh liệt đó là “một chiếc thuyền lưới vó” đang trèo thẳng đến trước mặt anh.

    Cả một cuộc đời làm nghệ thuật có lẽ chưa bao giờ Phùng được trông thấy một cảnh “đắt” trời cho như thế, một cảnh sắc được tác giả miêu tả “đẹp như một bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ”. Mũi thuyền ẩn hiện, loè nhoè trong bầu sương mù trắng xoá có pha “ đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào”, trên thuyền là những bóng người ngồi im phăng phắc như tượng sáp. Tất cả khung cảnh ấy đang tiến đến ngày một gần như “cánh của con dơi”, bức tranh hài hoà từ đường nét đến ánh sáng và mang một vẻ đẹp “thực đơn giản và toàn bích”.

    Là một người nghệ sĩ với tâm hồn nhạy cảm, đứng trước cảnh sắc tuyệt mỹ ấy Phùng bỗng thấy bối rối, trong trái tim anh “như có cái gì bóp thắt lại”. Dường như cảm xúc hạnh phúc đang dâng trào mãnh liệt, trong khoảnh khắc trong ngần ấy người nghệ sĩ đã nhận ra cái chân – thiện – mỹ của cuộc đời ngay trước mắt mình. Cái đẹp phải chăng là đạo đức ? Chẳng cần lựa chọn hay xê dịch gì nữa, Phùng đưa mắt ảnh bấm “liên thanh” như sợ cảnh sắc tuyệt mỹ kia sẽ tan biến trong phút giây.

    Nghịch lý cuộc đời bắt đầu từ đây, khi chiếc thuyền tiến gần vào bờ, hình ảnh một cặp vợ chồng đang rời thuyền, họ lội qua một quãng bờ phá, nước ngập tới tận đầu gối. Trong giây lát tiếng người đàn ông cất lên văng vẳng quát tháo những đứa con đang ở trên thuyền. Hình ảnh cặp vợ chồng lam lũ bước ra từ chiếc thuyền đẹp như thiên đường, người chồng cao to, thô lỗ, vẻ mặt dữ tợn, còn người đàn bà khuôn mặt thô kệch toát lên đầy sự mệt mỏi.

    Chỉ bằng một vài câu văn miêu tả ngoại hình tác giả phần nào đã khiến cho người đọc vỡ mộng, đằng sau vẻ hào nhoáng kia của chiếc thuyền thì con người lại hiện ra chân thực, chẳng hề mang vẻ đẹp hoa mỹ nào. Nhưng nghiệt ngã hơn chính là cảnh bạo hành vợ của gã đàn ông thô bạo kia, hắn rút ra “một chiếc thắt lưng của lính nguỵ ngày xưa”, chẳng ai nói với nhau lời nào, hắn trút cơn giận như lửa cháy dùng hết sức lực quật tới tất vào lưng người đàn bà, vừa đánh vừa thở hồng hộc, răng nghiến ken két.

    Mỗi một nhát quất xuống hắn lại cất lên những câu chửi nguyền rủa bằng cái giọng “rên rỉ, đau đớn”: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!” Người đàn bà vẫn ngồi im “cam chịu, nhẫn nhục” không một lời van xin hay oán trách, chẳng chống trả cũng không hề chạy trốn. Sự việc xảy đến quá nhanh, quá bất ngờ đến nỗi nghệ sĩ Phùng không thể tin vào chuyện gì đang diễn ra trước mắt. Anh bàng hoàng, sửng sốt trong mấy phút đầu chỉ biết “đứng há mồm ra mà nhìn”. Thằng Phác từ đâu lao đến nhanh hơn cả mũi tên, giật lấy chiếc dây lưng quất vào “tấm ngực trần vạm vỡ cháy nắng” của cha nó.

    Cảnh tượng người chồng đánh đập vợ dã man, người vợ cam chịu, đứa con đánh lại cha trái ngược hoàn toàn với vẻ đẹp của con thuyền ngư phủ. Tác giả đã vẽ nên bức tranh hiện thực cuộc sống ẩn sau vẻ đẹp hào nhoáng bằng một hiện thực nghiệt ngã, nếu chỉ nhìn sự vật ở bên ngoài chúng ta sẽ không thể nhìn thấu hết bản chất của nó, không thể đánh giá một cách toàn diện hiện tượng. Vẻ đẹp của nghệ thuật chưa đủ sức mạnh để làm nên phẩm chất đạo đức, nhân cách của một con người.

    “Ngọc lành có vết, việc đời đa đoan” hiện thực không đơn giản, một chiều mà luôn tồn tại với nhiều mảng màu đối lập chẳng thể giải đáp. Nghịch lý không dừng lại ở đó mà tiếp tục được tác giả đi sâu vào khai thác trong nhân vật người đàn bà hàng chài. Người phụ nữ đã trạc ngoài bốn mươi, dáng người đặc trưng của miền biển, cao lớn với những “đường nét thô kệch”. Vẻ ngoài xấu xí, mặt chằng chịt rỗ sau một bận lên đậu mùa, sắc mặt tái bệch đi sau một đêm dài thức trắng.

    Xuất thân trong một gia đình khá giả, nhưng vì xấu nên không ai lấy. Lúc đầu khi được chánh án Đẩu mời lên toà án, người đàn bà lúng túng, sợ sệt, tìm đến một chỗ để ngồi. Khi được chánh án khuyên bỏ chồng, bà ta lo lắng, sợ hãi vô cùng van xin toà: “Quý toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Thật là kỳ lạ, một gã chồng vũ phu suốt ngày đánh đập “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” thì có gì đáng để bà ta phải lưu luyến mà không bỏ quách đi.

    Một người chồng một khi dám xuống tay đánh vợ và chửi rủa như thế, thì còn thiết tha hạnh phúc gì nữa, vậy mà người đàn bà nhất định không chịu bỏ đi. Nếu chỉ nhìn vào những gì đang thấy trước mắt, thì người phụ nữ này quả thật là rất đáng trách, trách vì đã để bản thân mình chịu nỗi đau thể xác lẫn tinh thần, trách vì sự kém cỏi hèn nhát của bản thân. Thế nhưng không, cuộc đời vố dĩ chẳng phô bày ra trước mắt ta những uẩn khúc nghiệt ngã.

    Đằng sau vẻ nhút nhát của người đàn bà làng chài là cả một sự hy sinh cao cả vì đàn con, vì gia đình yên ấm, bà thấu hiểu được nỗi khổ của người chồng. Qua lời kể của bà, người chồng khi còn trẻ tuy cục tính nhưng hiền lành, bà mang ơn ông vì đã cứu lấy danh dự mình, vẫn cưới dù biết bà có mang với người đàn ông khác. Hoàn cảnh đã nghèo khó, lại thêm đông con, gánh nặng cơm áo như đè nặng hết lên vai người chồng.

    Những khi trời đổ giông bão cả nhà chỉ ăn “cây xương rồng luộc chấm muối”, người đàn bà chép miệng như đang “nhìn suốt cả đời mình”, bà nhận hết lỗi về mình “giá tôi đẻ ít đi”. Quả là một người phụ nữ đáng trân trọng dù bản thân có chịu đựng bao khổ nhục cũng chưa từng oán thán, bà luôn nhìn thấy nỗi khổ của người khác để thấy hiểu, bao dung cho lỗi lầm của họ.

    Quanh năm lênh đênh trên biển - nguồn sống duy nhất của cả gia đình từng ấy miệng ăn, người đàn bà nhẫn nhục vì thương con, chúng còn thơ dại nếu không có bàn tay chăm sóc của người mẹ sẽ ra sao? Liệu người đàn ông khô khan, thô bạo kia có dạy dỗ, quan tâm, bảo ban được chúng? Phụ nữ làng chài cần có người đàn ông chèo lái con thuyền mỗi khi trời đổ phong ba, họ sức yếu vai mềm chẳng thể một mình chống đỡ lại với bão táp ngoài biển khơi, “ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ” cho nên họ “phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”.

    Niềm hạnh phúc nhỏ nhoi duy nhất của người phụ nữ là khi nhìn đàn con “chúng nó được ăn no”, ngay cả khi vui sướng hay hạnh phúc thì cũng là vì nghĩ cho con chưa một lần nào nghĩ cho bản thân mình. Vẻ mặt người đàn bà ửng sáng lên như một nụ cười khi nghĩ đến những lúc vợ chồng con cái sống vui vẻ, hoà thuận.

    Dường như tình thương con cũng như nỗi đau, sự thấu hiểu về những thăng trầm của lẽ đời “mụ” chẳng bao giờ bộc lộ ra ngoài mà giấu kín trong trái tim mình. Vẻ đẹp của đàn bà hàng chài đã gợi cho ta bao suy nghĩ về cuộc đời, không thể nhìn sự việc một cách phiến diện, một chiều mà phải đặt nó trong một khía cạnh toàn diện để đánh giá, suy xét. Nghệ thuật phải là một tấm gương phản chiếu hiện thực đấy mới là nghệ thuật chân chính.

    Nguyễn Minh Châu đã xây dựng được tình huống truyện độc đáo, hình ảnh biểu trưng “chiếc thuyền ngoài xa” là nghệ thuật ẩn dụ cho kiếp người đơn độc, lênh đênh trên biển lớn cuộc đời. Nghệ thuật tự sự độc đáo, người trần thuật là Phùng một nghệ sĩ dày dặn kinh nghiệm, từng trải trên chiến trường. Ngôn ngữ truyện chân thực, giàu hình ảnh sáng tạo, hấp dẫn người đọc.

    Chiếc thuyền ngoài xa là một tác phẩm văn học xuất sắc của Nguyễn Minh Châu, để lại cho chúng ta những bài học quý giá về triết lý nhân sinh của cuộc đời, biết đồng cảm, sẽ chia với những mảnh đời khốn khó. Từ tình huống truyện có ý nghĩa như một nút thắt để người đọc khám phá về sự thật cuộc đời, từ những thay đổi trong nhận thức con người, tác giả đã chỉ rõ mối liên hệ giữa nghệ thuật và hiện thực. Nhà văn cũng như thư ký của thời đại, phải có trách nhiệm tái hiện cuộc sống trong ngòi bút nghệ thuật của mình.

Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa mẫu số 11:

    Một trong những cái tên nổi tiếng của làng văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới chính là Nguyễn Minh Châu. Ông được coi là người "mở đường tinh anh và tài năng nhất". Trước năm 1975, ông là một cây bút sử thi lãng mạn, viết nhiều về đề tài người lính. Tuy nhiên, sau năm 1980, sáng tác của ông đi sâu vào cảm hứng đời tư thế sự với vấn đề đạo đức, và triết lý chân thực. Một trong những tác phẩm tiêu biểu cho phong cách ấy là "Chiếc thuyền ngoài xa".

    Truyện ngắn được ra đời năm 1983, đến năm 1987 được in trong tập truyện ngắn cùng tên. Năm 1983 là thời kỳ độc lập của đất nước ta. Cuộc sống thời bình với muôn mặt của đời sống, đặt ra nhu cầu nhận thức lại về hiện thực và cuộc sống con người. Là một tác phẩm đáp ứng được nhu cầu ấy, "Chiếc thuyền ngoài xa" đã trở thành một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Minh Châu và tiêu biểu cho cảm hứng đời tư thế sự, xu hướng chung của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới.

    Truyện ngắn được chia thành ba phần. Phần một: từ đầu cho đến "lưới vó biến mất". Ở phần này, tác giả đi sâu vào kể và phân tích hai phát hiện của nhân vật Phùng. Phần hai tiếp theo đến "...giữa phá", câu chuyện của người đàn bà hàng chài được kể tại đây. Phần ba còn lại, tác giả nói về bức ảnh được chọn vào bộ lịch năm ấy.

    Trước tiên, truyện ngắn này có một tình huống truyện hết sức độc đáo. Ai cũng biết, tình huống là vấn đề then chốt đối với truyện ngắn. Nhà văn tìm được tình huống độc đáo sẽ khiến bạn đọc cuốn hút theo câu truyện. Tình huống chính là tình thế xảy ra câu chuyện, khi nhân vật ở trong tình thế ấy sẽ bộc lộ rõ nhất bản chất, tính cách, phẩm chất của con người. Tình thế cũng có thể là bước ngoặt làm thay đổi số phận, nhận thức hoặc có khi bộc lộ ra những cốt lõi sâu thẳm tiềm ẩn trong truyện.

    Tình huống truyện của "Chiếc thuyền ngoài xa" là tình huống nhận thức. Đây là một tình huống bất ngờ và đầy nghịch lý. Tình huống của truyện được thể hiện qua hai phát hiện của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng. Tình huống đã giúp Phùng nhận ra được nhiều điều về cuộc sống, con người và nghệ thuật. Cuộc đời vốn chứa đựng nhiều mâu thuẫn, bất ngờ và đầy nghịch lý. Cần đến gần cuộc sống để khám phá sự thực bên trong và chiều sâu bản chất. Cần có cái nhìn đa diện nhiều chiều để hiểu rõ bên trong số phận và tâm hồn con người. Nghệ thuật phải luôn gắn liền với cuộc sống thì mới có ý nghĩa.

    Đi vào phần một của truyện là một cảnh sắc thiên nhiên đẹp thơ mộng. Phùng đã chụp được một "cảnh đắt trời cho": một chiếc thuyền lòe nhòe trong sương sớm với ánh mặt trời ban mai hồng hồng. Một bức tranh mực tàu của danh họa thời cổ. Đứng trước cảnh đẹp ấy, người nghệ sĩ thấy tim mình như có gì đó "bóp thắt vào". Người nghệ sĩ cảm thấy tràn ngập niềm hạnh phúc, anh thấy được cảm xúc trong ngần của tâm hồn, cảm nhận được chân - thiện - mĩ của cuộc đời.

    Anh cảm thấy tâm hồn mình được thanh lọc trở nên trong trẻo và thanh khiết. Thông qua cảm xúc của nhân vật Phùng, tác giả đưa ra quan niệm về cái đẹp. Cái đẹp phải có tác dụng thanh lọc tâm hồn, hướng con người đến cái chân - thiện - mĩ, cái đẹp là đạo đức. Nhưng để hoàn thiện cho quan niệm về nghệ thuật của mình, Nguyễn Minh Châu đã để nhân vật của mình chứng kiến câu chuyện về cuộc đời của người đàn bà hàng chài. Đó là một con người hiện thân cho sự lam lũ đói khổ.

    Từ trong chiếc thuyền đẹp như mơ kia bước ra một cặp vợ chồng. Người vợ "trạc ngoài 40", "mặt rỗ", "thân hình cao lớn thô kệch", "lưng áo bạc phếch", "gương mặt lộ rõ sự mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới". Người đàn ông "có tấm lưng rộng", khuôn mặt "độc, dữ". Cả hai người đều là hiện thân của sự nhọc nhằn, nghèo khó của người dân hàng chài. Điểm đáng chú ý chính là cảnh bạo hành của hai con người này.

    Người chồng thì đánh đập người vợ dã man, người vợ thì cam chịu trận đòn. Một cảnh tượng nghiệt ngã đối lập với cái cảnh đẹp như ngư phủ của con thuyền. Chính từ cảnh tượng tàn bạo ấy, tác giả đã có thể gửi gắm thông điệp của mình. Đó là cuộc sống có nhiều nghịch lý mâu thuẫn, nếu chỉ quan sát bên ngoài hoặc ở xa thì không thể phát hiện được sự thật bên trong nó. Cái đẹp của nghệ thuật qua ống kính của người nghệ sĩ chưa thể đủ sức mạnh để làm nên đạo đức con người trong cuộc sống.

    Nếu truyện ngắn chỉ dừng lại ở đây chắc chắn sẽ không đủ sức hút có thể để lại dư âm trong lòng người đọc. Chính vì thế mà những tâm sự của người đàn bà hàng chài tại tòa án huyện được viết ra. Sau khi chứng kiến cảnh bạo hành dã man bên chiếc xe tăng hỏng, Phùng đã nói với chánh án Đẩu từng là chiến hữu của anh để nhờ giúp đỡ. Người đàn bà hàng chài đã đươc chánh án Đẩu mời đến để khuyên chị li hôn với chồng.

    Nhưng rồi những lời tâm sự của chị đã khiến không chỉ hai chàng trai mà cả người đọc cũng phải ngỡ ngàng. Vẻ đẹp tâm hồn ẩn sâu bởi cái vẻ ngoài xấu xí của người phụ nữ ấy đã khiến chánh án Đẩu và nhân vật Phùng nhận ra được nhiều điều. Mặc dù bị đánh đập dã man "ba ngày một trận nặng, năm ngày một trận nhẹ" nhưng người phụ nữ vẫn quyết không bỏ chồng. Vì chị thương con, muốn đàn con được ăn no.

    Vì thương chồng vất vả mà không giúp gì được nên chịu đòn mong có thể san sẻ được với chồng. Rồi chị tự nhận lỗi về mình, chị biết ơn chồng mình. Chị chắt chiu những hạnh phúc nhỏ nhoi "trên thuyền cũng có lúc vợ chồng vui vẻ hạnh phúc". Vẻ đẹp của người đàn bà hàng chài đã đem đến cho người đọc một thông điệp, một triết lý. Đó là phải nhìn mọi việc một cách toàn diện. Nghệ thuật bắt nguồn từ cuộc sống thì cũng phải gắn liền với cuộc sống.

    Kết thúc câu chuyện, tác giả nhắc lại về bức ảnh chụp của nghệ sĩ Phùng nhằm nhấn mạnh sức ảnh hưởng của nó. Câu chuyện của người đàn bà hàng chài đã đi sâu vào tiềm thức của Phùng như một trải nghiệm mà mỗi khi nhìn vào bức ảnh anh lại nhớ đến nó.

    Với cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, mới lạ, mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về cuộc đời, và cách trao ngòi bút cho nhân vật kể chuyện (nhân vật Phùng), "Chiếc thuyền ngoài xa" đã để lại ấn tượng sâu đậm. Thành công của Nguyễn Minh Châu đã đem đến cho người đọc một tác phẩm đầy tính triết lý và chiêm nghiệm về cuộc đời, con người và cả nghệ thuật. Những triết lý luôn đúng với mọi thời đại. 

Phân tích Chiếc thuyền ngoài xa mẫu số 12:

    Nguyễn Minh Châu (1930 - 1989), là một cây bút sử thi lãng mạn, trước năm 1975 các tác phẩm của ông chủ yếu viết nhiều về đề tài người lính. Tuy nhiên sau năm 1980, sáng tác của ông đi sâu vào cảm hứng đời tư thế sự với vấn đề đạo đức và triết lí chân thực. "Chiếc thuyền ngoài xa" là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách ấy, với ngôn từ dung dị đời thường, truyện kể lại chuyến đi thực tế của một nghệ sĩ nhiếp ảnh và những chiêm nghiệm sâu sắc của ông về nghệ thuật và cuộc đời.

    Nguyễn Minh Châu đã miêu tả bức tranh thiên nhiên kì vĩ, thơ mộng, đẹp mê lòng người. Bức tranh ấy quyến rũ kì lạ đối với những người biết yêu và thưởng thức cái đẹp như Phùng. Để có một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển thật ưng ý, trưởng phòng đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù.

    Nhân chuyến đi thăm Đẩu, người bạn chiến đấu năm xưa, giờ đang là chánh án huyện, Phùng đi tới một vùng biển từng là chiến trường cũ của anh thời chống Mĩ. Đã mấy buổi sáng mà anh vẫn chưa chụp được một bức ảnh nào. Sau một tuần lễ, Phùng đã chụp được một bức ảnh tuyệt đẹp về chiếc thuyền ngoài xa: “một chiếc thuyền lưới vó, như là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”.

    Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe, bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào “toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp đơn giản và toàn bích” đã khiến Phùng bối rối và trong trái tim Phùng “như có gì bóp thắt vào”, trong cái giây phút bối rối ấy Phùng “tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái không khí trong ngần của tâm hồn”.

    Cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh đã mang lại khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn Phùng, anh đã bấm máy liên tục để thu hết vẻ đẹp tuyệt đỉnh của cảnh vật vào trong ống kính của mình. Tuy nhiên hiện thực lại không hề tươi đẹp đến như vậy.

    Tác giả mô tả bức tranh tuyệt vời kia đồng thời với cuộc sống của một gia đình làng chài, một gia đình nhiều đau thương. Ở đó, tác giả tập trung thể hiện nhân vật người đàn bà hàng chài mang số phận bất hạnh, hằng ngày chịu bi kịch của bạo lực gia đình. Một người đàn bà vô danh, xấu xí nhưng bao dung, vị tha và hiểu lẽ đời sâu sắc. Một người đàn bà điển hình cho vẻ đẹp khuất lấp của phụ nữ miền biển nói riêng và phụ nữ Việt Nam nói chung.

    Người đàn bà ấy ngoài 40, cái tên cũng không có, khi tác giả gọi là “mụ”, khi gọi là “chị ta”. Người đàn bà ấy có một ông chồng chỉ biết say xỉn, chửi bới và đánh đập. Nhưng bằng tình thương yêu con cái, chị vẫn cố gắng bám lấy biển, giữ lấy nhà, đùm bọc con cái.

    Chị nhẫn nhịn chịu đánh, “3 ngày trận nhẹ, 5 ngày trận nặng” bởi chị hiểu rằng con thuyền giữa biển khơi cần một người đàn ông chèo chống. Tấm ảnh về chiếc thuyền thì rất đẹp, nhưng cuộc sống đích thực của gia đình dân chài trên chiếc thuyền ấy chẳng có gì là đẹp. Sự nghịch lí ấy đặt ra vấn đề đối với người nghệ sĩ về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống.

    Tác giả còn xây dựng chân dung nhân vật Phùng. Phùng là người nghệ sĩ tài năng, say mê cái đẹp và trách nhiệm với nghề. Phùng có tấm lòng nhân hậu, thương người khi chứng kiến và sẵn sàng giúp đỡ người đàn bà xa lạ chịu bất công. Tuy không chấp nhận cái xấu nhưng Phùng lại chưa đủ sâu sắc lẽ đời. Phùng từng là người lính chiến đấu giải phóng miền Nam khỏi quân xâm lược nhưng lại không thể nào giải phóng được số phận của người đàn bà bất hạnh.

    Làm thế nào để đem lại cái phần thiện trong người đàn ông ấy (chồng người đàn bà hàng chài). Trong một gia đình như gia đình vợ chồng làng chài, những đứa trẻ như chị Phác, cậu bé Phác lớn lên và sẽ thành người như thế nào? Những người nghệ sĩ như Phùng, những nhà quản lí xã hội như Đẩu sẽ làm gì để cuộc sống bớt đi những mảnh đời như vậy? Qua câu chuyện của người đàn bà, Phùng càng thấm thía: không thể đơn giản trong cái nhìn về cuộc đời và con người.

    Chiếc thuyền ngoài xa, với việc xây dựng tình huống truyện độc đáo, mới lạ, mang ý nghĩa khám phá, và cách trao ngòi bút cho nhân vật kể chuyện (nhân vật Phùng) đã để lại ấn tượng sâu đậm. Tác phẩm đã đem đến cho người đọc những chiêm nghiệm thú vị về cuộc đời, con người và cả nghệ thuật.

Phân tích Chiếc thuyền ngoài xa mẫu số 13:

    Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu, với phong cách sáng tác giàu tính biểu tượng trong nền văn học nước nhà. Những tác phẩm của ông luôn khiến người đọc phải trằn trọc, suy nghĩ rất nhiều. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là một câu chuyện giàu sức gợi như thế. Hình ảnh người đàn bà làng chài là hình ảnh để lại trong lòng người nhiều ám ảnh, trăn trở về cuộc sống của con người trong thời kì đổi mới.

    Chiếc thuyền ngoài xa kể về chuyến đi sáng tác của nhiếp ảnh Phùng khi đến với vùng đất biển này. Và từ chuyến đi này, anh đã nhận ra rất nhiều chiều của cuộc sống, nhiều góc khuất mà con người vẫn bỏ lỡ. Hình ảnh người đàn bà là hình ảnh khiếp anh vừa khó hiểu, vừa băn khoăn, vừa đau xót. Có thể nói người làng chài là hình ảnh biểu tượng cho cuộc sống khó khăn, chịu nhiều thiệt thòi của người phụ nữ.

    Người đàn bà hiện lên trong câu chuyện của nhiếp ảnh Phùng là một người đầy nhọc nhằn, lam lũ. Nguyễn Minh Châu với những nét vẽ tinh tế đã phác họa nên một hình ảnh giàu sức gợi “người đàn bà chạc ngoài 40, một thân hình quen thuộc của đàn và vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch.

    Mụ rỗ mặt khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt, dường như đang buồn ngủ”. Một người phụ nữ gây ấn tượng cho người đọc ngay từ những dòng đầu tiên, đầy nhọc nhằn, đầy khổ sở và đầy thương cảm. Người đàn bà ấy tiếp tục ám ảnh người đọc bằng chi tiết “tấm áo bạc phếch có miếng vá, bửa thân dưới ướt sũng”, đã phần nào gợi lên sự chua xót, khốn cùng. Giữa cảnh biển mênh mông lại xuất hiện một con người khiến người khác phải trằn trọc như thế này.

    Người đàn bà ấy còn đầy vẻ cam chịu và nhẫn nhục khi người chồng hằn học và mắng nhiếc. Đôi mắt của chị như xuyên sâu vào lòng người đọc, nó ám ảnh cho đến khi gấp trang sách lại. Ánh mắt của chị đầy thương xót, đầy ai oán và cũng đầy tình yêu thương dành cho những đứa con cho mình.

    Dọc theo hình trình đi tìm cái đẹp của nhiếp ảnh Phùng, người đàn bà đã trở thành tâm điểm cho vẻ đẹp ấy. Một vẻ đẹp đầy sự khó khăn, nhọc nhằn và đau khổ. Hành động bạo lực của người chồng khiến chị cứ câm lặng, không ai oán một lời. Và sự cam chịu ấy được lặp lại khi chị được gọi đến hầu tòa. Mặc dù “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” nhưng người phụ nữ ấy vẫn “không hé răng một lời”.

    Hình dáng “mụ ngồi ghé vào mép ghế và cố thu người lại” càng khiến cho Phùng, cho Đẩu, và cho người đọc một nỗi ám ảnh khó bỏ. Tuy nhiên chỉ một lát, “người đàn bà lại lúng túng và sợ sệt”. Có lẽ cuộc sống của chị quá nặng nề, quá thê lương trong những năm qua.

    Tình tiết người đàn bà vái lạy để con trai không làm điều dại dột với bố, cũng như vái lạy quan tòa càng toát lên vẻ cam chịu, sự nhẫn nại, giàu đức hi sinh “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Khi đi đến tận cùng của nỗi đau, khi có một con đường giải thoát thì người đàn bà ấy vẫn lặng lẽ và cam tâm chịu đựng đau khổ? Là vì điều gì? Chẳng phải vì đức hi sinh của người mẹ đó sao?

    Lời tâm tình của người đàn bà về cuộc sống, về người chồng, về những đứa con khiến người khác vừa thương xót vừa khâm phục. Một người đàn bà yêu chồng, thương chồng mặc dù bị chồng ngược đãi. Người đàn bà yêu con, thương con vô điều kiện, không đòi hỏi bất cứ điều gì.

    Khi chị kể đến chi tiết “vui nhất là lúc được ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó đã ăn no” thì có lẽ người đọc ứa nước mắt. Những đứa con là sức mạnh để chị có thể tồn tại, có thể sống sót và kiên cường đến bây giờ. Một người mẹ lặng lẽ hi sinh cuộc đời mình vì những đứa con, một người mẹ đã nhẫn nhục tất cả chỉ vì miếng cơm manh áo cho con. Một người mẹ nghèo, cố chấp nhưng yêu thương con vô bờ bến. Cuộc đời của chị nhiều đau thương và nước mắt nhưng lại có biết bao nhiêu phẩm chất cao đẹp, đáng trân trọng.

    Không phải ngẫu nhiên tác giả chỉ gọi nhân vật là “người đàn bà”, có lẽ không phải chỉ một người đàn bà duy nhất, mà có thể chúng ta còn bắt gặp rất nhiều người đàn bà có chung cảnh ngộ ở bất cứ bãi biển xinh đẹp nào. Nguyễn Minh Châu đã vẽ lên một bức chân dung khiến cho người đọc phải suy ngẫm, phải trăn trở về cuộc sống của rất nhiều người xung quanh chúng ta.

    Và cái hình ảnh mà nhiếp ảnh Phùng chụp được cũng như những gì anh nghĩ về người đàn bà này là triết lí, một triết lí cho cái nhìn nhận đa chiều về cuộc sống này. Tấm lưng bạc phếch, ướt sũng của người đàn bà này có lẽ còn ảm ánh rất nhiều người nữa. Người đàn bà đó chính là nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, cũng như tác giả đã dùng cái tâm để vẽ lên hình ảnh đó. Hình ảnh người đàn bà làng chài trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” đã gửi gắm nhiều thông điệp đến người đọc về cuộc sống, phẩm chất tốt đẹp của những người phụ nữ.

Phân tích Chiếc thuyền ngoài xa mẫu số 14:

    Nguyễn Minh Châu (1930 - 1989) là nhà văn quân đội. Ông là một trong những cây bút tiên phong của nền văn học Việt Nam thời kì đổi mới (cuối thế kỉ XX). Những tập truyện ngắn: “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”, “Bến quê”, “Chiếc thuyền ngoài xa”, “Cỏ lau”,… đã thể hiện sự tinh anh và tài năng nghệ thuật đặc sắc, im đậm phong cách tự sự - triết lí của Nguyễn Minh Châu.

    Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được tác giả viết vào năm 1983, xuất bản năm 1987. Nhà nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, chánh án Đẩu, người đàn bà thuyền chài mặt rỗ và thằng bé Phác là những nhân vật được tác giả khắc hoạ khá sắc sảo, để lại cho người đọc bao ấn tượng, bao ám ảnh về màu sắc lãng mạn của nghệ thuật và sự thật trần trụi của đời thường.

    Cảnh biển buổi sáng có sương mù mà anh “phục kích” mấy buổi sáng vẫn chưa tìm ra. Anh háo hức muốn thu vào tờ lịch tháng bảy năm sau cảnh thuyền đánh cá thu lưới vào lúc bình minh thì sáng nay anh đã gặp “hên” một cảnh “trời cho”, có lẽ suốt một đời cầm mấy chưa bao giờ dám mơ tưởng đến.

    Đó là cảnh “thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù màu trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Và bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi…”.

    Trong ánh mắt của người nghệ sĩ, Phùng cảm thấy trước mặt mình là “một bức tranh mực tầu của một danh hoạ thời cổ”. Bao mĩ cảm đã dâng lên dào dạt trong lòng, anh xúc động “bối rối”, và trái tim của anh “như có cái gì bóp thắt vào”. Đối diện với bức tranh “thật đẹp và toàn bích” ấy, nghệ sĩ Phùng cảm thấy vô cùng hạnh phúc, anh mới thấm thía “bản thân trong cái đẹp chính là đạo đức” như ai đó lần đầu đã phát hiện ra; trong giây phút bối rối đó, anh “tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Cái đẹp và nghệ thuật đã thanh lọc tâm hồn người, làm cho hồn người trở nên thánh thiện.

    Và khi đã chạm tới gấu áo của vị thần nghệ thuật, Phùng đã bấm “liên thanh” một hồi hết một phần tư cuộn phim, thu vào chiếc Pra-ti-ca. Cái khoảnh khắc ấy đối với anh là vô cùng hạnh phúc, và anh đã “ngộ” ra - “hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại”. Có một điều mà bạn đọc cần lưu ý, đó là nơi nhà nhiếp ảnh ngồi bấm máy. Chẳng phải Lầu Hoàng Hạc, chẳng phải là một chốn Bồng Lai mà chỉ là một bãi biển còn đầy tàn tích chiến tranh với bao xác xe tăng, xe rà phá mìn của công binh Mỹ thua chạy bỏ lại. Phùng ngồi bấm máy phải “rúc vào bên bánh xích của một chiếc xe tăng để tránh mưa”.

    Chi tiết này rất quan trọng, nó cho thấy cảnh biển mù sương và con thuyền trong bình minh tuy có đẹp, nhưng cái đẹp ấy chưa trọn vẹn. Vết thương chiến tranh còn in hằn trên bãi biển và trong lòng ngư dân. Chỉ vì Phùng, với tâm hồn lãng mạn của người nghệ sĩ, anh mới thi vị hóa, thần tiên hoá hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa, để rồi sau đó, anh sẽ bị hẫng. Một cảnh đời ngang trái, quá phũ phàng và vô cùng tàn nhẫn đã diễn ra khi chiếc thuyền “đâm thẳng” vào bờ, vào ngay trước chỗ nhà nhiếp ảnh đứng. Phùng không chỉ nhìn thấy, được chứng kiến mà còn được tham dự vào những chuyện trớ trêu, đau lòng.

    Còn đâu nữa cái màu trắng, màu hồng của bức tranh “toàn bích” khi một người đàn ông và một người đàn bà rời thuyền lội qua một quãng bờ phá đi lên bãi cát. Một tiếng nói chõ như quát cất lên: “Cứ ngồi nguyên đấy, động đậy tao giết cả mày đi bây giờ”. Người đàn bà ngoài bốn mươi tuổi, cao lớn, thô kệch, rỗ mặt, mệt mỏi, tái ngắt…

    Người đàn ông đi sau “lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền; mái tóc tổ quạ, chân chữ bát, lông mày cháy nắng, rủ xuống”,… Lão đàn ông “hai con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào cũng nhìn dán vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng của người đàn bà”.

    Những gì xảy ra đã xảy ra sau đó. Bãi cát, nơi xác chiếc xe rà phá mìn đã trở thành nơi hành tội. Khi người đàn bà “đứng lại, ngước mắt nhìn ra ngoài mặt phá chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng” (có thể người mẹ nhìn mấy đứa con) thì một sự việc diễn ra vô cùng khủng khiếp! Lão đàn ông “trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay”, hắn ***g lên như một con thú dữ. Lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, cái vũ khí thường ngày của kẻ gần như mất hết cả nhân tính, “quật tới tấp vào lưng người đàn bà”. Hắn “vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két”.

    Lão “trút cơn giận như lửa cháy” vào người đàn bà tội nghiệp, đáng thương. Lão nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn:“Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ!”. Mày và chúng mày mà lão nói đến là vợ con của lão. Thật kì lạ là người đàn bà khổ nạn ấy không kêu một tiếng, không chống trả, không trốn chạy mà “cam chịu đầy nhẫn nhục”.

    Hình ảnh đau lòng đó đã làm cho nhà nghệ sĩ nhiếp ảnh “kinh ngạc”, “đứng há mồm ra mà nhìn” trong mấy phút. Khi Phùng vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới thì có một thằng bé con giận dữ “như một viên đạn lao tới đích đã nhắm” lao thẳng vào cái lão đàn ông. Đứa bé với một sức mạnh ghê gớm đã giằng được chiếc thắt lưng, vung chiếc khoá sắt quật vào giữa ngực trần vạm vỡ cháy nắng có những đám lông đen loăn xoăn của lão đàn ông. Giằng không được cái dây thắt lưng da, lão ta dang thẳng cánh cho thằng bé hai tát khiến thằng bé ngã dúi xuống cát.

    Tiếng gọi: “Phác, con ơi!” của người mẹ tội nghiệp cất lên. Hình ảnh người đàn bà “ôm chầm lấy thằng bé, rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để rồi lại ôm chầm lấy…”. Và hình ảnh thằng nhỏ “lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ trên khuôn mặt người mẹ” lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt, tất cả đã làm cho nhà nhiếp ảnh Phùng, cho mỗi chúng ta tê tái bàng hoàng. Đứa con đến để cứu mẹ, để chặn bàn tay của con người thú.

    Phùng “ngơ ngác nhìn” ra bờ phá khi người đàn bà buông đứa con ra, đi thật nhanh đuổi theo lão đàn ông vừa đánh mụ, rồi cả hai cùng đi về thuyền. Bãi cát hoang sơ mà mênh mông, tiếng sóng kêu ồ ồ cất lên. Bức ảnh thế sự ấy diễn ra “như trong truyện cổ quái đản”, chiếc thuyền vó đã biến mất, chắc đã làm cho cách nghĩ, tầm nhìn và cảm quan nghệ thuật của nghệ sĩ Phùng thay đổi?

    Bức ảnh thế sự trần trụi ấy đã được Nguyễn Minh Châu kí họa, đã được nhà nhiếp ảnh Phùng mục kích và bấm máy thật giàu ý nghĩa. Nghệ thuật hướng về cái đẹp, nhưng không thể là sự lừa dối. Lãng mạn hóa cuộc đời, bôi hồng tô son hiện thực cuộc đời là vô nghĩa khi cuộc đời còn nhiều mồ hôi và nước mắt! Với Phùng có thể coi đây là một chuyến đi nhiều ý nghĩa: chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, ẩn hiện trong sương mù, còn sự thật cuộc đời thì lại trần trụi, ở rất gần ngay trước mắt. Qua đó, ta càng thấy rõ chân lí cuộc đời có lúc, có nơi không phải là chân lí nghệ thuật.

   Nguyễn Minh Châu qua “Chiếc thuyền ngoài xa” đã nêu lên bài học về cái nhìn đa diện, cái nhìn khám phá trong sáng tạo nghệ thuật đối với nhà nghệ sĩ chân chính giàu bản lĩnh. Câu chuyện người đàn bà làng chài ở trụ sở toà án huyện đã lí giải cho Phùng và Đẩu, đã giúp chúng ta hiểu rõ sự thật trần trụi trước mọi bi kịch bạo hành trong gia đình, hiểu sâu hơn tấm lòng và tâm lí của người phụ nữ trong nỗi éo le cuộc đời.

    Người đàn bà mặt rỗ lúc đầu chỉ dám ngồi ở góc tường, khi được Đẩu mời, mụ mới “rón rén” đến ngồi vào mép chiếc ghế và cố thu người lại. Khi nghe vị Chánh án nói, mụ ngước lên nhìn rồi lại “cúi mặt xuống”. Có lẽ lần đầu đến cơ quan nhà nước, mụ mới sợ như vậy. Mụ chắp tay vái lia lịa Đẩu và xưng là con: “Con lạy quý tòa…”. Mụ nhấp nhổm xoay mình như bị kiến đốt! Nghe mụ van xin mà xót xa: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó…”.

    Sống với một kẻ vũ phu, “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” thế mà mụ vẫn van xin quý tòa “đừng bắt con bỏ nó”. Chánh án Đẩu làm sao hiểu được nỗi éo le đó. Nhà nhiếp ảnh Phùng thì cảm thấy “ngột ngạt quá!”. Khi nghe vị chánh án gọi bằng bà, và nói rõ chủ trương của tòa án là kêu gọi hòa thuận, chị ta “ngơ ngác” nhìn Đẩu, nhìn Phùng, chị ta thay đổi cách xưng hô, tự xưng là chị, gọi Đẩu và Phùng là chú rất khẩn thiết, rất chân thành.

    Mụ kể về thời con gái của mình, mụ tâm sự về chuyện lấy chồng của mình: mặt rỗ, xấu gái, không ai lấy, rồi có mang với anh con trai… “lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”. Mụ kể chuyện từ ngày cách mạng về đỡ khổ, chứ trước đây những lần động biển, vợ chồng con cái toàn ăn xương rồng luộc chấm muối suốt hàng tháng trời. Chị ta than thở gia cảnh nghèo, thuyền quá nhỏ... Đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá; đàn ông ở thuyền hoặc uống rượu hoặc đánh vợ, bất kể lúc nào, hễ thấy khổ quá là xách vợ ra đánh. Chị ta cho biết nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông, nhất là những khi biển động sóng gió để chèo chống. “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn, cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được…”. Chị cho biết chồng chị ngày trước cũng trốn đi lính ngụy. Chị cũng có niềm vui là khi vợ chồng con cái “sống hòa thuận vui vẻ”, “vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con được ăn no”,…

    Sự nhẫn nhục, đức hi sinh của người đàn bà mặt rỗ thật bao la. Chị ta cam chịu khi bị chồng đánh. Chị ta chỉ xin chồng đừng đánh mình trước mặt đàn con. Chị ta sợ đứa con trai tên là Phác làm điều gì dại dột đối với bố nó nên phải gửi nó lên rừng ở với ông ngoại. Chị ta đã khóc khi nghe Phùng nhắc đến tên thằng Phác. Chỉ qua những lời giãi bày chân thật đó, ta mới có thể hiểu được nỗi khổ, sự cam chịu nhẫn nhục, đức hi sinh thầm lặng, tình thương con mênh mông của người đàn bà làng chài đáng thương; ta mới thấu hiểu được cái căn nguyên sâu xa của tệ nạn bạo hành trong các gia đình nghèo cực. Nếu hiểu sự việc một cách đơn giản, chỉ cần yêu cầu, chỉ kí quyết định bắt người đàn bà mặt rỗ bỏ chồng là xong. Nhưng nếu nhìn chuyện đời một cách thấu suốt, rất nhân tình, rất đời, thì ta sẽ thấy cách nghĩ, cách sống, cách xử sự của người vợ, người mẹ ở trong truyện là không thể khác được.

    Biết được đáy vực nông, sâu là đã khó. Biết được lòng người xấu, tốt, biết được nỗi lòng, nỗi đời, cảnh ngộ của con người đâu dễ! Qua câu chuyện người đàn bà ở tòa án huyện, ta càng thấy rõ: không thể đơn giản, dễ dãi khi nhìn người, nhìn đời, khi đánh giá hiện tượng trong xã hội, trong cuộc sống. Không thể hấp tấp vội vàng. Nếu thiên kiến, định kiến, duy ý chí là sai. Có lòng tốt, ý định tốt chưa đủ. Mà phải suy xét, cân nhắc vừa có tình vừa có lí, vừa được việc vừa được người.

    Truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” có nhiều tình huống rất bất ngờ hấp dẫn. Mỗi một tình huống xuất hiện, tính kịch của câu chuyện lại được nâng cao, được khắc sâu. Nhà nhiếp ảnh Phùng lúc đầu phát hiện ra hình ảnh chiếc thuyền chài hiện ra trong sương mù và đã bấm máy “liên thanh” hết một phần tư cuộn phim và ngây ngất trước cái đẹp của ngoại cảnh là một tình huống thơ mộng. Chuyện người đàn ông chân chữ bát dùng dây thắt lưng lính ngụy đánh mụ vợ mặt rỗ và thằng Phác đánh lại bố hắn để bảo vệ người mẹ thương yêu là một tình huống bất ngờ diễn ra trước mắt Phùng làm cho tính bi kịch đầy nước mắt. Chuyện lão thuyền chài lại đánh vợ, đánh bị thương Phùng - kẻ dám đến can ngăn; chuyện chị gái cướp lấy con dao mà thằng em trai định dùng làm vũ khí để bảo vệ người mẹ tội nghiệp, đều là tình huống cực kì cay đắng, dữ dội. Câu chuyện của người đàn bà mặt rỗ kể ở cơ quan tòa án huyện… là tình huống nói vệ sự éo le của cuộc đời, về thân phận tủi nhục đắng cay của người đàn bà nghèo, đông con ở làng chài.

    Qua các tình huống đó, nhà nghệ sĩ Phùng mới thấm thía rằng: nghệ thuật không thể lãng mạn hóa, thi vị hóa cuộc đời khi cuộc đời còn đầy ngang trái. Chánh án Đẩu mới thấu hiểu tòa án không chỉ để thực thi công lí, pháp luật mà con phải soi sáng lòng dân, tình dân. Và mỗi chúng ta mới hiểu: cuộc sống đã và đang diễn ra là vô cùng phức tạp, không thể đơn giản hoặc chỉ nhìn một chiều, một phía, một cạnh.

    Tính tình huống đã làm cho truyện Chiếc thuyền ngoài xa vừa chân thực, vừa mang giá trị nhân bản sâu sắc. Phải chăng cuộc đời lam lũ nghèo khổ, nheo nhóc, sự tối tăm ngu dốt… là một trong những nguyên nhân gây ra nạn bạo hành đối với phụ nữ và trẻ em trong một số gia đình Việt Nam lâu nay? Phải chăng Nguyễn Minh Châu đã kín đáo nói về một căn nguyên đầy nước mắt mà thi hào Nguyễn Du đã viết trong “Văn chiêu hồn” hơn hai thế kỉ trước:

“Đau đớn thay phận đàn bà,

Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?”

Mẫu số 15: Phân tích Chiếc thuyền ngoài xa chuyên sâu dành cho học sinh giỏi

    Văn học chính là cầu nối giữa trái tim với trái tim giữa tâm hồn với tâm hồn. Văn học là “người thư kí trung thành của trái tim” luôn thấu hiểu những tâm tư tình cảm những niềm ngưỡng vọng muôn thuở của nhân loại. Mà khát vọng muôn đời của nhân loại chính là vươn đến những giá trị Chân - Thiện - Mỹ, vượt thoát khỏi giới hạn tồn tại của không gian và thời gian để hướng đến những giá trị vĩnh hằng, bất diệt. Những cái đẹp độc đáo, khác thường xuất hiện trong văn học như một lẽ tự nhiên.

    “Cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật, và rằng con người ta cần có một khoảng cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu muốn khám phá những bí ẩn bên trong thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với cuộc đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống cùng cuộc đời”. Qua truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” nhà văn Nguyễn Minh Châu đã thể hiện quan điểm về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời thông qua số phận của người đàn bà hàng chài. Truyện mang lại nhiều dư âm trong lòng độc giả, khắc khoải về số phận một người đàn bà như thế, thật mỏng manh, xa vời, chấp chới như “chiếc thuyền ngoài xa” không biết đâu là bến bờ hạnh phúc.

    ​“Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưng là tư tưởng đã được rung lên ở các bậc tình cảm, chứ không phải là cái tư tưởng nằm thẳng đơ trên trang giấy. Có thể nói, tình cảm của người viết là khâu đầu tiên cũng là khâu sau cùng trong quá trình xây dựng tác phẩm lớn”. Có thể nói “Chiếc thuyền ngoài xa” là một biểu hiện của xu hướng tìm tòi khám phá trong văn của Nguyễn Minh Châu, trở về với đời thường, với mảnh đất miền Trung cằn cỗi và cơ cực, đau đáu đi tìm câu hỏi cho những phận người trong cuộc sống đời thường trăm đắng ngàn cay. Trên tinh thần quyết liệt đổi mới, Nguyễn Minh Châu đã lấy con người làm đối tượng phản ánh thay cho hiện thực đời sống. Mặc dù không phủ nhận văn chương gắn với cái chung, với cộng đồng nhưng Nguyễn Minh Châu còn muốn thể hiện một quan niệm văn chương trước hết phải là câu chuyện của con người, với muôn mặt phức tạp phong phú với tất cả chiều sâu.

    Hiện thực của tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa không phải là bức tranh hoành tráng của mảnh đất chiến trường xưa từng ghi dấu bao chiến công, cũng không phải là những con người tạc dáng đứng hào hùng của mình vào lịch sử. Nhân vật Phùng trở về với mảnh đất từng chiến đấu, một người lính năm xưa giờ là phóng viên ảnh trở về ghi lại những vẻ đẹp cuộc sống đời thường cho bộ ảnh lịch quê hương đất nước, phản ánh cuộc sống lao động khoẻ khoắn tươi rói của những con người dựng xây đất nước, đi tìm vẻ đẹp bí ẩn của màn sương buổi sáng bổ sung cho tấm ảnh lịch hoàn chỉnh. Thế nhưng, những gì anh chứng kiến đã khiến anh và những người bạn của mình nhận ra một sự thật gắn với cuộc sống của những người dân chài lam lũ: “Cuộc sống cứ lênh đênh khắp cả một vùng phá mênh mông. Cưới xin, sinh con đẻ cái, hoặc lúc nhắm mắt cũng chỉ trên một chiếc thuyền. Xóm giềng không có. Quê hương bản quán cả chục cây số trời nước chứ không cố kết vào một khoảnh đất nào”. Từ cuộc sống ấy, những bi kịch tiềm ẩn khiến con người phải ngỡ ngàng.

    Một câu chuyện đơn giản nhưng đã chứa đựng những phát hiện mới mẻ hàm chứa quan niệm văn chương hướng về con người của Nguyễn Minh Châu. Nếu chỉ nghĩ suy một cách xuôi chiều đơn giản, cuộc sống khi có ánh sáng cách mạng sẽ đổi đời cho số phận người lao động, sẽ xóa tan những bi kịch đè nặng lên kiếp người. Thế nhưng Nguyễn Minh Châu đã chỉ rõ cho chúng ta: cách mạng không phải giải quyết bi kịch trong một sớm một chiều, con người vẫn phải đối diện với những bi kịch đời mình, dung hòa với nó. Cách lý giải về con người của Nguyễn Minh Châu còn ẩn chứa những suy ngẫm về số phận dân tộc phải trải qua những khổ đau để đối diện với hiện thực bao thách thức.

    Người nghệ sĩ nhiếp ảnh đi tìm những vẻ đẹp đích thực của cuộc sống, ngỡ như anh đã phát hiện ra một khung cảnh thật đáng yêu đáng ca tụng, hướng người xem về cái đẹp có thể làm quên đi những phiền não cuộc sống: “Qua khuôn hình ánh sáng, tôi đã hình dung thấy trước những tấm ảnh nghệ thuật của tôi sẽ là vài ba chiếc mũi thuyền và một cảnh đan chéo của những tấm lưới đọng đầy những giọt nước, mỗi mắt lưới sẽ là một nốt nhạc trong bản hòa tấu ánh sáng và bóng tối, tượng trưng cho khung cảnh bình minh là một khoảng sáng rực rỡ đến mức chói mắt, trong khoảng sáng đó sẽ hiện lên trong tầm nhìn thật xa những đường nét của thân hình một người đàn bà đang cúi lom khom, sải cánh tay thật dài về phía trước kéo tấm lưới lên khỏi mặt nước, và phía sau lưng người đàn bà, hình một ngư phủ và một đứa trẻ đứng thẳng trên đầu mũi thuyền, dùng lực toàn thân làm đòn bẩy nâng bổng hai chiếc gọng lưới chĩa thẳng lên trời”.

    Và những người dân vùng biển ấy hiện lên thật đáng yêu, đáng ca ngợi: cuộc sống lao động đầm ấm khỏe khoắn, những con người gặp gỡ thật đáng yêu… Tất cả những ấn tượng ấy sẽ không bị phá vỡ nếu như không có sự xuất hiện của chiếc - thuyền - ngoài - xa. Người đàn ông xuất hiện cùng với người đàn bà trong khung cảnh nên thơ đã nhanh chóng phá vỡ đi cảm giác thăng hoa nghệ thuật bằng trận đòn dây lưng quật thẳng tay vào người vợ không thương xót. Có lẽ khó ai hình dung cảnh tượng ấy lại diễn ra trong bối cảnh cuộc sống mới, nó hoàn toàn đối lập với điều chúng ta hằng xây dựng cho cuộc sống này “người yêu người, sống để yêu nhau” (Tố Hữu).

    Điều bất công diễn ra nhức nhối trước mắt người lính từng chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng đất nước, giải phóng con người đã làm nên một cơn giận bùng phát. Bản thân anh nghĩ về người đàn ông kia như gã đàn ông “độc ác và tàn nhẫn nhất thế gian”, còn người phụ nữ xấu xí mặt rỗ kia đích thị là nạn nhân đáng thương nhất của nạn bạo hành trong gia đình. Hành động tấn công gã đàn ông khiến cho anh ngộ nhận mình là anh hùng: “Tôi nện hắn bằng tay không, nhưng cú nào ra cú ấy, không phải bằng bàn tay một anh thợ chụp ảnh mà bằng bàn tay rắn sắt của một người lính giải phóng đã từng mười năm cầm súng. Tôi đã chiến đấu trong mấy ngày cuối cùng chiến tranh trên mảnh đất này. Bất luận trong hoàn cảnh nào tôi cũng không cho phép hắn đánh một người đàn bà, cho dù đó là vợ và tự nguyện rúc vào trong xó bãi xe tăng kín đáo cho hắn đánh”.

    Nhưng phản ứng của người đàn bà trước ông chánh án đã khiến anh choáng váng: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó...”. Hóa ra, người cần được thông cảm lại là những quan tòa cách mạng có lòng tốt nhưng “các chú đâu có phải là người làm ăn... cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc”. Người đàn bà khốn khổ ấy đã không chối bỏ người đàn ông đích thực của mình, dù trong lòng đau đớn khi hàng ngày phải chịu những trận đòn, phải chứng kiến cảnh hai cha con đối xử với nhau như kẻ thù, phải chấp nhận cuộc sống đương đầu nơi gió bão. Có người đã nhận định: Chiếc thuyền ngoài xa là hình tượng có ý nghĩa biểu tượng, như vẻ đẹp của một bức tranh toàn bích, nhưng đằng sau hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp là cuộc sống đầy khắc nghiệt, dữ dội và những số phận con người vật vã trong cuộc mưu sinh.

    Nỗi xót xa cho nhân vật đã thể hiện ngay trong những đường nét miêu tả đầu tiên về ngoại hình, dáng vẻ, cử chỉ, thái độ. Người đàn bà hàng chài "trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của người đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch... rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như buồn ngủ". Đây chính là hình ảnh một người lao động lam lũ và đau khổ. Có lẽ gánh nặng của cuộc mưu sinh đầy sóng gió trên biển cả đã lấy đi của chị tất cả sinh lực và niềm vui. Trên "gương mặt mệt mỏi, tái ngắt ấy" dường như còn không mảy may chút sức sống. Sự nghèo khổ, nhọc nhằn đến mức nhếch nhác, thảm hại còn hiện rõ trong "tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng" vì khi rời khỏi thuyền "phải lội qua quãng bờ phá nước ngập đến quá đầu gối".

    Sự khốn khổ của chị còn hiện ra trong dáng vẻ "lúng túng, sợ sệt" ở tòa án huyện, thậm chí khi Đẩu phải mời tới lần thứ hai chị "mới dám rón rén đến ngồi ghé vào mép chiếc ghế và cố thu người lại" - hình như đó là dáng vẻ của một con người tội nghiệp luôn thấy sự có mặt của mình trong cuộc đời này là phi lí, luôn mặc cảm và muốn giảm thiểu sự vướng víu, phiền phức mà mình có thể gây ra cho mọi người.

    Ấn tượng lớn nhất về sự bất hạnh mà người đàn bà đưa đến cho người đọc chính là thái độ cam chịu, nhẫn nhục của chị. Khi đi qua bãi xe tăng hỏng, trước lúc đến bên chiếc xe rà phá mìn, chị "đứng lại ngước mắt nhìn ra ngoài mặt phá nước, chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng, rồi đưa một cánh tay lên có lẽ đang gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống đưa cặp mắt nhìn xuống chân". Có thể nhận thấy đây là nơi quá quen thuộc với chị, sự quen thuộc ghê sợ, khủng khiếp bởi những trận đòn đã thành lệ "ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng" của người chồng vũ phu, thô bạo.

    Vì thế nên dù đã chấp nhận, chị không nén nổi cay đắng - cử chỉ của chị như muốn tìm đâu đó sự thay đổi hay trì hoãn dù chỉ một thoảng, nhưng rồi cũng chị cũng hiểu rằng đó là điều không thể, cánh tay chị "buông thõng" chán chường, cặp mắt nhìn xuóng chân cam chịu và mệt mỏi. Khi bị chồng đánh dã man, người đàn bà chịu đòn với "một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng, không chống trả cũng không tìm cách trốn chạy". Đó là thái độ của một người đang thực hiện những nghĩa vụ cực khổ của mình - không ca thán, bất bình hay tránh né.

    Sau này, qua câu chuyện của chị với Đẩu, Phùng, người đọc càng xót xa hơn cho thân phận con người khốn khổ ấy khi hiểu nguyên nhân thái độ cam chịu, nhẫn nhục tới kì lạ của chị. Chị chấp nhận chịu đòn, tất nhiên không phải vì dạn đòn, càng không phải để trả giá cho những tội lỗi sai lầm của mình, cũng không phải vì quá dốt nát đến mức không còn chút ý thức về bất hạnh; về quyền sống như một con người. Chị lặng lẽ chịu đựng những đau đớn vể cả thể xác và tinh thần chỉ vì "bất kể lúc nào lão thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu... Giá mà lão uống rượu... thì tôi còn đỡ khổ... Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được lão... đưa tôi lên bờ mà đánh...". Vậy là cùng một lúc, người đàn bà hàng chài không chỉ chịu đựng những vất vả, nhọc nhằn của cuộc sống mưu sinh mà còn phải gánh vác thêm những u uất, khổ sở của người chồng khi lão không còn đủ sức để chịu đựng một mình.

    Người đàn bà hàng chài không chỉ bị hành hạ về thể xác với những trận đòn tàn bạo của người chồng vũ phu àm còn giày vò nặng nề về tinh thần bởi sự nhục nhã khi bị đối xử như một con vật; bởi luôn nơm nớp lo sợ con cái bị tổn thương, bởi sự đau khổ khi luôn phải chứng kiến đứa con trai vì quá thương mẹ mà căm ghét đánh lại bố. Miêu tả hình ảnh một người mẹ vừa khóc, vừa phải "chắp tay vái lấy vái để đứa con" để nó đừng phạm phải một tội ác trái với luân thường đạo lí, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện sự xót thương cho nỗi đau khổ cùng cực mà con người có thể chịu đựng.

    Người đàn bà đã không trốn chạy khi bị chồng đánh đập dã man trên bờ biển. Chị càng không có ý định tự giải thoát mình khỏi người chồng tàn bạo ấy. Sự chịu đựng của chị không phải chỉ trong một, hai lần chịu đòn mà kéo dài trong suốt cả cuộc đời. Chị khẩn thiết van xin không phải li hôn dù biết rằng những trận đòn cũng sẽ tiếp diễn với cuộc sống ấy, bên người chồng ấy. Hình ảnh người đàn bà "chắp tay vái lia lịa quí tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó" cho thấy sự cay đắng trong số phận con người - giữa các lựa chọn, chị chấp nhận chịu đựng những đầy ải, những đòn roi của chồng "vì nỗi vất vả của người đàn bà trên một con thuyền không có đàn ông" còn đáng sợ hơn cả đòn roi đầy ải; cuộc mưu sinh trên biển cả luôn tiềm ẩn những đe dọa, thậm chí còn khủng khiếp hơn cả những đau đớn về thể xác, tinh thần do người chồng mang đến. Nếu "tiếng thở dài" đầy chua chát của Đẩu đã gợi ra rất cả những bất lực của thiện chí, những bế tắc của kiếp người.

    Câu chuyện của người đàn bà hàng chài giúp người đọc hiểu ra nỗi bất hạnh lớn nhất trong cuộc sống của gia đình chị chính là tình trạng đói nghèo, là đời sống bấp bênh kéo dài trên mặt biển gây ra tâm lí bế tắc, u uất. Trước năm 1975, mỗi khi biển động "cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối", từ khi cách mạng về, cuộc sống của họ đỡ đói khổ hơn nhưng nỗi lo cơm áo chưa lúc nào buông tha. Cuộc sống của những người ngư dân trên biển hóa ra không hề thơ mộng, lãng mạn như bức tranh trong thời xưa về hình ảnh "thuyền ngư phủ lạc trong sương" (Xuân Diệu) mà vất vả, lam lũ vì gánh nặng mưu sinh, bế tắc cùng quẫn vì hơn chục con người chen chúc trên một chiếc thuyền chật chội, tăm tối, nhục nhã vì tình trạng thất học và bạo lực nặng nề...

    Để bi kịch thường ngày của người đàn bà hàng chài diễn ra sau những bãi xe tăng đổ nát của chiến trường xưa, có lẽ Nguyễn Minh Châu muốn gợi ra cho người đọc những lo âu, suy ngẫm: Cuộc chiến đấu chống lại đói nghèo, tăm tối và bạo lực còn gian nan, lâu dài hơn cả cuộc chiến đấu chống ngoại xâm. Chừng nào chưa thoát khỏi đói nghèo thì chừng đó con người còn phải sống chung với cái xấu, cái ác. Chúng đã đổ xương máu bao nhiêu năm qua để giành được độc lập, tự do trong "cuộc chiến đấu cho quyền sống của cả dân tộc", cho quyền sống của từng con người, để đem lại cơm ăn áo mặc và ánh sáng văn hóa đến cho biết bao con người vẫn đang chìm đắm trong kiếp sống tăm tối, đói nghèo.

    Nói chuyện với Đẩu và Phùng, người đàn bà làng chài quê mùa thất học có "con mắt như đang nhìn suốt cuộc đời mình", có "sự thâm trầm trong việc hiểu thấu các lẽ đời", đã khiến các anh trở nên nông nổi, ngây thơ. Những sự giận dữ, bất bình, thấm đẫm lòng nhân hậu, những lời khuyên đầy thiện chí, những giải pháp tưởng như đúng đắn: "Cả nước này không có người chồng nào như hắn... chị không sống nổi với lão đàn ông vũ phu ấy đâu" đều lần lượt vấp phải những lí lẽ bình dị, nghiệt ngã và không thể thay đổi của hiện thực cuộc sống.

    Chị chỉ rõ sự thiếu thực tế của họ "lòng các chú tốt nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn cho nên các chú đâu hiểu được cái việc của người làm ăn lam lũ khó nhọc". Chị cũng cho họ thấy sự khó khăn gấp bội của những người đàn bà trong cuộc sống bấp bênh và luôn tiềm ẩn những đe dọa bất thường trên mặt biển: "Các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông"... "đàn bà hàng chài chúng tôi cần có một người đàn ông để chèo chống khi phong ba để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con"...

    Chị còn giúp Đẩu và Phùng nhận ra tình trạng luẩn quẩn bế tắc trong cuộc sống của một ngư dân trên biển: Ở thuyền thì bực bộc, bức bối nhưng lên bờ chị lại phải bỏ nghề mà sự phụ thuộc của họ lại gắn chặt với nghề này vì vậy những chính sách của Nhà nước nhiều khi cũng trở nên bất cập với thực tế cuộc sống của họ: "làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có làm được cái thuyền lưới vó. Từ ngày Cách mạng về, Cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở vì không bỏ nghề được!".

    Trước kết luận chua chát của Đẩu về cái nghịch lí xót xa: "Trên thuyền phải có một người đàn ông dù hắn man rợ tàn bạo", người đàn bà sông nước có một lời đáp thật sâu sắc, chân tình mà thắt vào lòng người đọc bởi những chiêm nghiệm rút ra từ một cuộc đời gian truân vất vả: "Cũng có khi biển động sóng gió chứ chú!", tiếng thở dài của Đẩu, câu hỏi băn khoăn, tò mò của Phùng, cảm giác bất lực của cả hai người khi nhận ra những giải pháp xuất phát từ lòng tốt và thiện chí của họ trở nên phi thực tế... đã tạo ra sự đối sánh với người đàn bà từng trải hiểu đời, hiểu người, hiểu những sự có thể và không thể của cuộc sống đời thường. Sự sâu sắc của chị chiến người đọc khâm phục nhưng cũng xót thương hơn cho một kiếp người.

    Chị chịu đựng những trận đòn tàn nhẫn của chồng không chỉ vì bản tính nhẫn nhục cam chịu mà còn như một cách giúp lão làm vơi đi những u uất, khổ sở chất chứa trong lòng. Chính vì thế, mà chị hoàn toàn tự nguyện, lặng lẽ theo chồng lên bờ, lặng lẽ đi vào sâu phía sau bãi xe tăng, lặng lẽ đứng lại chờ trận đòn giận dữ như lửa của chồng, lặng lẽ chịu đòn "không hề kêu một tiếng, không chống trả cũng không tìm cách trốn chạy", để rồi sau đó đi thật nhanh ra khỏi bãi xe tăng hỏng đuổi theo gã đàn ông. Cả hai người trở về thuyền, đó là cách cư xử của một người đang cố gắng thể hiện những bổn phận, nghĩa vụ của mình dù đó là những bổn phận, nghĩa vụ phi nhân tính.

    Chị thấu hiểu nỗi khổ của chồng, thậm chí còn mang một mặc cảm có lỗi khi cho rằng "lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá mà thuyền lại chật". Người vợ hiểu rõ nỗi hi sinh, nhọc nhằn trên mặt biển đầy sóng gió, sự nghèo đói, túng quẫn trên một con thuyền chật chột, những cay đắng bế tắc triền miên đã vượt khỏi giới hạn chịu đựng của con người khiến "Anh con trai cục tính nhưng hiền lành" không bao giờ đánh đập vợ đã dần trở thành lão chồng vũ phu, độc ác không phải vì thù ghét gì người vợ khốn khổ, lão đánh vợ như người khác uống rượu cho quên nguôi nỗi cơ cực của mình. Nếu cả Đẩu và Phùng đều kinh ngạc và bất bình thay cho sự cam chịu, nhẫn nhục của người vợ thì khi hiểu ra nguyên nhân của thái độ ấy họ lại càng kinh ngạc về sự nhân hậu vị tha trong tấm lòng người đàn bà hàng chài cũng lớn lao kì lạ bởi mức "không thể nào hiểu được" - cảm động nhất là vẻ đẹp của tình mẫu tử trong trái tim người đàn bà hàng chài.

    Tình mẫu tử được chị coi như một thiên tính dương nhiên nhiên của người phụ nữ: "Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được". Chính tình thương yêu sâu sắc với con cái đã khiến chị phải nhẫn nhục, chịu đựng đầy ải tàn nhẫn của người chồng để con thuyền có đàn ông khoẻ mạnh, biết nghề cùng mình "chèo chống khi phong ba" để cùng làm ăn nuôi nấng con cái, cũng vì thương con sợ các con bị tổn thương vì cảnh bạo lực đau lòng mà chị phải xin chồng đưa mình lên bờ mà đánh; rồi vì lo những phản ứng dữ dội của thằng Phác, "Sao thằng bé có thể làm những điều dại dột với ba nó", mà chị phải cắn răng gửi thằng con chị yêu thương nhất lên rừng sống với ông ngoại. Ở người đàn bà thầm lặng ấy "tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái sự thâm trầm trong việc hiểu thấu các lẽ đời hình như cũng chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bên ngoài".

    Khi bị chồng đánh đập tàn nhẫn, chị đã lặng lẽ chịu đựng như một người câm, vậy mà khi thằng Phác lao tới đánh bố để cứu mẹ, chị lại không nén nổi nỗi đau đớn. Chị "mếu máo" gọi con, "ngồi xệp xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để rồi ôm chầm lấy". Thằng bé đã từng "như một viên đạn bắn vào tâm hồn người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà, làm rỏ xuống những dòng nước mắt". Tới khi nói chuyện với Đẩu và Phùng, nhắc tới thằng Phác, chị vẫn khóc - tiếng khóc của tình thương con nỗi đau đớn quặn thắt trong trái tim người mẹ: nỗi đau khi không che chắn nổi cho tuổi thơ các con được trong sáng, đau thêm nỗi đau của các con khi phải chứng kiến cảnh bạo lực gia đình, càng đau hơn bởi nỗi sợ hãi cho sự phát triển tính cách của con trong môi trường tăm tối, bạo lực..., bao trùm lên tất cả là nỗi đau của người mẹ yêu thương con, mong con khôn lớn mà lại không thể đem đến cho con cuộc sống no ấm, bình yên.

    Tình mẫu tử của chị không chỉ được thể hiện qua nước mắt mà còn thể hiện ra qua niềm vui dẫu hiếm hoi, ít ỏi - những niềm vui chắt ra từ những cay đắng, nhọc nhằn... Khi nhắc tới những lúc vợ chồng con cái sống hòa thuận trên thuyền, "khuôn mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười". Cam chịu, nhẫn nhục vì con, lam lũ vất vả vì con, cho nên riêng niềm vui của chị cũng xuất phát từ con cái, chị bày tỏ chân thành, cảm động: "vui sướng nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no". Thấp thoáng trong hình ảnh người đàn bà hàng chài là bóng dáng của những người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh.

    Nhân vật người đàn bà hàng chài còn đem đến cho người đọc những ấn tượng thật đặc biệt. Luôn ý thức sâu sắc về thân phận, về ý nghĩa cuộc sống, về thiên chức của mình, đó là những nguyên nhân khiến chị có thể chịu đựng tất cả những lúc khó khăn, thử thách, từ những lam lũ, vất vả của đói nghèo đến những đau đớn khổ ải trong bi kịch gia đình, lấy sự chịu đựng phi thường của mình, cố gắng che chở cho sự bình yên của gia đình, bảo vệ niềm tin trong trẻo, ngây thơ ấy cho tâm hồn con trẻ, gánh đỡ cho chòng những nhọc nhằn, cay dắng - dù những cố gắng ấy vẫn luôn thất bại ê chề trước sự khắc nghiệt của cuộc sống.

    Mỗi khi nhìn lại bức ảnh về "Chiếc thuyền ngoài xa", bao giờ nghệ sĩ Phùng "cũng thấy người đàn bà bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân giẫm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông...". Đó là hình ảnh những con người vô danh, khốn khổ, lầm lũi, họ đã vượt lên tất cả những gian truân cay đắng của cuộc đời, không phải vì mình mà vì những người thân yêu - lí do để họ sống và chịu đựng, cũng là cội nguồn sức mạnh của họ.

    Hóa ra hành trình tìm kiếm hạnh phúc không hề đơn giản: người đàn ông kia dù cục súc nhưng trên chiếc thuyền phải có lúc có đàn ông, hạnh phúc đơn giản khi cả nhà quây quần trong bữa ăn trên chiếc thuyền khiến người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng tất cả. Hành trình của gia đình kỳ lạ kia vẫn tiềm ẩn những nguy cơ: đứa con yêu mẹ sẵn sàng đánh nhau với bố, thủ dao găm tìm dịp trả thù, những trận đòn tàn khốc có thể làm cho người đàn bà kia gục ngã bất cứ lúc nào…

    Thế nhưng trong cuộc sống nghèo khổ, chật vật và ngày ngày phải nuôi đủ cho mười miệng ăn trên chiếc thuyền ọp ẹp, người đàn bà ấy là hiện thân của một sự hy sinh vô bờ bến. Tình yêu chồng con được nhìn nhận từ cuộc đời trăm đắng ngàn cay có vẻ đẹp riêng khiến cho “một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển”. Sự vỡ lẽ ấy chính là sự phá vỡ những quan niệm giản đơn về tình yêu, hạnh phúc, về lòng nhân ái, sự khoan dung… mang giá trị nhân bản sâu sắc. Những kết hợp ấy trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu đem đến cái nhìn đa diện về số phận con người.

    Nếu như trước kia, trong văn học 1945 - 1975, khi đề cập đến số phận con người thì bao giờ các nhà văn cũng đề cao vào khả năng con người vượt qua nghịch cảnh và những tác động của môi trường, của xã hội mới sẽ giúp con người tìm thấy hạnh phúc. Khi diễn tả sự vận động của tính cách con người, các nhà văn cũng thường nói về sự vận động theo chiều hướng tích cực, từng bước vượt lên hoàn cảnh, hồi sinh tâm hồn. Cách minh họa tư tưởng ấy không tránh khỏi có phần giản đơn và phiến diện. Nguyễn Minh Châu đã không đi theo con đường mòn đó. Trong Chiếc thuyền ngoài xa, nhà văn đã nói về những nghịch lý tồn tại như một sự thật hiển nhiên trong đời sống con người.

    Bằng thái độ cảm thông và sự hiểu biết sâu sắc về con người, ông đã cung cấp cho ta cái nhìn toàn diện về cái đẹp cuộc sống, hiểu cả bề mặt lẫn chiều sâu. Nguyễn Minh Châu đã từng phát biểu: “Văn học và đời sống là những vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người” (Phỏng vấn đầu xuân 1986 của báo Văn nghệ), “Nhà văn tồn tại ở trên đời có lẽ trước hết là vì thế: để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những người cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn con người ta đến chân tường, những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đọa đầy đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người và cuộc đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực” (Ngồi buồn viết mà chơi).

    Tư tưởng ấy được thể hiện trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa như một minh chứng cho tấm lòng hướng về con người, khả năng giải mã những mặt phức tạp của cuộc đời. Bức thông điệp trong tác phẩm về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống là nhận thức thấm thía: “cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật, và rằng con người ta cần có một khoảng cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu muốn khám phá những bí ẩn bên trong thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với cuộc đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống cùng cuộc đời.” (Lê Ngọc Chương - Chiếc thuyền ngoài xa, một ẩn dụ nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu).

    Kết thúc tác phẩm, người nghệ sĩ đã hoàn thành kiệt tác của mình đem đến cho công chúng những cảm nhận về vẻ đẹp tuyệt mỹ của tạo hóa, thế nhưng mấy ai biết được sự thật nằm sau vẻ đẹp tuyệt vời kia? Phần kết của tác phẩm để lại nhiều suy ngẫm: “Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kỹ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông”.

    Cuộc sống vốn vậy, vẫn đẹp tươi, vẫn êm ả, nhưng nếu không có tấm lòng để nhận ra những uẩn khúc số phận thì những vẻ đẹp như màu hồng hồng của ánh sương mai kia cũng trở nên vô nghĩa, người nghệ sĩ phải nhận ra sự thật ẩn khuất sau màn sương huyền ảo kia, phải tiếp cận sự thật để nhận ra ý nghĩa đích thực của cuộc sống và con người. Nhà phê bình Nikolai Nikulin cũng từng nhận xét: "Niềm tin vào tính bất khả chiến bại của cái đẹp tinh thần, cái thiện đã được khúc xạ ở chỗ, anh (Nguyễn Minh Châu) đã tắm rửa sạch sẽ các nhân vật của mình, họ giống như được bao bọc trong một bầu không khí vô trùng".

    Có thể nói hình tượng "Chiếc thuyền ngoài xa" đích thực là một ẩn dụ nghệ thuật hoàn toàn có dụng ý của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Giải mã hình tượng ẩn dụ đó, người đọc sẽ nhận ra một thông điệp mà nhà văn muốn truyền đi, rằng cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật, và rằng con người ta cần có một khoảng cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu muốn khám phá những bí ẩn bên trong thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống cùng cuộc đời.

    "Đọc truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, người ta thấy cuộc đời và trang sách liền nhau. Chặng đường đời hôm nay cũng như từng đoạn sáng tạo trên trang giấy của tài năng. Những cái tưởng như bình thường lặt vặt trong cuộc sống hằng ngày dưới con mắt và ngòi bút của Nguyễn Minh Châu đều trở thành những gợi ý đáng suy nghĩ và có tầm triết lý" (Tô Hoài)

(Nguồn: Lớp văn thầy Nhật)

Hoàn cảnh sáng tác

    "Chiếc thuyền ngoài xa" được viết năm 1983 - khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã đi qua được 6 năm, đất nước trở lại với cuộc sống đời thường. Nhiều vấn đề của đời sống văn hóa nhân sinh mà trước đây do hoàn cảnh chiến tranh chưa được chú ý, nay được đặt ra. Tác phẩm nằm trong xu hướng nghệ thuật chung của văn học thời kỳ đổi mới: hướng nội, khai thác sâu sắc số phận cá nhân và thân phận con người đời thường.

2. Ý nghĩa nhan đề văn bản

+ "Chiếc thuyền ngoài xa" trước hết là biểu tượng của nghệ thuật, đó là thứ nghệ thuật đạt tới sự toàn mĩ và thánh thiện đến mức mà chiêm ngưỡng nó, người nghệ sĩ thấy tâm hồn mình được thanh lọc.

+ Chiếc thuyền khi về gần đó lại là hiện thân của cuộc đời lam lũ, khó nhọc, thậm chí của những éo le, trái ngang và nghịch lí trong cuộc sống.

+ Chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa nhưng cuộc đời thì lại rất gần. Người nghệ sĩ cần có một khoảng cách nhất định để khám phá và thưởng thức vẻ đẹp đích thực của nghệ thuật nhưng cũng cần bám sát cuộc đời để phát hiện ra những sự thật của cuộc sống.

+ Nhan đề là một ẩn dụ về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật !

3. Nhận định về tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa

- "Truyện mang lại nhiều dư âm trong lòng độc giả, khắc khoải về số phận một người đàn bà như thế, thật mỏng manh, xa vời, chấp chới như “chiếc thuyền ngoài xa” không biết đâu là bến bờ hạnh phúc." (Ngọc Huy)

- "Những cái tưởng như bình thường, lặt vặt trong cuộc sống hàng ngày, dưới con mắt và ngòi bút Nguyễn Minh Châu đều trở thành những gợi ý đáng suy nghĩ và có tầm triết lí". (Nhà văn Tô Hoài)

- Nhân quyền “giống như món trang sức đắt tiền trong tủ kính mà những đôi bàn tay lam lũ không thể chạm vào”. (Trích bài viết “Chiếc thuyền ngoài xa: sự xa xỉ quyền của con người)

- "Cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật, và rằng con người ta cần có một khoảng cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu muốn khám phá những bí ẩn bên trong thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với cuộc đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống cùng cuộc đời" (Lê Ngọc Chương - “Chiếc thuyền ngoài xa, một ẩn dụ của Nguyễn Minh Châu")

- "Niềm tin vào tính bất khả chiến bại của cái đẹp tinh thần, cái thiện đã được khúc xạ ở chỗ, anh (Nguyễn Minh Châu) đã tắm rửa sạch sẽ các nhân vật của mình, họ giống như được bao bọc trong một bầu không khí vô trùng". (Nhà phê bình Nikolai Nikulin)

- "Vậy nên, có thể nói hình tượng "chiếc thuyền ngoài xa" đích thực là một ẩn dụ nghệ thuật hoàn toàn có dụng ý của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Giải mã hình tượng ẩn dụ đó, người đọc sẽ nhận ra một thông điệp mà nhà văn muốn truyền đi, rằng cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật, và rằng con người ta cần có một khoảng cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu muốn khám phá những bí ẩn bên trong thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống cùng cuộc đời".

(Nguyễn Ngọc Chương)

4. Ý nghĩa nhân đạo của truyện Chiếc thuyền ngoài xa

- Lên án sự bạo hành của cái ác, cái xấu, phê phán sự tàn nhẫn, báo động về tình trạng bạo lực trong gia đình mà ở đó phụ nữ và trẻ em là nạn nhân của đói nghèo và vũ phu.

- Như một hồi chuông gióng, mong muốn tất cả trẻ em trên đất nước này đều được sống trong tình yêu thương bình yên.

- Niềm xót thương về gánh nặng mưu sinh, giam hãm con người trong cảnh tăm tối, đói khổ, bấp bênh; nỗi day dứt về việc con người phải chấp nhận những nghịch lí không đáng có về cuộc sống.

- Cái nhìn ấm áp niềm tin yêu, sự trân trọng của nhà văn trước vẻ đẹp của tình mẫu tử, sự can đảm bao dung của người phụ nữ.

5. Phong cách sáng tác của Nguyễn Minh Châu

   Nguyễn Minh Châu luôn khẳng định bản sắc cá nhân nghệ sĩ bằng nét phong cách kết hợp hài hòa triết lí cuộc đời với trữ tình lãng mạn. Xây dựng hình tường nhân vật trong mối quan hệ đa chiều, phức tạp nhưng lại hòa hợp và thống nhất. Từ đó đề cao những giá trị nhân văn.

Mỗi con người đều chứa đựng trong lòng những nét đẹp đẽ kì diệu đến nỗi cả một đời người cũng chưa đủ để nhận thức khám phá tất cả những cái đó. (Nguyễn Minh Châu)

   Trên đây là gợi ý cách làm cùng các bài văn mẫu chọn lọc hay phân tích Chiếc thuyền ngoài xa mà Đọc tài liệu đã tổng hợp và biên soạn để các em tham khảo. Ngoài ra, các bạn có thể tìm đọc thêm nhiều bài văn mẫu 12 khác theo chương trình học Ngữ Văn 12 tại doctailieu.com.

Bạn còn vấn đề gì băn khoăn?
Vui lòng cung cấp thêm thông tin để chúng tôi giúp bạn
Hủy

TẢI VỀ

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM