Phân tích tác phẩm Bố của Xi-mông  (Guy-đơ Mô-pa-xăng)

Phân tích tác phẩm Bố của Xi-mông (Guy-đơ Mô-pa-xăng)

Xuất bản ngày 19/04/2019 - Tác giả: Giangdh

Phân tích tác phẩm Bố của Xi-mông, top 5 bài văn mẫu hay phân tích nội dung tác phẩm truyện ngắn Bố của Xi-mông của tác giả Guy-đơ Mô-pa-xăng

   Tài liệu hướng dẫn phân tích tác phẩm Bố của Xi-mông giúp em nắm được cách làm và hiểu hơn về cái nhìn của tác giả với những phản ánh chân thực nhất tình hình xã hội Pháp thời bấy giờ.

Bài viết bao gồm những nội dung chính sau:

  • Hướng dẫn phân tích đề và gợi ý cách làm
  • Xây dựng dàn ý chi tiết phân tích Bố của Xi - mông
  • Những bài văn phân tích hay tham khảo

Huong dan phan tich tac pham Bo cua Xi-mong

I. Khái quát tác giả, tác phẩm Bố của Xi-mông

1. Tác giả Guy-đơ Mô-pa-xăng

- Guy-đơ Mô-pa-xăng (1850 - 1893) là nhà văn viết truyện ngắn nổi tiếng người Pháp

- Sinh ra trong một gia đình giàu có tại vùng Normandie ở miền Bắc nước Pháp.

- Tuổi thơ ông là những trang buồn, từ bé thơ sống trong bi kịch gia đình

- Sự nghiệp văn chương của Mô-pa-xăng vô cùng đồ sộ: trên 300 truyện ngắn, vài vở kịch, 6 cuốn tiểu thuyết. Tên tuổi ông gắn liền với những tác phẩm xuất sắc như: “Viên mỡ bò” (1880), “Một cuộc đời” (1883), ‘‘Ông bạn đẹp” (1885), “Núi orion” (1836)…

- Các tác phẩm của ông tập trung ở hai chủ đề: ca ngợi lòng yêu nước và tinh thần chiến đấu chống quân xâm lược, vạch trần sự thật xấu xa, đồi bại của giai cấp tư sản - quý tộc và nói lên tình thương đối với những con người “bé nhỏ” bất hạnh.

- Ông mắc bệnh tâm thần và chết đau đớn trong nhà thương điên vào ngày 6-7-1893 khi chỉ vừa 42 tuổi.

2. Tác phẩm Bố của Xi-mông

- Hoàn cảnh sáng tác: Viết vào nửa cuối thế kỉ XIX, in trong tác phẩm cùng tên.

- Nội dung bài Bố của Xi-mông: Truyện ngắn “Bố của Xi-mông” kể về nỗi tủi nhục của một em bé “không có bố” với bao tình yêu thương, chứa chan tinh thần nhân đạo.

- Bố cục văn bản: 4 phần

+ Phần 1 (từ đầu đến "...chỉ khóc hoài"): Tâm trạng tuyệt vọng của Xi - mông.

+ Phần 2 (tiếp đến "...một ông bố"): Xi - mông gặp bác Phi - líp.

+ Phần 3 (tiếp đến "...bỏ đi rất nhanh"): Phi - líp gặp chị Blang - sốt.

+ Phần 4 (còn lại): Câu chuyện ở trường sáng hôm sau.

II. Hướng dẫn phân tích tác phẩm Bố của Xi-mông

1. Xác định yêu cầu đề bài

- Yêu cầu về nội dung: Phân tích nội dung, nghệ thuật trong truyện Bố của Xi-mông.

- Phạm vi tư liệu dẫn chứng: các chi tiết, hình ảnh,... có trong tác phẩm Bố của Xi-mông

- Phương pháp lập luận chính: phân tích

2. Luận điểm bài Bố của Xi-mông

Với tác phẩm này, các em có thể đi theo hướng phân tích từng nhân vật trong truyện theo hệ thống luận điểm dưới đây:

- Luận điểm 1: Xi-mông - một đứa trẻ ngây thơ, hồn nhiên nhưng đầy nghị lực

- Luận điểm 2: Bác Phi-líp - người thợ rèn có lòng nhân hậu, thương người, đáng quí trọng.

- Luận điểm 3: Blăng-sốt - người thiếu phụ đẹp, đức hạnh, trót lỡ lầm.

Có thể tham khảo lại phần nội dung soạn bài Bố của Xi-mông để nắm rõ chi tiết tâm lý từng nhân vật trong truyện từ đó có thể phát triển ý và viết được cho mình một bài văn phân tích hay và đầy đủ ý nhất.

III. Dàn ý phân tích tác phẩm Bố của Xi-mông

1. Mở bài phân tích Bố của Xi-mông

- Giới thiệu sơ lược tác giả, tác phẩm:

+ Guy-đơ Mô-pa-xăng là nhà văn hiện thực vĩ đại của nước Pháp trong thế kỉ XIX, một bậc thầy về truyện ngắn với nội dung phản ánh sâu sắc hiện hiện thực xã hội Pháp nửa cuối thế kỉ XIX.

+ Đoạn trích là một phần của truyện ngắn Bố của Xi-mông, khắc họa thành công nét đẹp của các nhân vật Xi-mông, Blăng-sốt và Phi-líp.

2. Thân bài phân tích Bố của Xi-mông

a) Luận điểm 1: Xi-mông - một đứa trẻ ngây thơ, hồn nhiên nhưng đầy nghị lực

- Xi-mông là một đứa trẻ đáng thương:

+ Một bé trai độ 7 - 8 tuổi, hơi xanh xao, rất sạch sẽ nhưng có vẻ nhút nhát.

+ Không biết bố là ai.

+ Bị lũ bạn trêu chọc, em rất đau khổ.

- Tâm trạng ở bờ sông:

+ Xi-mông ra bờ sông định tự tử.

+ Trước cảnh đẹp, trời ấm, ánh nắng mặt trời êm đềm, nước lấp lánh như ánh gương,... làm em quên đi chuyện đau khổ, chỉ muốn ngủ rồi muốn chơi đùa.

+ Em đuổi theo con nhái rồi vồ hụt, tóm được hai đầu chân sau, rồi bật cười. -> Tâm trạng vui đùa, bị cuốn hút bởi thiên nhiên.

+ Em nhớ mẹ, em lại khóc

-> Tâm trạng của một em bé hiện ra qua cảnh thiên nhiên đẹp, hành động và cử chỉ rất phù hợp với tâm lí lứa tuổi.

- Diễn biến tâm lí lứa tuổi được miêu tả tài tình:

+ Tâm trạng khi gặp bác Phi-líp và về nhà

  • Như được dịp trút nỗi lòng đau khổ
  • Mắt đẫm lệ, giọng nghẹn ngào, nấc buồn tủi.

-> Sự bất lực, tuyệt vọng của đứa bé.

+ Khi gặp mẹ: em la khóc, đau đớn, buồn tủi.

+ Hỏi bác Phi-líp: "Bác có muốn làm bố cháu không?" -> mong muốn có bố rất mãnh liệt.

=> Lời đối thoại rất tự nhiên, khát khao, ước mơ rất đáng thương, ngây thơ của Xi-mông dù là những điều bình dị nhất.

+ Sáng hôm sau đến trường.

  • Xi-mông quát vào mặt chúng "Bố tao tên là Phi-líp" với tràn đầy sự hãnh diện, tự hào.

=> Niềm vui, niềm tự hào lớn cho em sức mạnh để sống và học tập.

b) Luận điểm 2: Bác Phi-líp - người thợ rèn có lòng nhân hậu, thương người, đáng quí trọng

- Được giới thiệu là một người:

+ Cao lớn, râu tóc quăn đen

+ Vẻ mặt nhân hậu, làm nghề thợ rèn.

+ Bàn tay chắc nịch, giọng ồm ồm.

- Khi gặp Xi-mông:

+ Đặt tay lên vai em, an ủi và đưa em về.

+ Lúc đầu suy nghĩ có thể đùa cợt với chị Blang - sốt nhưng khi gặp bác hiểu chị là người tốt, không thể đùa được.

=> Thương Xi-mông, cảm mến chị Blăng-sốt.

- Trò chuyện và nhận làm bố của Xi-mông

=> Bác Phi-líp là người có lòng nhân hậu, thương người, đã cứu sống Xi-mông, nhận làm bố của Xi-mông, đem lại niềm vui cho em, thật đáng quí trọng.

c) Luận điểm 3: Blăng-sốt - người thiếu phụ đẹp, đức hạnh, trót lỡ lầm

- Từng là cô gái đẹp nhất vùng vì nhẹ dạ nên đã một lần lầm lỡ.

- Là một thiếu phụ, cao lớn, xanh xao, nghiêm nghị

- Sống cùng đứa con trai Xi-mông trong ngôi nhà nhỏ, quét vôi trắng, hết sức sạch sẽ.

- Thái độ với khách: đứng nghiêm nghị… như muốn cấm đàn ông bước qua ngưỡng cửa. -> Thái độ nghiêm nghị khiến người khác không thể đùa cợt.

- Nỗi lòng với con:

+ Mặt đỏ bừng tái tê đến tận xương tủy, hôn con, nước mắt lã chã.

+ Lặng ngắt và quằn quại vì hổ thẹn

-> Thương và hiểu lòng con.

=> Nghệ thuật miêu tả, phân tích tâm lí cho thấy Blăng-sốt là một người thiếu phụ đẹp, đức hạnh, trót lỡ lầm, hoàn cảnh rất cần sự cảm thông.

3. Kết bài phân tích Bố của Xi-mông

- Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích:

+ Nội dung: Khắc họa hình tượng cậu bé Xi-mông, cảm thông với những nỗi đau hoặc lỡ lầm của người khác, ca ngợi tình yêu thương và lòng nhân hậu của con người.

+ Nghệ thuật: Nghệ thuật kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn; miêu tả diễn biến tâm trạng nhân vật đặc sắc.

Phan tich tac pham Bo cua Xi - mong

IV. Những bài văn hay đạt điểm cao phân tích tác phẩm Bố của Xi-mông lớp 9

Dưới đây là những bài văn phân tích Bố của Xi-mông hay do Đọc tài liệu tổng hợp, sưu tầm gửi đến các em tham khảo để mở rộng vốn từ ngữ cũng như cách trình bày sao cho bài văn của mình được hay và hấp dẫn nhất.

Phân tích bài văn Bố của Xi-mông mẫu số 1

Tuy chỉ là phần đầu của một truyện ngắn nhưng những trang viết này đã rất sinh động và cảm động. Trong đó, sinh động thể hiện ở việc miêu tả chân thực, sinh động, tươi vui và trong sáng cuộc sống diễn ra. Cảm động bởi những cảm xúc thấm đượm tình người, bao gồm những đau khổ, ước mơ, tình yêu và sự đồng cảm. Tuy nhiên, đó chỉ là một góc nhìn tổng quan. Để phân tích tác phẩm, không có cách nào khác là đi sâu vào nhân vật và quan hệ giữa họ. Đó là yếu tố tạo nên tính cách và cốt truyện của tác phẩm.

Cậu bé Xi-mông là một đứa trẻ không có cha, với vai trò nhân vật chính trong truyện, cậu bé thường xuyên xuất hiện và đóng vai trò gắn kết các nhân vật khác như những đứa trẻ nghịch ngợm trong lớp học, bác công nhân Phi-líp và người phụ nữ nghèo khổ, đáng thương. Xi-mông là một đứa trẻ tự trọng, nhạy cảm và thông minh. Cậu bé cảm thấy không có cha là một nỗi bất hạnh lớn. Tuy nhiên, vì sự nhạy cảm và thông minh của mình, Xi-mông không biết chia sẻ với ai ngoài việc đến bên bờ sông để tìm cách kết thúc cuộc đời của mình. Những đặc điểm này chỉ là một phần của tính cách của Xi-mông mới được hình thành.

Do đó, những ý nghĩ chỉ giống như những cơn gió thoáng qua trong tâm trí em. Vừa mới khóc lóc xong, em rất muốn đi ngủ, nhưng khi nhìn thấy một chú nhái màu xanh, tất cả những gì em vừa trải qua cứ như tan biến mất hết, thậm chí cả cơn buồn ngủ. Nhu cầu nghịch ngợm của Xi-mông trỗi dậy mạnh mẽ hơn bao giờ hết. "Em định bắt nó. Nó nhảy thoát. Em đuổi theo nó và vồ hụt ba lần liền". Xi-mông cảm thấy vui sướng và hài lòng khi bắt được con vật và quan sát nó "cố giãy giụa thoát thân". Nỗi buồn ngủ và nỗi bất hạnh trước đó đột ngột tan biến không để lại chút dấu vết nào. Thậm chí em còn bắt đầu liên tưởng đến những thứ đồ chơi "làm bằng những mảnh gỗ hẹp đóng đinh chữ chi". Cuối cùng, không hiểu tại sao em lại tiếp tục nghĩ đến nhà của mình và đến mẹ.

Sau khi nhận được sự giúp đỡ đáng tin cậy từ một người đàn ông (ban đầu Xi-mông chưa biết là ai), bác công nhân Phi-líp, em cảm thấy cần phải chia sẻ những nỗi buồn đau, giận dữ và oan ức của mình. Với giọng điệu đầy chán nản, hờn tủi vì oan ức, em đã tìm thấy sự thông cảm, thấu hiểu từ người đàn ông đó. Sự đồng cảm đó làm cho hai bác cháu trở về nhà với tinh thần vui vẻ như một cuộc dạo chơi, trong đó người lớn dắt tay đứa trẻ, giống như cha và con. Với Xi-mông, việc có một người cha trong cuộc sống cần thiết đến mức mà chỉ cần một điều gì đó tương tự như thế, hoặc chỉ là tưởng tượng về viễn cảnh ấy, em đã cảm thấy hạnh phúc rồi.

Chi khi trở về với thực tại, ảo tưởng của Xi-mông mới tan biến hoàn toàn. Qua câu nói và giọng nói của người thợ mới quen với mẹ Xi-mông, thực tại ấy thật tàn nhẫn, phũ phàng: "Đây, thưa chị, tôi dắt về trả cho chị cháu bé bị lạc ở gần bờ sông" (Trong trí óc còn non nớt của Xi-mông, em không cảm thấy bị lạc mất đường, mà đang đứng ở một ngã ba không biết đường tiến lui).

Sau khi trải qua hoàn cảnh đau đớn, hy vọng trong Xi-mông vẫn chưa hề tắt. Để giải thoát cho cảnh ngộ của mẹ và bản thân, Xi-mông liền hỏi bác Phi-líp: "Bác có muốn làm bố cháu không?" với tất cả sự tha thiết, hồi hộp và lo lắng. Thời gian dường như đứng im, phải đến khi bác Phi-líp đồng ý như một cam đoan đồng thuận, một giao kèo thì Xi-mông mới thực sự yên tâm: "Thế nhé ! Bác Phi-líp, bác là bố cháu". Hôm sau, khi đến trường, Xi-mông đã trở thành một người khác hoàn toàn, tràn đầy tự tin. Lời nói của em với "thằng kia" không chỉ là lời nói bình thường, mà nó chứa đựng bao nỗi căm hờn và uất ức. Xi-mông "quát vào mặt nó những lời này, như ném một hòn đá", cùng với những câu trả lời về bố của mình (dù em quên không hỏi họ của bác ấy): "Bố tao ấy, bố tao tên là Phi-líp".

Có một câu trong ca dao Việt Nam được dùng để châm biếm những ông thầy bói nói dựa ngày xưa: "Số cô có mẹ có cha - Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông". Thực tình thì nó không hề thiếu ý nghĩa mà trên thực tế, còn rất nhiều người mồ côi cha hoặc mẹ (hoặc cả hai). Câu nói của Xi-mông với niềm tự hào, hãnh diện "có mẹ", "có cha" đã chạm đến điểm cảm động nhất trong lòng người, đó là sự khao khát đơn giản, bình thường của mọi người trong xã hội. Và tính nhân văn của cách suy nghĩ đó còn là ước mơ của nhân loại mãi mãi.

Điểm tựa cho câu chuyện thương tâm mà thật ấm áp tình người này đó là bác thợ Phi-líp. Có vẻ như trên một khía cạnh nào đó, những người đơn giản, vô danh như bác chính là lương tâm của nhân loại. Việc gặp gỡ giữa bác và Xi-mông là sự trùng hợp cũng như quy luật tương đương giữa nỗi đau của người khác và chính ta. Câu hỏi đầu tiên mà bác hỏi đứa trẻ đầy nỗi niềm tâm sự (ngồi bên bờ sông, sát bên cái chết) âu yếm biết bao: "Có điều gì làm cháu buồn phiền đến thế, cháu ơi ?". Đối với bác Phi-líp, nhu cầu được chia sẻ, được đảm bảo và được bảo vệ gần giống với một bản năng. Bác là một con người đúng nghĩa với thái độ không thể bỏ qua, lạnh lùng hoặc phớt lờ nỗi khổ của con người, cho dù họ chỉ là những sinh linh nhỏ bé và vô danh.

Cách hành động ban đầu của bác Phi-líp có vẻ rất ngây thơ, cốt chỉ để an ủi và khích lệ đứa trẻ: "...đừng buồn nữa cháu ơi", "Người ta sẽ cho cháu... một ông bố". Nhưng khi đến nhà của mẹ Xi-mông, nụ cười của bác đột nhiên tắt, bởi làm sao có thể đùa giỡn được với "một cô gái cao lớn, xanh xao đứng nghiêm nghị trước cửa nhà mình". Đây là giới hạn mà con người giàu tưởng tượng nhất cũng không thể vượt qua.

Cảm thấy không thể vượt qua ngưỡng cửa ngôi nhà đó, bác Phi-líp - người đàn ông đã trải qua rất nhiều - cảm thấy rối rắm như một đứa trẻ vì vấn đề phức tạp mà anh ta đang đối mặt và không biết phải làm sao. Chỉ khi có cơ hội, đó là câu nói ngây thơ (không có ý nghĩa sâu xa) của đứa trẻ, bác mới có thể trả lời Xi-mông và giải thoát được chính mình. "Bác công nhân nhấc bổng em lên, đột ngột hôn vào hai má em, rồi sải từng bước dài, bỏ đi rất nhanh". Sau đó, người đàn ông có trái tim nhân ái đó chăm sóc, che chở và yêu thương Xi-mông như một người cha tốt.

Để đánh giá nghệ thuật của một đoạn văn, chúng ta nên dựa vào tiêu chí nào? Nếu nhìn vào cách viết, có thể coi đó là một tác phẩm tự sự thông thường. Tuy nhiên, đúng hơn là xác định đó là một câu chuyện dành cho thiếu nhi. Viết về trẻ em và sử dụng giọng điệu trẻ em - cách nhìn và suy nghĩ ngây thơ nhất của con người là đặc trưng chung của nó. Trong phương diện này, ta có thể liên tưởng đến thời thơ ấu của Gooć-ki và những tác phẩm tự truyện của Nguyên Hồng.

"Bố của Xi-mông" cũng được xây dựng dựa trên một cái mặt bằng như vậy. Từ định hướng đó, Xi-mông trở thành nhân vật trung tâm trong truyện. Ngôi nhà của em là chính là người mẹ Blăng-sốt đáng thương, bác Phi-líp là bầu trời của em, nơi không gian mênh mông hy vọng. Tất cả những tâm tình, bao gồm cả những niềm vui, nỗi buồn, hy vọng và ước mơ của con người, được tập trung vào những cảm nghĩ trẻ thơ. Những cảm nghĩ trong sáng này giống như bầu trời trong xanh, nhưng đôi khi bị những đám mây u ám che phủ. Việc không có cha không phải là một số phận đau đớn mãi mãi, và rồi sẽ trở thành quá khứ. Tuy nhiên, hình ảnh của một đứa trẻ dễ thương như Xi-mông được nhìn nhận từ góc độ của người lớn.

Để vừa khắc họa một tính cách trẻ thơ vừa phát hiện được ở chiều sâu những quy luật khách quan của cuộc sống, sự tiết chế và chọn lọc là vô cùng quan trọng. Cách viết trong sáng, tự nhiên như không được chỉnh sửa trực tiếp mà đưa ngay tới cảm nhận trực tiếp của người đọc, để tạo ra một loại văn bản thứ hai từ những suy nghĩ, rung động về cuộc sống mà chính tác giả đã trải nghiệm. Một tác phẩm tốt giống như một cuộc đua tiếp sức: tác giả và người đọc luôn chạy đua để khám phá điểm giới hạn cuối cùng của chính mình trên một con đường đầy khám phá.

Phân tích bài văn Bố của Xi-mông mẫu 2

Truyện ngắn Bố của Xi-mông do tác giả Guy-đơ Mô-pa-xăng sáng tác là một tác phẩm hiện thực đáng đọc. Truyện nói về nỗi đau khổ của em bé Xi-mông và mẹ trong hoàn cảnh đau khổ bởi những định kiến và tục lệ cổ lỗ khi Xi-mông không biết bố mình là ai. Niềm hạnh phúc tràn đầy của em bé khi được chú Phi-lip nhận lời làm bố là điều đáng để nhắc đến. Ngoài ra, tác phẩm còn ca ngợi lòng nhân hậu của Phi-lip, một người thợ rèn tốt bụng và đáng mến.

Hành động của chú Phi-lip khi nhận làm bố của Xi-mông đã bị một số người chê cười là ngu ngốc, nhưng thực tế đó là một việc làm nhân đạo và cao cả. Chính hành động này đã mang lại nhiều niềm vui và hạnh phúc cho Xi-mông, cứu em thoát khỏi cái chết. Ngay từ ngày đầu tiên đi học ở trường, Xi-mông đã bị đám bạn bè độc ác và vô ý thức trêu chọc, chế giễu em vì không có bố. Em bị đánh đập và tức giận ném đá vào bọn chúng trước khi bỏ đi ra bờ sông. Xi-mông khóc nấc và đã nghĩ đến việc nhảy xuống sông cho chết đuối. Em ngắm đàn cá bơi lội, bắt con nhái chơi, nhưng ý định tự tử ấy vẫn còn lơ lửng.

Xi-mông lại bật khóc, cảm giác run lên trong người. Cô bé quỳ xuống và đọc kinh cầu nguyện như lúc đi ngủ. Tuy nhiên, cơn nức nở vẫn tiếp tục dồn dập, xốn xang và choáng ngợp lấy em. Trong lúc đau khổ đó, chú Phi-lip xuất hiện và biết được tình cảnh của Xi-mông. Chú đã dẫn em về nhà và trước mặt mẹ em, chú Phi-lip mạnh mẽ và dứt khoát chấp nhận lời đề nghị muốn mình làm bố của em: "Có chứ, chú có muốn". Từ đó, chú Phi-lip đã cứu Xi-mông thoát khỏi cơn tuyệt vọng, giải thoát em khỏi vòng tay của thần chết.

Đối với Phi-lip, ban đầu chú nghĩ đó là một hành động nhân đạo, để an ủi cho Xi-mông trong những phút giây thoát khỏi cơn tuyệt vọng. Nhưng sau đó, khi Xi-mông đến tìm chú tại lò rèn và nói với chú rằng "Bố Phi-lip này, lúc nãy thằng con bác Mi-cốt bảo con rằng bố không phải là bố của con hẳn hoi vì bố không phải là chồng của mẹ". Lúc này, đó không còn là một hành động nhất thời nữa. Phi-lip phải đối mặt với một vấn đề nghiêm túc. Xi-mông có thể rơi vào tình thế tuyệt vọng một lần nữa, nếu Phi-lip xem lời nói của mình lần trước là đùa cợt.

Chính những người thợ rèn đồng nghiệp của chú Phi-lip, những vị thần khổng lồ đó đã giúp chú vượt qua định kiến với mẹ của Xi-mông. Lỗi lầm không nằm ở chị ta, và chú đã đưa ra quyết định cuối cùng: cầu hôn người phụ nữ đáng thương và đáng mến này. Việc đó đã mang lại hạnh phúc thực sự cho Xi-mông, giờ đây cậu bé đã có đủ dũng khí để tuyên bố với bạn bè cùng lớp: "Bố tớ là Phi-lip Reemi (bác thợ rèn) và bố tớ hứa sẽ kéo tai tất cả những đứa nào bắt nạt tớ".

Trong truyện ngắn này, chú Phi-lip và các bác thợ rèn được miêu tả như những vị thần phúc lộc. Họ đã giải thoát Xi-mông khỏi nỗi đau khổ và đem lại hạnh phúc cho cậu bé. Hành động của họ cũng giúp mẹ Xi-mông thoát khỏi đau khổ do lầm lỡ. Chú Phi-lip và các bác thợ rèn đã lắng nghe tiếng gọi của lòng nhân ái và thoát khỏi những thành kiến hẹp hòi. Họ đã đại diện cho sự công bằng và giúp những nhân vật đau khổ và bất hạnh tìm được hạnh phúc.

Hình ảnh của chú Phi-lip và các bác thợ rèn trong truyện thật đẹp biết bao, vừa hào hùng vừa đầy nhân ái. Mặc dù có người cho rằng việc chú Phi-lip nhận lời làm bố của Xi-mông và làm chồng của mẹ em bé là khờ dại, nhưng thực tế đó là một hành động cao cả, nhân đạo, đầy tình yêu thương và đồng cảm sâu sắc đối với cảnh ngộ đáng thương mến của Xi-mông. Hành động của chú đã khơi gợi trong lòng độc giả tình cảm quý mến với việc làm tốt đẹp, cũng như tình người của một người lao động nhân hậu và cao cả.

Bài văn phân tích tác phẩm Bố của Xi-mông mẫu số 3

Guy-đơ Mô-pa-xăng là một trong những nhà văn vĩ đại của Pháp cuối thế kỷ XIX với hàng chục tiểu thuyết và khoảng 300 truyện ngắn, tên tuổi của ông đã trở thành bất tử. Mặc dù cuộc đời ông đầy những trang buồn nhưng có lẽ đó chính là nguồn cảm hứng cho ông viết về thân phận con người với nhiều tình cảm xót xa như vậy. Trong truyện ngắn "Bố của Xi-mông", tác giả kể về nỗi đau của một đứa trẻ "không có bố", bao phủ bởi tình yêu thương và tâm hồn nhân đạo. Cuộc sống của bé Xi-mông và mẹ của em, chị Blăng-sốt, thật đáng thương, để lại trong lòng người đọc nhiều tình cảm thương xót.

Xi-mông là một đứa trẻ bất hạnh, sinh ra ngoài giá thú. Mẹ em, một "cô gái đẹp nhất vùng", đã bị phản bội trong tình yêu. Hai mẹ con sống trong âm thầm tại một ngôi nhà nhỏ, được sơn trắng sạch sẽ. Người mẹ này tên là Blăng-sốt, "cao lớn, xanh xao", phải vất vả lao động để nuôi con một mình, chịu sự chế nhạo của xã hội.

Tuổi thơ của Xi-mông trôi qua trong cảm giác cô đơn và sự lạnh lẽo của ngôi nhà nhỏ. Em thiếu tình thương và sự chăm sóc của bố, cảm thấy bị bỏ rơi. Trường học cũng không phải là nơi đem lại niềm vui cho em. Đến tám tuổi, em mới được đi học và phải đối mặt với một lớp học đầy những đứa trẻ thô lỗ, cục cằn, nơi cái ác và cái xấu sớm ngự trị trong tâm hồn chúng. Đau khổ và tuyệt vọng khi bị đám trẻ hạ lưu dùng những lời nói ác độc, tiếng cười khả ố và những lời giễu cợt, Xi-mông đã bị đẩy đến chân tường.

Xi-mông đã bị bọn trẻ "quỷ quái" hành hạ liên tục ngày qua ngày và phải tự vệ. Đã hơn một thế kỷ kể từ khi câu chuyện được viết ra, người đọc vẫn cảm thấy buồn phiền và xót xa khi nghĩ về sự đau đớn của Xi-mông khi bị bạn cùng lớp làm tổn thương cả về thể xác lẫn tâm hồn. Xi-mông bị đuổi đánh, đau đớn và bế tắc hoàn toàn. Em muốn chết. Em không thể sống trong sự nhục nhã vì "không có bố". Liệu dòng sông có thể là nơi để em giải thoát khỏi cô đơn và nỗi đau khổ? Một đứa trẻ chỉ mới 8 tuổi đã cảm thấy không thể chịu đựng được nỗi đau và nhục nhã, phải nhảy xuống sông tự tử. Đó là bi kịch của thân phận con người khi đến cực điểm. Tình huống này rất cảm động và đặc trưng cho nỗi đau đớn của những đứa trẻ bị cô đơn trên thế giới vì một lý do nào đó, "không có bố".

Xi-mông đang đứng giữa bãi cỏ xanh mướt, gần đó có một chú nhái xanh đang ở cạnh dòng sông đầy thơ mộng. Trời nắng ấm, ánh nắng chiếu sáng xuống cỏ làm cho không khí trở nên dịu mát và ấm áp. Dòng sông lấp lánh như một tấm gương, phản chiếu lại bầu trời trong xanh. Cảnh sắc này đẹp như một chiếc nôi êm ái, xoa dịu nỗi đau khổ cô đơn của Xi-mông. Em nhìn xuống dòng sông, ao ước được nằm ngủ trên bãi cỏ và tận hưởng ánh nắng ấm. Con nhái xanh nhìn thẳng vào mắt Xi-mông, bộ lông có màu sắc rực rỡ và đôi mắt có vẻ như đang truyền đạt tình cảm. Nó có lẽ đã níu giữ chân em trước tử thần. Dù đang sống trong cảnh thiên nhiên đẹp đẽ, nỗi đau khổ về thân phận cô đơn vẫn đeo bám Xi-mông mãi mãi.

Hình ảnh Xi-mông được miêu tả trong tình trạng người rung lên, quỳ gối và đọc kinh cầu nguyện giống như trước khi đi ngủ. Em khóc nức nở và chỉ biết khóc, chẳng nhìn thấy gì nữa và bước dần vào tuyệt vọng. Mô-pa-xăng đã miêu tả tâm trạng của Xi-mông bằng tất cả tình cảm thương xót. Bằng cách này, ông muốn chỉ cho mọi người thấy rằng dù thiên nhiên có đẹp đến mức nào, môi trường xung quanh có tuyệt đẹp đến đâu, con người vẫn luôn bất hạnh và khó sống sót khi bị cô đơn và thiếu tình thương, đặc biệt là đối với những đứa trẻ "không có bố".

Tình huống bất ngờ đã xảy ra, chú thợ rèn "cao lớn, râu tóc đều quăn... nhân hậu" đến gần bên Xi-mông. Chú đã lau khô những giọt nước mắt trên khuôn mặt của em và an ủi em với tình thương của một con người "có phép lạ": "Thôi nào, nguôi đi nào, cháu bé, rồi đi với chú về nhà mẹ. Người ta sẽ cho cháu… một ông bố". Câu nói đơn giản đó xoa dịu nỗi đau và cô đơn của bé Xi-mông, cũng như cho mẹ em - chị Blăng-sốt - một hy vọng. Cảnh bé Xi-mông gặp chú thợ rèn bên bờ sông là cảnh rất cảm động. Bé được sống và người ta sẽ tìm cho bé "một người bố". Cuộc đối thoại giữa chú thợ rèn và bé Xi-mông đậm chất nhân đạo. Nước mắt dần khô trên khuôn mặt bé, và chú thợ rèn đã dắt tay bé đưa về gặp mẹ.

Tác giả đã khắc họa rõ ràng tính cách của bé Xi-mông khi em gặp lại mẹ. Em hỏi chú thợ rèn: "Chú có muốn làm bố cháu không?". Khi chú thợ rèn ôm lấy em, hôn lên má em và nói: "Có chứ, chú có muốn" thì tâm hồn em đã "thoải mái hoàn toàn" và em đã khắc tên Phi-líp vào trái tim mình, với niềm tự hào "có bố". Câu nói của Xi-mông giống như một lời hứa hẹn: "Chú Phi-líp, chú là bố con đấy nhé". Có bố là niềm hạnh phúc của mỗi đứa trẻ trên thế giới. Có bố là có nơi nương tựa. "Con có cha như nhà có nóc" (tục ngữ), có bố là có quyền làm người, tuổi thơ mới thực sự được sống hạnh phúc. Xi-mông tự hào tuyên bố với bạn bè của mình "như ném một hòn đá": "Bố tao đấy, bố tao là Phi-líp". Em cảm thấy mình đã trưởng thành hơn vì đã có b. Đó là niềm vui và hạnh phúc của tuổi thơ.

Người đọc không khỏi xúc động sau khi đọc xong truyện ngắn "Bố của Xi-mông". Mô-pa-xăng đã trải qua biết bao nhiêu khổ đau trong cuộc đời mồ côi từ khi mới mười tuổi, cho nên ông rất đồng cảm và san sẻ với cảnh ngộ của bé Xi-mông và chị Blăng-sốt. Tác giả đã dùng bút pháp tinh tế lấy cảnh tả tình, nghệ thuật đối thoại kết hợp với tình huống chú thợ rèn gặp bé Xi-mông ở bờ sông, chú thợ rèn gặp chị Blăng-sốt, tạo nên một không khí đầy tình người. "Không có bố thì đau khổ", "Có bố thì hạnh phúc", như một chân lý giản đơn nhưng giàu tình cảm. Bé Xi-mông rất đáng thương và đáng yêu!

4. Bài văn phân tích truyện Bố của Xi-mông mẫu số 4

Guy-đơ Mô-pa-xăng (1850 - 1893) là một nhà văn Pháp nổi tiếng toàn cầu. Dù chỉ sống được hơn bốn mươi năm, nhưng ông đã để lại một khối lượng tác phẩm lớn bao gồm một số tiểu thuyết như "Một cuộc đời" (1883), "Ông bạn đẹp" (1885) và hơn ba trăm truyện ngắn khác. Nội dung các tác phẩm của ông phản ánh chân thực tình hình xã hội Pháp trong nửa cuối thế kỉ XIX.

Trong truyện ngắn "Bố của Xi-mông", chị Blăng-sốt bị một người đàn ông lừa dối và sinh ra Xi-mông. Khi Xi-mông đi học, em bị đám học trò chế giễu vì không có bố. Em đã rất buồn và tủi thân, quyết định đến bờ sông để tự tử. May mắn thay, em gặp bác Phi-líp, người đã đưa em về nhà với mẹ. Em yêu cầu bác Phi-líp trở thành bố của mình và bác đã đồng ý. Tuy nhiên, bọn trẻ vẫn trêu chọc em vì bác Phi-líp không phải là chồng của mẹ Xi-mông, vậy làm sao lại là bố của Xi-mông được? Phần tiếp theo của đoạn trích này, tác giả kể tiếp rằng vì yêu thương Xi-mông, bác Phi-líp đã cầu hôn chị Blăng-sốt. Và từ đó, Xi-mông có một người bố thật sự và một chỗ dựa vững chắc trong cuộc sống.

Nhà văn đã mô tả cực kỳ chi tiết và sinh động diễn biến tâm trạng của ba nhân vật Xi-mông, Blăng-sốt và Phi-líp. Từ đó, ông nhẹ nhàng nhắc nhở chúng ta về tình bạn, tình thương yêu con người cùng với lòng cảm thông và chia sẻ trước những nỗi đau và sai lầm của người khác. Trong đoạn trích này, có ba nhân vật chính bao gồm cậu bé Xi-mông, mẹ của em - chị Blăng-sốt và bác thợ rèn Phi-líp. Ngoài ra, còn có những nhân vật phụ như các bạn của Xi-mông và thầy giáo.

Khi mới sinh ra, Xi-mông đã phải trải qua những khó khăn, thiếu thốn cả về vật chất và tinh thần. Tuy nhiên, khi lớn lên, tâm trạng của cậu bé mới thực sự chịu ảnh hưởng từ nỗi đau không có cha. Trong đoạn trích này không có đoạn miêu tả nào về ngoại hình của Xi-mông, nhưng ở một đoạn khác trong truyện, cậu bé được miêu tả đang ở độ tuổi bảy hoặc tám tuổi, vẻ ngoài hơi xanh xao, rất sạch sẽ, nhút nhát và hơi vụng về. Tính cách và hoàn cảnh sống của một đứa trẻ thiếu cha được phần nào phản ánh qua vẻ ngoài ấy của Xi-mông.

Xi-mông là một đứa trẻ vô cùng bất hạnh, nỗi đau không có bố luôn âm ỉ trong trái tim bé nhỏ của em. Nỗi đau ấy thể hiện rõ qua suy nghĩ và hành động của Xi-mông. Em bỏ nhà đến bên bờ sông và có ý định nhảy xuống nước để cho chết đuối vì nỗi bất hạnh không có bố khiến em không muốn sống nữa. Tuy nhiên, cảnh vật thiên nhiên xung quanh đẹp đẽ đã khiến em nghĩ về nhà, về mẹ và không dám làm điều ngu ngốc ấy nữa.

Sau khi khóc để giải tỏa nỗi tủi hờn, Xi-mông quỳ xuống và đọc kinh cầu nguyện như thói quen trước khi đi ngủ, nhưng cơn nức nở không nguôi lại kéo đến, làm em bị choáng ngợp. Em không nghĩ ngợi được gì nữa, chỉ biết khóc mãi thôi. Trong lúc đó, Xi-mông gặp bác Phi-líp và khi bác hỏi thăm, em không trả lời được, mắt đẫm lệ. Cuối cùng, em lẩm bẩm giọng nghẹn ngào: "Chúng nó đánh cháu… vì… cháu… cháu… không có bố… không có bố".

Khi bác Phi-líp dẫn Xi-mông về nhà, vừa nhìn thấy mẹ, cậu bé vừa mừng, vừa tủi nhảy lên ôm lấy cổ mẹ, òa khóc nức nở: "Không, mẹ ơi, con muốn nhảy xuống sông cho chết đuối, vì chúng nó đánh con… đánh con… tại con không có bố". Mẹ của Xi-mông vốn là một cô gái đơn giản, thật thà và dễ tin người, từng là một trong những cô gái đẹp nhất vùng nhưng bị lừa dối và khiến cho con trai mình không có bố. Bản chất của cô phần nào thể hiện qua hình ảnh ngôi nhà nhỏ, trắng tinh khôi và vô cùng sạch sẽ, cho thấy rằng cô sống khá nề nếp dù trong hoàn cảnh khó khăn.

Khi vừa thấy chị, nụ cười của bác công nhân bỗng dưng tắt vì ông hiểu rằng không thể bỡn cợt được nữa với cô gái cao lớn, xanh xao đứng nghiêm trang trước cửa nhà như muốn ngăn cản đàn ông bước qua ngưỡng cửa ngôi nhà nơi chị đã bị một kẻ khác lừa dối. Khi nghe con kể về việc bị bạn bè đánh vì không có bố, chị Blăng-sốt đỏ bừng và tê tái đến tận xương tủy, ôm con hôn lấy hôn để trong khi nước mắt lã chã tuôn rơi. Khi nghe con hỏi bác Phi-lip liệu ông có muốn trở thành bố mình hay không, chị hổ thẹn, lặng lẽ và quằn quại, dựa vào tường và hai tay ôm ngực.

Trong truyện, nhân vật bác Phi-lip là một thợ rèn cao to, râu rậm, tóc đen và quăn với nét mặt nhân từ. Ngay từ lần đầu gặp Xi-mông, bác đã dành tình thương cho cậu bé. Bác đã mang đến cho em niềm hạnh phúc và bất ngờ to lớn. Bác gặp Xi-mông lúc em đang trong tình trạng tuyệt vọng, muốn nhảy xuống sông. Bác đã đưa ra lời khẳng định rằng muốn trở thành bố của em, mang lại cho em hy vọng và an ủi. Bác Phi-lip là người đã cứu Xi-mông khỏi bờ vực tử thần. Tuy nhiên, cuộc sống học tập của Xi-mông vẫn chưa được yên ổn. Những đứa trẻ khác vẫn gây ra nhiều đau khổ cho em vì Phi-lip không phải là cha ruột của Xi-mông, tức là không phải là chồng của mẹ em.

Trong phần tiếp theo, tác giả kể về việc bác Phi-lip vì yêu thương cậu bé Xi-mông nên đã ngỏ lời cầu hôn chị Blăng-sốt để trở thành người bố thật sự của em. Bác đã đến nhà chị và hy vọng được chị đồng ý với ý định của mình. Từ đó, Xi-mông không còn bị bọn trẻ khác bắt nạt nữa. Bác thợ rèn nhân hậu đã giúp đỡ Xi-mông thoát khỏi nỗi đau và mang lại niềm hạnh phúc, niềm tự hào cho cậu bé. Hành động của bác Phi-lip là một hành động cao đẹp và nhân văn.

Hành động của bác Phi-lip không chỉ mang đến niềm vui cho cậu bé Xi-mông mà còn mang lại hạnh phúc cho chị Blăng-sốt, mẹ của Xi-mông. Khi yêu cầu được trở thành người bố thật sự của Xi-mông, bác Phi-lip đã thể hiện sự tôn trọng và đánh giá cao đối với chị Blăng-sốt. Chỉ qua vài lần trò chuyện ngắn ngủi, bác đã nhận ra những phẩm chất tốt đẹp của chị. Mặc dù đã mắc sai lầm và gây ra đau buồn cho cả hai mẹ con, nhưng chị không đáng bị chỉ trích vì tính cách của chị không phải là phóng túng hay lẳng lơ. Bác đã thừa nhận rằng chị là một người phụ nữ tốt bụng, can đảm và nề nếp.

Bằng sự nỗ lực không ngừng, bác Phi-lip đã đem tới niềm hạnh phúc cho Xi-mông và cả chị Blăng-sốt. Tuy nhiên, bác đã phải đối mặt với những thành kiến cổ lỗ của xã hội. May mắn thay, bác đã nhận được sự ủng hộ và khuyến khích từ những người thợ rèn tốt bụng để đánh bại những giới hạn nhỏ bé về giá trị của phụ nữ. Bác Phi-lip đã trở thành biểu tượng của công bằng và lòng nhân ái. Hành động của bác đã đem lại cho chị Blăng-sốt một cơ hội trở thành người vợ xứng đáng với một người đàn ông tốt. Hơn thế, bác còn khẳng định giá trị nhân cách của chị. Đó là một niềm hạnh phúc to lớn và bất ngờ đối với Blăng-sốt.

Hành động nhân ái của bác thợ rèn Phi-líp đã giúp cho câu chuyện có một cái kết đẹp. Bác đã đem đến hạnh phúc cho những người đang trong đau khổ và khơi dậy lòng tin của người đọc vào con người và cuộc sống. Đó cũng chính là mục đích cao cả mà nhà văn Mô-pa-xăng muốn truyền tải qua tác phẩm này.

5. Mẫu bài phân tích Bố của Xi-mông số 5 ngắn gọn nhất

Bên cạnh tình mẫu tử thiêng liêng, tình phụ tử cũng vô cùng quý giá. Tuy nhiên, không phải đứa trẻ nào cũng được sống trong tình cảm yêu thương của cha từ nhỏ. Điều đó làm cho chúng trở nên bất hạnh. Đại diện cho những đứa trẻ ấy chính là cậu bé Xi-mông trong đoạn trích "Bố của Xi-mông" bị thiếu tình thương của cha và bị bạn bè cười nhạo.

Trong truyện, có ba nhân vật cần phân tích gồm bé Xi-mông, Phi-líp - người đàn ông nhận Xi-mông làm con và Blăng-sốt là mẹ của Xi-mông. Trước hết, ta phân tích nhân vật Xi-mông. Từ khi được sinh ra Xi-mông không hề biết ai là cha của mình và bị bạn bè trêu chọc, chế giễu vì không có bố. Em thường xuyên phải đánh nhau với chúng và cảm thấy tự ti vì không có bố. Em còn nghĩ đến cái chết vì bị bạn bè châm chọc suốt ngày. Em đã quyết định tìm đến bờ sông để tự tử, nhưng cảnh vật nơi đây đã giúp em vơi bớt nỗi lòng.

Xi-mông đuổi bắt một con nhái và cười rất tươi nhưng khi nghĩ về mẹ, em lại rơi nước mắt. Cơn đau đớn, nức nở cứ choán lấy tâm hồn em. Lúc gặp bác Phi-líp, em nói lắp bắp, rưng rưng không thốt nên lời. Trở về nhà, cậu kể với mẹ về ý định tự tử của mình và mong muốn Phi-líp trở thành bố của mình. Khi có bố, cậu vui mừng và hạnh phúc vô cùng. Hôm sau đến trường, Xi-mông tự tin thách thức với lũ bạn trước đây đã chế giễu mình, vì em đã có bố.

Nhân vật thứ hai trong truyện là Blăng-sốt được biết đến là mẹ của bé Xi-mông. Cô là một người phụ nữ đẹp, đức hạnh, sống cuộc sống giản dị. Tuy nhiên, chỉ một lần lầm lỡ đã khiến cho bé Xi-mông chào đời trong hoàn cảnh thiếu vắng tình cha. Khi con trai hỏi chuyện về bố, cô cảm thấy đau đớn và hổ thẹn vô cùng. Má ửng hồng, tê tái và thương con vô cùng. Khi nghe Xi-mông hỏi Phi-líp về việc nhận làm cha, cô tỏ ra rất đau khổ, ôm ngực và lặng lẽ dựa vào tường. Hoàn cảnh đáng thương ấy của Blăng-sốt cần nhận được sự đồng cảm và chia sẻ từ mọi người.

Nói về nhân vật Phi-líp, trong truyện anh được tác giả giới thiệu là một người đàn ông cao to, tay chân sẵn sàng và râu tóc đen quăn. Anh ta nhìn Xi-mông một cách đầy nhân hậu và quyết định đưa cậu bé về nhà. Trên đường về, anh nghĩ đến Blăng-sốt và có ý coi thường cô vì đã lầm lỗi một lần. Tuy nhiên, khi gặp Blăng-sốt, anh im lặng, bối rối và e dè. Anh ta đã thay đổi cách nhìn về cô. Khi Xi-mông muốn anh trở thành bố cậu bé, anh ôm cậu bé và hôn lên má cậu rồi nhanh chóng bỏ đi.

Tổng kết lại nội dung của tác phẩm "Bố của Xi-mông", tác giả muốn thể hiện một vấn đề hiện thực xã hội đó là sự phân biệt đối xử của xã hội đối với phụ nữ độc thân có con, những đứa trẻ không có cha đáng thương bị xã hội coi thường và chế giễu. Tuy nhiên, vẫn có những người có lòng chia sẻ và cảm thông đối với những hoàn cảnh khó khăn đó.

-/-

Trên đây Đọc tài liệu đã cung cấp cho các em những gợi ý làm bài cơ bản nhất kèm theo một số bài văn mẫu hay phân tích tác phẩm Bố của Xi-mông. Hy vọng những tài liệu này sẽ giúp ích cho các em để có một bài phân tích Bố của Xi-mông hay và hấp dẫn nhất. Chúc các em học tốt!

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

X