Phân tích Tràng giang của Huy Cận

Xuất bản: 18/01/2024 - Cập nhật: 28/05/2024 - Tác giả:

Hướng dẫn phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận cùng đầy đủ dàn ý, bài văn mẫu phân tích Tràng giang hay tuyển chọn dành cho các em tham khảo.

Để làm được một bài phân tích Tràng giang hay và đạt điểm cao, các em đừng bỏ qua bài viết này. Đọc tài liệu sẽ gợi ý các em cách phân tích nội dung tác phẩm Tràng giang của Huy Cận kèm theo bài văn mẫu tham khảo để các em có thêm những ý văn hay cho bài làm của mình.

Giới thiệu tác giả Huy Cận và bài thơ Tràng giang

1. Tác giả Huy Cận

a) Tiểu sử cuộc đời

- Huy Cận (1919 - 2005) tên đầy đủ là Cù Huy Cận, quê ở làng Ân Phú, Hương Sơn, Hà Tĩnh.

- Ông sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo gốc nông dân dưới chân núi Mồng Gà.

- Lúc nhỏ ông học ở quê, sau đó vào Huế học trung học, đậu tú tài Pháp rồi ra Hà Nội học Cao đẳng Canh nông.

- Từ năm 1942, ông tham gia phong trào sinh viên yêu nước và Mặt trận Việt Minh, tham dự Quốc dân đại hội ở Tân Trào và được bầu vào Ủy ban Giải phóng.

- Sau Cách mạng tháng Tám, ông từng giữ nhiều chức vụ lãnh đạo cao cấp trong chính phủ Việt Nam, là một nhà lãnh đạo chủ chốt của Đảng Dân chủ Việt Nam, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam

- Ông cũng là một trong những thi sĩ xuất sắc nhất của phong trào Thơ mới.

- Tháng 6 năm 2001, ông được bầu là Viện sĩ Viện Hàn lâm Thơ Thế giới.

- Huy Cận mất năm 2005 tại Hà Nội sau một thời gian lâm trọng bệnh.

b) Sự nghiệp văn học

- Phong cách sáng tác:

+ Huy Cận là nhà thơ lớn, một đại biểu xuất sắc của phong trào Thơ Mới với hồn thơ ảo não.

+ Thơ Huy Cận hàm súc, giàu chất suy tưởng triết lí.

+ Trước Cách mạng tháng Tám, sáng tác của Huy Cận mang nét sầu não, buồn thương.

+ Sau Cách mạng tháng Tám, thơ Huy Cận đã lột xác hoàn toàn sau chuyến đi thực tế năm 1958 ở vùng mỏ cẩm Phả, trở nên mới mẻ và tràn đầy sức sống.

- Các sáng tác của Huy Cận luôn bám sát hiện thực cuộc sống, thời đại.

c) Vị trí và tầm ảnh hưởng

- Năm 1996, Huy Cận đã được Nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I).

- Năm 2001, Huy Cận được bầu là viện sĩ Viện Hàn lâm Thơ Thế giới.

- Năm 2005, ông được Nhà nước truy tặng Huân chương Sao Vàng.

d) Các tác phẩm tiêu biểu

- Trước Cách mạng tháng Tám: Lửa thiêng (thơ, 1940), Kinh cầu tự (văn xuôi, 1942), Vũ trụ ca (thơ, 1940 - 1942)

- Sau Cách mạng tháng Tám: Trời mỗi ngày lại sáng (tập thơ, 1958), Đất nở hoa (tập thơ, 1960), Bài thơ cuộc đời (tập thơ, 1963), Hai bàn tay em (tập thơ thiếu nhi, 1967), Phù Đổng Thiên Vương (tập thơ, 1968), Những năm sáu mươi (tập thơ, 1968), Cô gái Mèo (truyện thơ, 1972), Chiến trường gần đến chiến trường xa (tập thơ, 1973),...

2. Bài thơ Tràng giang

a) Bối cảnh sáng tác và xuất xứ

- Bài thơ Tràng giang được viết vào mùa thu năm 1939, được lấy cảm hứng sáng tác khi tác giả đứng ở bờ Nam, bến Chèm, sông Hồng (Hà Nội) nhìn cảnh sông nước mênh mông, bốn bề bao quanh vắng lặng và suy nghĩ về một kiếp người trôi nổi, vô định.

- Bài thơ "Tràng giang" được trích từ tập thơ "Lửa thiêng" (1940).

b) Nội dung bài thơ Tràng giang

- Bài thơ khắc họa khung cảnh sông nước mênh mông, qua đó bộc lộ lòng yêu nước thầm kín mà sâu sắc.

Phan tich bai tho Trang Giang cua Huy Can bang so do tu duy

Sơ đồ tư duy phân tích Tràng giang ngắn gọn

Làm văn dựa trên sơ đồ tư duy Tràng giang là một trong những cách khoa học và hiệu quả mà không bỏ sót ý. Các em có thể tham khảo sơ đồ ngắn gọn trên đây hoặc xây dựng sơ đồ chi tiết hơn theo ý hiểu của mình để triển khai bài văn được tốt hơn.

c) Cấu tứ bài thơ Tràng giang

- Bài thơ được cấu tứ trên nền cảm hứng không gian sóng đôi vốn là cấu tứ quen thuộc của Đường thi, có dòng “tràng giang” thuộc về thiên nhiên trong tư cách một không gian hữu hình và dòng “tràng giang” tâm hồn như một không gian vô hình trong tâm tưởng.

+ Khi tiếp cận “tràng giang” với tư cách dòng sông thiên nhiên, khổ thơ nào cũng có thông điệp về nước: “nước”, “con nước”, “dòng"; “sóng gợi’ “cồn nhỏ”, “bèo dạt”, “bờ xanh” “bãi vàng”...

+ Khi tiếp cận "tràng giang" với tư cách dòng sông cảm xúc ta phát hiện thêm một điều thú vị đó là: Cảnh nào cũng gợi buồn; sóng buồn vô hạn (buồn điệp điệp); gió đầy tử khí “đìu hiu”; bến sông cô đơn, vắng vẻ “bến cô liêu”; nước với nỗi buồn trải khắp không gian “sầu trăm ngả”.

3. Một số nhận định về Huy Cận và bài thơ Tràng giang

“Ở Huy Cận, ta không thấy những tiếng kêu ầm ĩ, nóng nảy như ở tác giả Thơ Thơ và ta cũng không thấy cái buồn vơ vẩn và nhẹ nhàng như ở tác giả Tiếng thu. Huy Cận than thân thì ít mà góp tiếng khóc với đời thì nhiều”.

(Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại)

“Đời chúng ta nằm trong một chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng thấy lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình của Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận”.

(Hoài Thanh, Thi nhân Việt Nam)

"Huy Cận đã cực tả được nỗi buồn hiu hắt, vươn lên giữa cái bao la vắng lạnh của một cõi lòng vời vợi yêu đương: Gió về lòng rộng không nghe/ Hơi may hiu hắt bốn bề tâm tư…

Trong cô đơn cảm xúc của thi nhân thật tinh tế. Người ta cảm thấy cái buồn đến chầm chậm trong lòng một đêm mưa: Đêm mưa làm nhớ không gian/ Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la…/ Tai nương nước giọt mái nhà/ Nghe trời nằng nặng nghe ta buồn buồn.” Cái buồn nơi đèo cao quán chật, cái buồn của kẻ lữ - thử dừng ngựa sườn non và nhất là cái buồn vô duyên cớ, đặc biệt lãng - mạn, cái buồn thật xa xưa, bắt nguồn từ vạn kỷ và theo đuổi thi nhân trong cái bơ - vơ của kiếp người: Thuyền về nước lại sầu trăm ngả / Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

(Hà Như Chi, Một thời lãng mạn trong thi ca Việt Nam)

“Huy Cận đào sâu cái buồn mênh mang ấy quả đã góp phần bổ túc một đề tài muôn thuở, làm phong phú thơ mới ở một giai đoạn chuyên về đạo tình. Song ta cũng có thể nói, qua năm 1938, ở xã hội Việt Nam, cái vui vẻ trẻ trung người ta, kể cả thanh niên, uống đã tới chỗ cặn đắng. Cái buồn của Huy Cận đây phải chăng cũng là một phản ứng thời đại. Người ta nghĩ đến những lời rên rĩ bâng khuâng của Á Nam và Tản Đà. Chiếc linh hồn nhỏ là tác giả Lửa thiêng, phải chăng như một cánh chim đầu đàn tiên cảm cơn bão tố sắp tới.”

(Phạm Thế Ngũ)

“Bầu trời của vũ trụ là trời thơ của Huy - Cận, nhưng cũng nhân cái bao la mịt mù của không gian mịt mù mà Huy - Cận cảm buồn cái bé nhỏ của mình, một sinh vật biểu hiện cho bơ vơ, lạnh lẽo cô đơn, trống trải, sầu đau trong kiếp nhân sinh.”

(Nguyễn Tấn Long)

“Huy Cận đã nói giùm ta cái tâm sự cô đơn ngậm ngùi của mỗi cá nhân, viết hộ ta nỗi buồn nhân thế giữa một xã hội nhiều bon chen ti tiện hơn là tình cảm thông, hài hòa.”

(Sông Thai)

Phân tích bài thơ Tràng giang ngắn gọn theo từng khổ

Luận điểm 1: Bức tranh thiên nhiên mênh mang, bất tận (Khổ 1)

- Những vòng nước xô đuổi nhau đến tận chân trời

- Qua khổ thơ còn thể hiện nổi buồn miên man của tác giả

- Sự trôi nổi, phó mặc của tác giả trên dòng sông hữu tình

- Tâm trạng chia li, tán tác

Luận điểm 2: Không gian và thời gian qua bài thơ (Khổ 2)

- Không gian hoang vắng, đìu hiu

- Không gian vắng lặng, tĩnh mịch

- Không gian được đẩy vô tận

- Cảnh vật khiến con người trở nên nhỏ bé

Luận điểm 3: Nỗi buồn da diết của nhà thơ

- Không có sự giao hòa, liên quan giữa con người với con người

- Cái tôi cô đơn, trống vắng, khát khao sự hòa hợp, đồng điệu giữa con người

- Bức tranh thiên nhiên hiện lên một sự kì vĩ và tráng lệ

- Nỗi buồn quê hương, đất nước, nỗi buồn da diết của tác giả

Phân tích Tràng giang

Phân tích Tràng giang chi tiết theo nội dung

1. Ý nghĩa nhan đề và câu thơ đề từ

a) Ý nghĩa nhan đề

- Nhan đề "Tràng giang" mang ý nghĩa là sông dài, là hình ảnh tượng trưng cho cuộc đời, cho kiếp người nhỏ bé, lênh đênh trước dòng chảy thời gian.

+ Điệp âm “ang” là âm mở, gợi sự mênh mông, lớn rộng, ý muốn nói rằng dòng sông hiện lên không chỉ là tràng giang mà còn là đại giang, tức là không gian mang tầm vũ trụ.

+ Sử dụng từ Hán Việt mang sắc thái cổ kính ý muốn nói dòng sông không chỉ dài và rộng từ góc nhìn địa lý mà còn có chiều sâu từ góc nhìn lịch sử.

+ Thay vì tên riêng thì tác giả gọi con sông bằng tên chung nhằm gợi ra ấn tượng khái quát và trang trọng.

- Huy Cận là nhà thơ của cảm thức không gian nên ông thường tìm đến những miền không gian khác nhau như cồn, bến, dòng sông… để biểu hiện cảm xúc, tâm trạng của mình. -> Chỉ có những không gian như "Tràng giang" mới chứa hết được nỗi "sầu vạn kỷ" trong tâm hồn ảo não của Huy Cận.

- Nhan đề "Tràng giang" khái quát chủ đề của bài thơ về nỗi buồn cô đơn, nỗi nhớ quê hương và nỗi niềm nhân sinh sâu sắc của nhà thơ.

- "Tràng giang" gợi âm hưởng dài, rộng, ngân vang trong lòng người đọc, mở rộng chiều kích cảm nhận cho người đọc cả về chiều rộng, nhờ vậy mà con sông xuất hiện trong bài thơ trở lên dài, rộng, mênh mông hơn, ánh lên vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại.

b) Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài"

- Hé mở hoàn cảnh sáng tác của bài thơ: đó là vào một buổi chiều mùa thu bên bờ Nam, bến Chèm, tác giả nhìn cảnh sông nước mênh mông, bốn bề vắng lặng và nghĩ về một kiếp người trôi nổi, vô định.

- Định hướng nội dung và cảm xúc cho toàn bộ bài thơ:

+ Về nội dung: không gian rộng lớn mang tầm vũ trụ, có chiều rộng bát ngát của bầu trời, có chiều dài vô tận của dòng chảy, chiều cao giữa trời và mặt nước sông.

+ Về cảm xúc chủ đạo: cảm giác bâng khuâng, lạc lõng, hoang mang giữa không gian choáng ngợp, hoài niệm về một điều gì đó đã khuất xa trong không gian và lùi xa trong thời gian. Đó cũng chính là xúc cảm chung của con người bao đời nay.

2. Bức tranh thiên nhiên mênh mông và rộng lớn

- Không gian mênh mông, rợn ngợp:

+ Sông nước bao la, bất tận trải dài không có điểm dừng.

“Con thuyền xuôi mái nước song song”

+ Bầu trời cao rộng, không có giới hạn:

"Nắng xuống, trời lên sâu chót vót"

+ Cảnh sông "cồn nhỏ lơ thơ", "gió đìu hiu" gợi lên cái vắng lặng, lạnh lẽo cô đơn đến rợn ngợp.

- Cảnh vật hoang sơ, đìu hiu:

+ "Củi một cành khô", "bèo dạt về đâu" là những chi tiết nhỏ nhưng gợi lên sự cô đơn, lạc lõng của con người giữa thiên nhiên rộng lớn.

+ Không có sự xuất hiện của con người, chỉ có thiên nhiên đơn độc, tĩnh lặng, tiếng sóng vỗ, tiếng gió thổi, tiếng chim kêu.

+ Màu "xanh" của bờ sông, màu "vàng" của bãi cát ảm đạm, thiếu sức sống.

+ Không có âm thanh của cuộc sống, chỉ có tiếng "sóng gợn" đều đều.

3. Nỗi buồn của cái tôi trữ tình trước thiên nhiên rộng lớn

- Cái tôi trữ tình trong bài thơ mang nỗi buồn cô đơn, lạc lõng trước thiên nhiên.

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu”

"Nắng xuống, trời lên sâu chót vót"

+ Các từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu”, “chót vót” diễn tả trọn vẹn được sự cô quạnh, hoang vắng của cảnh vật.

+ Đảo ngữ “lơ thơ” nhấn mạnh cảm giác thưa thớt, hoang vắng, lạnh lẽo.

+ “sâu chót vót” vừa diễn tả chiều cao, vừa diễn tả độ sâu. Thay vì “trời lên cao chót vót”, tác giả miêu tả “trời lên sâu chót vót” để nhằm gợi lên một nỗi buồn "sâu" không đáy trải dài đến vô cùng tận của lòng người.

- Nhà thơ muốn nghe lắm “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” nhưng hoàn toàn không có tiếng đáp trả, từ “vãn” càng tạo ra cảm giác xa xôi, tẻ nhạt, quạnh vắng -> Câu thơ có 3 cách hiểu nhưng đều gợi lên trong lòng người đọc nỗi buồn, sự hoang vắng, tàn tạ của không gian, thiếu vắng đi sự sống của con người.

+ Cách hiểu 1: Câu hỏi mong tìm được một chút âm thanh sự sống, âm thanh của con người.

+ Cách hiểu 2: Diễn tả âm thanh tiếng chợ chiều vang lên đâu đó.

+ Cách hiểu 3: Đâu có, không có âm thanh vãn chợ chiều.

- “Sông dài trời rộng, bến cô liêu”: cảnh sông nước mênh mông, rộng lớn, bến cô liêu chẳng một bóng người lạnh lẽo, hoang sơ và ảm đạm -> Sự tương phản giữa cái nhỏ bé (bến cô liêu) và cái vô cùng (sông dài, trời rộng) gợi lên cảm giác trống vắng, cô đơn.

- Nỗi cô đơn của kiếp người:

+  “Bèo dạt về đâu hàng nối hàng”: lời tự hỏi, là sự đau đớn trước số phận, trước thời cuộc, khi chính bản thân ông cũng không thể tìm ra lối đi đúng đắn, dù muốn thay đổi thế sự nhưng chịu bất lực.

+ “Hàng nối hàng": cảnh ngộ chung của một thế hệ, một tầng lớp những con người yêu nước.

=> Cảnh thiên nhiên rộng lớn, hùng vĩ càng làm nổi bật sự nhỏ bé, lạc lõng của con người.

- Nỗi buồn nhân sinh sâu sắc: Nỗi buồn của cái tôi trữ tình không chỉ là nỗi buồn cá nhân mà còn là nỗi buồn nhân sinh sâu sắc

+ Hình ảnh “bèo dạt về đâu hàng nối hàng”: gợi lên hình ảnh về kiếp người, cõi nhân sinh trôi nổi, không biết rồi sẽ đi đâu, về đâu.

+ Nghệ thuật phủ định được lặp lại: “không một chuyến đò ngang”, “không cầu”

=> Ở nơi đây không có bất cứ thứ gì gắn kết đôi bờ với nhau, thiếu dấu vết của sự sống, của bóng hình con người và hơn hết là tình người, mối giao hòa, thân mật giữa con người với nhau.

4. Nỗi nhớ quê hương da diết

- Những hình ảnh "sông dài", "nước chảy", "bèo trôi" gợi lên sự xa cách, chia lìa và nỗi nhớ nhung da diết của nhà thơ với quê hương.

- Nỗi nhớ quê hương không chỉ là nỗi nhớ nhất thời mà còn là nỗi nhớ thường trực, ám ảnh trong tâm trí nhà thơ

- Hình ảnh “dờn dợn vời con nước” không chỉ tả những đợt sóng lan xa mà hơn thế nó còn gợi lên cảm giác buồn nhớ đến vô tận của nhà thơ - nỗi buồn của người xa xứ đang nhớ quê hương da diết.

- “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”: Nỗi nhớ quê tha thiết đến độ không cần đến “khói hoàng hôn” mà lòng vẫn đượm nỗi nhớ mong sâu nặng.

5. Tình yêu quê hương, đất nước

- Bức tranh chiều tà đẹp hùng vĩ, êm ả, thơ mộng được vẽ lên bởi những hình ảnh ước lệ, cổ điển.

"Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa."

+ Những đám mây trắng cứ hết lớp này đến lớp khác nối tiếp nhau “đùn” lên dưới ánh nắng chiều như tạo thành những quả núi bạc.

+ Hình ảnh cánh chim xuất hiện độc đáo: "chim nghiêng cánh" cũng là lúc "bóng chiều sa".

- Hình ảnh cánh chim trong buổi chiều tàn gợi lên niềm mong cầu tha thiết về một tổ ấm, một mái nhà, một quê hương, một cuộc sống yên vui thanh bình...

- Nỗi buồn trong cảnh nước nhà mất chủ quyền, bơ vơ trước thiên nhiên hoang vắng

+ Niềm tha thiết với thiên nhiên, tạo vật

+ Nỗi buồn trước cảnh mất nước được hòa quyện trong cảnh vật của tự nhiên

+ Gián tiếp thể hiện tấm lòng yêu nước và nỗi buồn thông qua việc miêu tả cảnh vật.

Giá trị nội dung và nghệ thuật của Tràng giang

1. Giá trị nội dung

- Thông qua bức tranh hùng vĩ với cách nhìn độc đáo vừa gần vừa xa, vừa cao vừa sâu, nhà thơ đã bộc lộ nỗi buồn của cái tôi cô đơn trước vũ trụ rộng lớn, nỗi buồn của một thế hệ khi phải sống trong cảnh nước mất nhà tan. Bức tranh với những hình ảnh gần gũi như sông, nước, bến, thuyền vừa mang một vẻ đẹp vừa cổ kính vừa hiện đại, tô đậm thêm sự độc đáo trong thơ của Huy Cận.

- Thể hiện nỗi sầu nhân thế, niềm khao khát hòa nhập với cuộc đời, với con người và thiên nhiên, kín đáo đặt trong đó tình yêu đất nước (con người sống giữa quê hương mà cảm thấy bơ vơ, lạc lõng, cô đơn trên chính quê hương ấy -> Cảm xúc của người dân mất nước).

2. Giá trị nghệ thuật

- Bài thơ được kết hợp giữa lối thơ cổ điển và hiện đại, thể thơ thất ngôn, chất thơ Đường nhưng được kết hợp với cái tôi của thơ mới.

- Hình ảnh được gợi lên trong thơ vô cùng trong sáng, giàu xúc cảm.

- Chất thơ Đường thấm đượm từ nhan đề, thể thơ, thi tứ (sự lẻ loi của con người trước tạo vật, vũ trụ to lớn), các bút pháp nghệ thuật như đối ngẫu, song đối.

- Thể thơ thất ngôn tạo nên sự trang nghiêm cổ kính, kết hợp với nhịp thơ 4/3, 2/2/3 quen thuộc tạo nên sự hài hòa cân đối cho bài thơ.

- Phép lặp từ, điệp ngữ tô đậm thêm nỗi buồn cho bài thơ.

- Thủ pháp tương phản được sử dụng triệt để.

    Từ những hướng dẫn phân tích Tràng giang của Đọc tài liệu trên đây, các em có thể triển khai thành một bài văn hoàn chỉnh cho đề bài phân tích bài thơ Tràng giang

. Tham khảo thêm nội dung bài học trong phần soạn bài Tràng giang để có được nguồn dẫn chứng chi tiết, đầy đủ và sâu sắc nhất.

Bài văn mẫu phân tích Tràng giang

Những bài văn mẫu phân tích bài thơ Tràng giang sau đây sẽ giúp các em tham khảo để triển khai nội dung bài viết dễ dàng hơn cũng như mở rộng thêm vốn từ ngữ trong quá trình làm bài.

Phân tích Tràng giang hay và đặc sắc nhất

Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm

Nỗi nhớ thương không biết đã tan chưa

Hay lòng chàng vẫn tủi nắng sầu mưa

Cùng đất nước mà nặng buồn sầu núi

Cái hồn riêng của thơ Huy Cận trước cách mạng tháng Tám như được gói gọn lại trong những câu thơ trên. Mỗi câu thơ dường như chất chứa bao nỗi sầu thiên thu vạn cổ, mang theo cả những tâm tình sâu nặng với quê hương đất nước ẩn trong đó. Vẻ đẹp riêng độc đáo của thơ Huy Cận làm nên bởi sự kết hợp của chất cổ điển và hiện đại, viết về thiên nhiên, vũ trụ về những khoảng thời gian buồn vắng hiu quạnh. Tiêu biểu cho phong cách thơ, cho hồn thơ Huy Cận là bài thơ Tràng giang. Không chỉ mang nỗi sầu của một cái tôi cô đơn trước thiên nhiên mênh mông hiu quạnh, bài thơ còn thấm đượm cả nỗi sầu nhân thế và tấm lòng yêu nước thầm kín của nhà thơ.

Tràng giang được gợi cảm hứng từ một buổi chiều cuối thu nơi bờ nam bến Chèm, trước khung cảnh sống Hồng đang mùa nước lớn. Chàng thi sĩ chứng kiến những cánh bèo, cành củi đang trôi nổi giữa dòng nước mênh mông mà gợi ngay lên một tứ thơ. Bao trùm bài thơ dường như là một nỗi buồn mênh mang vô tận của thi sĩ khi đứng trước thiên nhiên, đất nước và cuộc đời. Ngay từ nhan đề bài thơ đã gợi ra chất cổ điển rất riêng của Huy Cận. Nhà thơ dùng một từ Hán - Việt để đặt nhan đề cho bài thơ của mình. Từ Hán Việt có tác dụng lớn nhất là gợi ra không khí cổ điển, trang trọng và phảng phất chất Đường thi. Không những vậy thay vì dùng “Trường giang” Huy Cận biến âm dùng Tràng giang, hai âm “ang” được đặt liên tiếp là âm mở vừa gợi được cái dài rộng của không gian vừa gợi được cái mênh mang, bát ngát man mác xúc cảm trong lòng độc giả. Bên cạnh đó “Tràng giang” còn có sức khái quát.

Nó không phải là một con sông cụ thể nào, không phải con sông của đời thường mà dường như là con sông của lịch sử, của văn học, của thi nhân và còn là con sông cuộc đời. Bước qua nhan đề, người đọc lại gặp ngay lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” như bao trọn cảm hứng của toàn bài thơ. Đó là không gian của trời rộng sông dài, là cảm xúc của bâng khuâng thương nhớ. Thế cho nên nếu toàn bài thơ là không gian rộng lớn là cảm xúc thoáng buồn thì cũng hoàn toàn là hợp lý.

Trong mạch cảm xúc như thế, khổ một mở ra một không gian sông nước rộng lớn mênh mang:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng

Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh những con sóng khẽ gợn, nối tiếp nhau đến vô cùng, vô tận, tầng tầng lớp lớp không dứt. Câu thơ sử dụng bút pháp “lấy động tả tĩnh” của văn học trung đại. Chuyển động của con sóng chỉ là “gợn” rất khẽ, rất nhỏ dường như tan đi trong cái không gian mênh mông của sông của trời. Con sóng đi cùng với tràng giang đã không còn là con sóng thực mà dường như mang một lớp nghĩa ẩn dụ mới. Nó gợi đến nỗi buồn trong tâm hồn con người trước sự dài rộng của không gian. Cùng với hình ảnh sóng nước là hình ảnh con thuyền đang lênh đênh xuôi theo dòng. Hình ảnh này như gợi đến kiếp sống nổi lênh của một lớp người bé nhỏ trong xã hội. Đây cũng là một thi liệu quen thuộc gần như đã trở thành chuẩn mực trong văn học. Trong thơ Đường, ta đã từng bắt gặp hình ảnh con thuyền và dòng sông đầy ám ảnh, trĩu nặng cái tình của người đưa tiễn:

Cô phàm viễn cảnh bích không tận

Duy kiến Trường giang thiên tế lưu

(Lí Bạch)

Khác chăng là con thuyền của Huy Cận không còn là con thuyền mang vẻ đẹp kì vĩ nữa mà nó thoáng vẻ mênh mang gợi cái chia lìa xa cách:

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng

Con thuyền thì nhỏ bé, hữu hạn mà dòng sông thì rộng lớn vô hạn. Cái hữu hạn đối với cái vô hạn dường như càng tô đậm cảm giác nhỏ bé cô đơn. Hơn thế nữa thuyền và nước vốn là những sự vật gắn bó nước chảy thuyền trôi vậy mà ở đây lại bị chia tách với hai chuyển động ngược chiều về hai phía khác nhau. Cặp từ láy “điệp điệp”, “song song” ở hai câu thơ trước đã tô đậm ấn tượng về nỗi buồn mênh mang đang lan trên mặt nước, lại càng có tác dụng hơn khi tạo nên cấu trúc câu song ứng và rồi đến câu thơ thứ ba thì hai vế đối song ứng được dồn vào một câu thơ. “Thuyền về” đối với “nước lại” như nhấn mạnh vào cảm giác chia lìa đôi ngả. Và phải chăng vì sự chia lìa đó mà dòng sông tràng giang càng thêm u buồn lặng lẽ?

Đối lập với không gian Đường thi mang đậm chất cổ điển ở ba câu thơ đầu là dáng vẻ hiện đại ở câu thơ thứ tư:

Củi một cành khô lạc mấy dòng

Các nhà thơ xưa thường dùng hình ảnh hoa trôi, bèo dạt để gợi đến kiếp người nhỏ bé lênh đênh. Còn ở đây Huy Cận lại chọn hình ảnh một cành củi khô đang trôi dạt giữa dòng nước mênh mang để thể hiện điều đó. Biện pháp đảo ngữ cùng cách ngắt nhịp 1/3/3 càng như nhấn mạnh hơn vào cành củi khô nhỏ bé, khô héo, cạn kiệt sức sống. Ý thơ này có lẽ vừa được khơi nguồn từ hình ảnh thực khi nhà thơ đứng ở bờ nam bến Chèm giữa mùa nước lớn, những cành cây khô trôi từ thượng nguồn về bến sông. Nhưng có lẽ nó còn mang một lớp nghĩa ẩn dụ khác. Nó gợi về một lớp người lúc bấy giờ trong xã hội. Ý thơ này càng được làm rõ hơn với từ “lạc” dường như là sự trôi nổi vô định, mất phương hướng. Một cành củi khô héo không sức sống mà vẫn bị giằng xé, chao đảo giữa dòng nước mênh mang của cuộc đời. Nó gợi đến hình ảnh một lớp người như nhà thơ trong xã hội xưa, những trí thức tiểu tư sản có ý thức về cái tôi nhưng lại bế tắc, mất phương hướng trước hiện thực xã hội bấy giờ.

Huy Cận thật sáng tạo khi đã mang vào thơ một hình ảnh rất đời, rất thực tạo ra một hình ảnh mới giàu sức gợi, đậm chất hiện đại phá vỡ tính ước lệ và cổ xưa của thơ Đường. Khổ thơ thứ nhất đã gợi lên không gian mênh mông rộng dài của sông nước, gợi thân phận nhỏ bé mất phương hướng giữa cuộc đời của một lớp người, gợi được nét buồn phảng phất mênh mang. Đồng thời, khổ thơ vừa mang vẻ đẹp cổ điển lại vừa hòa quyện nét hiện đại mới mẻ, tạo nên một bức tranh thiên nhiên giàu sức gợi.

Nếu khổ thơ thứ nhất là cái nhìn cận cảnh của nhà thơ trước dòng sông mênh mông để thấy từng gợn sóng từng cành củi khô trôi dạt thì khổ hai là cái nhìn bao quát toàn cảnh sông dài, trời rộng đến bâng khuâng:

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu

Hai câu thơ đầu đã vẽ lên khung cảnh buổi chiều trên sông nước thật vắng vẻ, tĩnh lặng. một bức tranh sông nước mênh mang đến rợn ngợp đã được phác họa nên bằng nét bút chấm phá của Huy Cận. Trong khoảng không gian rộng lớn ấy, nhà thơ điểm một vài chấm nhỏ để tạo nên sự tương phản gay gắt giữa vũ trụ bao la và những sự vật thật nhỏ bé:

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Biện pháp đảo ngữ đẩy từ “lơ thơ” lên đầu đã nhấn mạnh vào cảm giác thưa thớt, nhỏ bé của những cồn cát. Hai từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” đứng ở đầu và cuối câu thơ như gợi ra cái hiu quạnh, vắng vẻ, lẻ loi, cô đơn của cảnh vật. Những cồn cát nhỏ ven sông trong cái gió đìu hiu của lau lách, hoang vu như làm dấy lên trong lòng người nỗi cô đơn, buồn vắng. Không gian tĩnh lặng ấy càng được nhấn mạnh:

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Chợ trong tâm thức người Việt gắn với tươi vui, bởi đó là nơi gặp gỡ, giao lưu của người dân xưa. Thế nên chợ vãn, chợ tàn sẽ gợi nên sự vắng vẻ, gợi nỗi buồn. Ở đây, nhà thơ tiếp tục dùng biện pháp lấy động để tả tĩnh. Âm thanh vang lên nhưng lại chỉ là âm thanh từ xa vọng lại và cũng là âm thanh của chợ vãn nên dường như có như không, gợi cái tĩnh lặng hơn cái ồn ào, tấp nập. Từ “đâu” đứng ở đầu câu thơ tạo ra nhiều cách hiểu. Nó có thể là từ để hỏi như đâu đó tiếng chợ chiều vọng đến, cũng lại có thể là từ phủ định, làm gì có, đâu có đâu tiếng chợ chiều. Đến cả tiếng chợ vãn, chợ tan mà cũng như có như không thì bức tranh đó phải tĩnh lặng, buồn vắng tới mức nào. Một lần nữa bút pháp cổ điển lại giúp tác giả gợi được cái vô hạn của không gian và sự nhỏ bé của sự vật, cái tĩnh lặng của cảnh sắc với những âm thanh bé nhỏ của cuộc sống. Từ sự đối lập tương phản đó bức tranh buổi chiều, cảnh ngày tàn hiện lên:

Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài trời rộng bến cô liêu

Câu thơ đầu như một sự mở rộng về không gian. Huy Cận đã có sự quan sát tinh tế và kĩ càng để nhận thấy nắng càng xuống trời càng lên cao. Không gian như được mở ra hai chiều rộng dài đến bát ngát. Thêm nữa chuyển động trái chiều mang lại cảm giác mạnh cho người đọc về một không gian như được mở dần ra. Nhưng chưa dừng lại ở đó, “người dệt nên những vần thơ hàm súc, triết lí” đã có cách dùng từ ngữ thật sáng tạo. Nếu thông thường chúng ta dùng từ “chót vót” để gợi độ cao thì ở đây ông dùng từ này để chỉ độ sâu. Sự bất thường này lại mang đến một hiệu quả lớn. Bạn đọc như nhận ra một chiều khác nữa của không gian sông nước đó là chiều sâu, không gian được đẩy tới tận cùng tạo ra một chiều kích mới. Và phải sâu đến độ nào để thi nhân phải thốt lên “sâu chót vót”. Cụm từ sáng tạo này càng khiến cho khung cảnh thêm rợn ngợp, cái lẻ loi chống chếnh của con người càng được tô đậm thêm. Ở câu thơ sau một lần nữa các chiều kích của không gian được nhắc lại trong cái vô hạn của đất trời. Và không gian càng mở ra bao nhiêu thì cảm giác cô liêu càng được nhấn mạnh bấy nhiêu. Cái điểm dừng bé xíu của bến cô liêu như lạc giữa đất trời, như lẻ loi đến cô độc. Như vậy khổ thơ thứ hai trong cái nhìn bao quát toàn cảnh vật của thi nhân đã mở rộng không gian ra mọi chiều kích, tới không giới hạn để rồi nhìn lại con người càng thêm bé nhỏ, trống vắng và cô quạnh.

Hướng điểm nhìn vào hai bên bờ sông, chàng thi sĩ phát hiện ra hàng loạt những hình ảnh khác nhỏ bé của bến sông và dường như các hình ảnh này càng giúp thi nhân tô đậm sự buồn vắng, cô quạnh, chia lìa.

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng

Hình ảnh bèo dạt rất quen thuộc và xuất hiện nhiều lần trong thơ ca truyền thống. Nhưng ở đây cánh bèo dạt vẫn gợi lên những cảm nhận mới. Hình ảnh này diễn tả một cách thấm thía sự hợp tan, chia lìa của những kiếp người chứ không chỉ gợi sự nhỏ bé mong manh, trôi dạt như trong thơ ca truyền thống. Bèo dạt hàng nối hàng như bao kiếp người lênh đênh trên dòng nhân thế. Cảm nhận về sự lênh đênh, trôi dạt vô định của một kiếp người càng khiến nỗi sầu tăng lên gấp bội trong lòng thi nhân. Ở khổ thơ này, Huy Cận còn nhắc đến những chuyến đò và những cây cầu. Đây là những hình ảnh gợi sự kết nối, giao lưu.

Vậy mà tác giả nhắc tới những sự vật đó, không phải là để khẳng định cái có mà là để miêu tả cái không có, không tồn tại trong bức tranh sông nước tràng giang. Không cầu, không đò hay chính là không có sự kết nối của con người, hay chính là sự cô đơn, hoang vắng đến tột cùng? Trong sự vắng lặng đó, không gian vẫn tiếp tục được trải ra đến vô cùng của bờ xanh với bãi vàng. Bức tranh xuất hiện những gam màu vốn không đen tối nhưng lại chẳng thể làm cảnh sắc thêm tươi sáng, thêm sức sống. Dường như hai bờ sông là một thế giới tách biệt với những bờ bãi kia, những cánh bèo cũng vì thế mà chẳng biết trôi dạt về đâu. Trước một cảnh sắc như thế lòng người sao có thể vui tươi, háo hức. Hay cũng vì lòng người nhiều tâm tư trĩu nặng mà cái nhìn với cảnh cũng thấm đẫm ưu tư?

Từ sự dẫn đường đó, khổ thơ thứ tư bộc lộ rõ hơn tâm tình tác giả:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

Hai câu đầu của khổ thơ mang đậm ý vị của Đường thi, nhuốm màu sắc cổ điển. Đó là cảnh buổi chiều, cảnh hoàng hôn với cánh chim và chòm mây - những thi liệu vô cùng quen thuộc trong thơ ca:

Chim bay về núi tối rồi (ca dao)

Chim hôm thoi thóp về rừng (Nguyễn Du)

Chúng điểu cao phi tận

Cô vẫn độc khứ nhàn (Lí Bạch)

Ở đây cánh chim và chòm mây một lần nữa thực hiện đúng chức năng của mình gợi ra buổi chiều nơi sông nước mênh mang. Cảnh sắc có cái hùng vĩ nên thơ với những lớp mây cao như những ngọn núi lấp lánh ánh bạc phía chân trời, với cánh chim chiều nghiêng bóng vội vã tìm về tổ ấm. Trong cái nghiêng của cánh chim dường như chở nặng cả bầu trời, bóng chiều rơi dần xuống. Câu thơ vừa quen thuộc vừa mới mẻ cho thấy cái tinh tế riêng của thi sĩ. Cánh chim nhỏ bé nghiêng bóng cũng một lần nữa nhấn mạnh sự tương phản giữa những thực thể nhỏ bé tồn tại trong bức tranh với không gian rộng lớn mang tầm vũ trụ. Có lẽ sự tương phản ấy đã làm dấy lên trong lòng mỗi người đọc cảm giác tịch mịch, u bóng gợi nỗi buồn ẩn sâu nào đó trong mỗi chúng ta.

Hai câu thơ sau mượn ý thơ của Thôi Hiệu một nhà thơ nổi tiếng đời Đường trong bài Hoàng hạc lâu:

Nhật mộ hương quan hà xứ thị

Yên ba giang thượng sử nhân sầu

(Quê hương khuất bóng hoàng hôn

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai)

Nếu Thôi Hiệu cần một màu khói để gợi nỗi nhớ nhà, nếu màu khói trong ý thơ xưa gợi không khí sum họp khiến người tha phương khát khao tình quê thì nay trong thơ Huy Cận không cần màu khói ấy, nỗi nhớ nhà, tình yêu quê hương đất nước vẫn thường trực và trào sôi. Có lẽ tình yêu thầm kín mà da diết dành cho quê hương đất nước ẩn chứa trong tâm chàng thi sĩ đa sầu ấy đã làm nên một tứ thơ hay và xúc động đến vậy. Bài thơ khép lại với nỗi nhớ quê với tình yêu nước sâu lắng và giá trị của tác phẩm có lẽ chính là ở đây chăng?

Phân tích Tràng giang là một thi phẩm đặc sắc của Huy Cận nói riêng và phong trào thơ mới nói chung. Không chỉ tiêu biểu cho phong cách thơ, hồn thơ Huy Cận mà bài thơ dường như còn thể hiện tâm tư của một lớp người lúc bấy giờ. Những con người nhỏ bé, bế tắc mất phương hướng trước dòng sông cuộc đời nhưng chưa bao giờ tâm hồn lìa bỏ khỏi quê hương, tình yêu quê hương đất nước vẫn chảy trong họ như dòng sông mãnh liệt và bền vững để chống đỡ với những sóng gió của dòng sông cuộc đời. Vẻ đẹp của “Tràng giang” có lẽ còn ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất cổ điển và chất hiện đại làm nên một thi phẩm độc đáo.

(Nguồn: Bài làm của Minh Thu - Lớp Văn cô Ngọc Anh)

Phân tích Tràng giang đạt điểm 9,5 trong kỳ thi tuyển sinh năm 2007

Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, sinh năm 1919 và mất năm 2005, với giọng thơ rất riêng đã khẳng định tên tuổi của mình trong phong trào thơ Mới 1930 - 1945. Ông vốn quê quán Hương Sơn, Hà Tĩnh. Trước cách mạng tháng Tám, thơ ông mang nỗi sầu về kiếp người và ca ngợi cảnh đẹp của thiên nhiên, tạo vật với các tác phẩm tiêu biểu như "Lửa thiêng", "Vũ trụ ca", Kinh cầu tự". Nhưng sau Cách mạng tháng Tám, hồn thơ của ông đã trở nên lạc quan, được khơi nguồn từ cuộc sống chiến đấu và xây dựng đất nước của nhân dân lao động: "Trời mỗi ngày lại sáng", "Đất nở hoa", "Bài thơ cuộc đời"... Vẻ đẹp thiên nhiên nỗi ưu sầu nhân thế, một nét thơ tiêu biểu của Huy Cận, được thể hiện khá rõ nét qua bài thơ "Tràng giang". Đây là một bài thơ hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám. Bài thơ được trích từ tập "Lửa thiêng", được sáng tác khi Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm sông Hồng, nhìn cảnh mênh mông sóng nước, lòng vời vợi buồn, cám cảnh cho kiếp người nhỏ bé, nổi trôi giữa dòng đời vô định. Mang nỗi u buồn hoài như thế nên bài thơ vừa có nét đẹp cổ điển lại vừa đượm nét hiện đại, đem đến sự thích thú, yêu mến cho người đọc.

Ngay từ thi đề, nhà thơ đã khéo gợi lên vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại cho bài thơ:

Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài

"Tràng giang" là một cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai âm "ang" đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát. Hai chữ "tràng giang" mang sắc thái cổ điển trang nhã, gợi liên tưởng về dòng Trường Giang trong thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, dòng sông của tâm tưởng.

Tứ thơ "Tràng giang" mang nét cổ điển như thơ xưa: Nhà thơ thường ẩn đằng sau cái mênh mông sóng nước, không như các nhà thơ mới thường thể hiện cái tôi của mình. Nếu các thi nhân xưa tìm đến thiên nhiên để mong hòa nhập, giao cảm thì Huy Cận lại tìm về thiên nhiên để thể hiện nỗi ưu tư, buồn bã về kiếp người cô đơn, nhỏ bé trước vũ trụ bao la. Đó cũng là vẻ đẹp đầy sức quyến rũ của tác phẩm, ẩn chứa một tinh thần hiện đại.

Câu đề từ giản dị, ngắn gọn với chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm được cảm xúc chủ đạo của cả bài: "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài". Trước cảnh "trời rộng", "sông dài" sao mà bát ngát, mênh mông của thiên nhiên, lòng con người dấy lên tình cảm "bâng khuâng" và nhớ. Từ láy "bâng khuâng" được sử dụng rất đắc địa, nó nói lên được tâm trạng của chủ thể trữ tình, buồn bã, u sầu, cô đơn, lạc lõng. Và con "sông dài", nghe miên man tít tắp ấy cứ vỗ sóng đều đặn khắp các khổ thơ, cứ cuộn sóng lên mãi trong lòng nhà thơ làm rung động trái tim người đọc.

Và ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lòng đầy ưu tư, sầu não như thế:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ được thể hiện khá rõ ngay từ bốn câu đầu tiên này. Hai từ láy nguyên "điệp điệp", "song song" ở cuối hai câu thơ mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. Và không chỉ mang nét đẹp ấy, nó còn đầy sức gợi hình, gợi liên tưởng về những con sóng cứ loang ra, lan xa, gối lên nhau, dòng nước thì cứ cuốn đi xa tận nơi nào, miên man miên man. Trên dòng sông gợn sóng "điệp điệp", nước "song song" ấy là một "con thuyền xuôi mái", lững lờ trôi đi. Trong cảnh có sự chuyển động là thế, nhưng sao chỉ thấy vẻ lặng như tờ, mênh mông của thiên nhiên, một dòng "tràng giang" dài và rộng bao la không biết đến nhường nào.

Dòng sông thì bát ngát vô cùng, vô tận, nỗi buồn của con người cũng đầy ăm ắp trong lòng:

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Thuyền và nước vốn đi liền nhau, thuyền trôi đi nhờ nước xô, nước vỗ vào thuyền. Thế mà Huy Cận lại thấy thuyền và nước đang chia lìa, xa cách "thuyền về nước lại", nghe sao đầy xót xa. Chính lẽ vì thế mà gợi lên trong lòng người nỗi "sầu trăm ngả". Từ chỉ số nhiều "trăm" hô ứng cùng từ chỉ số "mấy" đã thổi vào câu thơ nỗi buồn vô hạn.

Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ nhất qua câu thơ đặc sắc: "Củi một cành khô lạc mấy dòng". Huy Cận đã khéo dùng phép đảo ngữ kết hợp với các từ ngữ chọn lọc, thể hiện nổi cô đơn, lạc lõng trước vũ trụ bao la. "Một" gợi lên sự ít ỏi, nhỏ bé, "cành khô" gợi sự khô héo, cạn kiệt nhựa sống, "lạc" mang nỗi sầu vô định, trôi nổi, bập bềnh trên "mấy dòng" nước thiên nhiên rộng lớn mênh mông. Cành củi khô đó trôi dạt đi nơi nào, hình ảnh giản dị, không tô vẽ mà sao đầy rợn ngợp, khiến lòng người đọc cảm thấy trống vắng, đơn côi.

Nét đẹp cổ điển "tả cảnh ngụ tình" thật khéo léo, tài hoa của tác giả, đã gợi mở về một nỗi buồn, u sầu như con sóng sẽ còn vỗ mãi ở các khổ thơ còn lại để người đọc có thể cảm thông, thấu hiểu về một nét tâm trạng thường gặp ở các nhà thơ mới. Nhưng bên cạnh đó ta cũng nhìn ra một vẻ đẹp hiện đại rất thi vị của khổ thơ. Đó là ở cách nói "Củi một cành khô" thật đặc biệt, không chỉ thâu tóm cảm xúc của toàn khổ, mà còn hé mở tâm trạng của nhân vật trữ tình, một nỗi niềm đơn côi, lạc lõng.

Nỗi lòng ấy được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của không gian lạnh lẽo:

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

Hai từ láy "lơ thơ" và "đìu hiu" được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. "Lơ thơ" gợi sự ít ỏi, bé nhỏ "đìu hiu" lại gợi sự quạnh quẽ. Giữa khung cảnh "cồn nhỏ", gió thì "đìu hiu", một khung cảnh lạnh lẽo, tiêu điều ấy, con người trở nên đơn côi, rợn ngợp đến độ thốt lên "Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều". Chỉ một câu thơ mà mang nhiều sắc thái, vừa gợi "đâu đó", âm thanh xa xôi, không rõ rệt, có thể là câu hỏi "đâu" như một nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một chút sự hoạt động, âm thanh sự sống của con người. Đó cũng có thể là "đâu có", một sự phủ định hoàn toàn, chung quanh đây chẳng hề có chút gì sống động để xua bớt cái tịch liêu của thiên nhiên.

Đôi mắt nhân vật trữ tình nhìn theo nắng, theo dòng trôi của sông:

"Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu"

"Nắng xuống, trời lên" gợi sự chuyển động, mở rộng về không gian và gợi cả sự chia lìa bởi vì nắng và trời mà lại tách bạch khỏi nhau. "sâu chót vót" là cảnh diễn đạt mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận, mang một nét đẹp hiện đại. Đôi mắt nhà thơ không chỉ dừng ở bên ngoài của trời, của nắng mà như xuyên thấu vào cả vũ trụ, cả không gian bao la, vô tận. Cõi thiên nhiên ấy quả là mênh mông với "sông dài, trời rộng", còn những gì thuộc về con người thì lại bé nhỏ, cô đơn biết bao: "bến cô liêu".

Vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ hiện ra qua các thi liệu quen thuộc trong Đường thi như: sông, trời, nắng, cuộc sống con người thì buồn tẻ, chán chường với "vãn chợ chiều", mọi thứ đã tan rã, chia lìa. Nhà thơ lại nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, cô đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu:

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cần gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Hình ảnh cánh bèo trôi bồng bềnh trên sông là hình ảnh thường dùng trong thơ cổ điển, nó gợi lên một cái gì bấp bênh, nổi trôi của kiếp người vô định giữa dòng đời. Nhưng trong thơ Huy Cận không chỉ có một hay hai cánh bèo, mà là "hàng nối hàng". Bèo trôi hàng hàng càng khiến lòng người rợn ngợp trước thiên nhiên, để từ đó cõi lòng càng đau đớn, cô đơn. Bên cạnh hàng nối hàng cánh bèo là "bờ xanh tiếp bãi vàng" như mở ra một không gian bao la vô cùng, vô tận, thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên, dường như không có con người, không có chút sinh hoạt của con người, không có sự giao hòa, nối kết:

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật.

Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định "... không... không" để phủ định hoàn toàn những kết nối của con người. Trước mắt nhà thơ giờ đây không có chút gì gợi niềm thân mật để kéo mình ra khỏi nỗi cô đơn đang bao trùm, vây kín, chỉ có một thiên nhiên mênh mông. Cầu hay chuyến đò ngang, phương tiện giao kết của con người, dường như đã bị cõi thiên nhiên nhấn chìm, trôi đi nơi nào.

Huy Cận lại khéo vẽ nét đẹp cổ điển và hiện đại cho bầu trời trên cao:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.

Bút pháp chấm phá với "mây cao đùn núi bạc" thành "lớp lớp" đã khiến người đọc tưởng tượng ra những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào như dát bạc. Hình ảnh mang nét đẹp cổ điển thật trữ tình và lại càng thi vị hơn khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường cổ của Đỗ Phủ:

Mặt đất mây đùn cửa ải xa.

Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động từ "đùn", khiến mây như chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Đây cũng là một nét thơ đầy chất hiện đại, bởi nó đã vận dụng sáng tạo từ thơ cổ điển quen thuộc. Và nét hiện đại càng bộc lộ rõ hơn qua dấu hai chấm thần tình trong câu thơ sau. Dấu hai chấm này gợi mối quan hệ giữa chim và bóng chiều: Chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều cùng sa xuống mặt tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng "cánh chim" và "bóng chiều" vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ điển.

Nhưng giữa khung cảnh cổ điển đó, người đọc lại bắt gặp nét tâm trạng hiện đại:

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

"Dợn dợn" là một từ láy nguyên sáng tạo của Huy Cận, chưa từng thấy trước đó. Từ láy này hô ứng cùng cụm từ "vời con nước" cho thấy một nỗi niềm bâng khuâng, cô đơn của "lòng quê". Nỗi niềm đó là nỗi niềm nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê hương, nhưng quê hương đã không còn. Đây là nét tâm trạng chung của nhà thơ mới lúc bây giờ, một nỗi lòng đau xót trước cảnh mất nước.

Bên cạnh tâm trạng hiện đại ấy là tứ thơ cổ điển được gợi từ câu thơ: "Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai" của Thôi Hiệu. Xưa Thôi Hiệu cần vịn vào sóng để mà buồn, mà nhớ, còn Huy Cận thì buồn mà không cần ngoại cảnh, bởi từ nỗi buồn nó đã sâu sắc lắm rồi. Thế mới biết tấm lòng yêu quê hương thắm thiết đến nhường nào của nhà thơ hôm nay.

Cả bài thơ vừa mang nét đẹp cổ điển, vừa mang nét hiện đại. Vẻ đẹp cổ điển được thể hiện qua lối thơ bảy chữ mang đậm phong vị Đường thi, qua cách dùng từ láy nguyên, qua việc sử dụng các thi liệu cổ điển quen thuộc như: mây, sông, cánh chim... Và trên hết là cách vận dụng các tứ thơ cổ điển, gợi cho bài thơ không khí cổ kính, trầm mặc của thơ Đường.

Phân tích bài thơ Tràng giang cho ta thấy vẻ đẹp hiện đại lan tỏa qua các câu chữ sáng tạo, độc đáo của nhà thơ như "sâu chót vót", dấu hai chấm thần tình. Nhưng vẻ đẹp ấy đọng lại cuối cùng là tâm trạng nhớ quê hương ngay khi đứng giữa quê hương, nét tâm trạng hiện đại của các nhà tri thức muốn đóng góp sức mình cho đất nước mà đành bất lực, không làm gì được. Bài thơ sẽ còn mãi đi vào lòng người với phong cách tiêu biểu rất "Huy Cận" với vẻ đẹp cổ điển trang nhã sâu lắng và vẻ đẹp hiện đại mang nặng một tấm lòng yêu nước, yêu quê hương.

(Nguyễn Hồng Ngọc Lam - Bài thi đạt điểm 9,5 môn Văn trong kỳ tuyển sinh 2007)

Những vấn đề trọng tâm khi phân tích Tràng giang

1. Cảnh và tình trong Tràng giang

Cảnh (bức tranh thiên nhiên)

- Cảnh sông nước quê hương quen thuộc: dòng sông mùa con nước, cành củi khô, những cánh bèo trôi, bờ xanh tiếp bãi vàng...

- Sự vắng lặng, hoang sơ, hiu quạnh của sông nước: sóng gợn bao la, rợn ngợp, không cầu, không đò, thiếu vắng con người.

- Vẻ đẹp cổ điển của bức tranh thiên nhiên: Hình ảnh con thuyền lặng lẽ xuôi mái, bờ xanh tiếp bãi vàng, cánh chim trong hoàng hôn.

Tình (bức tranh tâm trạng)

- Nỗi sầu vũ trụ và sầu thiên cổ (sầu thấm vào không gian và thời gian) cùng với nỗi sầu nhân thế (sầu thấm vào lòng người).

+ Hình ảnh cành củi khô “lạc mấy dòng”, những cánh bèo trôi dạt không biết về đâu gợi liên tưởng đến thân phận con người cảm thấy mình thật nhỏ bé, bơ vơ, lạc lõng;

+ Hình ảnh cánh chim bé nhỏ nghiêng cánh gánh cả ráng chiều, mang tâm trạng cô đơn.

- Nỗi buồn nhớ quê hương, tình yêu quê hương đất nước thầm kín nhưng thiết tha thể hiện qua hai câu thơ cuối: “Lòng quê dợn dợn vời con nước/ Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.

- Qua những nỗi sầu ấy ta thấy được niềm khát khao giao cảm, hòa nhập với con người, với cuộc đời của tác giả.

Sự giao hòa giữa cảnh và tình

Cảnh và tình trong "Tràng Giang" không tách rời mà đan xen, hòa quyện vào nhau. Cảnh vật không chỉ là phông nền mà còn là phương tiện để thể hiện tâm trạng của nhân vật trữ tình.

- Cảnh vật thiên nhiên hoang sơ, rộng lớn là biểu hiện của tâm trạng cô đơn, lạc lõng của con người. Cảnh sông nước hùng vĩ nhưng đượm buồn đã trở thành biểu tượng cho tâm trạng cô đơn, khắc khoải của con người trước vũ trụ bao la.

- Nỗi buồn của con người như lan tỏa vào cảnh vật, khiến thiên nhiên cũng trở nên u buồn, đìu hiu. Ngược lại, cảnh vật hoang sơ, rộng lớn càng khắc sâu nỗi cô đơn, lạc lõng của con người.

(Sưu tầm)

2. Nỗi sầu nhân thế trong Tràng giang

- Bao trùm khắp “Tràng giang” là nỗi buồn thăm thẳm lan tỏa khắp không gian và thấm vào từng cảnh vật. Nỗi buồn ấy hiện lên qua tâm thế lẻ loi bé nhỏ hữu hạn của con người giữa cái mênh mông rợn ngợp vô hạn của vũ trụ. Đó là cái nỗi buồn thời đại đặc trưng của Thơ mới, làm nên quan điểm thẩm mỹ của Thơ mới: đẹp tức là buồn.

- Nhưng nếu truy tận cùng căn nguyên của nỗi buồn, sẽ thấy đó không phải là cái buồn vu vơ, vô cớ kiểu “Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”, mà nỗi buồn có nguyên nhân xã hội: nỗi buồn của một thế hệ mất nước. Cho nên, các liêu vắng cô quạnh không biết đi đâu về đâu ẩn trong hình ảnh “Bèo dạt về đâu hàng nối hàng” thực chất chính là một nỗi sầu nhân thế. Đó là cái buồn cuộc đời của một thế hệ lạc loài ngay trên chính quê hương của mình, loay hoay bế tắc không biết đi đâu, về đâu.

- Trong cái liêu vắng, cô quạnh ấy, khát khao hòa nhập với cuộc đời và tình người là một khát vọng rất tự nhiên. Nhưng có thể thấy rằng nhân vật trữ tình không đạt được khát vọng đó khi tất cả những gì liên quan đến con người và cuộc đời đều đặt trong phép phủ định “không một chuyến đò ngang”, “không cầu gợi chút niềm thân mật”, đầy trơ trọi, hiu quạnh.

- Để rồi từ tất cả những khát khao và nỗi sầu ấy, nỗi nhớ quê hương hiện lên một cách tự nhiên, là tiếng gọi tha thiết trong tâm hồn thi nhân, là sự tìm kiếm hơi ấm tình người.

=> Nỗi sầu nhân thế, niềm khao khát hòa nhập với cuộc đời và tình cảm đối với quê hương không phải là những cảm xúc tách rời nhau mà hòa quyện, soi chiếu vào nhau. Hạt nhân của khối cảm sầu mênh mang ấy chính là tình yêu quê hương, là nỗi nhớ dành cho một quê hương đã mất, của một linh hồn lạc lõng ngay trên chính quê hương mình. Cũng chính từ nỗi nhớ quê hương ấy, tình người và tình đời hiện ra như một khát khao tìm một điểm tựa tinh thần, tìm một niềm an ủi, nhưng kết quả nhận lại vẫn là sự lẻ loi, cô độc tận cùng.

(Tác giả: Trần Lê Duy)

3. Chất cổ điển và hiện đại trong Tràng giang

Chất cổ điển

- Đề tài: Bài thơ với đề tài về sông nước quen thuộc của thi sĩ muôn đời, đặc biệt là thơ cổ.

- Nhan đề: "Tràng giang" là từ Hán Việt chỉ sắc thái trang trọng, cổ kính, phảng phất phong vị Đường thi.

- Tứ thơ cổ: Tác giả mượn không gian hùng vĩ, đượm buồn khi chiều xuống để gửi gắm tâm sự về kiếp người lênh đênh giữa dòng đời không biết đi đâu về đâu. Không gian càng mênh mông, rợn ngợp, con người càng nhỏ bé, cô đơn.

- Thể thơ: Bài thơ được viết theo thể thất ngôn có thể dễ dàng bày tỏ suy tư, cảm xúc mênh mang của con người.

- Biện pháp nghệ thuật: vận dụng lối đối của thơ cổ một cách tự nhiên, nhuần nhuyễn và hài hòa.

- Ngắt nhịp: Cách ngắt nhịp truyền thống 2/2/3 và 4/3 nhằm tạo sắc thái cổ kính, trang trọng.

- Thi liệu: Xuất hiện nhiều hình ảnh thân quen thuộc trong thơ cổ (tràng giang, bờ bãi đìu hiu, cánh chim trong bóng chiều...), nhiều hình ảnh, tứ thơ được gợi từ thơ cổ. Hình ảnh thơ chia thành hai hệ thống đối lập, một bên là thiên nhiên rộng lớn cao rộng, một bên là kiếp người bé nhỏ, cô đơn.

- Bút pháp họa vân hiển nguyệt của Đường thi: lấy động tả tĩnh, lấy cái vô hạn để tả cái hữu hạn, lấy cái mênh mông rợn ngợp để tải cái bé nhỏ mong manh...

Chất hiện đại

- Cái tôi cá nhân: Cái tôi trữ tình trong "Tràng giang" không phải là một cái tôi chung chung, đại diện cho cả cộng đồng như trong thơ ca cổ điển, mà là một cái tôi cá nhân, có những cảm xúc, suy tư riêng, thể hiện nỗi buồn của cả một thế hệ thanh niên trí thức thời kỳ mất nước.

- Bức tranh thiên nhiên được quan sát dưới lăng kính cảm hứng vũ trụ: không gian mở rộng dưới mọi chiều kích, hoàng hôn không chỉ có buồn mà lấp lánh sắc màu,...

- Những hình ảnh, âm thanh chân thực của đời thường, không ước lệ như củi khô, tiếng vãn chợ chiều, bèo dạt...

- Nhà thơ cũng đã làm mới những thi liệu xưa như "thuyền về nước lại", ở đây thuyền và nước không gắn bó như thơ cổ mà tan tác, chia lìa. Bên cạnh đó cũng có những thi liệu mới mẻ như "củi một cành khô lạc mấy dòng".

- Sử dụng thủ pháp phủ định để nhấn mạnh sự trống trải, lạnh lẽo: "Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều"

=> Bài thơ không tuân thủ chặt chẽ niêm luật Đường thi mà có sự phá cách trong cách ngắt nhịp, gieo vần. Điều này thể hiện quan niệm mới mẻ về nghệ thuật của các nhà thơ Thơ Mới, đề cao sự tự do sáng tạo. Về nội dung tư tưởng: Bài thơ không chỉ thể hiện nỗi buồn cô đơn trước thiên nhiên mà còn gửi gắm những suy tư về thân phận con người, về sự hữu hạn của kiếp người trước thời gian và không gian vô tận. Đây là những vấn đề mang tính hiện đại, gắn liền với những trăn trở của con người trong xã hội đương thời.

Tài liệu tham khảo thêm

- https://vi.wikipedia.org/wiki/Huy_C%E1%BA%ADn

- https://tuoitre.vn/bai-van-dat-95-diem-ky-tuyen-sinh-2007-214445.htm

- Bài thơ Tràng giang, trang 59 sách giáo khoa Ngữ văn lớp 11, Tập 1

-/-

      Với những hướng dẫn chi tiết về cách làm bài phân tích Tràng giang cùng bài văn mẫu tham khảo hay của Đọc tài liệu trên đây, hi vọng các em đã có thể tự cảm nhận và viết được một bài văn phân tích hay và sâu sắc, từ đó làm nền tảng để triển khai những đề văn khó hơn. Đừng quên tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu 11 hay khác của Đọc tài liệu để nâng cao kỹ năng làm văn phân tích em nhé!

Bạn còn vấn đề gì băn khoăn?
Vui lòng cung cấp thêm thông tin để chúng tôi giúp bạn
Hủy

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM