Phân tích nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc

Xuất bản: 25/06/2019 - Cập nhật: 11/03/2024 - Tác giả: Giangdh

Phân tích nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc của nhà văn Nam Cao, tuyển tập những bài văn hay phân tích nhân vật Lão Hạc.

    Phân tích nhân vật lão Hạc trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao để phần nào làm lộ rõ lên số phận, nhân phẩm của người nông dân nghèo trước Cách mạng Tháng Tám, nghèo khổ, bế tắc nhưng vẫn giàu tình thương và lòng tự trọng. Qua đó lên án sự tàn ác, bất nhân của chế độ phong kiến.

Trước khi tiến hành làm bài văn phân tích, các em nên ôn lại những kiến thức về tác phẩm thông qua phần soạn bài Lão Hạc để tổng hợp lại những ý chính về nhân vật Lão Hạc cần có trong bài phân tích.

Hướng dẫn phân tích nhân vật lão Hạc

Đề bài: Phân tích nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc của nhà văn Nam Cao.

1. Phân tích đề

- Yêu cầu của đề bài: phân tích nhân vật lão Hạc.

- Phạm vi tư liệu, dẫn chứng: từ ngữ, chi tiết tiêu biểu trong truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao.

- Phương pháp lập luận chính: phân tích.

2. Hệ thống luận điểm về nhân vật lão Hạc

- Luận điểm 1: Lão Hạc - một người nông dân nghèo khổ, lam lũ, bất hạnh.

- Luận điểm 2: Lão Hạc - một lão nông chất phác, hiền lành, nhân hậu.

- Luận điểm 3: Lão Hạc nghèo nhưng sống trong sạch, giàu lòng tự trọng.

3. Sơ đồ tư duy phân tích Lão Hạc

Sơ đồ tư duy phân tích nhân vật lão Hạc

4. So sánh sự tương đồng và nét khác biệt của nhân vật lão Hạc và ông Hai:

- Sự tương đồng: Lão Hạc và ông Hai đều là những người nông dân hiền lành, chất phác, lao động cần cù, có phẩm chất trong sáng.

- Sự khác biệt:

+ Hai nhân vật sống ở hai giai đoạn khác nhau của đất nước.

  • Lão Hạc sống trong chế độ thực dân nửa phong kiến, người nông dân lúc đó chưa tiếp cận được với ánh sáng của Đảng, nên đời sống vẫn ngập chìm trong đêm trường tăm tối, không có người chỉ đường dẫn lối, lão phải tìm đến cái chết thê thảm.
  • Ông Hai được hưởng cuộc sống độc lập, không còn bị áp bức một cổ hai tròng, nhưng lại phải cùng đất nước đương đầu với cuộc tái xâm lược của thực dân Pháp. Ông Hai quý những giây phút của con người tự do nên rất yêu Đảng, yêu cụ Hồ, yêu kháng chiến, nguyện đi theo cách mạng để gìn giữ nền độc lập tự do. Hình tượng ông Hai là dấu ấn trên con đường đi lên và được đổi đời của người nông dân dưới ánh sáng của Đảng, Bác Hồ.
  • Ông Hai đã có nhiều tiến bộ trong nhận thức tư tưởng: không chỉ dừng lại ở tình yêu thương con, lòng nhân hậu, một người cha mẫu mực như lão Hạc mà tiến lên một bước vượt bậc đó là tình yêu làng, yêu nước, yêu kháng chiến.

+ Cuộc đời và số phận của các nhân vật:

  • Lão Hạc: Vợ chết sớm, con trai vì không đủ tiền cưới vợ nên phẫn chí bỏ đi phu đồn điền cai su, chỉ còn lão và con chó Vàng côi cút ở nhà. Lão bị ốm một trận hai tháng mười tám ngày, đã tiêu diệt gần hết số tiền dành dụm được cho con trai. Bão đi qua bỏ lại phía sau vườn tược, hoa màu tan tác… tuổi già sức yếu không thể làm thuê để kiếm sống được nữa. Rơi vào đường cùng, lão đã phải bán con chó yêu quý và chuẩn bị cho cái chết. Lão gửi lại ông giáo ba sào vườn cho con trai, gửi lại ba mươi đồng bạc để làm ma cho mình rồi ăn bả chó tự tử một cách đau đớn thê thảm.
  • Ông Hai: Số phận ông Hai không còn bị áp bức của phong kiến và thực dân nhưng dân tộc phải tiếp tục đương đầu với cuộc kháng chiến tái xâm lược của thực dân Pháp.

Dàn ý chi tiết phân tích nhân vật lão Hạc

1. Mở bài

- Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm:

+ Nam Cao (1917 - 1951) là nhà văn xuất sắc trong nền văn học hiện thực 1930 - 1945 với những tác phẩm gắn liền với hình ảnh người nông dân Việt Nam trước và sau cách mạng tháng Tám.

+ Truyện ngắn “Lão Hạc” là một truyện ngắn hay của Nam Cao viết về người nông dân qua đó tố cáo tội ác của chế độ phong kiến.

- Giới thiệu chung về nhân vật lão Hạc: Lão Hạc là nhân vật điển hình đại diện cho tầng lớp nông dân nghèo khổ, đáng thương trước Cách mạng tháng Tám.

2. Thân bài: Phân tích nhân vật lão Hạc

* Luận điểm 1: Lão Hạc - một người nông dân nghèo khổ, lam lũ, bất hạnh.

- Lão Hạc là một người đàn ông hơn 60 tuổi cũng như bao người đàn ông nông dân Việt Nam.

- Hoàn cảnh gia đình:

+ Vợ chết sớm, phải nuôi con một mình.

+ Tài sản trong nhà chỉ có ba sào vườn, một túp lều và một con chó.

+ Không có tiền cưới vợ cho con, con trai ông bỏ đi làm đồn điền cao su.

- Tai họa dồn dập:

+ Ốm hơn 2 tháng

+ Trận bão phá tan cây cối, hoa lợi trong vườn.

+ Làng thì mất mùa sợi -> giá gạo ngày một cao.

+ Lão không có việc làm -> cuộc sống càng túng thiếu, cùng quẫn.

+ Phải bán con chó yêu quý nhất vì không có tiền nuôi nó.

+ Cuộc sống đói khổ, ăn hết khoai lão ăn củ chuối cái gì có thể ăn mà không chết thì lão ăn, nhưng cuối cùng lại ăn bả chó để tự vẫn.

* Luận điểm 2: Lão Hạc - một lão nông chất phác, hiền lành, nhân hậu.

- Lão rất yêu con:

+ Thương con, đau khổ vì không lấy được vợ cho con.

+ Không muốn con phải khổ, không muốn tiêu vào tiền dành dụm cho con.

+ Dù có nghèo khó đến mấy, nhưng vẫn ko chịu bán đi mảnh vườn mà ông đã kiên quyết giữ cho con trai.

+ Luôn nhớ tới con nơi phương xa qua những lá thư con gửi về.

+ Tiền bán hoa lợi và mảnh vườn đều giữ lại cho con.

=> Hình ảnh lão Hạc cũng là hình ảnh người cha điển hình trong văn học Việt Nam.

- Lão yêu con chó Vàng:

+ Yêu quý cậu Vàng như người đàn bà hiếm hoi quý đứa con cầu tự.

+ Lão gọi con chó bằng những tình cảm thương mến như cha đối với con.

+ Cho nó ăn trong bát sứ như nhà giàu.

+ Bắt rận và tắm cho nó.

+ Vừa uống rượu vừa tâm sự yêu thương.

+ Khi phải bán nó đi thì lão đau khổ, cảm thấy tội lỗi: vuốt ve, tâm sự với nó trước khi bán nó đi, để ý ánh mắt nó nhìn mình...

+ Xấu hổ vì đã già rồi “còn đánh lừa một con chó"…

-> Con người nhân hậu ấy đã đau lòng biết bao khi phải bán đi người bạn thân duy nhất của mình.

=> Trong xã hội lúc bấy giờ, một xã hội tha hóa về đạo đức và lối sống, thờ ơ với nỗi đau của người xung quanh mình thì lão Hạc là mẫu người chuẩn mực về đạo đức.

* Luận điểm 3: Lão Hạc nghèo nhưng sống trong sạch, giàu lòng tự trọng.

- Ông giáo mời ăn khoai, lão khước từ.

- Quá túng quẫn, lão chỉ ăn củ chuối, sung luộc…, nhưng lại từ chối “một cách gần như hách dịch” những gì ông giáo ngầm cho lão.

- Lão thà chết chứ không bán đi một sào.

- Dành dụm tiền bán chó, giấy tờ nhà để gửi nhờ ông giáo giữ giúp, chờ dịp trao lại cho đứa con trai.

- Gửi lại ông giáo 30 đồng bạc để lỡ lão có chết thì “gọi là của lão có tí chút, còn bao nhiêu đành nhờ hàng xóm cả”.

- Tìm đến Binh Tư - một tên chuyên trộm cắp vặt của người khác, để xin bả chó tự giải thoát mình.

-> Lão không muốn cái chết dữ dội của mình ảnh hưởng đến hàng xóm láng giềng => Tấm lòng cao cả của một người nông dân bé nhỏ trong xã hội. Qua đó cũng tố cáo tội ác của chế độ xã hội xô đẩy lão đến bước đường cùng.

=> Lối viết chân thành, mộc mạc, giản dị của Nam Cao đã góp phần xây dựng hình tượng lão Hạc vừa gần gũi người dân vừa không kém phần bi tráng.

* Đặc sắc nghệ thuật

- Nghệ thuật xây dựng nhân vật bằng phương pháp đối lập.

- Cách dựng truyện chân thực và sinh động.

- Ngôn ngữ truyện cô đọng.

- Ngôn ngữ đối thoại và độc thoại đầy chất trữ tình.

- Kể theo ngôi thứ nhất tự nhiên, linh hoạt.

- Miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật hợp lí.

3. Kết bài

- Khái quát lại cuộc đời và phẩm chất của lão Hạc.

- Cảm nhận của em về nhân vật lão Hạc.

       Các em vừa tham khảo dàn ý phân tích nhân vật Lão Hạc trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao mà Đọc tài liệu đã biên soạn. Với dàn ý trên đây các em đã có thể triển khai thành những ý văn riêng của mình để viết được một bài văn hoàn chỉnh. Và nếu muốn bổ sung cho bài viết của mình những nội dung phong phú hơn, các em có hãy tham khảo một số bài văn mẫu phân tích nhân vật lão Hạc mà chúng tôi đã sưu tầm dưới đây.

TOP 7+ bài văn mẫu hay
phân tích nhân vật Lão Hạc

Phân tích nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên mẫu 1

Nam Cao là một trong những tác giả tiêu biểu của khuynh hướng văn học hiện thực. Truyện ngắn Lão Hạc rất nổi bật khi viết về người nông dân với hình tượng nhân vật lão Hạc.

Về hoàn cảnh sống, Lão Hạc là một người nông dân bất hạnh. Vợ mất sớm, một mình nuôi con trai khôn lớn. Tài sản chỉ có ngoài ba sào vườn, một túp lều nhỏ và một con chó. Gia cảnh khó khăn, lão không lo nổi cho con trai lấy vợ. Chán nản, anh con trai bỏ đi đồn điền cao su. Sau một trận ốm, trong nhà không còn gì để ăn, lão quyết định bán cậu Vàng. Lão đến nhờ cậy ông giáo giữ hộ số tiền để khi anh con trai trở về sẽ trao lại. Sau đó, lão đến xin Binh Tư bả chó để tự tử.

Lão Hạc được xây dựng với những phẩm chất tốt đẹp. Một người nông dân thật thà, hiền lành và giàu tình yêu thương. Lão yêu thương anh con trai. Không lo được cho con cưới vợ, lão đã vô cùng day dứt, đau khổ. Thương con, lão chấp nhận sống một mình lúc tuổi già ốm yếu để con ra đi cho thỏa chí. Con đi rồi, lão lại dồn hết tình cảm vào con chó Vàng - là kỉ vật duy nhất mà con để lại. Nhìn thấy nó, lão tưởng như được thấy chính con trai mình. Lão thà chịu đói chứ kiên quyết không chịu bán đi mảnh vườn, của hồi môn của con. Sau trận ốm, lão không còn sức để làm ăn, nhưng lão vẫn kiên quyết không động đến số tiền dành cho con. Lão bán đi căn nhà, đem hết số tiền sang nhà ông giáo gửi và nhờ trông coi mảnh vườn để khi anh con trai về sẽ giao lại.

Lão Hạc cũng dành một tình cảm đặc biệt với con chó Vàng. Lão gọi nó là cậu Vàng, đối xử với nó như với một con người. Nó được ăn bằng một cái bát lớn như của nhà giàu, có gì ăn cũng gắp cho nó cùng ăn. Khi rảnh rỗi, lão còn đem nó ra tắm rửa, bắt rận. Mỗi khi lão uống rượu có đồ nhắm ngon lại gắp cho nó một miếng như người ta gắp thức ăn cho con cháu trong nhà. Thỉnh thoảng, Lão Hạc còn ôm ấp vỗ về, tâm sự với nó. Lão coi con Vàng giống như một người bạn hơn là một con chó. Khi phải bán đi con chó Vàng, lão đã vô cùng đau đớn, day dứt và tự trách bản thân.

Bên cạnh đó, Lão Hạc cũng là một con người sống trong sạch, giàu lòng tự trọng. Dù khó khăn, nhưng lão vẫn từ chối sự giúp đỡ của ông giáo. Lão chỉ đến nhờ ông giáo hai việc. Một là, nhờ ông giáo trông nom hộ mảnh vườn, khi thằng con trai về sẽ giao lại cho nó. Hai là, nhờ ông giáo giữ tiền hộ để khi mình chết thì nhờ ông giáo và bà con lo liệu ma chay cho mình. Sau đó, lão đến xin Binh Tư một ít bả chó và nói dối rằng dạo này có con chó hay đến vườn nhà lão nên muốn đánh bả nó. Nhưng thực ra lão Hạc dùng số bả chó ấy để tự tử. Cái chết của Lão Hạc đầy dữ dội, một cái chết đau đớn và thê thảm của một con người lương thiện.

Với nhân vật Lão Hạc, nhà văn Nam Cao đã sử dụng nghệ thuật miêu tả nhân vật vô cùng thành công. Ngôn ngữ kể chuyện giàu tính tạo hình và sức gợi cảm kết hợp với tài năng miêu tả nội tâm nhân vật cũng là một điểm ấn tượng. Nam Cao đã đã khắc họa chân thực cuộc đời của người nông dân Việt Nam trước cách mạng cùng với đó là phẩm chất cao quý của họ qua nhân vật Lão Hạc.

Phân tích nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên mẫu 2

Lão Hạc là một nhân vật điển hình trong văn học Việt Nam, được nhà văn Nam Cao xây dựng thành công trong truyện ngắn cùng tên. Lão Hạc hiện lên là một người nông dân nghèo khổ, bất hạnh nhưng lại có những phẩm chất tốt đẹp đáng quý.

Lão Hạc là một người nông dân nghèo khổ, sống cô đơn, góa vợ, chỉ có một con chó Vàng là bạn. Sau khi con trai đi phu đồn điền cao su, lão sống lủi thủi trong túp lều tranh với mảnh vườn nhỏ. Cái nghèo bủa vây lấy lão, khiến lão phải bán đi mảnh vườn và con chó Vàng - những kỷ vật quý giá của con trai. Cuối cùng, vì quá túng quẫn, lão Hạc đã tìm đến cái chết đầy bi thảm.

Tuy sống trong hoàn cảnh nghèo khổ, bất hạnh nhưng lão Hạc vẫn giữ được những phẩm chất tốt đẹp. Lão dành dụm tiền cho con trai, lo cho con từng bữa ăn, giấc ngủ. Lão cất giấu tiền để khi con trai trở về có vốn làm ăn. Điều đó cho thấy lão là một người cha yêu thương con sâu sắc. Bao nhiêu tiền bán được cây trái trong mảnh vườn nhỏ lão đều để dành cho con, chắt chiu từng hào cũng là lo cho con. Tiền bán cậu Vàng lão cũng để cho con. Dù trong cái đói quay quắt, cái nghèo nàn bao trùm lấy bản thân thì lão cũng nhất quyết không bán đi bất cứ một sào vườn nào mà phải để trọn vẹn cho con. Cuộc đời lão luôn nghĩ về con, mọi việc lão làn đều là vì con, lo lắng cho con. Cái chết thầm lặng cũng là một hi sinh lớn lao của lão cho con.

Lão Hạc còn là một người hiền lành, tốt bụng và nhân hậu, giàu lòng yêu thương, tình nghĩa với hàng xóm, giàu tự trọng và hết mực yêu thương loài vật. Lão rất quý cậu Vàng, coi cậu như một người bạn, ăn cái gì cũng chia cho cậu, làm gì cũng có câu theo cạnh. Lão tâm sự với cậu Vàng như là tâm sự với những người thân yêu. Cậu Vàng như một phần trong đời sống của lão, là nguồn vui sống, là chỗ dựa tinh thần lớn lao của lão. Khi buộc phải bán cậu Vàng đi là khi lão quá túng quẫn bí bách, bán cậu là sự lựa chọn duy nhất lúc này vì lão làm gì còn cái gì nữa để cho Vàng ăn. Bán cậu Vàng, lão luôn cảm thấy tội lỗi vô cùng, vẻ mặt đau khổ đến dằn vặt của lão khi kể chuyện bán cậu vàng cho bọn thằng Xiên, thằng Mục thật thương cảm biết bao: "Mặt lão tự nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít"... Sự dằn vặt đến tội nghiệp khi nghĩ về cậu Vàng cho ta thấy cái đẹp về nhân cách trong con người Lão Hạc.

Trong xã hội, ta vẫn thấy đầy rẫy những người khi lâm vào đường cùng trở nên tha hoá, xấu xí nhân cách. Nhưng với Lão Hạc thì khác, càng trong túng quẫn ông lại càng rạng ngời lên những phẩm chất tốt đẹp, càng trong đói khổ lại càng ánh lên sự thanh cao, trong sạch. Lão Hạc như một hình ảnh đẹp tuyệt vời trong những trang văn của Nam Cao giúp thanh lọc tâm hồn con người khỏi những toan tính, nhỏ nhen, ích kỉ của đời sống.

Có thể nói, nhà văn Nam Cao bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình với những chi tiết giàu sức gợi đã tạo nên một tượng đài văn học bất hủ. Qua đó thể hiện được tấm lòng cảm thương sâu sắc của nhà văn với lão Hạc nói riêng và những người nông dân Việt Nam xưa nói chung.

Phân tích nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên mẫu 3

Từ xưa đến nay nói đến tình người, ta nói ngay đến "Lão Hạc". Tác phẩm này được coi là truyện ngắn xuất sắc của văn học hiện thực phê phán thời kỳ 1930 - 1945. Đó là một truyện ngắn chứa chan tình người, lay động bao nỗi xót thương khi tác giả kể về cuộc đời cô đơn, bất hạnh và cái chết đau đớn của một lão nông dân nghèo khổ. Nhân vật lão Hạc đã khắc họa vào lòng người đọc một cách sâu đậm về hình ảnh một lão nông dân đáng kính với phẩm chất của con người đôn hậu, giàu lòng tự trọng và rất mực thương con.

Cuộc đời lão Hạc là một chuỗi những đau khổ bất hạnh, một kiếp người chua chát và cay đắng từ khi sinh ra cho đến khi ra đi về cõi vĩnh hằng. Góa vợ từ khi còn trẻ, một mình lão gà trống nuôi con trong cảnh đói nghèo, lam lũ những mong con khôn lớn, trưởng thành làm chỗ nương tựa lúc ốm đau, khi tuổi già. Nhưng niềm hạnh phúc ấy đã không đến với lão. Vì không đủ tiền cưới vợ, anh con trai phẫn chí đăng tên đi phu làm đồn điền cao su. Cảnh chia lìa của cha con lão Hạc không hẹn ngày sum họp. Lão Hạc mất vợ nay lại thêm nỗi đau mất con.

Cảnh khốn khó về vật chất hòa trong nỗi đau về tinh thần thành dòng lệ chảy trong trái tim chờ đợi khắc khoải của người cha. Nhưng cuộc đời dường như vẫn chưa buông tha lão. Bất hạnh rồi bất hạnh cứ liên tiếp giáng xuống đầu người cha khốn khổ ấy. Kiệt sức vì lam lũ lầm than, vì mòn mỏi chờ đợi. Lão ốm nặng. Sau trận ốm đó lão yếu đi rất nhiều, không thể làm được những việc nặng. Làng mất nghề sợi, đàn bà rỗi rãi nhiều, có việc gì nhẹ họ đều tranh hết. Lão Hạc rơi vào cảnh bần cùng hóa hoàn toàn. Lão sống vật vờ với con ốc, con trai, củ khoai, củ ráy, sung luộc.... Những thứ cũng chẳng dễ gì kiếm được với một lão già đã cạn kiệt sức lực.

Cùng đường sống, lão Hạc tìm đường đến cái chết, lấy cái chết để tự giải thoát cho mình. Lão đã ăn bả chó để tự tử. Lão chết đau đớn thê thảm "đầu tóc rũ rượi, mắt long sòng sọc, mồm tru tréo bọt mép sùi ra. Vật vã đến 2 giờ đồng hồ rồi mới chết". Cái chết thật dữ dội! Số phận một con người, một kiếp người như lão Hạc thật đau thương.

Với ngòi bút nhân đạo tha thiết, Nam Cao đã nói lên bao tình thương nỗi xót xa con người đau khổ, bế tắc phải tìm đến cái chết như lão. Chí Phèo tự sát bằng lưỡi dao, Lang Rận thắt cổ chết và Lão Hạc cũng quyên sinh bằng bả chó! Lão Hạc từng hỏi ông giáo: "Nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho sướng?". Câu hỏi ấy thể hiện nỗi đau khổ tột cùng của một con người sống nghèo khổ về vật chất nhưng rất giàu tình cảm.

Tình yêu thương con nồng nàn sâu sắc của lão là câu chuyện cảm động về tình cha con. Nhìn con đau khổ vì không có tiền cưới vợ, lão Hạc khổ tâm vô cùng. Lão thấy mình như có lỗi với con và day dứt mãi. Khi con phẫn chí đăng trốn đi làm đồn điền cao su; trái tim người cha thật sự tan nát. Nỗi thương nhớ con thường trực trong người cha đã biến thành sự khắc khoải ngóng trông: "Thằng cháu nhà tôi dễ đến hơn một năm nay chẳng có giấy má gì ông giáo ạ".

Ta đọc được trong câu nói tình cảm ấm áp của người cha. Thương nhớ con lão dồn tình cảm âu yếm cậu Vàng - kỉ vật của người con để lại. Cái tên cậu Vàng đã chứa đựng tất cả tình cảm quý mến và thân thiết đối với một con vật - một kỉ vật. Không phải bất cứ người nào cũng có thể yêu thương con vật như vậy. Những cơn mưa bão liên miên, hoa màu trong vườn đều bị phá sạch, việc làm chẳng còn, nếu cứ tiếp tục như vậy thì sẽ ăn vào số tiền chắt chiu dành dụm cho con. Đặt lên bàn cân mà tính, suất ăn của con chó cũng bằng lão, vậy thì tốn quá. Giữa số tiền dành dụm cho con và con chó - người bạn tâm tình, lão sẽ chọn ai đây? Để đi đến quyết định, lão đã phải dằn vặt đau khổ, lão suy nghĩ nhiều, nhiều lắm mới dũng cảm bán con chó.

Cuộc lựa chọn khó khăn tàn khốc diễn ra trong nước mắt. Nhưng nếu không bán con chó, lão sẽ chết và số tiền dành dụm cho con cũng chẳng còn. Lão bán chó đâu phải để ăn mà để lo tương lai cho đứa con. Hình ảnh lão Hạc "miệng méo xệch, khóc hu hu" khi nghĩ rằng mình đã lừa một con chó là hiện thân của tấm lòng cao cả''. Bao nhiêu tình yêu thương con lão dồn cả vào việc quyết giữ bằng được mảnh vườn cho con. Khi đã hết đường sinh nhai, lão có thể bán vườn đi, nhưng lão không làm thế, lão thà chết chứ nhất định không chịu bán đi một sào. Thậm chí trước lúc chết lão còn tìm nơi nhờ cậy gửi gắm mảnh vườn ấy...

Cuộc đời lão Hạc thật bi thương. Nhưng giữa cuộc đời khốn khó, lão vẫn ý thức được nhân phẩm của mình. Lòng tự trọng của một người không cho phép lão nhận sự giúp đỡ của ông giáo mà lão biết chẳng sung sướng gì hơn lão, càng không cho phép lão phiền lụy đến bà con lối xóm. Ý thức được điều đó một cách sâu sắc, lão Hạc đã nhịn ăn để dành tiền làm ma chay cho mình. Ta nhận thấy ở lão một triết lí sống cao đẹp biết dường nào.

Dưới một xã hội đen tối ngột ngạt, không ít người đã đánh mất nhân phẩm, hoặc tha hóa biến chất. Ta cũng dễ dàng tìm thấy họ qua một loạt sáng tác của Nam Cao. Nhưng khác với họ, dù nghèo đến đâu, lão Hạc vẫn sống trong sạch và lương thiện. Chính nhân vật ông giáo đã nhận xét về lão: "Binh Tư là một người láng giềng khác của tôi. Hắn làm nghề ăn trộm nên vốn không ưa gì lão Hạc bởi vì lão lương thiện quá". Hết kế sinh nhai lão có thể chọn con đường theo Binh Tư nhưng lão không làm như thế. Lão thà chết chứ nhất định không bán linh hồn cho quỷ dữ. Một cách sống và xử thế thật đáng trân trọng, phù hợp với đạo lý "thác trong hơn sống đục" của nhân dân ta.

Cuộc đời của lão Hạc đầy nước mắt, nhiều đau khổ và bất lực; sống thì âm thầm, nghèo đói, cô đơn; chết thì quằn quại, đau đớn. Tuy thế, lão Hạc lại có phẩm chất tốt đẹp như hiền lành chất phác, vị tha, nhân hậu, trong sạch và tự trọng... Lão Hạc là một điển hình cho người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ, được Nam Cao miêu tả chân thực với biết bao trân trọng, xót thương, thấm đượm một tinh thần nhân đạo thống thiết. Qua nhân vật này, nhà văn Nam Cao đã bày tỏ niềm tin vào bản chất tốt đẹp của con người và lên án xã hội phong kiến bất công, thối nát.

Phân tích nhân vật lão Hạc mẫu 4

Nam Cao là một nhà văn lớn của người nông dân Việt Nam, đặc biệt là người nông dân trước Cách mạng tháng Tám 1945. Ông vẫn cảm nhận được những vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn của họ trước bờ vực của cái đói, cái nghèo. Truyện ngắn "Lão Hạc" của nhà văn là một tác phẩm như thế. Nhân vật chính của tác phẩm - nhân vật lão Hạc - dù có một hoàn cảnh bất hạnh, đau đớn nhưng lão vẫn giữ được tình yêu thương đối với những người thân yêu và đặc biệt là một lòng tự trọng cao cả. Qua nhân vật này, nhà văn đã thể hiện tư tưởng nhân đạo tiến bộ và sâu sắc.

Lão Hạc cũng như bao người nông dân Việt Nam khác phải đối mặt với cái nghèo, cái đói của cuộc sống cơ cực, tăm tối trước Cách mạng. Nhưng lão còn có những hoàn cảnh riêng vô cùng bất hạnh. Vợ lão chết sớm. Con trai lão phẫn chí vì nghèo không lấy được người mình yêu nên bỏ đi đồn điền cao su. Lão chỉ có con Vàng là kỷ vật của con để làm bạn. Vậy là cùng một lúc lão phải đối mặt với bao đau khổ: cái đói, sự cô đơn và tuổi già với ôm đau, bệnh tật. Rồi cuộc đời cực khổ, dồn lão đến mức hết đường sinh sống. Lão phải dứt ruột bán đi con chó Vàng mà lão yêu thương nhất. Lão bán con chó trong niềm khổ đau tột cùng: "Mặt co rúm lại, những nếp nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra, cái đầu ngoẹo về một bên, cái miệng móm mém mếu như con nít", "lão hu hu khóc",...

Ban đầu là "luôn mấy hôm lão chỉ ăn khoai", "khoai cũng hết, lão chế tạo được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy hay bữa trai, bữa ốc". Rồi đến mức chẳng còn gì để ăn, để sống. Rồi điều gì đến sẽ phải đến. Không còn đường sinh sống, lão Hạc chỉ còn đường chết. Và đó là một cái chết thật đau đớn, thật tủi nhục: chết "nhờ" ăn bả chó tự tử...! Cái chết của lão dữ dội vô cùng: lão sùi bọt mép, lão co giật phải hai người đàn ông lực lưỡng đè lên... Cái chết ấy khiến người đọc liên tưởng đến cái chết của con chó Vàng để rồi rùng mình nhận ra rằng cái chết của lão đâu khác gì cái chết của một con chó.

Đói nghèo như thế, khổ đau như thế nhưng lão không vì vậy mà tha hóa về nhân phẩm. Binh Tư đã tưởng lão xin bả chó để ăn trộm. Ông giáo cũng nghi ngờ lão. Nhưng không, Lão Hạc vẫn giữ được vẹn nguyên tâm hồn dào dạt yêu thương đáng quý, đáng trọng của người nông dân và cả sự tự trọng cao đẹp của mình.

Lão yêu thương con rất mực. Văn học Việt Nam đã có những "Cha con nghĩa nặng" của Hồ Biểu Chánh, "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng,... ngợi ca tình phụ tử. Và trong đó cũng cần nhắc đến "Lão Hạc" của Nam Cao. Vì thương con, lão chấp nhận đối mặt với cô đơn, với tuổi già để con ra đi cho thỏa chí. Con đi rồi, lão dồn cả yêu thương vào con chó Vàng. Đừng nghĩ đơn giản rằng lão cưng chiều "cậu" Vàng vì đó là con chó khôn, chó đẹp. Điều quan trọng nhất khiến lão yêu quý con Vàng đến mức chia với nó từng cái ăn, cho nó ăn vào bát như người, rồi đến lúc nó chết lão quằn quại, đau đớn,... là bởi con chó là kỉ vật duy nhất mà con trai lão để lại. Nhìn con chó, lão tưởng như được thấy con mình.

Không chỉ vậy, lão thương con đến độ chấp nhận cái đói, rồi cả cái chết chứ không chịu bán đi mảnh vườn của con. Nếu lão bán mảnh vườn, ắt lão sẽ đủ ăn tiêu để vượt qua thời khốn khó. Nhưng lão lại lo khi con trai về không có đất sinh sống làm ăn. Vậy là lão đã nhận lấy cái chết rồi nhờ ông giáo giữ đất cho con. Chao ôi! Tình yêu thương con của lão thật cảm động biết mấy!

Yêu thương những người thân yêu ruột thịt, lão Hạc còn là một người sống đầy tự trọng trước cuộc đời nhiều cám dỗ và tội lỗi. Vào hoàn cảnh như lão, người ta đã có thể ăn trộm, ăn cắp hay thậm chí ăn bám vào người khác (như Binh Tư chẳng hạn, hay người đàn bà trong "Một bữa no" của Nam Cao..) nhưng lão Hạc thì không. Với sự giúp đỡ của ông giáo (mà cũng có gì đâu, đó chỉ là củ khoai, củ sắn) lão "từ chối gần như hách dịch" khiến ông giáo nhiều khi cũng chạnh lòng. Binh Tư ngỡ rằng lão xin bả để ăn trộm chó "lão cũng ra phết đấy chứ chẳng vừa đâu". Đến lượt ông giáo cũng nghi ngờ: "con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có ăn ư? cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn". Nhưng cuối cùng tất cả đều ngỡ ngàng, sửng sốt trước cái chết đột ngột của lão. Hay còn cách khác: lão có thể bán quách mảnh vườn đi. Nhưng lão lại nghĩ rằng đó là mảnh vườn của con lão. Và lão đã thà chết chứ không ăn của con!

Lòng tự trọng của lão Hạc rực sáng nhất ngay khi thân xác lão đau đớn nhất. Lão đã chọn cái chết, một cái chết khốc liệt để tâm hồn mình được trong sạch, được trọn vẹn tình nghĩa với tất thảy mọi người - kể cả với con chó Vàng tội nghiệp. Nhưng còn một chi tiết khác cũng cảm động vô cùng. Lão đã tính toán để ngay cả khi chết đi rồi cũng không làm phiền đến mọi người: lão đã gửi ông giáo mấy chục đồng bạc, định khi mình nằm xuống thì nhờ ông giáo lo liệu ma chay khỏi làm phiền hàng xóm! Hỡi ôi lão Hạc!

Xây dựng nhân vật lão Hạc, Nam Cao đã sử dụng nghệ thuật khắc họa nhân vật tài tình. Điều đó được thể hiện trong đoạn văn miêu tả bộ dạng, cử chỉ của lão Hạc khi kể cho ông giáo chuyện lừa bán cậu Vàng, trong đoạn miêu tả sự vật vã đau đớn dữ dội của lão Hạc trước lúc chết. Ngôn ngữ nhà văn sử dụng trong tác phẩm sinh động, ấn tượng, giàu tính tạo hình và hết sức gợi cảm.

Qua nhân vật lão Hạc, nhà văn đã thể hiện tinh thần nhân đạo tiến bộ sâu sắc.Nam Cao đã đồng cảm đến tận cùng với cái nghèo, cái đói của người nông dân Việt Nam trong nạn đói 1945. Thời cuộc đã dồn họ đến đường cùng và lối thoát nhanh chóng nhất là cái chết nghiệt ngã.

Nhưng trên hết, nhà văn đã biết nâng niu trân trọng vẻ đẹp tâm hồn cao khiết của người nông dân ngay cả khi họ bước vào đường cùng. Không chỉ giàu tình yêu thương, người nông dân còn sống đầy tự trọng. Trong cái đói, tự trọng là thứ gì đó xa xỉ vô cùng. Vì miếng ăn, người ta có thể tàn nhẫn, dã man, thậm chí mất hết nhân tính. Nhưng đáng trọng thay lão Hạc, lão không chỉ giữ được tình thương tươi mát mà còn giữ được lòng tự trọng vàng đá của mình.
Và chính nhờ vẻ đẹp tươi sáng ấy của lão Hạc mà Nam Cao đã chiệm nghiệm: "Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn". Chưa đáng buồn bởi còn có những con người cao quý như Lão Hạc. Viết câu văn ấy, nhà văn đã bày tỏ thái độ tin tưởng đối phẩm cách tốt đẹp của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Điều ấy đáng quý vô cùng bởi trước Cách mạng, người nông dân bị coi rẻ như cỏ rác, thậm chí có nhà văn còn nhận định người nông dân "như những con lợn không tư tưởng". Và bởi thế, tư tưởng của Nam Cao đáng ca ngợi biết bao!

Nhân vật lão Hạc của nhà văn Nam Cao là một nhân vật có nhiều đặc điểm đáng quý, đáng trân trọng. Từ lão Hạc, người nông dân Việt Nam có quyền tự hào về tâm hồn và phẩm cách của mình. Dựng lên nhân vật này, nhà văn Nam cao đã khẳng định một quan điểm giàu tính nhân đạo sâu sắc.

Có thể bạn quan tâm: Bài văn phân tích tác phẩm Lão Hạc của nhà văn Nam Cao

Phân tích nhân vật lão Hạc mẫu số 5

Đọc Tắt đèn của Ngô Tất Tố ta thầm cảm phục người phụ nữ dũng cảm mà cũng giàu tình yêu thương, giàu lòng tự trọng, sống “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Khi đọc Lão Hạc của Nam Cao ta cũng giành cho người nông dân khốn khổ ấy sự khâm phục, trân trọng bởi một con người đi đến tận cùng của nghèo khổ, bất hạnh mà vẫn không đánh mất mình. Truyện ngắn Lão Hạc và nhân vật chính của tác phẩm được Nam Cao viết bằng tất cả niềm yêu thương, sự thấu hiểu và nâng niu con người. Lão Hạc hiện lên trong tác phẩm với vẻ khốn khổ khi sống trong cô đơn và nỗi đau đớn khi lão tự chọn cái chết để bảo toàn danh dự của một con người. Bởi thế, lão cũng để lại trong lòng ta những xót xa, thương cảm và nỗi ám ảnh về số phận con người trong xã hội cũ.

Lão Hạc - một con người nghèo khổ, bất hạnh. Ba sào vườn, một túp lều, một con chó vàng… đó là tất cả tài sản, vốn liếng của lão. Vợ chết đã lâu, thân gà trống nuôi con, lão lần hồi làm thuê kiếm sống. Đứa con trai độc nhất không có trăm bạc để cưới vợ, cảm thấy nhục lắm đã phẫn chí đi phu đồn điền cao su Nam Kì, biền biệt năm, sáu năm chưa về. Tuổi già, càng thêm cô quạnh, nỗi bất hạnh cũng ngày thêm chồng chất. Lão Hạc chỉ còn biết làm bạn với con chó vàng. Lão bị ốm một trận kéo dài hơn hai tháng. Không một người thân bên cạnh đỡ đần, săn sóc cho một bát cháo, một chén thuốc! Tình cảnh ấy thật đáng thương! Tiếp theo một trận bão to, cây trái hoa màu trong vườn bị phá sạch sành sanh. Làng mất nghề sợi. Đàn bà con gái trong làng đi làm thuê rất nhiều, giành hết mọi việc. Sau trận ốm, lão Hạc yếu hẳn đi, chẳng ai thuê lão đi làm nữa. Thất nghiệp! Giá gạo mỗi ngày một cao. Lão và cậu Vàng, môi ngày ăn hết ba hào mà vẫn đói deo đói dắt. Bao nhiêu tiền bán hoa lợi trong vườn dành dụm được bấy lâu nay, lão đã chi tiêu gần hết trong trận ốm!

Nhưng đời người ta không chỉ khổ một lần (…) Lão Hạc ơi! Ta có quyên giữ cho ta một tí gì đâu? Nhân vật ông giáo đã nghĩ như thê nào khi nghe lão Hạc nói về ý định phải bán con chó bởi cậu Vàng ăn khoẻ, mỗi ngày cậu ăn bỏ rẻ cũng mất hào rưỡi, hai hào. Lão Hạc rất yêu cậu Vàng, nhưng lây tiên đâu mà nuôi được? Lão Hạc phải bán cậu Vàng cho thăng Xiên, thăng Mục… Bán cậu Vàng xong, lão Hạc bị đẩy sâu xuống đáy vực bi kịch. Lão cảm thây mình là một kẻ tệ lắm, đã già mà còn đánh lừa một con chó! Đói khô, túng bân, cô đơn… ngày một thêm nặng nề… lão Hạc chỉ ăn khoai, ăn củ chuôi, ăn sung luộc, ăn rau má, thỉnh thoảng một vài củ ráy, hay bữa trai bữa ốc. Lão từ chối mọi sự giúp đỡ của ông giáo gần như là hách dịch. Lão xa ông giáo dân, xa chỗ dựa tinh thần của lão bấy lâu nay. Lão Hạc đã ăn bả chó để tự tử. Lão chết đau đớn, thê thảm: đầu tóc rũ rượi, mắt long sòng sọc, tru tréo, bọt mép sùi ra… vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết! Cái chết thật dữ dội! Số phận một con người, một kiếp người như lão Hạc thật đáng thương. Với tấm lòng yêu thương con người tha thiết, Nam Cao đã bày tỏ tình thương vô bờ đối với những con người đau khổ, bế tắc, rồi tìm đến cái chết thê thảm. Chí Phèo tự sát bằng mũi dao đòi lương thiện. Lang Rận thắt cổ… Và Lão Hạc đã quyên sinh bằng bả chó! Lão Hạc đã từng hỏi ông giáo… nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho thật sướng?… Câu hỏi ấy đã thể hiện nỗi đau khổ tột cùng của một kiếp người!

Lão Hạc còn là một con người chất phác, hiền lành, nhân hậu. Lão rất yêu con. Biết con buồn vì không có tiền để cưới vợ, lão thương con lắm… Lão đau đớn khi con sắp đi làm phu đồn điền cao su. Lão chỉ biết khóc: Thẻ của nó, người ta giữ. Hình của nó, người ta đã chụp rồi (…). Nó là người của người ta rồi, chứ đâu có còn là con tôi? Mà “Cao su đi dễ khó về” (Ca dao). Con trai lão Hạc đã đi bằn bặt năm, sáu năm chưa về, hoa lợi trong vườn, bán được bao nhiêu lão dành dụm cho con, hi vọng khi con trở về có chút vốn mà làm ăn. Lão tự bảo: Mảnh vườn là của con ta… Của mẹ nó tậu thì nó hưởng… Đói khổ quá, nhưng lão Hạc đã giữ lại trọn vẹn ba sào vườn cho con. Lão đã tìm đến cái chết, thà chết chứ không chịu bán đi một sào. Tất cả vì con, một sự hi sinh thầm lặng khiến lòng người rưng rưng xúc động.

Lòng nhân hậu của lão Hạc được thể hiện sâu sắc đối với con chó Vàng của người con trai để lại. Lão quý nó, đặt tên nó là cậu Vàng. Cho nó ăn cơm trong bát sứ như nhà giàu. Bắt rận hoặc đem nó ra cầu ao tắm. Lão ăn gì cũng chia cho cậu Vàng cùng ăn. Lão ngồi uống rượu, cậu Vàng ngồi dưới chân, lão nhắm một miếng lại gắp cho nó một miếng như người ta gắp thức ăn cho con trẻ. Lão tâm sự với cậu Vàng như tâm sự với một người thân yêu ruột rà: Cậu Vàng của ông ngoan lắm! Ong không cho giết… Ông để cậu Vàng ông nuôi… Có thể nói, cậu Vàng được lão Hạc chăm sóc, nuôi nấng như con, như cháu; nó là nguồn vui, chỗ dựa tinh thần, nơi san sẻ tình thương, giúp lão Hạc vơi đi ít nhiều nỗi buồn cô đơn, cay đắng. Cậu Vàng là một phần cuộc đời lão Hạc. Nó đã tỏa sáng tâm hồn và làm ánh lên bản tính tốt đẹp của ông lão nông nhiều đau khổ, bất hạnh này. Vì thế, sau khi bán cậu Vàng đi, từ túng quẫn, lão Hạc chìm xuống đáy bi kịch, dẫn đến cái chết vô cùng bi thảm.

Lão Hạc là một nông dân nghèo khổ mà trong sạch, giàu lòng tự trọng. Trong đói khổ cùng cực phải ăn củ chuối, củ ráy,… ông giáo mời lão ăn khoai, uống nước chè, lão cười hồn hậu và khất ông giáo cho để khi khác, ông giáo ngấm ngầm giúp đỡ, lão từ chối "một cách gần như hách dịch". Bất đắc dĩ phải bán con chó; bán xong, lão đau đớn, lương tâm dằn vặt: Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó. Ba sào vườn gửi lại nguyên vẹn cho con trai, như một lời nguyền đinh ninh: Cái vườn là của con ta (…) Của mẹ nó tậu thì nó hưởng. Trước khi chết, lão gửi lại 30 đồng bạc để lỡ có chết… gọi là của lão có tí chút…, vì lão không muốn làm phiền đến hàng xóm. Nam Cao đã tinh tế đưa nhân vật Binh Tư, một kẻ làm nghề ăn trộm ở phần cuối truyện, tạo nên một sự so sánh đặc sắc, làm nổi bật tấm lòng trong sạch, tự trọng của lão Hạc, một lão nông chân quê đáng quý trọng biết bao!

Sống thì lặng lẽ, nghèo đói, cô đơn. Chết vẫn cô đơn và còn quằn quại đớn đau. Nhưng ẩn đẳng sau cuộc đời lặng lẽ, cô đơn và cái chết đớn đau ấy là tấm lòng nhân hậu, là con người hiền lành chất phác, là sự trong sạch và lòng tự trọng khiến ta phải nghiêng mình cảm phục. Nam Cao đã đem đến cho ta một hình tượng tiêu biểu cho người nông dân Việt Nam trước năm 1945. Ta xót xa cho những kiếp người lầm than nhưng cũng tự hào về những con người lầm than ấy lại mang trong hồn mình, lòng mình một viên ngọc quý, tỏa sáng lung linh qua sự vô hạn của thời gian.

>>> Đọc thêm văn mẫu haySuy nghĩ của em về cái chết của Lão Hạc

Phân tích nhân vật lão Hạc mẫu số 6

“Chao ôi! Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là những tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than” (Giăng sáng). Quan niệm nghệ thuật vị nhân sinh đó đã chi phối sáng tác cả đời của nhà văn Nam Cao. Những trang văn của ông được viết lên bởi tấm lòng nhân đạo cao cả, bởi trái tim không thôi trăn trở về số kiếp khổ đau của con người. Những Chí Phèo, lão Hạc, Lang Rận, những Thứ, Điền, Hộ,… đang ngụp lặn trong dòng đời nhiều cay đắng. Họ ám ảnh ta bằng chính cuộc đời của họ, trong đó hình ảnh lão Hạc cứ mãi chập chờn.

Cũng giống như biết bao nhân vật của văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945, lão Hạc là một cố nông nghèo khổ. Cùng với nhân vật người trí thức, người nông dân là đối tượng mà tác giả dành nhiều sự ưu tâm nhất. Trong sáng tác của Nam Cao, môi trường, hoàn cảnh sống thường hiện hình qua cái đói, cái nghèo, miếng ăn và các định kiến xã hội. Lão Hạc sống suốt đời trong sự bủa vây của cái nghèo, cái đói. Đã nghèo, lại góa vợ, lão sống một mình trong cảnh “gà trống nuôi con”. Cũng như bao nhiêu cố nông nghèo khổ ở nông thôn, lão Hạc không có ruộng cày. Toàn bộ gia tài của lão chỉ có vẻn vẹn một con chó và một mảnh vườn. Mảnh vườn ấy có được là do vợ lão “cố thắt lưng buộc bụng, dè sẻn mãi mới để ra được năm mươi đồng bạc tậu”. Đó là mảnh vườn còm cõi, hoa màu của nó cũng chỉ đủ để lão bòn mót. Cho nên, lão phải đi làm thuê, làm mướn, đem sức mình đổi lấy miếng ăn. Miếng ăn, cái đói, cái nghèo đã tạo nên gia cảnh, tạo nên cái số kiếp của lão. Lão rất thấm thía cái cảnh tủi nhục của mình. Có lần lão chua xót nói với ông giáo kiếp người như lão chỉ nhỉnh hơn kiếp của một con chó.

Cũng vì nghèo đói, lão Hạc trở thành người cha phải bó tay trước hạnh phúc của người con trai độc nhất. Vì không có tiền cưới vợ nên con trai lão không lấy được người mình yêu. Anh tính bán mảnh vườn lo cưới vợ nhưng nghe lời bố lại thôi. “Lão thương con lắm. Nhưng biết làm sao được. Đó là tình thương đầy bất lực của người cha. Rồi cũng chính cái đói, cái nghèo đã cướp đi mất đứa con trai duy nhất. Không chịu nổi cái nhục của kiếp nghèo, anh con trai lão phẫn chí bỏ làng, bỏ cha, “kí giấy xin đi làm đồn điền cao su…”. Ta không cầm nổi nước mắt khi nghe lão kể lại việc con đi: “Tôi chỉ còn biết khóc chứ còn biết làm sao được nữa? Thẻ của nó, người ta giữ. Hình của nó, người ta đã chụp rồi. Nó lại đã lấy tiền của người ta. Nó là người của người ta rồi, chứ đâu có còn là con tôi". Câu chuyện lão kể lại như đang xảy ra. Lão đã khóc, lão đang khóc, đang đau nỗi đau xé ruột của một người cha hoàn toàn bất lực trước cuộc sống của người con. Vì nghèo đói, lão cũng phải bán nốt cậu Vàng – người bạn duy nhất, điểm tựa tinh thần, sợi dây duy nhất gắn lão với thằng con trai. Và cũng vì nghèo đói, vì biết bao gánh nặng ở đời, lão đã phải lựa chọn, một sự lựa chọn đầy nghiệt ngã, bi đát: cách chết của một con chó. Cả cuộc đời của lão không có lấy một bữa no. Nghèo khổ cứ dần dần lấy đi của lão tất cả, đẩy lão vào bước đường cùng không có lấy một lối thoát. Số phận, cuộc đời của lão cũng là một điển hình cho số phận bi đát của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng.

Nếu chỉ dừng lại ở đây, Nam Cao cũng chỉ là một nhà văn tả thực bình thường. Chủ nghĩa nhân đạo của Nam Cao luôn làm ấm nóng trái tim người đọc, luôn làm cho người ta tin vào cuộc đời dù cuộc đời còn nhiều cay đắng, bất hạnh. Ở Lão Hạc là một niềm tin bất diệt vào con người. Dù trong hoàn cảnh nào thì các nhân vật của Nam Cao đều cố gắng vươn lên ánh sáng, đều khao khát được sống đúng là con người. Lão Hạc dù nghèo khổ, bất hạnh nhưng ta nhận ra ở người cha già ấy những nét nhân cách thật đáng trọng.

Trước hết, đó là một người cha giàu tự trọng, ở đời, nhiều khi nghèo đi với hèn. Cái nghèo đôi lúc làm méo mó nhân cách con người, làm họ bị tha hóa, biến chất. Những ngày tháng gần cuối cuộc đời, khi đã “có đồng nào, cụ nhặt nhạnh” đưa cả cho ông giáo, lão chỉ bòn củ khoai, củ chuối cho qua ngày. Ông giáo “giấu giếm vợ thỉnh thoảng giúp đỡ ngấm ngầm lão”. Nhưng lão từ chối sự giúp đỡ đó “một cách hách dịch”. Cũng vì tự trọng, vì thương con lão quyết không ăn vào một đồng của con. Cũng vì tự trọng mà trước khi chết, lão nhịn ăn để lại tiền làm ma vì không muốn liên lụy đến hàng xóm, láng giềng. Sự tự trọng đó là nét nhân cách đẹp, đáng trân trọng của một lão bần cố nông. “Đói cho sạch, rách cho thơm” thật đúng với trường hợp của lão Hạc.

Nhưng điều quan trọng nhất làm cho nhân vật lão Hạc của nhà văn Nam Cao để lại niềm cảm động và cảm phục khôn nguôi nơi bạn đọc chính là tấm lòng yêu thương con hết mực của lão. Cả cuộc đời đói khổ chính là sự thử thách tình phụ tử của lão và cũng chính là cả cuộc đời lão dành trọn tình yêu thương cho con. Vì thương con, yêu con nên lão luôn bòn mót, dành dụm tất cả cho con. Trong từng nếp nghĩ của lão Hạc bao giờ cũng thấm đẫm đức hi sinh cao cả. Trước khi đi phu, anh con trai biếu lão ba đồng bạc, để lại cho lão con chó, dặn lão “bòn vườn đất với làm thuê làm mướn cho người ta thế nào cũng đủ ăn”. Nhưng lão đã tự xóa đi cái quyền sở hữu của mình đối với mảnh vườn ấy. Sau khi con đi, lão tự nhủ không động đến những gì là của con. Lão dành dụm tất cả với hi vọng gom góp để con lão khi trở về sẽ đủ tiền cưới vợ. Năm xưa, vì không đủ tiền cưới vợ, nên con lão phẫn chí bỏ đi làm đồn điền cao su vì vậy lão Hạc rất thương con. Nhưng lão không thể làm gì cho con nên lão chỉ biết khóc. Những giọt nước mắt của một người đàn ông đau khổ, của một người bố giàu lòng thương yêu con nhưng bất lực trước đói nghèo khiến người đọc thấy xót xa, quặn thắt.

Tinh yêu thương con lão gửi cả vào cậu Vàng hay yêu thương, chăm sóc cậu Vàng cũng chính là biểu hiện của tình yêu thương con vô hạn. “Lão gọi nó là cậu Vàng như một bà hiếm hoi gọi đứa con cầu tự. Thỉnh thoảng không có việc gì làm, lão lại bắt rận cho nó hay đem nó ra ao tắm. Lão cho nó ăn cơm trong một cái bát như một người giàu. Lão ăn gì lão cũng chia cho nó cùng ăn…, lão nói với nó như nói với một đứa cháu bé về bố nó”. Với lão Hạc, cậu Vàng không những là một người bạn chia sẻ những vui buồn của cuộc sống mà quan trọng hơn, cậu Vàng chính là sợi dây duy nhất nối cha con lão gần nhau, nuôi dưỡng hình ảnh người con trai trong trái tim của lão. Tình cảm với cậu Vàng không chỉ là biểu hiện của tấm lòng nhân ái, yêu thương loài vật mà còn là biểu hiện xúc động của tình phụ tử cao đẹp. Vì thế ta càng thấu hiểu hơn nỗi đau khổ và những giọt nước mắt ân hận của lão sau khi bán cậu Vàng: “Lão cố làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước”. Lão nhận mình là kẻ bất nhân, tên lừa đảo vì đã lừa dối một con chó vốn tin yêu mình. Nếu không phải là người yêu thương cậu Vàng hết mực thì lão Hạc không thể có những tâm trạng dằn vặt như thế sau khi bán con chó.

Biểu hiện cao nhất của tình yêu thương con của lão Hạc là cái chết bi phẫn ở cuối thiên truyện. Đó là một cái chết không hề bình thường. Lão chọn cái chết tức tưởi, quằn quại trong đau đớn như cái chết của một con chó: “Lão Hạc đang vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nảy lên,… Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết. Cái chết thật là dữ dội”. Phải chăng, lão Hạc chọn cách chết đó như muốn trừng phạt chính bản thân mình khi đã bán cậu Vàng?

Phân tích nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc mẫu số 7

Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên là một trong những nhân vật "để đời" của Nam Cao. Lão không chỉ đại diện cho số phận cùng cực, bất hạnh của người nông dân trong xã hội cũ mà lão còn là đại diện cho những phẩn chất cao quý, tiềm tàng trong họ.

Lão Hạc là một nông dân nghèo khổ, cùng quẫn, nhưng không bị biến chất như Chí Phèo, mà trái lại có một tâm hồn đẹp, một nhân cách cao thượng. Lão sống một thân một mình trong cô đơn, vất vả. Lão chỉ có đứa con trai duy nhất để nương tựa tuổi già thì anh ta lại phẫn chí bỏ đi phu đồn điền cao su - "cao su đi dễ khó về". Lão Hạc đành thui thủi làm thuê, làm mướn kiếm ăn lần hồi, đồng thời cố nhặt nhạnh, dành dụm cho con.

Nhưng một trận ốm đã làm lão trở nên tay trắng. Sức yếu dần "những công việc nặng không làm được nữa", việc nhẹ thì "đàn bà tranh hết". Lão Hạc không có việc. Rồi lại bão. Hoa màu trên mảnh vườn bị phá sạch sành sanh. Gạo cứ kém dần. "Một lão với một con chó, mỗi ngày ba hào gạo mà "gia sự vẫn còn đói deo đói dắt". Cuối cùng lão phải ăn khoai. Khoai cũng hết. Bắt đầu từ đây, lão chế tạo được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy, hay bữa trai, bữa ốc.

Thực ra tình cảnh lão Hạc đã làm gì bế tắc đến thế. Lão còn mảnh vườn đó, con chó Vàng đó, có thể bán đi mà tiêu. Nhưng lão sống vì con chứ đâu vì mình. Điều này mấy ai hiểu cho lão. Người ta chỉ thấy lão lẩm cẩm. Có ông giáo hàng xóm là người có lòng ái ngại, nhưng vừa bày tỏ với vợ đã bị thị gạt phắt ngay: "Cho lão chết! Ai bão lão có tiền mà chịu khổ! Nhà mình sung sướng gì mà giúp lão? Con mình cũng đói". Còn Binh Tư, một gã lưu manh chuyên đánh bả chó thì lại lấy làm khoái chí khi thấy lão đến xin mình một ít bả. Hắn tưởng đâu lão Hạc "đói quá hóa liều" cũng quay sang trộm cắp như hắn. Hắn bĩu môi: "Lão làm bộ đấy! Thật ra thì lão chỉ tẩm ngẩm thế, nhưng cũng ra phết chứ chẳng vừa đâu". Ngay đến ông giáo tuy hiểu lão Hạc hơn cả mà cũng đâm ra nghi ngờ. Người ta chỉ hiểu lão khi lão đã chết rồi. Lão tự tử bằng nắm bả chó của Binh Tư. Lão chết đi nhưng sẽ còn sống mãi trong lòng người như một tấm gương đạo đức hiếm có.

Hiếm có người cha nào thương con như lão Hạc. Nghèo khó nhưng lúc nào cũng nghĩ đến bổn phận làm cha, lo làm tròn bổn phận ấy, dẫu có phải chịu khổ, chịu đói và chết bi thảm. Hình ảnh đứa con trái, nỗi lo chu tất cho con luôn ám ảnh, dằn vặt tâm trí lão. Hồi anh ta còn ở nhà, lão không cho anh ta bán vườn để cưới vợ cũng là xuất phát từ sự tính toán điều hơn lẽ thiệt của bậc làm cha. Thực ra lão dằn lòng lắm. Bởi đạo làm cha phải lo cho con một người vợ, một căn nhà - một tổ ấm gia đình. Song tình cảnh lão thì lo chưa chu toàn được. Anh con trai phẫn chí ra đi, ngày về khó hẹn, lão lại đã già. Đã bao lần, lão ngỏ tâm sự này với ông giáo: tiền hoa lợi trong vườn, tiền bán con chó Vàng, mảnh vườn, lão không dám đụng đến, vì đây là tiền của con, là tiền mà người làm cha phải để lại cho con. Nếu không, không phải "đạo". Đã bao lần lão tính tiền bòn vườn của con, "không cho bán là ta chỉ có ý giữ cho nó, chứ có phải giữ để ta ăn đâu!... Ta bòn vườn của nó, cũng nên để ra cho nó, đến lúc nó về, nếu nó không đủ tiền cưới vợ thì ta thêm vào cho nó, nếu nó có đủ tiền cưới vợ thì ta cho vợ chồng nó để có chút vốn mà làm ăn". Lão đã làm y như thế. Thà ăn khoai, ăn củ chuối, củ ráy... chứ lão không ăn vào tiền của con, không chịu bán mảnh vườn của con. Bao nhiêu tiền nhặt nhạnh được từ mảnh vườn, lão gửi tất cả nhờ ông giáo giữ hộ. Rồi lão chết để không bao giờ phải đụng đến.

Ôi, lão Hạc, con người bề ngoài thì có vẻ tiều tụy và gàn dở như vậy mà thật giàu tình nặng nghĩa. Mà đâu chỉ đối với đứa con, tấm lòng nhân hậu của lão còn thể hiện ở cái tình rất nặng với con chó Vàng mà lão gọi là "cậu Vàng" như một bà hiếm hoi gọi đứa con cầu tự. Cứ xem cái cách lão nựng con chó: "À không! À không! Cậu Vàng của ông ngoan lắm! Ông không cho giết... Ông để cậu Vàng ông nuôi"..., hay cái vẻ mặt vô cùng đau khổ của lão khi kể cho ông giáo nghe lão đã bán con chó. "Mặt lão tự nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít", đủ thấy lão thương xót con chó và cảm thấy mình có tội như thế nào khi phải bán nó đi.

Chân thật, chất phác, đôn hậu, tràn đầy tình thương và trách nhiệm, lão Hạc cũng thật giàu lòng tự trọng. Đối với ông giáo, người lão tin tưởng và quý trọng đến thế, lão cũng vẫn giữ ý để khỏi bị coi thường. Lão đói đấy, lão phàn nàn "kiếp người như lão cũng khổ như kiếp chó" đấy, nhưng khi ông giáo mời lão ăn khoai, uống nước chè tươi, lão đã từ chối. Lão dứt khoát "từ chối tất cả". Khi ông giáo giấu vợ, thỉnh thoảng muốn ngấm ngầm giúp đỡ lão một chút gì, lão từ chối "một cách gần như hách dịch". Rồi lão cứ cố ý xa ông giáo dần dần. Cuối cùng thì lão Hạc chết. Chủ động tìm đến cái chết, một cái chết bi thảm, khốc liệt như là cái chết của một con người cao quý. Bởi qua cái chết này, tất cả những phẩm giá cao đẹp của lão ánh lên, chiếu sáng thăm thẳm vào lòng người.

Gần đây người ta đã dựng phim về các nhân vật của Nam Cao - phim Làng Vũ Đại ngày ấy. Nhà văn Kim Lân được mời đóng vai lão Hạc. Kim Lân đã nghiền ngẫm kĩ về nhân vật của mình, ông nói: "Lão Hạc không chỉ là một người nghèo, đó là một con người có nhân cách, tự trọng và bất khuất". Chúng ta cũng hoàn toàn đồng ý với Kim Lân. Ta còn thấy rằng những phẩm chất ấy của lão Hạc đã cho ta những suy nghĩ sâu sắc. Cái chết của lão Hạc đã để lại cho chúng ta, cùng với nỗi xót thương vô hạn là nhiều bài học quý. Bài học sâu sắc nhất là trong bất kì thân phận nào, hoàn cảnh nào cũng phải giữ danh hiệu con người cao quý. Giữa người với người phải có trách nhiệm với nhau hơn, phải hiểu biết để đánh giá đúng và cảm thông với người khác hơn, phải tin tưởng hơn ở con người và cuộc đời. Và phải biết căm ghét xã hội bất công, những thế lực độc ác vùi dập, đày đọa những con người như lão Hạc.

Vợ ông giáo từng nói về lão Hạc: "Cho lão chết! Ai bảo lão có tiền mà chịu khổ. Lão làm lão khổ chứ ai làm lão khổ!". Nhưng thực ra sống làm người, có những điều dù khổ, dù phải tự làm khổ mình cũng phải giữ. Chết cũng giữ! Đó là những điều thuộc về đạo lí, nhân cách làm người như lão Hạc đã giữ. Vì thế, đã hơn 60 năm (truyện Lão Hạc ra đời năm 1943), lão Hạc vẫn sống cùng chúng ta, sẽ còn sống cùng chúng ta. Và dẫu cho cuộc đời này còn nhiều nỗi đáng buồn nhưng có những con người như lão Hạc thì cuộc đời "chưa hẳn đã đáng buồn".

Phân tích đặc điểm nhân vật lão Hạc mẫu số 8

Có những tác phẩm đọc xong, ta quên ngay, nhưng cùng có tác phẩm đọc xong ta bồi hồi xao xuyến. Đó là trường hợp lão Hạc của nhà văn Nam Cao. Lão Hạc đã chết một cách đau đớn, vật vã, nhưng trong tâm trí em không sao xóa được hình ảnh ông lão nông dân gầy guộc, râu tóc bơ phờ, cặp mắt luôn luôn nhìn xuống đầy buồn rầu và khuôn mặt in hằn bao nhiêu là nếp nhăn của suy tính, lo phiền và cơ cực ở đời.

Trong cái làng quê hẻo lánh và tiêu điều ngày xưa, như bao người chân lấm tay bùn vô danh, lão Hạc sống vất vả, túng đói, nghèo xác xơ nhưng hết sức trong sạch và lương thiện. Nhà nghèo, lão Hạc không có ruộng, lão chỉ có một mảnh vườn, đó là thứ tài sản duy nhất của người vợ đã mất đi để lại. Lão Hạc sống bằng cuốc mướn, cày thuê, chứ nhất quyết không phạm vào số tiền bán mướn của con. Với lão Hạc, mảnh vườn ấy là của người vợ quá cố để lại cho con lão. Vậy thì số tiền bán được trong vườn là của con lão, lão không tơ hào đến. Nuôi một con chó để làm bạn cho đỡ cô đơn trong cảnh già hiu quạnh, đến khi cực chẳng đã mới phải bán đi, lão đã khóc hu hu như trẻ con vì đã trót đánh lừa nó. Con người như lão Hạc không thể làm được điều ác, lão sống thui thủi như cây cỏ thật đáng thương. Lão nhịn ăn để dành tiền làm ma, sợ liên lụy đến láng giềng. Con người ấy thà ăn củ chuối, sung luộc, rau má, con ốc, con trai... do bàn tay mình kiếm ra chứ nhất quyết không làm phương hại đến người khác.

Lẽ thường, đói rét, cơ cực, đau khổ thường làm cho tâm hồn con người ta xơ cứng, cằn cỗi đi, thế nhưng với lão Hạc thì lại khác. Có thể nói ở lão Hạc, một đặc điểm nổi bật khác nữa đó là con người giàu yêu thương, giàu lòng nhân ái và đức vị tha, lão đã sống như một tín đồ trung thành thuần túy của đạo Phật.

Nuôi con chó của con trai để lại, lão gọi nó là cậu Vàng như một bà mẹ hiếm hoi gọi đứa con cầu tự, lão bắt rận, tắm cho nó, cho nó ăn cơm trong một cái bát như một nhà giàu. Thỉnh thoảng, lão nói chuyện với nó như nói với người. Lão san sẻ với nó những toan tính trong tương lai. Lão cô đơn quá, nên những tối ngồi uống rượu, có gì ăn lão cứ nhắm vài miếng lại gắp cho nó một miếng như người ta gắp thức ăn cho con trẻ. Đến khi tình thế bắt buộc phải bán con chó đi, lão cứ nhắc đi nhắc lại mấy lần với ông giáo về chuyện ấy. Rõ là lão phải dằn vặt, giằng co ghê gớm lắm. Con chó ấy là người bạn tin cậy trong cảnh đơn côi của lão, nhưng nó còn là kỉ vật của con trai lão để lại trước khi đi xa. Lão nuôi nó như nuôi niềm hi vọng đợi ngày con trở về. Vì thế mà khi kể lại chuyện người ta đến bắt chó, đôi mắt lão ầng ậng nước, rồi liền đó, khuôn mặt nhàu nát vì lo âu và ưu phiền ấy “đột nhiên co rúm lại, những nếp nhăn xô lại với nhau ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc... Biết bao cơ cực và tuyệt vọng trong dòng nước mắt ấy? Vì ngày mai của con mà lão phải đánh lừa con chó - người bạn mà nhiều lúc trong cảnh hiu quạnh lão coi như một đứa con.

Thương con chó - kỉ vật của con để lại - mà còn như thế, với con, lão thương gấp bội phần. Có thể nói cả cuộc đời lão Hạc hướng về con mà sống. Con trai lão yêu một cô gái làng nhưng không đủ tiền cưới vợ, phẫn chí mà bỏ đi phu đồn điền. Tiễn con đi, lão chỉ biết khóc. Nhưng từ đó tiền bán vườn được bao nhiêu lão để dành cho con, còn mình thì chỉ làm thuê để sống. Lão quyết chí bảo vệ cái tài sản nhỏ mọn ấy cho con. Và lão hi vọng con trai trở về, lão cứ sống như thế, lay lắt, đói khát. Cuộc sống đày đọa không làm cho lão tối tăm mù mịt đi mà còn tôn thêm vẻ đẹp của tâm hồn lão: dường như trong cả tâm trí lão Hạc luôn luôn hướng về con mình. Con lão đi biền biệt đã năm sáu năm nhưng mọi kỉ niệm về con vẫn thường trực trong lão. Con trai lão có mặt trong mọi câu chuyện của lão. Lão nói chuyện với ông giáo về con, kể lể những điều thương tâm trong cảnh ngộ của con. Lão không xâm phạm một xu về số tiền dành dụm cho con. Biết bao nỗi niềm tâm sự bời bời trong cõi lòng lão khi lão nói với con Vàng: Cậu có nhớ bố cậu không, hả cậu Vàng. Bố cậu lâu lắm không có thư về. Bố cậu đi có lẽ được đến ba năm rồi đấy... Hơn ba năm... Có đến ngót bốn năm... Không biết cuối năm này bố cậu có về không? Nó mà về, nó cưới vợ...

Đằng sau lời độc thoại của lão, đằng sau những lời có vẻ như già nua lẫn cằn cỗi là nỗi lòng nhớ thương con da diết, là sự chờ đợi, mong mỏi tin con từ cuối phương trời. Nhưng lão Hạc không đợi được con về! Ốm đau, bão gió, mất mùa, thóc cao gạo kém đã liên tục xén vào số tiền bòn mót dành dụm của lão. Lão bị dồn nén đến chân tường rồi không thể cầm cự được nữa, không thể lùi được nữa. Lùi một bước là phạm vào tài sản của con. Và không thể đợi đến ngày con trở về hạnh phúc. Lão sống thêm tức là xén đi một phần hạnh phúc của con. Lão đã âm thầm một dự định đau lòng...

Và lão đã chết, chết một cách đau đớn vật vã. Cho đến phút sau cùng, vì tương lai của con mà lão hy sinh cuộc sống của mình. Đã có những con người vị tha trên đời vì những người khác mà giúp đỡ tiền bạc, sức lực. Nhưng có mấy ai vì người khác dù là con cái mình mà hi sinh cuộc sống của mình. Lão Hạc, đáng trọng biết bao đó là lời tác giả nhưng cũng chính là của bao người đọc khi được chứng kiến cuộc đời đầy thương tâm nhưng trong sáng của lão.

---------

Trên đây là những gợi ý chi tiết cách làm, lập dàn ý và TOP 7+ bài văn mẫu phân tích nhân vật Lão Hạc trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao mà Đọc tài liệu đã biên soạn thuộc mục Văn mẫu 8. Hy vọng sẽ giúp các em có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình làm bài văn phân tích và ôn luyện chuẩn bị cho các kì thi, kiểm tra. Chúc các em học tốt môn Văn !

Bạn còn vấn đề gì băn khoăn?
Vui lòng cung cấp thêm thông tin để chúng tôi giúp bạn
Hủy

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM