Hướng dẫn làm bài văn phân tích tác phẩm Vợ chồng A Phủ do Đọc Tài Liệu biên soạn gồm gợi ý cách làm bài, dàn ý chi tiết cùng một số mẫu bài văn hay phân tích nội dung và nghệ thuật của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài).
"Vợ chồng A Phủ" là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Tô Hoài, phản ánh chân thực cuộc sống cơ cực, bất hạnh của người dân miền núi dưới ách thống trị của chế độ phong kiến, đồng thời ca ngợi tinh thần phản kháng, khát vọng tự do mãnh liệt của họ. Tác phẩm đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả bằng những câu chuyện đầy kịch tính, những nhân vật đầy cá tính và một giọng văn giàu chất thơ, mang đậm nét riêng của nhà văn Tô Hoài. Để phân tích tác phẩm Vợ chồng A Phủ, bài viết dưới đây sẽ giúp các em hiểu rõ hơn về tác phẩm, từ đó viết được bài văn phân tích ấn tượng.
Giới thiệu về tác giả Tô Hoài và tác phẩm Vợ chồng A Phủ
1. Tác giả Tô Hoài
a) Sơ lược về tiểu sử cuộc đời
- Tô Hoài (1920 - 2014) tên khai sinh là Nguyễn Sen, sinh ra trong một gia đình thợ thủ công ở thôn Cát Động, Thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông cũ (nay là phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội)
- Thời thanh niên, ông đã phải làm nhiều công việc để kiếm sống như dạy trẻ, bán hàng, kế toán hiệu buôn,...
- Năm 1943, ông gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc và chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực báo chí.
- Từ 1954 trở đi, ông có điều kiện tập trung vào sáng tác hơn.
- Năm 2014, ông mất tại Hà Nội, hưởng thọ 94 tuổi.
b) Sự nghiệp văn học
- Tô Hoài bắt đầu viết văn từ trước năm 1945, với đa dạng các thể loại và phong cách nghệ thuật độc đáo, không thể trộn lẫn.
- Phong cách sáng tác:
+ Tô Hoài bước vào sự nghiệp văn chương bằng một số bài thơ lãng mạn, nhưng nhanh chóng chuyển mình với thể loại văn xuôi và tạo được tiếng vang lớn.
+ Các tác phẩm của ông với lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động của người từng trải, vốn từ vựng giàu có, nhiều khi rất bình dân và thông tục nhưng được sử dụng đắc địa và tài ba nên có sức lôi cuốn, lay động người đọc.
+ Ông có một "lối văn" đặc biệt, "một lối văn dí dỏm, tinh quái đầy những phong vị và màu sắc của thôn quê", khả năng quan sát, cái nhìn hiện thực tinh tế sắc sảo.
- Những sáng tác đầu tay của nhà văn Tô Hoài đã được bạn đọc đương thời chú ý, trong đó phải kể đến Dế Mèn phiêu lưu ký, Quê người, O chuột, Trăng thề, Nhà nghèo…
- Tính đến nay ông đã để lại hơn 100 tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau: truyện ngắn, truyện dài kỳ, hồi ký thiên về diễn tả sự thật đời thường, kịch bản phim, tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác.
- Quan điểm sáng tác: “Viết văn là quá trình đấu tranh để nói ra sự thật, đã là sự thật thì không tầm thường, cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc”.
- Trong cuộc đời sáng tác, ông đã dùng nhiều bút danh khác ngoài Tô Hoài như Mai Trang, Mắt Biển, Thái Yên, Vũ Đột Kích, Hồng Hoa và Phạm Hòa.
- Các giải thưởng đạt được trong cuộc đời hoạt động nghệ thuật:
- Giải nhất Tiểu thuyết của Hội Văn nghệ Việt Nam 1956 (Truyện Tây bắc);
- Giải A Giải thưởng Hội Văn nghệ Hà Nội 1970 (tiểu thuyết Quê nhà);
- Giải thưởng của Hội Nhà văn Á - Phi năm 1970 (tiểu thuyết Miền Tây);
- Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật (đợt 1 - 1996).
- Giải Bùi Xuân Phái - Vì tình yêu Hà Nội 2010
c) Các tác phẩm tiêu biểu
- Dế Mèn phiêu lưu ký (truyện dài, 1941)
- Giăng thề
(tập truyện ngắn, 1941)- O chuột (tập truyện ngắn, 1942)
- Quê người (tiểu thuyết, 1942)
- Nhà nghèo (tập truyện ngắn, 1944)
- Cỏ dại (hồi kí, 1944)
- Núi cứu quốc (truyện ngắn, 1948)
- Xuống làng (tập truyện ngắn, 1950)
- Đại đội Thắng Bình (ký, 1950)
- Truyện Tây Bắc (tập truyện, 1953),...
2. Tác phẩm Vợ chồng A Phủ
a) Hoàn cảnh ra đời và xuất xứ
- Năm 1952, Tô Hoài theo bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Ông đã sống gắn bó nghĩa tình với đồng bào dân tộc vùng cao Tây Bắc trong 8 tháng. Chính cuộc sống của đồng bào miền núi nơi đây đã khơi nguồn cảm hứng sáng tạo để ông hoàn thành 3 truyện ngắn trong đó có Vợ chồng A Phủ (1953).
- Tác phẩm truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" nằm trong tập "Truyện Tây Bắc" của Tô Hoài xuất bản vào năm 1953 và được trao giải Nhất - giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam 1954 - 1955.
b) Vị trí quan trọng của tác phẩm
- Vợ chồng A Phủ là một tác phẩm khẳng định tên tuổi của Tô Hoài trong nền văn học Việt Nam, góp phần đáng kể trong việc khai thác và tái hiện cuộc sống của người dân nông thôn Việt Nam sau chiến tranh.
c) Nội dung chính
- Tác phẩm là câu chuyện về những người dân lao động vùng núi cao Tây Bắc không cam chịu sự áp bức, đày đọa, giam hãm của bọn thực dân, chúa đất trong cuộc sống tối tăm nên đã vùng lên phản kháng đi tìm cuộc sống tự do...
- Tóm tắt:
"Mị là người con dâu gạt nợ nhà thống lí, tại đây Mị phải làm việc không kể ngày đêm, Mị dần trở. Trong những ngày Tết, Mị tình cờ nghe được tiếng sáo gọi bạn vọng lại, Mị bồi hồi nhớ về ngày xưa, Mị nhận ra mình còn trẻ, Mị muốn được đi chơi nhưng A Sử bắt Mị phải ở nhà. A Phủ là người làm nhà thống lí, vì làm mất một con bò mà bị phạt đánh, phạt trói giữa sân. Bị bỏ đói suốt nhiều ngày, A Phủ tuyệt vọng khi thấy mình cận kề với cái chết. Nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ, Mị thấy thương cho A Phủ, thương cho mình nên đã có quyết định táo bạo: cắt dây giải thoát cho A Phủ, sau đó cùng A Phủ chạy trốn khỏi nhà thống lí."
d) Ý nghĩa nhan đề Vợ chồng A Phủ
Nhan đề "Vợ chồng A Phủ" đề cập đến hai hình tượng trung tâm của tác phẩm là Mị và A Phủ. Mị và A Phủ vốn là những người xa lạ, nhưng do một cảnh ngộ đặc biệt, họ đã đến với nhau và trở thành vợ chồng. Quá trình trở thành “vợ chồng” của họ là một sự vươn lên từ bóng tối đến ánh sáng; hoàn cảnh đen tối dưới ách áp bức của thống lý Pá Tra khiến họ thành vợ chồng, song chỉ có cách mạng mới đem lại hạnh phúc bền vững cho họ; điều ấy lí giải vì sao cặp vợ chồng ấy đến với cách mạng và trung kiên với cách mạng.
3. Bối cảnh lịch sử - xã hội
a) Bối cảnh lịch sử
- Những năm đầu thế kỷ 20, trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, là thời kỳ thực dân Pháp và phong kiến tay sai áp bức, bóc lột nhân dân ta một cách tàn bạo, sự phân biệt giàu nghèo, đẳng cấp với những luật lệ hà khắc, bất công đặc biệt là đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao Tây Bắc.
b) Bối cảnh xã hội
- Hồng Ngài là một bản người Mông ở vùng núi Tây Bắc, là một xã hội còn mang nặng tàn dư của chế độ phong kiến với sự phân biệt giàu nghèo rõ rệt. Người dân lao động nghèo khổ bị áp bức, bóc lột bởi bọn thống lý, cường hào, địa chủ.
- Xã hội miền núi còn tồn tại nhiều hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, gây ra nhiều đau khổ cho người dân, đặc biệt là phụ nữ.
=> Bối cảnh lịch sử - xã hội này đã tạo nên một bức tranh hiện thực đầy tăm tối, phản ánh rõ nét cuộc sống cơ cực, tủi nhục của người dân miền núi dưới ách áp bức của thực dân và phong kiến. Đồng thời cũng là động lực thúc đẩy những người dân nghèo khổ vùng lên đấu tranh để giành lại tự do và hạnh phúc cho mình.
4. Những nhận định hay về Tô Hoài và "Vợ chồng A Phủ"
"Có những nhà văn, nhà thơ làm vinh dự cho chữ Hán, làm vinh dự cho chữ Nôm. Anh Tô Hoài, cùng với Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố...làm vinh dự cho chữ quốc ngữ. Tôi được gần các thế hệ đi trước, càng hiểu giá trị của những giây phút sống bên cạnh họ, kể cả khi các anh im lặng.
(Nhà thơ Hữu Thỉnh)
“Số phận của cô là sự hồi sinh mãnh liệt của con người cô. Sự hồi sinh của một con người là vô cùng quý giá.”
(Tô Hoài)
"Bản chất của văn chương Tô Hoài là phong cách, bút pháp đậm đà bản sắc dân tộc. Phẩm chất ấy là sự tích tụ của cả một đời gắn bó với đất nước và nhiều miền quê hương, trân trọng và yêu thương những con người lao động mang tâm hồn và tính cách của người Việt Nam."
(Hà Minh Đức)
"Hơn cả một nhà văn, Tô Hoài đã, đang và sẽ luôn là người bạn đường thân thiết của độc giả thuộc mọi lứa tuổi, trên con đường đưa họ đến với thế giới động vật tưởng tượng thuở nhỏ, hay đến với những miền đất mới, đến với con đường đời dài rộng khi đã trưởng thành."
(Phan Anh Dũng)
"Tô Hoài là một nhà văn lớn của Văn học Việt Nam hiện đại, người có 95 năm tuổi đời nhưng đã dành hơn 70 năm đóng góp cho văn học. Ông là nhà văn chuyên nghiệp, bền bỉ sáng tác và có khối lượng tác phẩm đồ sộ."
(Phạm Xuân Nguyên - Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội)
Phân tích tác phẩm Vợ chồng A Phủ
1. Phân tích nhân vật A Phủ
a) Hoàn cảnh xuất thân của A Phủ
- Là một chàng trai mồ côi, hiền lành, giỏi giang, sống tự do, khỏe mạnh, siêng năng, giàu bản lĩnh, nhưng không kiêu ngạo, là “con trâu tốt” của bản Mường, nhưng vì nghèo nên không lấy được vợ.
b) Tính cách của A Phủ
* Mạnh mẽ, gan góc, kiên cường
- Lúc nhỏ thì mạnh mẽ, gan bướng: khi bị bán xuống cánh đồng thấp lại trốn lên núi cao.
- Lớn lên là chàng trai khỏe mạnh chăm chỉ, tháo vát, biết làm mọi công việc.
- Khi trở thành người ở gạt nợ nhà thống lí Pá Tra:
+ Nguyên nhân: đánh con quan, thua cuộc trong vụ xử kiện quái gở.
+ Chịu sự đày đọa về mặt thể chất:
- Phải làm những công việc nặng, nguy hiểm: “đốt rừng, cày nương, săn bò tót,...”
- Không có giá trị bằng một con bò, làm mất bò mà bị trói đứng đến chết.
- A Phủ là người không chùn bước trước thế lực thống trị tàn bạo, biết bất bình trước bất công (đánh A Sử ngay cả khi biết A Sử là con của nhà cường quyền), khao khát tự do (nén đau để vùng chạy khi được cắt dây trói).
+ Khi bị đánh chỉ "im như tượng đá" không một lời kêu van
+ Dưới cái đàn áp trơ trẽn, A Phủ cảm thấy chẳng hề hấn gì, vẫn chấp nhận để sống qua ngày.
+ Khi để hổ vồ mất con bò trong lúc đi săn, A Phủ kiên quyết thề rằng sẽ bắt bằng được con hổ nhưng cuối cùng vẫn bị tra tấn, hành hạ, bị trói đứng và bị bỏ đói suốt mấy đêm.
=> Khi phân tích nhân vật A Phủ ta thấy A Phủ được nhìn từ bên ngoài với những lời nói ngắn gọn, hành động dữ dội mạnh mẽ, chân dung con người miền núi Tây Bắc: số phận đau thương nhưng giàu sức sống, tình cảm và khát vọng. Cảnh A Phủ bị xử oan, bị trói đứng ở cột nhà và bị bỏ đói suốt mấy ngày đêm là minh chứng cho sức chịu đựng và ý chí kiên cường của anh.
* Tự do, phóng khoáng
- A Phủ là một chàng trai yêu thích tự do, thích rong ruổi trong núi rừng, chơi khèn, ca hát.
+ "A Phủ cứ cùng trai làng đem sáo, khèn, đem con quay và quả pao, quả yến đi tìm người yêu ở các làng trong vùng".
- Không chấp nhận sự ràng buộc, gò bó của chế độ phong kiến miền núi:
+ Khi bị trói đứng, anh vẫn cố gắng vùng vẫy, thể hiện khát vọng tự do cháy bỏng: "Ðến đêm, A Phủ cúi xuống, nhay đứt hai vòng mây, nhích dãn dây trói một bên ta..."
+ Khi được Mị cởi trói, mặc dù cơ thể đau đớn bước không nổi nhưng anh vẫn gồng lên để chạy thoát khỏi nhà thống lí cùng Mị.
* Sức phản kháng mãnh liệt
- Cuộc đời A Phủ là một chuỗi những bi kịch: bị người làng đem bán, bị xử oan, bị trói đứng và bị bỏ đói mấy ngày liền.
- Trong hoàn cảnh khắc nghiệt, A Phủ vẫn luôn tiềm ẩn một sức sống mãnh liệt, một khát vọng tự do cháy bỏng:
+ Người làng bắt A Phủ bán để đổi lấy lương thực của người Thái dưới cánh đồng nhưng A Phủ cương quyết không chịu xuống và trốn lên Hồng Ngài lưu lạc.
+ Vì bất bình trước sự ngạo mạn, hống hách của A Sử con trai nhà thống lý, A Phủ đã thẳng tay trừng trị A Sử => A Phủ không chịu cúi đầu trước thế lực cường quyền.
+ Khi được Mị cắt dây trói, A Phủ nén đau để vùng dậy cùng Mị chạy thoát khỏi nhà thống lí. => Khao khát tự do.
c) Vai trò và ý nghĩa của nhân vật A Phủ
- A Phủ đại diện cho những người dân lao động miền núi, bị áp bức bóc lột nhưng không chấp nhận sự áp bức cường quyền, khát vọng tự do và tinh thần phản kháng quyết liệt.
- A Phủ không chỉ là người bạn đồng hành, mà còn là người khơi dậy sức mạnh tiềm tàng trong Mị, đánh thức những khao khát tự do và tình yêu cuộc sống tưởng chừng đã ngủ quên trong Mị.
2. Phân tích nhân vật Mị
a) Hoàn cảnh xuất thân của Mị
- Mị là một cô gái người Mông xinh đẹp, con nhà nghèo, có tài thổi sáo
+ “trai đến đứng nhẵn chân vách đầu buồng Mị” -> nhan sắc rực rỡ ở tuổi cập kê.
+ "thổi sáo, thổi lá. Hay đến mức có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị."
- Bị thống lý Pá Tra bắt về làm dâu gạt nợ - món nợ truyền kiếp của cha mẹ.
- Cuộc sống của Mị tại nhà thống lý Pá Tra là chuỗi ngày cam chịu, đau thương, tủi nhục, tối tăm.
b) Vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật Mị
* Cam chịu, nhẫn nhục
- Mị chấp nhận số phận bị bắt làm dâu gạt nợ, bị đối xử tàn tệ, bị giam hãm đày đọa trong cái địa ngục trần gian khủng khiếp của cả nhà thống lý, bị bóc lột sức lao động, “không bằng con trâu con ngựa”, “đàn bà trong cái nhà này chỉ biết vùi đầu vào công việc”, bị đánh, bị phạt, bị trói,...
- "Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa", "Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Ở buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông ấy mà trông ra. Đến bao giờ chết thì thôi".
=> Mị hầu như mất hết ý thức về bản thân và những mong muốn đổi thay cho số phận của mình, cảm xúc trở nên chai lì thậm chí không có cả ý thức về cái chết nữa. Mị trở thành một cỗ máy, công cụ lao động, mất hết ý niệm về thời gian.
* Sức sống tiềm tàng, khát vọng tự do
- Trước khi trở thành con dâu gạt nợ:
+ Mị là cô gái trẻ trung, hồn nhiên, có tài thổi sáo.
+ Mị đã từng yêu, luôn khao khát đi theo tiếng gọi của tình yêu.
+ Mị là người con gái hiếu thảo, chăm chỉ, ý thức được giá trị cuộc sống tự do nên sẵn sàng làm nương ngô trả nợ thay cho bố: "Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con làm nương ngô trả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu."
- Từ khi trở thành con dâu gạt nợ:
+ Nguyên nhân: Bởi vì món nợ truyền kiếp từ thời cha mẹ Mị, tục cướp vợ đem về cúng trình ma của người Mông, người lao động bị cả cường quyền và thần quyền buộc chặt.
+ Mị phải chịu những đày đọa về thể xác: phải làm việc không kể ngày đêm, “không bằng con trâu con ngựa”; bị đánh đập dã man: bị trói, đạp vào mặt,...
+ Mị dần trở nên chai sạn với nỗi đau: một cô gái lúc nào cũng “mặt buồn rười rượi”, không quan tâm đến thời gian (hình ảnh ô cửa sổ), sống lầm lũi “như con rùa nuôi trong xó cửa”, “ở lâu trong cái khổ Mị quen rồi”.
+ Trong đêm hội mùa xuân ở Hồng Ngài, sức sống của Mị đã trỗi dậy:
- Âm thanh cuộc sống bên ngoài (tiếng trẻ con chơi quay, tiếng sáo gọi bạn tình,...) đánh thức những kỉ niệm trong quá khứ.
- Mị ý thức được sự tồn tại của bản thân “thấy phơi phới trở lại”, “Mị còn trẻ lắm...”, với khát khao tự do, thắp sáng căn phòng tối, muốn “đi chơi tết” chấm dứt sự tù đày.
- Khi bị A Sử trói, lòng Mị vẫn lửng lơ theo tiếng sáo, tiếng hát của tình yêu đến những đám chơi. Lúc vùng dậy cô chợt tỉnh trở về với hiện thực.
=> Ở Mị tiềm tàng sức sống mãnh liệt, sức sống ấy luôn âm ỉ trong lòng người con gái Tây Bắc và chỉ chờ có cơ hội để bùng lên mạnh mẽ.
+ Hành động cởi trói cho A Phủ:
- Ban đầu Mị dửng dưng bởi sau đêm tình mùa xuân, cô trở lại là cái xác không hồn.
- Khi thấy giọt nước mắt của A Phủ khiến Mị đồng cảm, chợt nhớ đến hoàn cảnh của mình trong quá khứ, Mị lại biết thương mình và thương cho kiếp người bị đày đọa “có lẽ ngày mai người kia sẽ chết, chết đau,... phải chết”.
- Bất bình trước tội ác của bọn thống lí, Mị cắt dây đay cởi trói cho A Phủ. Mị sợ cái chết, sợ nhà thống lí, cô chạy theo A Phủ tìm lối thoát.
=> Mị là người con gái lặng lẽ mà mạnh mẽ, hành động của Mị đã đạp đổ cường quyền, thần quyền của bè lũ thống trị miền núi.
* Sự chuyển biến tâm lý nhân vật Mị
- Thời gian đầu, Mị sống câm lặng như đá núi “không nói”, chỉ biết “cúi đầu”, mặt “buồn rười rượi”, lầm lụi, chậm chạp, trơ lì như “con rùa” quẩn quanh nơi xó cửa.
+ Mị mất hết ý niệm về không gian, thời gian, nhìn ra ngoài “chỉ thấy trăng trắng không biết là sương hay là nắng”
+ Mị như trơ lì cảm xúc, mất đi ý thức về giá trị bản thân, mất ý thức phản kháng, cam chịu, chấp nhận số phận: “Mị nghĩ rằng, mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi”.
- Trong đêm tình mùa xuân:
+ Nghe tiếng sáo từ xa vọng lại, Mị nhẩm theo lời bài hát của người đang thổi, tiếng sáo “lửng lơ ngoài đồng như lòng ai đợi chờ oán trách”
+ Mị thấy “phơi phới” trở lại, “vui sướng như những đêm tết ngày trước”
+ Thức dậy ý thức và khát vọng: “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. “Muốn đi chơi” là biểu hiện cao nhất của sự thức tỉnh, Mị muốn được hạnh phúc, muốn được tự do như mọi người.
-> Khát vọng sống, khát vọng yêu, khát vọng hạnh phúc ngày nào đã trở về, đưa Mị về với quá khứ đẹp đẽ những ngày còn trẻ và còn tự do.
=> Cuộc sống hôn nhân với A Phủ đã đánh thức sức sống và khát vọng tự do trong Mị.
- Từ một cô gái cam chịu, Mị dần trở nên mạnh mẽ, chủ động hơn trong cuộc sống.
- Cảnh Mị nhẩm theo lời bài hát trong đêm tình mùa xuân là biểu hiện cho sự hồi sinh về mặt tinh thần của cô.
- Trong đêm cởi trói cho A Phủ:
+ Khi thấy giọt nước mắt A Phủ “lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”, Mị từ cõi quên trở về cõi nhớ, nhớ về kí ức đau khổ -> Thấy thương mình rồi thương người.
+ Ý thức dần sống lại, nhận ra dấu hiệu về cái chết -> hành động cắt dây cởi trói cho A Phủ.
+ Hốt hoảng, sợ hãi, Mị vùng chạy theo A Phủ -> Bản năng tự vệ tích cực của Mị được thúc đẩy.
=> Phân tích nhân vật Mị ta thấy sự thay đổi trong tâm lí, tính cách của Mị, vẫn con người ấy, trong căn buồng ấy, từ cam chịu, tê liệt về tinh thần đã chuyển thành khao khát sống mạnh mẽ, mãnh liệt.
c) Vai trò và ý nghĩa của nhân vật Mị
- Hình ảnh Mị tiêu biểu cho số phận bất hạnh, cuộc đời khổ đau của đồng bào dân tộc dưới ách áp bức của giai cấp thống trị miền núi.
- Hành động Mị cắt dây trói cho A Phủ trở thành biểu tượng cho sự phản kháng, đấu tranh, giải phóng của người phụ nữ khỏi chế độ phong kiến miền núi.
3. Phân tích mối quan hệ giữa Mị và A Phủ (cuộc gặp gỡ giữa Mị và A Phủ)
Mối quan hệ giữa Mị và A Phủ trải qua nhiều giai đoạn và chuyển biến, từ sự xa lạ, đồng cảm đến yêu thương và gắn bó.
a) Giai đoạn 1: Xa lạ và thờ ơ
- Họ đều là những người lao động nghèo khổ, bị áp bức dưới ách thống trị của nhà thống lý Pá Tra.
+ Mị bị bắt về làm dâu gạt nợ cho nhà thống lý
+ A Phủ là bị bắt trói vì tội để hổ ăn mất bò.
-> Cả hai đều sống trong sự cam chịu và tuyệt vọng, không quan tâm đến bất cứ điều gì khác ngoài cuộc sống cơ cực của mình.
- Ở giai đoạn này, mối quan hệ giữa họ chưa có sự giao tiếp, gần gũi và chia sẻ:
+ “Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi” bởi cảnh bị trói đến chết không phải là hiếm hoi ở nhà thống lí.
+ Mị đã chịu đựng quá nhiều đau khổ về thể xác lẫn tinh thần dẫn đến trơ lì cảm xúc, tê liệt khả năng cảm thông, chia sẻ với cảnh ngộ khốn cùng của người khác.
b) Giai đoạn 2: Đồng cảm và thức tỉnh
- Họ ở trong cùng một không gian, chứng kiến và thấu hiểu nỗi đau của nhau.
- Giọt nước mắt của A Phủ đã đánh thức những khao khát tự do và tình yêu cuộc sống tưởng chừng đã ngủ quên trong Mị.
+ "Lé mắt trông sang" -> cái nhìn hờ hững, vô hồn.
+ thấy "dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại"
+ Độc thoại nội tâm: đồng cảm với A Phủ, với những người cùng cảnh ngộ -> bất bình -> tình thương trỗi dậy.
- A Phủ không chỉ là người bạn đồng hành, mà còn là người khơi dậy sức mạnh tiềm tàng trong Mị, giúp Mị tìm lại được chính mình và cùng nhau đi tìm cuộc sống mới.
- Hành động của Mị: rút dao, cắt dây trói cứu A Phủ và chạy theo A Phủ để tự cứu lấy mình
-> Hai nhân vật gặp gỡ nhau trong đau thương, cùng đường, nhờ khát vọng tự do mà vùng lên tự thay đổi cuộc đời.
=> Hai tuyến nhân vật thuộc hai kiểu khác nhau (Mị thuộc kiểu nhân vật tâm lí, A Phủ thuộc nhân vật hành động táo bạo, quyết liệt) đã góp phần thể hiện rõ nét tư tưởng của tác phẩm đó là khát vọng tự do, sự vùng lên phản kháng và niềm tin vào cuộc sống mới của những người lao động bị áp bức. Cùng với Mị, A Phủ đã góp phần hoàn thiện chân dung con người miền núi Tây Bắc: Số phận đau thương nhưng giàu sức sống, tình cảm và khát vọng.
c) Giai đoạn 3: Yêu thương và gắn bó
- Sau khi chạy trốn khỏi Hồng Ngài, Mị và A Phủ đến Phiềng Sa, một nơi có cuộc sống tự do hơn. Tại đây, họ nương tựa vào nhau để sinh sống và cùng tham gia vào cuộc đấu tranh chống lại ách thống trị của thực dân Pháp và phong kiến.
- Trải qua những khó khăn và thử thách, tình cảm giữa Mị và A Phủ ngày càng sâu đậm. Họ trở thành vợ chồng, cùng nhau xây dựng một gia đình hạnh phúc và cùng nhau chiến đấu cho lý tưởng cách mạng.
d) Ý nghĩa của mối quan hệ
- Mối quan hệ giữa Mị và A Phủ không chỉ là câu chuyện tình yêu giữa hai con người, mà còn mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Nó thể hiện sự đồng cảm và tình đoàn kết giữa những người lao động nghèo khổ, bị áp bức. Sự vùng lên của Mị và A Phủ cũng là sự phản kháng mạnh mẽ chống lại ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp và phong kiến.
- Thông qua mối quan hệ này, Tô Hoài đã gửi gắm niềm tin vào sức mạnh của tình yêu thương và sự đoàn kết trong cuộc đấu tranh vì một xã hội công bằng và tốt đẹp hơn.
Các đề đọc hiểu về tác phẩm Vợ chồng A Phủ
Giá trị nội dung và nghệ thuật của Vợ chồng A Phủ
1. Giá trị nội dung
- Khắc họa chân thực những nét đặc sắc về phong tục, tập quán, tính cách và tâm hồn người dân các dân tộc thiểu số
- Lên án bọn thực dân, chúa đất
- Bày tỏ niềm cảm thông với nỗi thống khổ của người dân nghèo miền núi
- Khẳng định sức sống ngoan cường, khát vọng tự do tiềm tàng ở người dân lao động.
2. Giá trị nghệ thuật
- Xây dựng tình huống truyện đặc sắc
- Khắc họa hình tượng nhân vật sinh động, có cá tính rõ nét
- Miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế
- Nghệ thuật trần thuật với giọng kể trầm lắng, cảm thông
- Ngôn ngữ sinh động được chọn lọc, sáng tạo vừa giàu tính tạo hình vừa giàu chất thơ
- Tái hiện cuộc sống và vẻ đẹp thiên nhiên, phong tục tập quán của người dân miền núi Tây Bắc
Tham khảo một số mẫu dàn ý khác: Dàn ý chi tiết phân tích Vợ chồng A Phủ
3. Sơ đồ tư duy phân tích Vợ chồng A Phủ
>>> Xem chi tiết và đầy đủ các dạng sơ đồ tư duy Vợ chồng A Phủ theo từng đề tài để có lựa chọn phù hợp cho bài văn mình định viết.
Mẫu dàn ý phân tích bài Vợ chồng A Phủ
1. Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm và khái quát giá trị nội dung, nghệ thuật của truyện.
>>> Tham khảo các mẫu Mở và kết bài Vợ chồng A Phủ hay nhất
2. Thân bài
a) Phân tích nhân vật Mị
- Trước khi trở thành con dâu gạt nợ
+ Mị là cô gái người Mông trẻ trung, hồn nhiên, có tài thổi sáo.
+ Mị đã từng yêu, luôn khao khát đi theo tiếng gọi của tình yêu.
+ Hiếu thảo, chăm chỉ, ý thức được giá trị cuộc sống tự do nên sẵn sàng làm nương ngô trả nợ thay cho bố.
- Từ khi trở thành con dâu gạt nợ
+ Nguyên nhân: món nợ truyền kiếp từ thời cha mẹ Mị, tục cướp vợ của người Mông đem về cúng trình ma. Người lao động bị cả cường quyền và thần quyền buộc chặt.
+ Mị phải chịu những đày đọa về thể xác: phải làm việc không kể ngày đêm, “không bằng con trâu con ngựa” ; bị đánh đập dã man: bị trói, đạp vào mặt, ...
+ Mị dần trở nên chai sạn với nỗi đau: một cô gái lúc nào cũng “mặt buồn rười rượi”, không quan tâm đến thời gian (hình ảnh ô cửa sổ), sống lầm lũi “như con rùa nuôi trong xó cửa”, “ở lâu trong cái khổ Mị quen rồi”.
+ Trong đêm hội mùa xuân ở Hồng Ngài, sức sống của Mị đã trỗi dậy:
- Âm thanh cuộc sống bên ngoài (tiếng trẻ con chơi quay, tiếng sáo gọi bạn tình, ..) đánh thức những kỉ niệm trong quá khứ.
- Mị ý thức được sự tồn tại của bản thân “thấy phơi phới trở lại”, “Mị còn trẻ lắm ...”, với khát khao tự do, thắp sáng căn phòng tối, muốn “đi chơi tết” chấm dứt sự tù đày.
- Khi bị A Sử trói, lòng Mị vẫn lửng lơ theo tiếng sáo, tiếng hát của tình yêu đến những đám chơi. Lúc vùng dậy cô chợt tỉnh trở về với hiện thực.
=> Mị luôn tiềm tàng sức sống mãnh liệt, sức sống ấy luôn âm ỉ trong lòng người con gái Tây Bắc và chỉ chờ có cơ hội để bùng lên mạnh mẽ.
+ Khi A Phủ làm mất bò, bị phạt trói đứng:
- Ban đầu Mị dửng dưng bởi sau đêm tình mùa xuân, cô trở lại là cái xác không hồn.
- Khi thấy giọt nước mắt của A Phủ khiến Mị đồng cảm, chợt nhớ đến hoàn cảnh của mình trong quá khứ, Mị lại biết thương mình và thương cho kiếp người bị đày đọa “có lẽ ngày mai người kia sẽ chết, chết đau,... phải chết”.
- Bất bình trước tội ác của bọn thống lí, Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ. Mị sợ cái chết, sợ nhà thống lí, cô chạy theo A Phủ tìm lối thoát.
=> Mị là người con gái lặng lẽ mà mạnh mẽ, hành động của Mị đã đạp đổ cường quyền, thần quyền của bè lũ thống trị miền núi.
b) Phân tích nhân vật A Phủ
- Số phận:
+ Mồ côi cha mẹ, không còn người thân
+ Lớn lên đi làm thuê, sau đó trở thành người ở gạt nợ nhà thống lí Pá Tra.
+ Khi trở thành người ở gạt nợ:
- Nguyên nhân: đánh con quan, thua cuộc trong vụ xử kiện quái gở.
- A Phủ chịu sự đày đọa về mặt thể chất: phải làm những công việc nặng, nguy hiểm: “đốt rừng, cày nương, săn bò tót,...”, không có giá trị bằng một con bò, làm mất bò mà bị trói đứng đến chết.
- Tích cách:
+ Lúc nhỏ mạnh mẽ, gan bướng: khi bị bán xuống cánh đồng thấp lại trốn lên núi cao
+ Lớn lên là chàng trai khỏe mạnh chăm chỉ, tháo vát, biết làm mọi công việc.
+ Là người biết bất bình trước bất công (đánh A Sử)
+ Khao khát tự do (nén đau để vùng chạy khi được cắt dây trói).
=> Khi phân tích nhân vật A Phủ ta thấy A Phủ được nhìn từ bên ngoài với những lời nói ngắn gọn, hành động dữ dội mạnh mẽ.
c) Phân tích mối quan hệ giữa Mị và A Phủ
- Sự đồng cảm, thấu hiểu, chia sẻ giữa hai số phận cùng khổ.
- Tình yêu thương nảy sinh trong hoàn cảnh khắc nghiệt, gian khổ.
- Hành động cắt dây trói là sự giải thoát cho cả hai, mở ra một tương lai mới.
=> Mối quan hệ giữa Mị và A Phủ là một trong những yếu tố quan trọng làm nên sức hấp dẫn của tác phẩm, không chỉ là câu chuyện tình yêu giữa hai con người mà còn là biểu tượng cho sức mạnh của tình yêu thương, khát vọng tự do và sự đấu tranh chống lại áp bức, bất công.
d) Đặc sắc nghệ thuật
- Ngôn ngữ giản dị, sinh động, hấp dẫn.
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc, miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo, tài tình.
- Lối trần thuật linh hoạt với sự dịch chuyển điểm nhìn trần thuật
- Giọng văn nhẹ nhàng, tinh tế, cách nói đậm chất miền núi, vừa giàu tính tạo hình, vừa giàu chất thơ.
3. Kết bài
- Khẳng định lại giá trị của tác phẩm và nêu cảm nhận cá nhân.
Trên đây là những gợi ý chi tiết của Đọc Tài Liệu về cách làm bài văn phân tích Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài. Các em cũng có thể tham khảo bài văn mẫu mà chúng tôi đã tổng hợp ngay sau đây để mở rộng vốn từ cho bài viết của mình thêm phong phú, hấp dẫn.
3+ Bài văn phân tích bài Vợ chồng A Phủ đạt điểm cao
Phân tích Vợ chồng A Phủ mẫu 1
Trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, Mị là nhân vật trung tâm mà nhà văn Tô Hoài đã giành nhiều tài năng và tâm huyết để xây dựng. Truyện Vợ chồng A Phủ được trích từ tập “Truyện Tây Bắc” (1953) của Tô Hoài. Trong chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng miền Tây Bắc (1952), Tô Hoài đã có dịp sống, cùng ăn, cùng ở với đồng bào các dân tộc miền núi, chính điều đó đã giúp Tô Hoài tìm được cảm hứng để viết truyện này. Tô Hoài thành công trong “Vợ chồng A Phủ” không chỉ do vốn sống, tình cảm sống của mình mà còn là do tài năng nghệ thuật cùa một cây bút tài hoa.
Viết “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật, trong đó nổi bật và đáng chú ý nhất là biện pháp phân tích tâm lý và hành động của nhân vật Mị trong từng chặng đường đời. Điểm nghệ thuật ấy thật sự phát sáng và thăng hoa trong đoạn văn miêu tả tâm trạng và hành động của Mị trong đêm cứu A Phủ. Qua đó ta thấy được giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.
Trong tác phẩm này, điều gây cho bạn đọc ấn tượng nhất đó chính là hình ảnh của cô gái “dù làm bất cứ việc gì, cô ta cũng cúi mặt, mắt buồn rười rượi”. Đó là tâm lý của một con người cam chịu, buông xuôi trước số phận, hoàn cảnh sống đen tối đầy bi kịch. Sở dĩ, Mị có nét tính cách ấy là do cuộc sống hôn nhân cưỡng bức giữa Mị và A Sử. Mị không được lấy người mình yêu mà phải ăn đời ở kiếp với một người mà mình sợ hãi, lạnh lùng. Một nguyên nhân nữa chính là do uy quyền, thần quyền, đồng tiền của nhà thống lý Pá Tra đã biến Mị thành một đứa con dâu gạt nợ. Mang tiếng là con dâu của một người giàu có nhất vùng, nhưng thật sự Mị chỉ là một kẻ nô lệ không hơn không kém. Điều đó làm Mị đau khổ, Mị khóc ròng rã mấy tháng trời và từng có ý định ăn nắm lá ngón kết thúc cuộc đời mình. Thế nhưng “sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Chính vì thế Mị đã buông xuôi trước số phận đen tối của mình, trái tim của Mị dần chai sạn và mất đi nhịp đập tự nhiên của nó.
Song song với nét tính cách đó lại là tâm trạng của một người yêu đời, yêu cuộc sống, mong muốn thoát khỏi hoàn cảnh sống đen tối, đầy bi kịch. Điều đó đã được thể hiện trong đêm mùa xuân. Trong đêm mùa xuân ấy, tâm trạng của Mị phát triển theo những cung bậc tình cảm khác nhau, cung bậc sau cao hơn cung bậc trước. Ban đầu, Mị nghe tiếng sáo Mèo quen thuộc, Mị nhẩm thầm bài hát người đang thổi, rồi Mị uống rượu và nhớ lại kỷ niệm đẹp thời xa xưa… Mị ý thức được về bản thân và về cuộc đời, Mị muốn đi chơi nhưng sợi dây thô bạo của A Sử đã trói đứng Mị vào cột. Mặc dù vậy, sợi dây ấy chỉ có thể “trói” được thân xác Mị chứ không thể “trói” được tâm hồn của một cô gái đang hòa nhập với mùa xuân, với cuộc đời. Đêm ấy thật là một đêm có ý nghĩa với Mị, là đêm mà Mị thực sự sống cho riêng mình sau hàng ngàn đêm sống vật vờ như một cái xác không hồn. Đó là một đêm Mị vượt lên uy quyền và bạo lực để sống theo tiếng gọi trái tim mình.
Sau đêm mùa xuân ấy, Mị lại tiếp tục sống kiếp đời trâu ngựa. Thế nhưng viết về vấn đề này, Tô Hoài khẳng định: cái khổ cái nhục mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn phủ khuất che lấp sức sống tiềm tàng trong lòng Mị. Và chỉ cần có một luồng gió mạnh đủ sức thổi đi lớp tro buồn nguội lạnh ấy thì đốm lửa ấy sẽ bùng cháy và giúp Mị vượt qua cuộc sống đen tối của mình. Giá trị nhân đạo của tác phẩm ngời lên ở chỗ đó. Và cuối cùng, luồng gió ấy cũng đến, những đêm mùa đông dài và buồn trên núi rừng Tây Bắc đang về. Mùa đông rét buốt như cắt da cắt thịt vì thế đêm nào Mị cũng ra bên ngoài bếp lửa để thổi lửa hơ tay. Trong những đêm đó Mị gặp A Phủ đang bị trói đứng chờ chết giữa trời giá rét. Thế nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay “Dù A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi”. Tại sao Mị lại lãnh cảm, thờ ơ trước sự việc ấy? Phải chăng việc trói người đến chết là một việc làm bình thường ở nhà thống lý Pá Tra và ai cũng quen với điều đó nên chẳng ai quan tâm đến. Hay bởi Mị “sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi” nên Mị lãnh đạm, thờ ơ trước nỗi đau khổ của người khác?
Một đêm nữa lại đến, lúc đó mọi người trong nhà đã ngủ yên cả rồi, Mị lại thức dậy đến bên bếp đốt lửa lên để hơ tay. Lửa cháy sáng, “Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Đó là dòng nước mắt của một kẻ nô lệ khi phải đối mặt với cái chết đến rất gần. Chính “dòng nước mắt lấp lánh ấy” đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị. Lòng Mị chợt bồi hồi trước một người cùng cảnh ngộ. Đêm mùa xuân trước, Mị cũng bị A Sử trói đứng thế kia, có nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không lau đi được. Mị chợt nhận ra người ấy giống mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau. Mị nhớ lại những chuyện thật khủng khiếp lúc trước kia, “chúng nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở trong cái nhà này”.
Lý trí giúp Mị nhận ra “Chúng nó thật độc ác”. Việc trói người đến chết còn ác hơn cả thú dữ trong rừng. Chỉ vì bị hổ ăn mất một con bò mà một người thanh niên khỏe mạnh, siêng năng, say sưa với cuộc đời đã phải lấy mạng mình thay cho nó. Bọn thống trị coi sinh mạng của A Phủ không bằng một con vật. Và dẫu ai phạm tội như A Phủ cũng bị xử phạt như thế mà thôi. Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho thân phận của mình: “Ta là thân đàn bà, chúng nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết chờ ngày rũ xương ở đây thôi”. Nghĩ về mình, Mị lại nghĩ đến A Phủ “có chừng này, chỉ đêm nay thôi là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Người kia việc gì mà phải chết như thế. A Phủ…. Mị phảng phất nghĩ như vậy”.
Thật sự, chẳng có lí do gì mà bọn thống lí Pá Tra bắt A Phủ phải chết vì cái tội để mất một con bò! Trong đầu Mị bỗng nhiên nghĩ đến cảnh A Phủ bỏ trốn và chính Mị sẽ là người chết thay cho A Phủ trên cái cột tưởng tượng đó. Thế nhưng, Mị vẫn không thấy sợ, sự suy tưởng của Mị là có cơ sở của nó. Cha con Pá Tra đã biến Mị từ một con người yêu đời, yêu cuộc sống, tài hoa chăm chỉ, hiếu thảo, tha thiết với tình yêu thành một người con dâu gạt nợ, một kẻ nô lệ đúng nghĩa, chúng đã tàn ác khi trói một người đàn bà ngày trước đến chết thì chẳng lẽ chúng lại không đối xử với Mị như thế ư?
Chứng kiến “dòng nước mắt lấp lánh” của A Phủ, tâm trạng của Mị diễn biến phức tạp. Mị thông cảm với người cùng cảnh ngộ, Mị nhớ đến chuyện người đàn bà ngày trước, lí trí giúp Mị nhận ra bọn lãnh chúa phong kiến thật độc ác, Mị xót xa trước số phận của mình rồi Mị lại nghĩ đến A Phủ; sau đó Mị lại tưởng tượng đến cái cảnh mình bị trói đứng… Một loạt nét tâm lí ấy thúc đẩy Mị đến với hành động: dùng dao cắt lúa rút dây mây cởi trói cho A Phủ. Đó là một việc làm táo bạo và hết sức nguy hiểm nhưng nó phù hợp với nét tâm lí của Mị trong đêm mùa đông này.
Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị cũng không ngờ mình dám làm một chuyện động trời đến vậy. Mị thì thào lên một tiếng “đi ngay” rồi Mị nghẹn lại. A Phủ vùng chạy đi, còn Mị vẫn đứng lặng trong bóng tối. Ta có thể hình dung được nét tâm lí ngổn ngang trăm mối của Mị lúc này. Lòng Mị rối bời với trăm câu hỏi: Vụt chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết? Thế là cuối cùng sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Trời tối lắm nhưng Mị vẫn băng đi, bước chân của Mị như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn Mị suốt bao nhiêu năm qua. Mị đuổi kịp A Phủ và nói lời đầu tiên. Mị nói với A Phủ sau bao nhiêu năm câm nín: “A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Đó là lời nói khao khát sống và khát khao tự do của nhân vật Mị. Câu nói ấy chứa đựng biết bao tình cảm và làm quặn đau trái tim bạn đọc. Đó chính là nguyên nhân - hệ quả của việc Mị cắt đứt sợi dây vô hình ràng buộc cuộc đời của mình. Thế là Mị và A Phủ dìu nhau chạy xuống dốc núi. Hai người đã rời bỏ Hồng Ngài - một nơi mà những kỉ niệm đẹp đối với họ quá ít, còn nỗi buồn đau, tủi nhục thì chồng chất không sao kể xiết. Hai người rời bỏ Hồng Ngài và đến Phiềng Sa, nhưng những ngày phía trước ra sao họ cũng chưa biết đến…
Rõ ràng, trong đêm mùa đông này, sức sống tiềm tàng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Chính nó đã giúp Mị vượt lên trên số phận đen tối của mình. Mị cứu A Phủ cũng đồng nghĩa với việc Mị tự cứu lấy bản thân mình. Qua đoạn trích trên, Tô Hoài đã ca ngợi những phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi nói riêng và phụ nữ Việt Nam nói chung. Tô Hoài đã rất cảm thông và xót thương cho số phận hẩm hiu, không lối thoát của Mị. Bằng một trái tim nhạy cảm và chan chứa yêu thương, Tô Hoài đã phát hiện và ngợi ca đốm lửa còn sót lại trong trái tim Mị. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn sáng lên ở đó. Đồng thời qua tác phẩm, Tô Hoài cũng đã khẳng định được chân lí muôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Quả thật, tác phẩm này giúp ta hiểu được nhiều điều trong cuộc sống.
Với truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” nói riêng và tập “Truyện Tây Bắc” nói chung, ta hiểu vì sao Tô Hoài lại thành công trong thể loại truyện ngắn đến như vậy. Nét phong cách nghệ thuật: màu sắc dân tộc đậm đà chất thơ, chất trữ tình thấm đượm, ngôn ngữ lời văn giàu tính tạo hình đã hội tụ và phát sáng trong truyện ngắn này. Tác phẩm “Truyện Tây Bắc” xứng đáng với giải nhất truyện ngắn - giải thưởng do Hội nghệ sĩ Việt Nam trao tặng năm 1954 - 1955. Và “Vợ chồng A Phủ” thực sự để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn đọc bởi những giá trị nghệ thuật, giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của nó. Truyện ngắn này quả là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách Tô Hoài.
Đối với riêng em, truyện “Vợ chồng A Phủ” giúp em cảm thông sâu sắc trước nỗi khổ của người phụ nữ trong xã hội phong kiến miền núi, từ đó giúp em ngày càng trân trọng khát vọng của họ hơn. Đây quả là một tác phẩm văn chương đích thực bởi nó đã góp phần nhân đạo hóa tâm hồn bạn đọc như Nam Cao đã quan niệm trong truyện ngắn “Đời thừa”.
Phân tích Vợ chồng A Phủ mẫu 2
Cuối năm 1952, nhà văn Tô Hoài đi với bộ đội trong chiến dịch Tây Bắc. Sau khi tìm hiểu chung, Tô Hoài quyết định đi sâu vào những khu du kích của đồng bào các dân tộc thiểu số trên vùng núi cao. Chuyến đi kéo dài tám tháng đã để lại những ấn tượng sâu sắc và tình cảm tốt đẹp cho nhà văn. Tô Hoài kể lại: “Cái kết quả lớn nhất và trước nhất của chuyến đi tám tháng ấy là đất nước và con người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều quá, tôi không thể bao giờ quên. Tôi không thể bao giờ quên được lúc vợ chồng A Phủ tiễn tôi tại dốc núi làng Tà Xùa rồi cùng vẫy tay gọi theo: “Chéo lù! Chéo lù” (Trở lại! Trở lại!).
Không bao giờ tôi quên được lúc vợ chồng Lý Nủ Chu tiễn chúng tôi dưới chân núi Cao Phạ cũng vẫy tay kêu: "Chéo lù! Chéo lù!". Hai tiếng: Trở lại! Trở lại! chẳng những nhắc tôi có ngày trở lại, phải đem trở lại cho những người thương ấy của tôi một kỉ niệm tấm lòng mình, một cái gì làm hiển hiện lại cả cuộc đời người Mèo (Mông) trung thực, chí tình, dù gian nan thế nào bao giờ cũng đợi cán bộ, đợi bộ đội, bao giờ cũng mong anh em trở lại [...]. Hình ảnh Tây Bắc đau thương và dũng cảm lúc nào cũng thành nét, thành người, thành việc trong tâm trí tôi [...]. Ý thiết tha với đề tài này là một quyết định. Vì thế tôi viết Truyện Tây Bắc”.
Truyện Tây Bắc gồm ba truyện (Cứu đất cứu mường, Mường Giơn và Vợ chồng A Phủ) viết năm 1953, ngay sau chuyến thâm nhập thực tế Tây Bắc của tác giả. Tập truyện này được tặng Giải Nhất, Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam năm 1954 - 1955. Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn đặc sắc nhất trong tập Truyện Tây Bắc, cũng là một trong những truyện ngắn hay nhất của văn xuôi Việt Nam giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp. Tác phẩm là bức tranh chân thực về cuộc sống và số phận đau khổ của người nông dân nghèo miền núi dưới ách áp bức của các thế lực phong kiến và thực dân, đồng thời là một bài ca về sức sống và khát vọng tự do của con người miền núi, là hình ảnh con đường giải phóng và cuộc đổi đời của họ khi đến với cách mạng.
Dưới đây chỉ phân tích nửa đầu của truyện: quãng đời ở Hồng Ngài của Mị và A Phủ, đây cũng là phần thành công hơn của tác phẩm. Trong phần này, tác giả tập trung giới thiệu và miêu tả về cuộc sống và số phận của hai nhân vật chính: Mị và A Phủ, thể hiện sức sống tiềm tàng và sự gặp gỡ của hai con người cùng một cảnh ngộ nô lệ ấy.
Mị xuất hiện ngay trong mấy dòng đầu của truyện. Tô Hoài sử dụng thủ pháp miêu tả phác hoạ ngoại hình để gợi mở nội tâm nhân vật và đặt nhân vật trong sự đối lập với khung cảnh xung quanh: giữa cảnh giàu có, tấp nập của nhà thống lí Pá Tra "nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng" thì Mị luôn được đặt ở vị trí cạnh tảng đá và bên tàu ngựa. Mị như gắn vào với những cảnh vật ấy, tạo nên một cảnh sống riêng, im lìm, tăm tối, cực nhọc của kiếp sống đọa đày, nó phơi bày ra bên cạnh cái giàu sang, tấp nập của nhà thống lí, nhưng chính nó là một phần trong bức tranh trọn vẹn của nhà thống lí. Chân dung nhân vật được khắc họa bằng một nét đậm: "Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi".
Sau khi đã giới thiệu nhân vật bằng một vài nét phác họa chân dung gây chú ý cho người đọc, tác giả mới kể lại câu chuyện Mị về làm dâu gạt nợ cho nhà Pá Tra. Mị là cô gái trẻ, đẹp và giàu lòng yêu đời, lại chăm chỉ và hiếu thảo. Mị đang sống những ngày tươi đẹp của tuổi yêu đương, dù trong cảnh nghèo khó. Không ít chàng trai đã theo đuổi cô gái nghèo ấy. Mùa xuân đến, Mị đang sống trong niềm sung sướng hồi hộp chờ nghe tiếng sáo quen thuộc của người yêu. Thế nhưng chính trong một đêm xuân như thế, Mị đã bị bắt cóc về làm dâu trừ nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Nguyên do chỉ vì món nợ truyền kiếp của bố mẹ Mị. Ngày trước hai người lấy nhau, không có tiền cưới, phải đến vay tiền thống lí, bố của Pá Tra. Mị phải mang món nợ truyền kiếp ấy như một thứ "tội tổ tông" của người nghèo, từ lúc ra đời! Tô Hoài đã tố cáo một hình thức bóc lột phổ biến của bọn phong kiến ở miền núi cũng như ở miền xuôi: nạn cho vay nặng lãi. Nó đã cột chặt bao nhiêu người nghèo vào số phận nô lệ, phụ thuộc vào bọn chủ nợ giàu có.
Trong thời gian đầu bị bắt về làm vợ A Sử, Mị đã phản kháng quyết liệt: hàng mấy tháng ròng, đêm nào Mị cũng khóc, rồi Mị định tự tử bằng lá ngón. Nhưng có chết thì món nợ vẫn còn. Bố già còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ. Thế là Mị không đành lòng chết.
Những năm tháng làm dâu trong nhà Pá Tra là một chuỗi dài triền miên những cực nhọc vất vả nối tiếp không dứt đến mức dường như đã làm tê liệt cả ý thức về bản thân và những mong muốn thay đổi số phận ở Mị. "Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi". Củng cố thêm cái ách áp bức nặng nề ấy còn là sự áp chế về tinh thần bởi mê tín, thần quyền. Mị bị ràng buộc bởi ý nghĩ rằng bố con Pá Tra đã "trình ma" mình là người nhà nó thì chỉ còn biết ở cho đến lúc chết rũ xác trong nhà nó mà thôi. Chân dung Mị được khắc đậm một nét này: "cúi mặt không nghĩ ngợi nữa", "Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như một con rùa nuôi trong xó cửa", lúc nào "cũng cúi mặt buồn rười rượi".
Căn buồng Mị nằm lúc nào cũng âm u, chạng vạng với cái cửa sổ "một lỗ vuông bằng bàn tay", là một biểu tượng gắn với cuộc đời nhân vật. Cái cửa sổ "Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi". Thậm chí Mị cũng không có ý nghĩa vẻ cái chết nữa: "Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa". Mị sống như một cái bóng vật vờ, sống mà như đã chết, không còn cả ý thức về thời gian nữa. Mị không còn nhớ mình về làm dâu nhà Pá Tra đã bao nhiêu năm. Với Mị, sự chuyển đổi của thời gian, trong một ngày hay trong một năm, cũng chẳng gợi cho cô một ấn tượng, cảm xúc gì, vẫn chỉ là một cái màu nhờ nhờ trăng trắng "không biết là sương hay là nắng", cái sắc màu mờ mờ đùng đục của những hoàng hôn đằng đẵng buồn tẻ và tê tái.
Ở đoạn đầu của truyện, cuộc sống của Mị bị giam hãm trong cái không gian chật hẹp và tù đọng của nhà Pá Tra, với một nhịp điệu buồn tẻ, nặng nề của những công việc khổ sai lặp di lặp lại, trong một thời gian ngưng đọng như không dĩ vãng và không tương lai. Lời trần thuật với nhịp chậm, trầm lặng tạo ra giọng điệu có chiều sâu thấm đượm nỗi xót xa và thương cảm.
Phải chăng tâm hồn Mị đã hoàn toàn nguội lạnh? Cô Mị một thời trẻ đẹp, khát khao hạnh phúc đã hoàn toàn cam chịu thân phận nô lệ, sống mà như đã chết. Không, ngòi bút của Tô Hoài không chỉ phơi bày cái đen tối, ảm đạm của cuộc đời mà còn thiết tha hướng tới phía sự sống và ánh sáng. Ngòi bút của nhà văn đã tìm sâu vào tận cùng của ý thức và trong đáy sâu tiềm thức nhân vật để khơi bừng lên chút ánh sáng và hơi ấm của niềm ham sống khát khao hạnh phúc.
Sự thức tỉnh đời sống ý thức của Mị trước hết là nhờ tác động của hoàn cảnh, một hoàn cảnh khá "điển hình" - đấy là mùa xuân về trên miền núi cao Tây Bắc. Mùa xuân gợi dậy ở con người, ở thiên nhiên sức sống tiềm tàng và những khát vọng. Người Mông ăn Tết khi ngô lúa đã gặt xong, mùa xuân có thêm niềm vui thu hoạch mùa màng. Cái Tết năm ấy đến vào lúc gió và rét dữ dội, nhưng vẫn không ngăn được những sắc màu của mùa xuân trong thiên nhiên và cả ở con người. Sự sống của tạo vật và con người như được mùa xuân khơi dậy, làm bừng tỉnh. Và thời điểm để ngọn lửa sống trong lòng Mị bừng lên đã đến. Đấy là một "đêm tình mùa xuân". Tiếng sáo gọi bạn tình cứ thiết tha, bồi hồi "tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng". Với Mị, tiếng sáo gọi bạn là biểu tượng lôi cuốn nhất của mùa xuân, của khát vọng hạnh phúc: "Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị" hết núi này sang núi khác.
Cái nồng nàn của đêm xuân lại được tăng thêm bởi bữa rượu ngày Tết, trong tiếng chiêng đánh ầm ĩ và những người lên đồng, người hát: "Ngày Tết, Mị cũng uống rượu, Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Rồi say...". Chính trong một trạng thái đã được kích thích bởi men rượu, bởi những âm thanh náo động của bữa cơm cúng ma trong nhà Pá Tra và sự lôi cuốn của tiếng sáo gọi bạn ngoài đường, Mị đã vượt ra khỏi tâm trạng thờ ơ, nguội lạnh lâu nay của mình. Dấu hiệu đầu tiên là Mị sống lại với những hồi tưởng về những ngày xuân quá khứ, những kỉ niệm đẹp về ngày trước, những ngày hạnh phúc ngắn ngủi của tuổi trẻ.
Bằng việc nhớ lại quá khứ, Mị đã vượt qua tình trạng sống "phi thời gian", sống mà như đã chết bấy lâu nay, rồi Mị sống lại với niềm ham sống của tuổi trẻ: "Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi". Sức sống bấy lâu nay bị đè nén, tưởng đã tắt lịm, thì nay bỗng bật trào dậy. Phản ứng đầu tiên đến với Mị là ý nghĩ: "Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa". Ý nghĩ về cái chết lúc này là sự phản kháng với hoàn cảnh, nó chứng tỏ rằng Mị đã ý thức lại được tình cảnh đau xót dai dẳng của mình. Trong khi ấy thì tiếng sáo - biểu tượng của khát vọng tình yêu và tự do - cứ theo sát diễn biến tâm trạng của Mị. Nó là ngọn gió thổi bùng lên đốm lửa trong lòng Mị. Tiếng sáo từ chỗ là một hiện tượng ngoại cánh ("tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường") đã xâm nhập thế giới nội tâm của Mị, trở thành một hiện hữu ở trong tâm linh nhân vật: "Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo".
Đến đây đã xảy ra bước phát triển quyết định: từ những sôi sục trong tâm tư, Mị bước tới hành động. Đầu tiên là một hành động có nhiều ý nghĩa: "Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng". Đấy là một hành động của sự thức tỉnh. Mị thắp sáng ngọn đèn trong càn phòng vốn âm u, mờ mịt của mình, cũng tức là Mị thắp lên một ánh sáng trong cuộc đời tăm tối triền miên của mình trong nhà Pá Tra. Và hành động này thúc đẩy hành động tiếp theo, như những đợt sóng tiếp nhau. Dường như không đếm xỉa gì đến những trói buộc khắt khe của nhà Pá Tra, đến A Sử, Mị tự mình hành động như một con người tự do, theo tiếng gọi của lòng mình: quấn lại tóc, rút lấy cái váy hoa, sửa soạn đi chơi Tết.
Giữa lúc lòng ham sống trỗi dậy mạnh mẽ thì nó bị dập xuống phũ phàng: A Sử bước vào, thản nhiên, lầm lì, trói đứng Mị vào cây cột nhà: tóc Mị xõa xuống, A Sử quấn luôn tóc lên cột, rồi y "tắt đèn, đi ra, khép cửa buồng lại". Cái kĩ càng, rành rẽ của từng động tác biểu hiện một sự tàn ác đến thản nhiên của A Sử.
Suốt cái đêm bị trói vào cột ấy, Mị đã sống trong sự giằng xé giữa niềm khao khát sống tự do và thực tại nghiệt ngã. Ban đầu, Mị như quên những vòng dây trói và những đau đớn thể xác mà vẫn sống với tiếng sáo, "tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi" ở ngoài kia, đến nỗi Mị "vùng bước đi". Nhưng rồi những vòng dây trói thít chặt và nỗi đau đớn đến tê dại toàn thân đã kéo Mị trở về với thực tại. Thay thế cho tiếng sáo gọi bạn, chỉ còn "tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa". Thực tại phũ phàng đã bóp chết những khao khát tự do và hạnh phúc ở Mị.
Ngòi bút của Tô Hoài đã thấm nhuần tinh thần nhân đạo, thể hiện ở niềm tin và sự trân trọng niềm khát khao vươn lên đời sống tự do và hạnh phúc của những con người bị đọa đày đau khổ. Đấy là sự tiếp nối tinh thần nhân đạo truyền thống trong văn học dân tộc. Đến đây, giữa lúc xung đột đã dẫn đến căng thẳng, tác giả tạm thời mở nút cho tình tiết này bằng sự xuất hiện của A Phủ trong cuộc đánh nhau của toán thanh niên làng bên với A Sử. Đây cũng là lối giới thiệu nhân vật một cách tự nhiên và gây sự chú ý ngay từ đầu.
Cũng như Mị, A Phủ được tác giả giới thiệu bằng sự xuất hiện đột ngột, gây chú ý cho người đọc, rồi mới kể về lai lịch của anh. A Phủ xuất hiện trong cuộc đánh nhau của trai làng bên với bọn A Sử.
Lũ phá đám ta đêm qua đây rồi.
- A Phủ đâu? A Phủ đánh chết nó đi!
Một người to lớn chạy vụt ra vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử. Con quay gổ ngát lăng vào giữa mặt. Nó vừa kịp bưng tay lên. A Phủ đã xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp". A Phủ xuất hiện đối đầu với A Sử thật hiên ngang và trận đòn đánh mới áp đảo và hả hê làm sao! (Chú ý câu văn mô tả cảnh này bằng một loạt từ chỉ hành động với nhịp nhanh, mạnh, dồn dập: chạy vụt ra, vung tay ném, xộc tới nắm, kéo đập đầu, xé, đánh tới tấp).
A Phủ là một thanh niên nghèo, suốt đời đi làm thuê làm mướn, không có ruộng, không có cả đến cái vòng bạc đeo cổ để đi chơi Tết. Cha mẹ đã chết cả trong một trận dịch đậu mùa, A Phủ đã từng bị bắt bán xuống vùng người Thái,... Nhưng chính cuộc sống cùng cực ấy đã hun đúc thêm ở A Phủ một sức sống mạnh mẽ, lòng ham chuông tự do và một tính cách thật gan góc, cùng với một tài năng lao động đáng quý. A Phủ thạo và ham thích những công việc lao động nặng nhọc mà khó khăn, nguy hiểm: "biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo", "Đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng". A Phủ là đứa con của núi rừng tự do. Cuộc sống phóng khoáng, ưa tự do, gần gũi thiên nhiên và chất phác của A Phủ cũng là một nét tính cách đặc trưng của người Mông.
Việc A Phủ bị bắt làm người ở gạt nợ càng làm tăng thêm sức tố cáo của tác phẩm: một chàng trai khoẻ mạnh, gan góc, vốn không nợ nần gì nhà Pá Tra, lại lao động giỏi, sống tự do như chim trời giữa núi rừng, vậy mà cuối cùng cũng không thoát khỏi ách áp bức của chúa đất, phải rơi vào thân phận kẻ nô lệ suốt đời trong nhà Pá Tra. Hơn thế nữa, cho đến cả đời con, đời cháu cũng vậy, bao giờ trả hết nợ mới thôi!
Cảnh bọn chức việc trong làng xử kiện A Phủ lại thêm một bức tranh cụ thể sống động, giàu sức tố cáo vé một tập tục là hiện thân của ách áp chế kiểu trung cổ ở miền núi. Cuộc xử kiện diễn ra trong khói thuốc phiện mù mịt "tuôn ra các lỗ cửa sổ tun hút xanh như khói bếp" và "Người thì đánh, người thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Xong một lượt đánh, kể, chửi, lại hút", cứ thế suốt từ trưa cho đến hết đêm. Còn A Phủ gan góc, quỳ chịu đòn chỉ im như tượng đá.
Mị và A Phủ cùng cảnh nô lệ trong nhà Pá Tra, nhưng không phải họ đã gặp gỡ nhau ngay được. Nhưng rồi một cảnh ngộ xảy đến với A Phủ. A Phủ đi chăn bò để hổ bắt mất một con. Pá Tra trói đứng A Phủ vào cọc ở giữa nhà, một tình cành bị trói chờ chết như năm nào Mị đã phải chịu. Lúc đầu, nhìn A Phủ bị trói, Mị vẫn chưa có một suy nghĩ gì. Nào phải đâu Mị là người nhẫn tâm, chỉ vì những hành động tội ác trong nhà Pá Tra là chuyện diễn ra hằng ngày và Mị cũng chỉ là một nạn nhân bất lực mà thôi. Hơn nữa, Mị vẫn đang chìm trong trạng thái sống gần như vô cảm. Nhưng đến một đêm, khi Mị trở dậy thổi lửa sưởi, "Ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại".
Chính dòng nước mắt ấy của A Phủ, dòng nước mắt tuyệt vọng, đau đớn của người trai Mông gan góc, quả cảm đã đánh thức đời sống ý thức và tình cảm ở Mị. Mị bừng tinh, thoát khỏi tình trạng "vô cảm", mà dấu hiệu đầu tiên của sự thức tính ấy cũng lại là sự hồi tưởng. Kí ức sống dậy, Mị nhớ lại những nỗi đau đớn khi bị trói đứng vào cột. "Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được". Mị nhớ đến một người đàn bà khác đã từng bị trói đến chết. Từ sự xót thương người đồng cảnh ngộ, ở Mị đã hình thành mối đồng cảm giai cấp tự nhiên. Ý nghĩ cứu A Phủ đã mạnh hơn cả nỗi lo sợ cho chính mình. Từ tình cảm và ý nghĩ ấy, ắt dẫn tới hành động quyết định của Mị: cắt dây trói cứu A Phủ. Cắt dây trói cứu A Phủ, Mị cũng đã tự cắt sợi dây trói buộc đời mình với nhà Pá Tra.
Để tự cứu mình, Mị đã chạy theo A Phủ thoát khỏi địa ngục nhà Pá Tra. Đến dây cái vòng trói buộc cuộc đời Mị và A Phủ đã được tháo gỡ nút thứ nhất. Mặc dù đây chỉ là những hành động đấu tranh tự phát, nhưng cũng chính là từ những khát vọng tự do và sự phản kháng mạnh mẽ ấy mà họ sẽ nhanh chóng đến với cách mạng, để giải phóng triệt để cho số phận của mình và của những người nghèo khổ khác.
Thành công của truyện Vợ chồng A Phủ trước hết là ở cốt truyện mang ý nghĩa tiêu biểu cho số phận và con đường giác ngộ của người nông dân miền núi, cũng như của nhân dân lao động nói chung trong sự gặp gỡ cách mạng. Mô típ cốt truyện này rất tiêu biểu cho các tác phẩm văn xuôi trong giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp, cũng như cả trong văn học từ năm 1945 đến 1975. Nhưng tác phẩm gây được ấn tượng sâu sắc là ở nghệ thuật xây dựng nhân vật. Nhân vật vừa mang tính tiêu biểu cho tầng lớp, giai cấp vừa có được những nét cá tính khá rõ. A Phủ thì mạnh mẽ, gan góc mà bộc trực, cả tin, chất phác. Mị giàu sức sống nhưng trầm lắng hơn, có một đời sống nội tâm sôi nổi dưới vẻ ngoài lặng lẽ.
Phân tích Vợ chồng A Phủ mẫu 3:
Tô Hoài là một nhà văn tài năng, cần mẫn. Ông sáng tác trên nhiều thể loại và ở thể loại nào ông cũng đạt được những thành tựu xuất sắc. Ông là nhà văn của sự thật đời thường với vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng khác nhau. Trước cách mạng, ông chủ yếu hướng ngòi bút của mình về cuộc sống nông thôn nghèo và thế giới loài vật, sau cách mạng ông hướng đến những vùng nông thôn rộng lớn, đặc biệt là Tây Bắc. Vợ chồng A Phủ là kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc của ông với nhân vật trung tâm là Mị.
Mị là một cô gái Mông trẻ trung, xinh đẹp nhưng số phận lại vô cùng bất hạnh. Vẻ đẹp của Mị được minh chứng qua việc “trai đến đứng nhẵn chân vách đầu buồng Mị”, Mị mang nhan sắc rực rỡ của người con gái tuổi mới lớn, độ tuổi đẹp đẽ, căng tràn sức sống nhất. Không chỉ xinh đẹp mà Mị còn rất tài năng, tài thổi sáo của Mị nức tiếng gần xa, biết bao người mê đắm, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Dù gia cảnh nghèo nàn, vẫn luôn nợ tiền nhà thống lí Pá Tra, nhưng khi biết nhà thống lí muốn bắt mình về làm con dâu để gạt nợ, cô đã lập tức cầu xin cha cho mình được đi làm để trả nợ dần: “Con sẽ làm nương ngô giả nợ thay cho bố”, vì cô tự tin vào khả năng, sức khỏe của mình: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô” và hơn hết cô gái trẻ ấy còn mang trong mình cái khát vọng được sống cuộc đời tự do: “Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Dù Mị hội tụ đầy đủ những phẩm chất để được hưởng một cuộc sống tự do, hạnh phúc nhưng số phận lại vô cùng bất hạnh, bị các thế lực thần quyền và cường quyền chà đạp, áp bức.
Vì món nợ truyền kiếp, cuối cùng Mị bị thống lí Pá Tra bắt về làm con dâu gạt nợ. Cũng chính từ giờ phút đó cuộc sống bi kịch đổ ập xuống đời cô. Ban đầu khi mới về nhà thống lí, trong Mị vẫn mong manh xuất hiện ý thức phản kháng: đêm nào cô cũng khóc và đến cuối cùng cô đã đi đến quyết định ăn lá ngón tự tử. Người ta chỉ muốn chết khi ý thức được nỗi khổ của mình, khi sự chịu đựng đã đạt đến giới hạn. Nhưng tình yêu thương gia đình đã khiến Mị từ bỏ ý định đó, vì nếu cô chết đi, món nợ vẫn còn, cha cô lại phải gánh chịu. Mị chấp nhận quay trở lại với cuộc sống lầm lũi, bất hạnh.
Khi người ta sống trong đau đớn và khổ cực trong một thời gian quá dài, tự nhiên sẽ mất đi cảm giác về cái khổ, cái bất công. Khi Mị làm dâu đã quen, cô quên đi nỗi đau khổ về thể xác. Thời gian của Mị không tính bằng thời gian đơn thuần mà bằng lượng công việc cô làm, việc này nối tiếp việc kia, dường như không có lúc nào người con gái ấy được nghỉ ngơi. Từ một người con gái trẻ trung, đầy sức sống, Mị biến thành công cụ lao động, mất đi ý niệm về thời gian, về tuổi trẻ. Không chỉ vậy Mị còn phải gánh chịu nỗi đau khổ về tinh thần: “Ai có việc ở xa về, có việc vào nhà thống Lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”, “lúc nào cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Và chính Mị cũng tưởng mình cũng là con trâu, con ngựa trong nhà này.
Biện pháp so sánh đã cho thấy nỗi khổ bị đẩy lên đến tận cùng của Mị. Đặc biệt là hình ảnh ẩn dụ về căn buồng mà Mị ở “kín mít, chỉ có một cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào nhìn ra cũng chỉ thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng”. Đây thực chất không phải là nơi để con người sinh sống mà nó như một địa ngục trần gian, dùng để giam hãm cuộc đời Mị. Và nó cũng chẳng khác gì một nấm mồ chôn vùi thanh xuân, tuổi trẻ và hạnh phúc của một người con gái lương thiện, giàu sức sống. Đoạn văn cho thấy hiện thực xã hội thối nát đương thời đã chà đạp lên quyền sống và hạnh phúc của con người, đồng thời cũng là lời nói cảm thương cho những số phận bất hạnh dưới ách thống trị của bọn phong kiến miền núi.
Ẩn sâu trong tâm hồn tưởng chừng như đã héo úa, không còn niềm tin ấy nữa lại là sức sống tiềm tàng vô cùng mãnh liệt. Sức sống ấy được thể hiện rõ nhất trong đêm tình mùa xuân. Không phải ngẫu nhiên mà sức sống đó được khơi nguồn, trước hết do Mị nhận sự tác động từ không khí mùa xuân ấm áp, đầy tình tứ, những đồi cỏ gianh vàng ửng, những chiếc váy phơi trên mỏm đá xòe rộng ra như những cánh bướm sặc sỡ. Cùng với đó là âm thanh náo nhiệt, rộn rã của đám trẻ con và đặc biệt là sự xuất hiện của tiếng sáo. Tiếng sáo xuất hiện từ xa đến gần, ban đầu là ở bên ngoài, sau đó gần như hòa làm một trong Mị: “Rập rờn trong đầu Mị”. Trong hồn Mị sống lại những khát khao được yêu đương, khát vọng được sống hạnh phúc của ngày xưa, từ cõi vô cảm, quên lãng, Mị trở về cõi nhớ. Đồng thời cũng không thể thiếu đi chất xúc tác của hơi men, Mị uống cả hũ rượu, uống ừng ực từng bát, Mị say rồi ngồi lịm đi, mơ màng nhớ về quá khứ tự do.
Những chất xúc tác đó đã tạo nên hành trình vượt thoát, để Mị tìm lại chính bản thân mình. Trong lòng Mị thấy phơi phới trở lại, cái cảm giác mà tưởng rằng bấy lâu nay đã mất. Mị ý thức được rằng: “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Tuy nhiên sự thật vô cùng phũ phàng, Mị muốn đi chơi nhưng lại không được đi nên Mị quay về buồng. Trong hơi men của rượu lại một lần nữa sức sống trỗi dậy. Mị lấy ống mỡ, sắn một miếng thắp lên cho sáng, đây không chỉ là hành động thắp sáng vật lí đơn thuần mà nó còn biểu tượng cho khát vọng, niềm tin được giải thoát, thắp sáng chính cuộc đời Mị. Cô quấn lại tóc, lấy cái váy chuẩn bị đi chơi thì bị A Sử chặn đứng lại bằng hành động vô cùng thô bạo. Mị bị trói đứng ở cột, nhưng A Sử chỉ trói được thân xác Mị, chứ không thể trói được khát vọng, sức sống trong Mị. Trong tâm tưởng cô vẫn thả hồn theo tiếng sáo và những cuộc chơi. Sáng hôm sau Mị tỉnh lại và tiếp diễn chuỗi ngày sống mòn, sống mỏi.
Và để cho cuộc vượt thoát của Mị được thành công, Tô Hoài đã tạo ra tình huống gặp gỡ bất ngờ giữa Mị và A Phủ. A Phủ là người ở của thống lí, do làm mất bò nên bị trói đứng. Sau đêm tình mùa xuân Mị rơi vào trạng thái tê liệt, nhưng gặp A Phủ đã thức dậy trong cô khát vọng sống. Giọt nước mắt “lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” đã có tác động mạnh mẽ đến Mị, khiến Mị ý thức được nỗi đau khổ của mình, tự thương thân và thương người. Điều đó đã dẫn đến hành động cởi dây trói và bỏ đi theo A Phủ, hướng đến cuộc đời tự do, hạnh phúc phía trước.
Xây dựng nhân vật Mị, Tô Hoài đã phơi bày một cách chân thực số phận cực khổ của người dân lao động Tây Bắc dưới ách áp bức của giai cấp thống trị miền núi. Đồng thời thể hiện niềm cảm thương với số phận khổ đau của nhân vật Mị, phát hiện, trân trọng và ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn với sức sống tiềm tàng mãnh liệt của Mị.
Ngoài nhân vật Mị, ta cũng không thể không nhắc đến nhân vật A Phủ. A Phủ là người có số phận bất hạnh, cha mẹ mất, cậu trở thành món hàng trao đổi, mất tự do ngay từ khi còn bé. Khi lớn lên do không có nhà cửa, tiền bạc, ruộng nương nên A Phủ không thể lập gia đình. Mặc dù vậy, cậu lại là người mang trong mình những phẩm chất hết sức đẹp đẽ, lối sống phóng khoáng, mạnh mẽ, tự lực kiếm sống, vươn lên hoàn cảnh khắc nghiệt để sống, là một con người dũng cảm, tự tin, yêu đời. Nhưng số phận bất hạnh đã biến A Phủ thành người ở gạt nợ một cách hết sức phi lí. Cậu bị đày đọa về thể xác, bị lợi dụng sức khỏe triệt để, bị rẻ rúng khôn cùng. Nhưng trong con người ấy vẫn luôn tồn tại khao khát tự do, hạnh phúc mãnh liệt. Ngay khi được Mị giải cứu, A Phủ và Mị đã cùng nhau bỏ trốn nơi địa ngục đó để tìm đến một cuộc sống đẹp đẽ, tự do hơn.
Nét nghệ thuật đắc sắc nhất trong tác phẩm là nghệ thuật xây dựng nhân vật. Mị được xây dựng theo kiểu nhân vật tâm trạng, còn A Phủ là kiểu nhân vật hành động. Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, cũng như phong tục tập quán tài tình. Ngôn từ giản dị, linh hoạt, giàu cảm xúc, mang đậm chất dân tộc. Các yếu tố nghệ thuật đó đã góp phần tạo nên thành công cho tác phẩm.
Vợ chồng A Phủ là kết tinh của giá trị hiện thực và nhân đạo. Tác phẩm đã lên án, tố cáo chế độ phong kiến miền núi chà đạp, áp bức quyền sống, quyền hạnh phúc của con người. Bên cạnh đó tác phẩm cũng thấm đẫm tinh thần nhân đạo: Cảm thương cho số phận những người lao động nghèo bất hạnh, bị tước đoạt đi quyền sống, bị hành hạ cả thể xác và tinh thần. Đồng thời trân trọng ngợi ca sức sống tiềm tàng, luôn biết hướng đến một tương lai tốt đẹp hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%B4_Ho%C3%A0i
- Văn bản Vợ chồng A Phủ, trang 3 SGK Ngữ văn lớp 12, tập Hai
- Hệ thống kiến thức bài Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài
-/-
Truy cập kho tài liệu Văn mẫu 12 để cập nhật thêm nhiều bài văn hay tham khảo, giúp rèn luyện kỹ năng làm văn, chuẩn bị tốt cho các bài thi và kiểm tra môn Văn lớp 12. Chúc các em học tốt!