Phân tích Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân

Xuất bản: 04/04/2024 - Tác giả: - Tham vấn bởi:

TOP 15 bài văn phân tích Người lái đò sông Đà hay đặc sắc, hướng dẫn lập dàn ý phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà chi tiết do Đọc Tài Liệu tổng hợp và biên soạn.

Để tìm ra được bí quyết làm bài phân tích Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân đạt điểm cao, các em đừng nên bỏ quan bài viết này với những thông tin cực hay sẽ giúp em mở rộng tư duy, viết được bài văn phân tích hay hơn.

Những nội dung mà bài viết sẽ mang đến cho các em:

  • Hướng dẫn các bước làm bài phân tích
  • Mẫu dàn ý chi tiết
  • Những bài văn mẫu đặc sắc phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà
  • Những câu hỏi thường gặp về Người lái đò sông Đà
"Đọc Người lái đò sông Đà, ta có ấn tượng rõ rệt về sự tự do của một tài năng, của một đấng hóa công thực sự trong nghệ thuật ngôn từ…"
(Phan Huy Đông, Vẻ đẹp văn học cách mạng)

Hướng dẫn phân tích Người lái đò sông Đà

1. Phân tích đề và luận điểm

a. Phân tích yêu cầu đề bài

- Yêu cầu về nội dung: phân tích nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân)

- Phạm vi tư liệu, dẫn chứng: các từ ngữ, chi tiết, hình ảnh,... thuộc trong văn bản Người lái đò sông Đà.

- Phương pháp lập luận chính: Phân tích.

b. Hệ thống luận điểm phân tích

Những luận điểm chính cần triển khai khi phân tích bài Người lái đò sông Đà:

- Luận điểm 1: Phân tích ý nghĩa của lời đề từ.

- Luận điểm 2: Hình tượng dòng sông Đà (nét hung bạo, nét trữ tình)

- Luận điểm 3:

Hình tượng người lái đò sông Đà (về lai lịch, tài năng và tâm hồn, công việc,…)

- Luận điểm 4: Khái quát phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân, giá trị nội dung của tác phẩm.

Chi tiết dàn ý phân tích Người lái đò sông Đà

Mẫu dàn ý phân tích Người lái đò sông Đà chi tiết dưới đây do Đọc tài liệu biên soạn giúp các em nắm được những nội dung chính cần triển khai trong bài văn phân tích của mình.

1. Mở bài

- Giới thiệu vài nét về tác giả Nguyễn Tuân: Nguyễn Tuân (1910 - 1987) là một nhà văn tài hoa uyên bác, có phong cách nghệ thuật độc đáo, cái tôi đầy cá tính, luôn khám phá thế giới ở bình diện văn hóa thẩm mĩ.

- Khái quát về tác phẩm: Người lái đò sông Đà là một áng văn trong tập tùy bút Sông Đà (1960) - thành quả nghệ thuật đẹp đẽ của Nguyễn Tuân trong chuyến đi gian khổ và hào hùng tới miền Tây Bắc.

2. Thân bài: Phân tích nội dung tác phẩm Người lái đò sông Đà

a. Khái quát về hoàn cảnh sáng tác

- Người lái đò sông Đà được sáng tác trong gian đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc.

- Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho ông nguồn cảm hứng sáng tạo trong công cuộc tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên Tây Bắc và nhất là “chất vàng mười”.

b. Ý nghĩa lời đề từ

- “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông”: thể hiện cảm xúc trào dâng mãnh liệt trước tiếng hát, vẻ đẹp của dòng sông Đà và con người gắn bó với dòng sông.

- “Chúng thủy giai đông tẩu - Đà giang độc bắc lưu”: chỉ có con sông Đà chảy theo hướng bắc trong khi mọi dòng sông đều chảy về hướng đông. Lời đề từ này gợi cho người đọc cảm nhận ấn tượng về sự độc đáo của một cá tính mạnh mẽ, riêng biệt của dòng sông Đà, đó là một con sông hung bạo.

c. Hình tượng dòng sông Đà

* Dòng sông Đà hung bạo

- “Cảnh đá bờ sông dựng vách thành”: lòng sông hẹp, “bờ sông dựng vách thành”, ngồi trong khoang đỏ qua quãng ấy đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, “đúng ngọ mới có mặt trời”, chỗ “vách đá… như một cái yết hầu”.

- Ở mặt ghềnh Hát Loóng: địa danh gợi sự xa xôi hoang sơ nguy hiểm, "dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió… để lật ngửa bụng thuyền ra”” một cách hỗn độn, lúc nào cũng như “đòi nợ suýt” những người lái đò.

- Cảnh hút nước ở Tà Mường Vát:

+ Sự dữ dằn hung ác của thác nước: “có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông”, chúng “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc nước”.

+ Sự dữ dội nguy hiểm đến rùng mình nghẹt thở hãi hùng: “những bè gỗ lớn ngang nghênh ngang bị lôi tụt xuống đáy rồi bị hút xuống khiến nó trồng cây chuối ngược vụt biến đi và tan xác ở khuỷu sông dưới”.

- Cảnh trận địa thác đá (được miêu tả từ xa đến gần):

+ Xa: từ xa âm thanh thác nước hiện lên với nhiều trạng thái “oán trách”, “van xin”, “khiêu khích”, “chế nhạo”; “rống lên như một ngàn con trâu… cháy bùng bùng” (lấy lửa tả nước).

+ Gần: Đá cũng đầy mưu mẹo “nhăn nhúm”, “hất hàm”, “oai phong”, có những hành động như “mai phục”, “chặn ngang”, “tiêu diệt”; sóng “đánh khuýp quật vu hồi”, “đánh giáp lá cà”, “đòn tỉa”, đá “đứng, nằm, ngồi”

=> Thủ pháp nhân hóa so sánh đá sông Đà như những quân sĩ được huấn luyện bài bản tinh nhuệ

+ Sự biến hóa linh hoạt của 3 trùng vi thạch trận:

  • “Vòng đầu vừa rồi, nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông”
  • “Vòng thứ hai này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào”
  • “Còn một trùng vây thứ ba nữa. Ít cửa hơn, bên trái bên phải đều là luồng chết cả.”

=> Sông Đà mang diện mạo và tâm địa của một con thủy quái, “dòng thác hùm beo”, thứ kẻ thù số một của con người.

* Dòng sông Đà trữ tình

- Từ trên máy bay, trên cao nhìn xuống dòng chảy uốn lượn của con sông như mái tóc của người thiếu nữ diễm kiều có tính cách đỏng đảnh thất thường đầy cá tính.

- Từ tầm xa bao quát có khi nhà văn nhìn thấy nó bình dị như “dây thừng ngoằn ngoèo”, “áng tóc trữ tình”

- Màu sắc sông nước: "mùa xuân có màu xanh ngọc bích, thu lừ lừ chín đỏ" -> Sự thay đổi màu sắc qua các mùa mà mùa nào cũng đẹp, một cách nhìn thật nhiều chiều và đa dạng.

- Khi đi rừng lâu ngày gặp lại con sông: sông Đà như một “cố nhân”, có ánh sáng “loang loáng như trẻ con chiếu gương vào mắt”, như “nắng tháng ba Đường thi”,… -> Cái chất “đằm đằm ấm ấm” thân quen của con sông và cái chất thơ như ngấm vào trong từng cảnh sắc thiên nhiên sông Đà.

- Khi đi thả thuyền trên sông: “bờ sông như một bờ tiền sử”, “hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”, thiên nhiên mơn mởn: lá ngô non, “con hươu thơ ngộ”,… -> Từ điểm nhìn của một khách hải hồ trên dòng sông, nhà văn đã quan sát và khắc họa những vẻ đẹp hết sức đa dạng và nên thơ của cảnh vật ven sông. Sông Đà vô tri vô giác đã trở thành “người tình nhân chưa quen biết” đang chia tay với thượng nguồn để về với mảnh đất mới, con người mới.

=> Dưới ánh mắt của Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên như một dải lụa hiền hòa giữa vùng núi rừng Tây Bắc hoang sơ, hùng vĩ.

d. Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà

- Về lai lịch: tác giả xóa mờ xuất thân, tập trung miêu tả ngoại hình: “tay lêu nghêu… chất mun” để ngợi ca những con người vô danh âm thầm cống hiến.

- Công việc: lái đò trên sông Đà, hằng ngày đối diện với con thủy quái hung bạo.

- Tài năng và tâm hồn:

+ Là người từng trải, hiểu biết và thành thạo trong nghề lái đò: “trên sông Đà ông xuôi ngược hơn một trăm lần”, “nhớ tỉ mỉ… những luồng nước”,…

+ Là người mưu trí dũng cảm, bản lĩnh và tài ba: ung dung đối đầu với thác dữ “nén đau giữ mái chèo, tỉnh táo chỉ huy bạn chèo…”, “nắm chắc binh pháp của thần sông thần núi”, động tác điêu luyện “cưỡi đúng ngay trên bờm sóng, phóng thẳng thuyền vào giữa thác…”

+ Là người nghệ sĩ tài hoa: ưa những khúc sông nhiều ghềnh thác, không thích lái đò trên khúc sông bằng phẳng, coi việc chiến thắng “con thủy quái” là chuyện thường.

e. Khái quát phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân qua tác phẩm

- Phong cách của Nguyễn Tuân có thể thâu tóm trong một chữ “ngông”, trong mỗi trang viết của mình, Nguyễn Tuân luôn muốn thể hiện sự tài hoa, uyên bác của bản thân.

- Chất tài hoa uyên bác của Nguyễn Tuân được thể hiện ở:

+ Khám phá, phát hiện sự vật ở phương diện thẩm mĩ

+ Nhìn con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ

+ Vận dụng tri thức, vốn hiểu biết trên nhiều lĩnh vực khác nhau để tạo dựng hình tượng.

- Là nhà văn của những tính cách độc đáo, của những tình cảm, cảm giác mãnh liệt, của những phong cách tuyệt mĩ…

- Kho từ vựng phong phú, tổ chức câu văn xuôi đầy giá trị tạo hình, có nhạc điệu trầm bổng, có phối âm, phối thanh linh hoạt, tài ba…

g. Giá trị nghệ thuật của đoạn trích

- Tùy bút pha bút kí, kết cấu linh hoạt

- Vận dụng nhiều tri thức văn hóa và nghệ thuật

- Nhân vật mang phong thái đời thường, giản dị

- Bút pháp: kết hợp hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn

- Ngôn ngữ hiện đại kết hợp với ngôn ngữ cổ xưa.

3. Kết bài

- Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm:

+ Nội dung: Tác phẩm là áng văn đẹp ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên và con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc.
+ Nghệ thuật: Ngôn ngữ sống động, tổng hợp trên nhiều vốn tri thức, vốn văn hóa về nhiều lĩnh vực khác nhau, nghệ thuật viết tùy bút bậc thầy kết hợp hài hào giữa hiện thực và lãng mạn, trí tưởng tượng phong phú, độc đáo.

- Cảm nhận của em về đoạn trích.

Bài phân tích Người lái đò sông Đà đặc sắc nhất

Tây Bắc đã trở thành vùng đất hứa thi ca nghệ thuật những năm 58 - 60 khi miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, các nhà văn, nhà thơ đến với nơi đây để tìm cho mình những nguồn cảm hứng mới. Trong văn giới cùng thời điểm lúc bấy giờ, Nguyễn Tuân lại thăng hoa trên mảnh đất này với tập ”Tùy bút sông Đà” với linh hồn là “Người lái đò sông Đà”.

Là một nhà văn đi theo chủ nghĩa xê dịch, dấu chân của Nguyễn Tuân đã đi khắp mảnh đất hình chữ S này nhưng ông lại chọn Tây Bắc làm nơi cho ra đời đứa con đẻ tinh thần này của mình là bởi vì nơi đây mới thỏa mãn nhãn quang sáng tác của ông. Tùy bút sông Đà là những trang văn được viết bằng ngôn ngữ điêu luyện, hình ảnh con sông Đà hiện lên vừa hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng rất trữ tình.

Hình tượng dòng sông Đà

Nguyễn Tuân đã có nhận xét ban đầu như thế này:

“Cuộc sống của người lái đò sông Đà quả là một cuộc chiến đấu hàng ngày với thiên nhiên, một thứ thiên nhiên Tây Bắc có nhiều lúc trông nó thành ra diện mạo và tâm địa của một kẻ thù số một”.

Để thấy rằng cuộc sống mưu sinh trên dòng sông hùng vĩ kiêu ngạo ấy phải vất vả, gian lao biết mấy, có lẽ là nơi chỉ dành cho những chàng trai to khỏe, đủ can đảm mà chiến đấu với con sông mang tâm tình bất định ”lúc van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gàn ra mà chế nhạo như một con thú với tiếng sống như một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa”. Ấy thế mà chẳng như chúng ta hằng tưởng tượng, người lái đò ấy lại là một ông lão.

Phải, là một ông lão đã tầm bảy mươi ở độ tuổi thất thập cổ lai hi, với bao người là độ tuổi được an hưởng tuổi già, chứ chẳng phải lênh đênh kiếm kế mưu sinh trên sông nước hiểm trở.

Hinh tuong nguoi lai do Song Da

Hình tượng người lái đò Sông Đà

Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình tượng người lái đò đầy xuất sắc với hai vai trò nghệ thuật vừa làm chiến sĩ can trường trên mặt trận sông nước với vũ khí duy nhất là mái chèo, vừa là nghệ sỹ tài hoa hàng ngày vẫn viết nên những bản cùng ca tuyệt đẹp về sức mạnh của những con người lao động.

Theo Nguyễn Tuân, ông lái đò đã xuôi ngược trên sông Đà không dưới trăm lần, trong đó đã có tới sau mươi lần ông cầm lái chính. Hình ảnh ông lái đò sông Đà hiện lên với một vẻ đẹp bề ngoài đầy phong sương có thể in hẳn mùi sông nước, gắn liền với nghề nghiệp của ông “Tay lêu nghêu như cái sào, chân khuỳnh ra như kẹp lấy một cái bánh lái tưởng tượng, giọng nói ào ào như thác lũ sông Đà, nhăn giới vời vợi nhìn về một bến xa nào đó…” được biệt trên ngực ông có nhiều “củ nâu” đó là vết tích của những ngày tháng chiến đấu vật lộn với sông Đà mà Nguyễn Tuân đã dí dỏm ví nó như là “những huân chương lao động siêu hạng”.

Ông lái đò không phải là người an phận, ngược lại ông thích đương đầu với khó khăn với những pha hành động gay cấn, thế nên ông thích đi qua những ghềnh thác khó nhằn của con sông Đà, ông bảo rằng ”chạy thuyền trên khúc sông không có thác nó dễ dại tay chân và dễ buồn ngủ”.

Dù tuổi đã cao nhưng ông luôn mang một tâm hồn khỏe, trẻ, hiếu chiến, bản tính mạnh mẽ, tin yêu cuộc sống, cùng sự gắn bó với nghề nghiệp và con sông Đà hùng vĩ, công việc của ông trở thành niêm đam mê bất diệt; là niềm vui trong cuộc sống lao động vốn vất vả của ông. Sông Đà trong lòng ông lái đò như một bản thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc lòng, thuộc đến “từng dấu chấm câu, dấu chấm than, cả những đoạn xuống dòng”, sự tài hoa tỉ mẩn ấy được tác giả ví như “đóng đanh vào lòng”.

Ông lái đò cũng nắm vững “binh pháp của thần sông thần núi” như một vị tướng tài vận dụng xuất sắc binh pháp Tôn Tử “biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng”, lại như một nghệ sỹ chuyên nghiệp nắm rõ mặt trận nghệ thuật đầy cam go của ông mà đã theo đuổi gần hết đời người.

Cảnh vượt thác

Trên cái mặt trận hung hiểm, trèo thác vượt đèo ấy, đòi hỏi người chiến sỹ phải cực kỳ dũng cảm và bình tĩnh để ứng phó với mọi sự biến đổi khôn lường của con sông, bởi chỉ sơ suất một chút thôi thì đến mạng cũng chẳng còn nói gì đến chuyện làm một người tài hoa trên con sông Đà.

Bằng kinh nghiệm dày dặn và lòng dũng cảm, một tinh thần vững trãi cùng lòng tự tin đã “nắm chắc binh pháp của thần sông thần núi”, phải tránh né để qua ải đầu tiên, ông lái đò bước vào "trùng vi thạch trận thứ nhất” đầy căng thằng.

Có những lúc trúng đòn hiểm, đau đớn đến “mặt méo bệch đi, nhưng ông làm sao dám buông lỏng, chỉ cố nhịn đau mà "kẹp chặt lấy cuống lái”, bình tĩnh vượt qua ải thứ nhất, không phút ngưng nghỉ, ở trận thứ hai, ông thay đổi chiến thuật “đánh nhanh thắng nhanh”.

Vòng thứ hai này có phần nguy hiểm hơn trước khi "tăng thêm nhiều của tử để lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch sang bờ hữu ngạn”. Thế là xong ải thứ hai nhanh và chuẩn xác. Nói nghe thì dễ nhưng có ai đủ bình tĩnh và tay chèo điều khiển điêu luyện nhắm trúng vào cửa sinh như ông lái đò sông Đà? Còn một cửa ải cuối cùng nữa, ải này ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết, luồng sống ở cửa ba này lại là ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác "nhưng ông mạnh dạn phóng thẳng thuyền chọc thủng giữa cửa đó”.

Vậy là qua hết ba ải, ải nào cũng nguy hiểm, con sông trở lại với vẻ thanh bình.

Đọc hết đoạn vượt thác đầy cam go của ông lái đò sông Đà, ta cảm tưởng vừa xem lại bộ phim hành động nghẹt thở, hồi hộp đến từng phút giây ông lái đò chính là nhân vật chính. Hình ảnh người anh hùng lao động hàng ngày chiến đấu với thiên nhiên trong nguy hiểm đã làm nổi bật vẻ đẹp và sức mạnh của con người trước thiên nhiên hùng vĩ và kiêu ngạo.

Phong cách và giá trị nghệ thuật của đoạn trích

Hình tượng ông lái đò được tác giả xây dựng trên hai vai trò, vừa là người chiến sỹ anh hùng, vừa là nghệ sĩ tài ba đã viết lên bản hùng ca tuyệt đẹp về cuộc sống lao động, về nghệ thuật chèo lái trên con sông Đà.

Nguyễn Tuân có một quan điểm nghệ thuật đầy mới mẻ, ông cho rằng nghệ thuật không chỉ là những người nghệ sỹ với những hình tượng thơ mộng, mà còn là những người lao động đạt đỉnh cao điêu luyện trong chính nghề nghiệp của mình, khi đó thì cũng là người làm nghệ thuật chân chính, thứ nghệ thuật ấy chính là nghệ thuật lao động.

Viết về người lái đò sông Đà, viết về vùng đất của Tổ quốc, Nguyễn Tuân đã thể hiện nguồn cảm xúc yêu thương tha thiết với người lao động và thiên nhiên đất nước. Sông Đà càng đẹp, càng sinh động thì ông lái đò hiện lên càng anh hùng ngoan cường trong lao động, ta lại càng thấy được bản lĩnh, tấm lòng và tài năng của Nguyễn Tuân. Và Nguyễn Tuân đã làm tròn sứ mệnh một nhà văn, ông đã góp phần mang đến cho thế giới những sắc màu mới. Bước vào thế giới của Nguyễn Tuân, ta ngỡ như bước vào một chân trời mới với màu sắc huyền bí, hấp dẫn và độc đáo.

Van mau phan tich bai Nguoi lai do song Da

TOP 10+ bài phân tích Người lái đò sông Đà đặc sắc tuyển chọn

Dưới đây là #10 bài văn mẫu phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà đặc sắc nhất được Đọc tài liệu tuyển chọn và biên soạn lại để giúp các em có thêm tư liệu tham khảo trước khi viết:

Mẫu số 1: Phân tích Người lái đò sông Đà

Tùy bút “Người lái đò sông Đà” là một tác phẩm bút ký đặc sắc đầy sáng tạo và tiêu biểu cho phong cách độc đáo của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám. Ông là một nhà văn tài hoa, uyên bác, không quản ngại gian lao vất vả để có được những dòng bút kí đậm cảm giác chân thực, có sức liên tưởng phong phú khiến cho người đọc người nghe muốn được hòa nhập với nhịp động phát triển của đất nước, của cuộc đời.

Trong nghệ thuật, có thể nói đến với Nguyễn Tuân là đến với sự tìm tòi, khám phá và sáng tạo, bởi chính ông là người sáng tạo lại thế giới. Nguyễn Tuân sợ mình của ngày hôm nay cũng giống với mình của ngày hôm qua, ông như sợ sự trùng lặp tầm thường, giản đơn. Cho nên ông đi theo “chủ nghĩa xê dịch” và lấy nó làm đề tài cho các tác phẩm của mình, phải đi thì mới có thể viết lên những tác phẩm có giá trị được.

Tác phẩm “Người lái đò sông Đà” là kết quả của cuộc hành trình ngược về miền Tây Bắc trong giai đoạn năm 1958 - 1960 đầy trải nghiệm sâu sắc của tác giả và được in lần đầu trong tập tùy bút Sông Đà (1960). Dòng sông Đà quanh co, uốn lượn dọc qua các triền núi, dòng nước thì chảy xiết với độ dốc lớn. Chính đặc điểm này đã tạo cho con sông một vẻ đẹp kỳ thú, rất hoang sơ và kỳ vĩ. Hình ảnh con sông Đà hung bạo, dữ dằn mà trữ tình, thơ mộng đã làm nổi bật lên vẻ đẹp tài hoa, đầy nghệ sĩ của ông lái đò trên dòng Đà giang.

Trên thực tế, hình ảnh con sông Đà cũng đã được nhiều nhà văn, nhà thơ chọn làm đề tài và khắc họa lên vẻ đẹp của nó, nhưng phải đến với Nguyễn Tuân thì con sông Đà ấy mới hiện ra chân thực và đầy những điều mới mẻ mà chưa từng có ở bất kỳ một tác phẩm nào. Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, con sông Đà hiện lên với vẻ vừa hung bạo, dữ dội nhưng cũng vừa trữ tình biết bao nhiêu. Con sông Đà như còn mang một tâm địa xảo quyệt, mưu mô của thứ kẻ thù số một, tất cả như muốn cướp đi mạng sống của bất cứ kẻ nào lỡ sa chân vào “thạch trận" mà chúng bày ra. Không dừng lại ở đó, nước ở con sông Đà này cũng “reo như đun sôi lên một trăm độ… vẫn mai phục hết trong lòng sông”.

Nguyễn Tuân còn miêu tả một cách sống động rằng có khi thấy chiếc thuyền nào nhô vào thì chúng lại “nhổm cả dậy để vồ lấy". Thế nhưng ngay sau đó, khi sự hung hãn, dữ tợn kinh người trôi qua, nó lại hiện lên với cả vẻ trữ tình, thơ mộng đến khó tin. Tác giả còn miêu tả nổi bật lên được hình ảnh con sông lúc ở những đoạn xuôi dòng, không những thế ngòi bút của Nguyễn Tuân cũng bỗng trở lên mềm mại, uyển chuyển và mang đậm chất thơ với đoạn miêu tả: “Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”…

Với việc so sánh dòng sông Đà “như một áng tóc trữ tình”, tác giả đã phác họa dòng sông hiện lên với cái vẻ kiều diễm, thướt tha của một người phụ nữ. Thông thường người ta sẽ dùng chữ “áng” để chỉ những tác phẩm nghệ thuật, vậy mà ở đây Nguyễn Tuân lại dùng nó để chỉ sông Đà. Có thể thấy trong suy nghĩ của Nguyễn Tuân, con sông Đà ấy giống như một tác phẩm nghệ thuật mà tạo hóa đã tạo ra.

Sông Đà không chỉ đẹp ở dáng hình, ngay cả ở màu nước cũng mang một vẻ đẹp riêng. Tác giả đã quan sát dòng sông ở những thời điểm và không gian khác nhau. Vào mùa xuân thì dòng nước xanh như ngọc bích, vừa trong xanh vừa óng ánh. Nhưng khi thu sang nước sông lại chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa. Bằng việc miêu tả cụ thể từng chi tiết với những so sánh độc đáo con sông Đà hiện lên vừa đẹp, vừa đa dạng và qua đó mới thấy được sự hiểu biết sâu rộng cùng khả năng quan sát tinh tế của nhà văn.

Cũng chính trong cái vẻ hung tợn, dữ dằn và cái đẹp đầy trữ tình, thơ mộng ấy của đất trời thiên nhiên thì hình ảnh ông lái đò xuất hiện thật dữ dội, phi thường giống như một người nghệ sĩ. Khi đứng trong một cuộc chiến đấu cam go “một mất, một còn” với những cái thác nước hung dữ, lúc này Nguyễn Tuân cũng đã cho ta thấy được cái tài hoa, sự trí dũng tuyệt vời của ông lái đò. Ông lái đò sông Đà điêu luyện điều khiển con thuyền của mình một cách chủ động và thuần thục giống như một người nghệ sĩ. Với đoạn văn miêu tả cận cảnh ông lái đò vượt thác thật đẹp, thật oai hùng: “Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chèo về phía cửa đá ấy”. Nhà văn Nguyễn Tuân đã tái hiện lại khung cảnh ông lái điều khiển chiếc thuyền cứ như một nhạc sĩ đang kéo đàn violon thật hay, thật nhịp nhàng, du dương không chệch một nốt.

Hình ảnh của người lái đò ấy dường như cũng chính là sự hiện thân của tác giả. Với Nguyễn Tuân thì ông không thích những thứ cũ mèm, tầm thường, giản dị thì với người lái đò cũng vậy, ông cũng chỉ thích lao vào những cuộc chiến đấu nguy hiểm, đầy kịch tích với thác nước dữ dội mà chẳng ưa xuôi thuyền trên dòng sông êm ả, bình lặng.

Thành công của Nguyễn Tuân đó là sử dụng giọng văn thật tự nhiên và phóng túng khi miêu tả hai trạng thái đối lập trong cùng một sự vật, điều này là một sự mới mẻ đầy sáng tạo. Con sông Đà vừa trữ tình vừa hung bạo, nó là một kẻ thù nhưng đồng thời cũng chính là một cố nhân. Chính dưới ngòi bút tài hoa của tác giả, con sông không chết cứng mà nó vẫn vận động một cách mạnh mẽ, sôi nổi bằng những từ ngữ, câu văn gợi hình ảnh, tất cả như đã tác động mạnh vào giác quan của người đọc. Sự xuất hiện của ông lái đò cũng thế, hiện lên một cách sinh động, rõ nét và sắc sảo. Đối với Nguyễn Tuân mà nói thì “đã là văn thì trước hết phải là văn”. Đã là văn thì đầu tiên là phải đẹp, phải trau chuốt. Và cái đẹp ấy đã chi phối cách nhìn của tác giả như đứng trên toàn bộ tác phẩm. Hình ảnh thiên nhiên và con người lúc này đây đều được khai thác trên phương diện mĩ thuật và tài hoa nghệ sĩ biết bao nhiêu thông qua ngòi bút tài ba của Nguyễn Tuân.

Có thể nói tác phẩm tùy bút “Người lái đò sông Đà” là một bước chuyển mình lớn trong phong cách sáng tác của Nguyễn Tuân. Ở trước cách mạng, ông luôn đi tìm đề tài cho tác phẩm của mình bằng cách quay về với quá khứ, ông luôn viết, tìm hiểu về một thời vang bóng đã qua. Qua đó, người đọc có thể dễ dàng nhìn thấy được nhân vật của Nguyễn Tuân đó là những Huấn Cao, nhân vật quản ngục mang mang khí phách của kẻ “nào biết trên đầu có ai”. Tất cả các nhân vật “vang bóng một thời” ấy là những vị anh hùng ngang dọc, họ đều là những khinh bạc đến điều. Thế nhưng sau cách mạng, Nguyễn Tuân lại tìm thấy cái chất tài hoa nghệ sĩ ở những con người lao động hết sức bình dị, gần gũi, thân thuộc ở ngay chính những công việc bình thường mà họ đang làm.

Với “Người lái đò sông Đà” thì ông lái đò xuất hiện trước mắt chúng ta như một người nghệ sĩ tài hoa, trí dũng song toàn. Qua đó, Nguyễn Tuân đã thể hiện tấm lòng trân trọng, sự cảm phục, lòng biết ơn những con người đã góp phần vào công cuộc xây dựng Tổ quốc. Chính trong việc phác họa lại vẻ đẹp của sông núi Tây Bắc cùng với hình ảnh của người lái đò, Nguyễn Tuân đã kết hợp những hiểu biết, những kiến thức của mình từ nhiều ngành nghệ thuật khác nhau như: hội họa, điêu khắc, âm nhạc, điện ảnh,… Tất cả mọi cảnh vật, mọi sự việc như hiện lên trước mắt ta sừng sững và sinh động biết bao nhiêu. Tác giả đã miêu tả chi tiết, sinh động, cụ thể đến mức khiến cho người đọc cảm tưởng như mình đang tận mắt chứng kiến cuộc vật lộn giữa ông lái với thác nước, với dòng sông quái ác, đồng thời cũng thấy được từng đoạn sông dữ tợn, lởm chởm những đá ngầm, đá nổi và hình ảnh một con sông êm ả, trữ tình biết bao nhiêu.

Chẳng phải ngẫu nhiên mà người ta gọi Nguyễn Tuân là nhà văn của sự tài hoa và uyên bác. Vì ông là một người có vốn cũng như nguồn tri thức về lịch sử, khoa học, địa lí, sinh học… khổng lồ. Tất cả các kiến thức này cũng thường được thể hiện, tuôn trào dào dạt trong những tác phẩm của ông và qua “Người lái đò sông Đà” ta lại càng thấy rõ hơn về điều này.

Khả năng diễn đạt và vốn ngôn ngữ của Nguyễn Tuân thật phong phú, đa dạng. Mỗi từ ngữ, mỗi câu văn khi đưa vào các trang viết dường như đã được chắt lọc, gọt giũa một cách cẩn thận. Ông cũng khéo léo sáng tạo nên nhiều từ ngữ mới lạ, độc đáo, chính điều này đã đóng góp vào sự đa dạng ngôn ngữ Việt Nam. Giọng văn của Nguyễn Tuân đôi khi mang vẻ thô kệch, đời thường, mộc mạc nhưng lại hết sức cô đúc và tự nhiên. Ông không chỉ viết lên những trang văn tài hoa, những tác phẩm đặc sắc mà còn khiến cho người đọc cảm nhận được những âm hưởng trong mỗi đoạn văn.

Nguyễn Tuân đã viết về người lái đò sông Đà, cũng như viết về một miền quê hương của Tổ quốc. Qua đó, ông đã thể hiện nguồn xúc cảm yêu thương tha thiết, sự trân quý đối với người lao động và thêm với đó là tình yêu thiên nhiên đất nước sâu nặng. Thực sự chính những tác phẩm văn chương đặc sắc này của ông đã mang đến cho chúng ta một vẻ đẹp tri thức tài hoa, uyên bác.

Mẫu số 2: Phân tích Người lái đò sông Đà ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước và con người lao động Việt Nam

Là một nhà văn lớn của văn học hiện đại Việt Nam thế kỉ XX, trước cách mạng tháng Tám tên tuổi của Nguyễn Tuân được biết đến thông qua tác phẩm “Vang bóng một thời”, “Một chuyến đi”,… Sau cách mạng tháng Tám, ông chuyển sang thể loại tùy bút và “Người lái đò sông Đà” là thành công lớn nhất của ông ở thể loại này. Tác phẩm đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc không chỉ ở hình tượng con sông Đà “hung bạo, trữ tình” mà còn bởi hình tượng người lái đò hiên ngang trên thác dữ.

Người lái đò sông Đà là một thiên tùy bút xuất sắc mang đậm phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân được in trong tập Sông Đà (1960). Đó là kết quả của nhiều dịp đi và viết về Tây Bắc trong thời kì kháng chiến chống Pháp của ông. Người nghệ sĩ tài hoa đã dùng cây bút của mình để khám phá, ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước và con người lao động Việt Nam.

Mở đầu thiên tùy bút, Nguyễn Tuân đã dẫn hai câu thơ làm đề từ: “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông” và “Chúng thủy giai đông tẩu / Đà giang độc bắc lưu”. Như vậy nhà văn đã ngầm thông báo với bạn đọc về hai đặc điểm của con sông với nét tính cách đối nghịch: dữ dội, hiểm ác - kiều diễm, thơ mộng. Dưới con mắt của bậc du tử luôn khát tìm sự lạ hóa, thiên nhiên sông Đà như một bản thể có tâm tính phức tạp. Thoạt tiên ta có thể nhận thấy tính chất hùng vĩ, dữ dội hiểm ác của con sông Đà.

Theo Nguyễn Tuân có lẽ đây là con sông lắm thác ghềnh, vực xoáy, vô cùng nguy hiểm cho con người. Mùa lũ đến, nó “ác như người dì ghẻ”, dữ dằn như con quái vật, trở thành “kẻ thù số một” của con người. Chất hùng vĩ của con sông Đà được hiện lên trước hết ở cảnh đá bờ sông dựng đứng vách thành. Những bức thành vách đá chẹt lấy lòng sông hẹp. Độ hẹp của lòng sông được nhà văn xoay ngắm đủ các giác độ: “mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”, “chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu”,… thật thú vị. Một sức hút bình thường làm sao có nổi sự so sánh vừa chính xác, vừa tinh tế vừa phong phú, vừa bất ngờ và lạ lùng đến thế. Nguyễn Tuân luôn lục lọi đến kiệt cùng cái khó ngôn ngữ muôn màu sắc để đem đến cho người đọc không chỉ cảm nhận bằng thị giác, cảm giác mà cả những tưởng tượng thú vị.

Cái khủng khiếp, dữ dội và hiểm ác của con sông Đà tiếp tục được Nguyễn Tuân đặc tả ở những quãng mặt ghềnh Hát Loong: nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn,..rồi tiếp đến là những hút xoáy nước “Hút nước xoáy nước tít đáy lừ lừ như cánh quạ đàn… sâu như tiếng bê tông thả xuống”, “Tiếng nước thở và kêu như cống cái bị sặc”. Chưa dừng lại ở đó Nguyễn Tuân tiếp tục tìm cho ra cảnh tượng gây được ấn tượng mạnh cho đọc giả. Đó là cảnh thác nước: “Tiếng thác nước nghe gần mãi lại réo to mãi lên,… nghe như oán trách rồi lại như van xin… Thế rồi nó bỗng rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre, nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bừng bừng,...”.

Nếu như ở đoạn trên nhà văn dùng ngôn ngữ điện ảnh để diễn tả sự khủng khiếp mà đầy lý thú của những xoáy hút nước thì ở đoạn này ta nghe như có âm thanh của bản nhạc giao hưởng, dạo đầu bằng những tiếng nỉ non của dòng thác, rồi nghe như oán trách, van xin, rồi lại như chế nhạo, khiêu khích. Thế rồi bỗng phóng to hết cỡ dồn dập, bừng bừng gào thét hỗn độn tất cả các loại âm thanh của núi rừng, thiên nhiên đang ở đỉnh điểm của cơn phấn khích dữ dội, man dại và cuồng loạn bởi những âm thanh đập ầm ầm vào đá. Để nói cho tận cùng tính dữ dội, hiểm ác của con sông, Nguyễn Tuân tiếp tục đưa người đọc đến khúc ngoặt của sông và chân trời đá: “đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông”. Chúng ngỗ ngược, đứng, ngồi, nằm tùy sở thích. Dường như từ ngàn xưa, sông đã giao việc cho chúng phải bày binh bố trận, có hàng tiền vệ, tuyết giữa và hậu vệ, có cửa sinh, cửa tử, biết dụ biết lừa, biết đánh, biết đá, biết hỏi và biết cả thách thức. Phối hợp với đá là thác nước, chúng hò la vang động làm thanh viện cho đá, có khi liều mạng sóng nước ùa vào làm “bẻ gãy cán chèo, đá trái, thúc gối, túm thắt lưng lật ngửa đánh đòn hiểm…”. Nguyễn Tuân đã sử dụng ngôn ngữ của nhiều ngành khác nhau: võ thuật, thể thao, quân sự để làm sống dậy một con sông. Nhà văn xoay ngắm ở nhiều chiều, nhiều bề: cao - rộng, trên bề mặt - dưới lòng sâu, đào xới đến tận cùng bản chất dữ dằn, hiểm ác để chứng tỏ sông Đà - con thủy quái - kẻ thù số một của con người.

Sông Đà làm một bản thể chính vì vậy mà bên cạnh sự hùng vĩ, dữ dằn của con sông, sông Đà còn hiện lên với vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình. Viết về vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con sông Đà, Nguyễn Tuân không bằng lòng với những tri thức hời hợt, quen nhàm mà luôn dồn hết tâm huyết, dựng công khó nhọc tìm tòi mang đến cho người đọc sự hiểu biết phong phú, toàn diện về một con sông, một vùng đất giàu giá trị vàng với những trang văn dạt dào cảm xúc. Đây là đoạn văn không còn sự hiện diện của thác, ghềnh, đá, sông Đà ở đoạn này hiền hòa và thơ mộng. Lời văn của Nguyễn Tuân bỗng đổi giọng dạt dào, tha thiết, ngôn ngữ giàu chất thơ, chất nhạc, chất họa. Người đọc có cảm giác như đang được cùng Nguyễn Tuân bồng bềnh trên máy bay rà “từng nét sông tã ra trên đại dương đá lờ lờ bóng mây dưới chân mình”, thấy Tổ quốc thật bao la. Để từ đó bậc du tử vảy bút vẽ một bức tranh thủy mặc chỉ trong một câu văn: “Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mùi khói núi Mèo đốt nương xuân”.

Thật không còn so sánh nào đẹp hơn dòng chảy của sông Đà với áng tóc của một mĩ nữ. Trữ tình và đáng yêu hơn nữa là màu sắc của con sông Đà. Nguyễn Tuân cũng đã nhận ra những sắc màu khác nhau của sông Đà theo từng mùa mang vẻ đẹp riêng “mùa xuân dòng xanh màu xanh ngọc bích”, qua ánh nắng mùa thu “sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bần đi vì rượu bữa”. Cách nhân hóa và so sánh này cho thấy sự tài hoa của bậc du tử khi miêu tả sắc nước sông Đà.

Là cây bút suốt đời tìm kiếm và khám phá cái đẹp, Nguyễn Tuân cùng với các đồng nghiệp của mình không quản khó khăn gian khổ băng đèo, lội suối đến với miền Tây Bắc xa xôi của Tổ quốc để tìm cho ra “cái thứ vàng mười” của núi sông Tây Bắc. Trên sông Đà, người lái đò xuôi ngược cả trăm lần. Dòng sông đối với ông “như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những cái chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng”. Ông hiểu quy luật của dòng nước, đóng đinh vào trí nhớ của mình từng con thác, xoáy nước, luồng lành, luồng dữ, luồng tử luồng sinh, thông minh gan dạ, hoạt bát tự tin như một dũng tướng trong trận đồ bát quái. Vẻ đẹp ngoại hình của người lái đò được Nguyễn Tuân khắc họa đã ngoài bảy mươi, đầu tóc bạc trắng, thân hình như một pho tượng được tạc bằng đá cẩm thạch. Nước da ánh lên chất sừng chất mun. Cánh tay rắn chắc trẻ tráng “lêu nghêu như cái sào”. Cặp mắt tinh anh với nhãn lực nhìn xa vời vợi. Trên ngực nổi lên một số thương tích trên “chiến trường Sông Đà” mà Nguyễn Tuân ngưỡng mộ gọi đó là “thứ Huân chương lao động siêu hạng”.

Ông lái đò là một “tay lái tài hoa” từng vượt qua bao trùng vây thạch trận, giao phong sinh tử với “lũ đá nơi ải nước”. Ông là một nhân vật không tên bởi ông là đại diện cho bao con người trên khắp đất nước Việt Nam ngày đêm âm thầm cần mẫn trong lao động, không ngừng đối mặt với những thiên tai, địch họa để giành lấy sự sống và bảo vệ quê hương đất nước. Chính bởi vậy mà hình tượng người lái đò càng trở lên lớn lao và kì vĩ.

Vẻ đẹp hình tượng người lái đò sông Đà được Nguyễn Tuân khắc họa trong ba lần thủy chiến. Cuộc giao tranh giữa một bên là chiếc thuyền con én cùng một con người nhỏ bé, mong manh đơn độc với một bên là gần trăm con thác dữ lớn nhỏ được ví như con quái vật khổng lồ tâm địa hiểm ác đại diện cho sức mạnh kỳ vĩ, dữ dội của thiên nhiên. Cuộc chiến diễn ra không cân sức nhưng hình ảnh người lái đò tay vẫn giữ chặt mái chèo, chân kẹp chặt cuống lái, hiên ngang, ngoan cường, bình tâm xử lí tình huống một cách dũng cảm, mưu trí, quyết liệt, táo bạo trước con quái vật nanh ác và giành được chiến thắng. Để miêu tả cuộc giao tranh đầy cam go, quyết liệt giữa người lái đò và con sông Đà hung bạo, Nguyễn Tuân đã tung ra vốn kiến thức uyên bác về địa lí, lịch sử và vốn ngôn ngữ thuộc các lĩnh vực thể thao, võ thuật, quân sự kết hợp với các thủ pháp nhân hóa, so sánh liên tưởng khôn lường, bất ngờ để cống hiến cho người đọc những trang văn, những bức tranh thủy chiến, những cảnh quay sống động bằng nghệ thuật ngôn từ đầy tài hoa, kì thú và hấp dẫn.

Cuộc giao chiến lần một sông Đà hiện lên như một kẻ thù nham hiểm, xảo quyệt, đó là chân trời đá. Đá ở con thác này mai phục hàng ngàn năm, chúng ngỗ ngược đứng, nằm, ngồi tùy sở thích, biết bày binh bố trận như binh pháp Tôn Tử. Gồm 5 cửa trận, trong đó có 4 cửa tử, một cửa sinh chia làm ba tuyến: tiến, trung, hậu vệ…đòi ăn chết con thuyền đơn độc nhưng ông lái vẫn nhớ mặt từng đứa. Khi thạch trận bày xong, có sự phối hợp của nước thác, sóng thác. Nước hò la vang dậy làm thanh viện cho đá. Đá oai phong lẫm liệt, tiến lùi thách thức. Sóng nước như quân liều mạng đá trái, thúc gối vào bụng, vào hông thuyền, lại như đòi túm lấy thắt lưng ông lái dò mà lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt đánh đòn hiểm độc nhất. Song ông lái đò vẫn giữ chặt mái chèo để khỏi bị hất tung ra khỏi trận địa sóng. Sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vô cùng thâm hiểm nhưng ông đò cố nén những vết thương, kiên cường vượt qua cơn hỗn chiến. Nguyễn Tuân đã dùng sức mạnh điêu khắc của ngôn từ truyền hồn sống vào từng khối đá, biến chúng thành bày thạch tinh hung hãn trong cuộc giao chiến với con người. Miêu tả thiên nhiên dữ dội nguy hiểm chẳng qua là để tôn vinh sức mạnh, lòng quả cảm của con người trong cuộc chinh phục thiên nhiên. Đoạn văn thật đặc sắc, đem lại cho người đọc những cảm xúc thẩm mĩ mới mẻ, lo âu và đầy kiêu hãnh như chính mình là người trong cuộc.

Để tô đậm hình ảnh người lái đò tài hoa, trí dũng, Nguyễn Tuân tiếp tục miêu tả cuộc giao tranh lần hai. Dưới cây bút tài hoa, phóng túng, con sông Đà tiếp tục được dựng dậy như “kẻ thù số một” của con người với tâm địa còn độc ác và xảo quyệt hơn. Khúc sông này nhiều cửa tử chỉ có một cửa sinh. Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Ông lái đò cùng chiếc thuyền cưỡi trên con sông như cưỡi trên lưng hổ, ông nắm chắc bờm sóng, ghì cương bám chắc vào dòng nước, phóng nhanh vào cửa sinh, lái miết. Bốn năm bọn thủ quân cửa ải nước liên xô ra định níu thuyền vào cửa tử. Dòng sông như con thú hoang lồng lộn đòi ăn chết con thuyền. Nó là hiện thân của sức mạnh thiên nhiên khó chế ngự. Ông lái đò nắm chắc quy luật của thần sông thần đá, không hề nao núng, luôn tỉnh táo, sáng tạo, thay đổi chiến thuật, ứng phó kịp thời. Mặc cho Đà giang hung dữ, hiểm ác ông vẫn bám chặt dòng nước, ghì cương lái như bám chặt vào sự sống. Nguyễn Tuân thật tài hoa trong cách dùng từ, ông không dùng “ghì tay lái” mà “ghì cương lái” khiến dòng sông như con hổ, dòng thác là hùm beo và con thuyền là chiến mã, còn ông lái vụt lớn cao như kị sĩ anh hùng điều khiển con chiến mã tung hoành trên chiến trận sông Đà. Để chiến thắng, ông lái đò không chỉ dũng cảm mà còn mưu trí trong cách đối phó. Thông qua nghệ thuật ngôn từ của Nguyễn Tuân hình ảnh con người hiện lên thật oanh liệt, hào hùng.

Cuộc giao tranh thứ ba kịch tính được đẩy lên đỉnh điểm. Ngòi bút của Nguyễn Tuân trở nên bay bổng, linh hoạt bởi nhiều liên tưởng tạt ngang đầy thú vị. Trong trùng vi thạch trận thứ ba này, dòng thác càng trở nên điên cuồng, dữ dội hơn, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là cửa tử. Cái luồng sống ở ngay giữa bọn đá hậu nên sự sống của ông đò càng hết sức mong manh. Chính giữa ranh giới của sự sống và cái chết, người đọc càng thấy tài nghệ chèo đò vượt thác thật tuyệt của ông lái. Ông cứ phóng thẳng, chọc thủng, vút qua cổng đá để rồi chiến thắng vinh quang. Thác dữ không chặn bắt được con thuyền, cuối cùng vẫn là con người chiến thắng. Sức mạnh thần thánh của tự nhiên cũng phải cúi đầu. Con người cưỡi lên thác ghềnh, xé toang hết lớp này đến lớp khác trùng vi thạch trận, biểu lộ sức mạnh phi thường trong quá trình thuần phục sự hung hãn của dòng sông. Ngôn ngữ miêu tả nhanh, gọn mà nhẹ nhàng như chính ông lái đò đang lướt đi trên băng khiến người đọc vô cùng cảm phục những con người lao động bình thường giản dị mà rất đỗi phi thường.

Con sông Đà hung dữ là vậy nhưng ông lái đò chỉ coi nó như một chiếc lá thu. Ông đến với nó như đến với một người lắm chứng nhiều tật nhưng đằm thắm như một cố nhân. Ông hiểu nó, lắng nghe âm vang của nó, thủy chung với nó. Qua mỗi lần chinh phục, mọi nguy hiểm đều tan biến: “Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ”. Họ lại đốt lửa nướng cơm lam, bàn chuyện về cá anh vũ, cá dầm xanh như không hề có chuyện gì xảy ra, mặc dù ngày nào họ cũng phải vật lộn, đối mặt với thác dữ. Đó thực là vẻ đẹp của một tâm hồn nghệ sĩ.

Có thể nói, thiên tùy bút Người lái đò sông Đà là tác phẩm mang đậm phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân. Độc đáo, tài hoa, uyên bác trong cách tiếp cận và khai thác đối tượng từ nhiều khía cạnh, phương diện thẩm mĩ, văn hóa. Dòng sông được miêu tả như một công trình mĩ thuật tuyệt vời của tạo hóa, người lái đò được khắc họa với tư chất trí dũng tài hoa, nghệ sĩ. Tác giả vận dụng ngôn ngữ điêu luyện của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau như: hội họa, âm nhạc, điện ảnh, điêu khắc,… huy động kiến thức nhiều lĩnh vực: địa lí, lịch sử, thể thao, võ thuật,... Tất cả đã tổng hợp, tựu chung lại làm nổi bật vẻ đẹp một dòng sông Đà hùng vĩ, dữ dội và thơ mộng cùng với đó là vẻ đẹp hình tượng người lao động rất đỗi bình dị mà kì vĩ, lớn lao.

Khép lại tùy bút sông Đà, Nguyễn Tuân đã đem đến cho độc giả bức tranh về thiên nhiên sông nước hùng vĩ, dội nhưng cũng không kém phần thơ mộng trữ tình. Hiện lên trong bức tranh đó là hình ảnh con người lao động trí dũng tài hoa của thời đại mới - thời đại Hồ Chí Minh. Tác phẩm còn thể hiện quan niệm thẩm mĩ độc đáo của Nguyễn Tuân: "Văn chương là nghệ thuật miêu tả cái đẹp".

Mẫu số 3: Phân tích Người lái đò sông Đà đoạn mở đầu

Phân tích Người lái đò sông Đà đoạn: "Hùng vĩ của sông Đà... cái gậy đánh phèn". Qua đó nhận xét cách nhìn mang tính phát hiện về dòng sông Đà và cái tôi của nhà văn trong tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân.

1. Phân tích lời đề từ Người lái đò sông Đà

“Chúng thủy giai đông tẩu

Đà giang độc bắc lưu”

Nhà văn Nguyễn Tuân đã đặc biệt muốn nhấn mạnh cá tính độc đáo của của dòng sông. Sông Đà khác hẳn các dòng sông khác bởi nếu tất cả các dòng sông khác đều chảy về hướng đông thì riêng sông Đà chạy về hướng bắc. Có lẽ vì con sông đặc biệt như vậy nên nó trở thành đối tượng rất phù hợp với cá tính sáng tạo của Nguyễn Tuân, nó được tác giả tìm đến để thể hiện cá tính nghệ thuật của mình.

Ở lời đề từ “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông”, tác giả lại thể hiện xúc cảm mãnh liệt trước vẻ đẹp của dòng sông và con người gắn bó với dòng sông, bộc lộ rõ cảm hứng chủ đạo của tác phẩm là ngợi ca thiên nhiên và con người Tây Bắc.

2. Hình tượng con Sông Đà qua đoạn trích

Nhận xét đầu tiên của nhà văn về dòng sông Đà ở đây là “Hùng vĩ của sông Đà không phải chỉ có những thác đá”. Câu văn đã khẳng định sông Đà là dòng sông hùng vĩ và hẳn là vẻ hùng vĩ ấy được thể hiện rõ nhất ở những thác đá trên sông. Nhưng hùng vĩ của sông Đà không chỉ có thế mà còn thể hiện rõ qua cảnh đá bờ sông dựng vách thành, những ghềnh sông, hút nước được miêu tả trong đoạn trích.

2.1. Cảnh đá bờ sông dựng vách thành

Tác giả đã dùng những chi tiết liên tưởng tưởng có giá trị gợi tả gián tiếp độ hẹp của dòng sông, độ cao của vách đá. Chẳng hạn, "mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời". Những vách đá dựng đứng khiến ánh sáng mặt trời ở đây chỉ có vào lúc giữa trưa, tức là khi mặt trời chiếu sáng theo phương thẳng đứng mới có thể lọt xuống dòng sông. Hoặc cách so sánh vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu - động từ “chẹt” cùng với việc "đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách" hoặc "Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia" đã đem đến ấn tượng mãnh liệt cho người đọc về độ hẹp của lòng sông với lưu tốc nước chảy mạnh khi bị vách đá chèn ép tới nghẹt thở. Nguyễn Tuân là nhà văn của những cảm giác mạnh và ông thường miêu tả thế giới sự vật thông qua cảm giác. Bằng cảm giác của xúc giác nhà văn miêu tả ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh. Ấn tượng của thị giác được thể hiện khi lấy hè phố để miêu tả mặt sông, lấy nhà cao gợi tả vách đá, truyền cho người đọc những hình dung về cái tăm tối lạnh lẽo đột ngột khi con thuyền đi từ ngoài vào khúc sông có đá hun hút dựng vách thành qua hình ảnh so sánh về một khung cửa sổ nào trên cái tầng thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện.

2.2. Mặt ghềnh Hát Loóng

Đáng chú ý, ở quãng Hát Loóng có những ghềnh sông mà cảnh tượng của nó rất dữ dội "Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm… Thông qua sự miêu tả của Nguyễn Tuân, những ghềnh sông ấy không chỉ dữ dội mà còn đầy nguy hiểm. Cách nhà văn sử dụng toàn câu ngắn, nhịp nhanh xô nhau, dồn dập, chồng chất lên nhau kết hợp với các thanh sắc, những từ ngữ trùng điệp nối tiếp thế chỗ nhau đã tái hiện sinh động những sức mạnh thiên nhiên dữ dội nhất của nước, sóng, gió và đá sông Đà. Từ láy “gùn ghè” và hình ảnh so sánh mang đậm sắc thái nhân hóa về việc sóng gió trên mặt ghềnh Hát Loóng lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy đã thể hiện sinh động sự hung hãn lì lợm và cuồng bạo của dòng sông. từ “nợ xuýt ” mang ý nghĩa độc đáo vì nợ không có vẫn đòi, không đòi bằng tiền, bằng tình mà đòi bằng mạng sống của con người.

2.3. Hút nước trên sông Đà

Trên Sông Đà còn có những hút nước rất nguy hiểm. Những cái hút nước xoáy tít đáy ấy được tác giả miêu tả qua một loạt những so sánh sống động, đặc sắc. Nó giống như những cái giếng bê tông được người ta thả xuống sông để chuẩn bị xây móng cầu, với âm thanh thở và kêu như cửa cống cái bị sặc, trong âm thanh như nước bị rót dầu sôi. Các từ láy tượng hình “lừ lừ”, từ láy tượng thanh tăng nghĩa “ặc ặc” cùng biện pháp nhân hóa khi miêu tả nước thở và kêu, bị sặc… Tất cả góp phần làm hiện ra cả hình ảnh và âm thanh của hút nước như một quái vật đang giận dữ. Sự nguy hiểm của những hút nước sông Đà được nhà văn miêu tả qua kiến thức về giao thông, giúp người đọc dễ dàng hình dung ra cảm giác hãi hùng nếu phải đi thuyền men gần hút nước đáng sợ ấy. Thuyền bè đi ngang qua đó phải đi nhanh, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để thoát khỏi quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Nguy hiểm hơn nữa là thuyền bè đi nghênh ngang là sẽ bị nó “lôi tuột xuống” đáy hút nước. Khi bị hút vào đó, lập tức thuyền trồng cây chuối, bị dìm sống đi ngầm dưới lòng sông, mươi phút sau lại thấy xuất hiện nhưng đã tan xác ở khuỷu sông dưới.

Nguyễn Tuân còn dùng những kiến thức về điện ảnh, những liên tưởng phong phú và đặc biệt là cảm giác mạnh để miêu tả những nước trên sông Đà. Nhà văn liên tưởng đến việc có một anh quay phim táo bạo vì muốn truyền cảm giác lạ cho người xem nên đã ngồi vào chiếc thuyền thúng tròn vành rồi cả thuyền, cả mình, cả máy quay xuống xoáy hút sông Đà để thu ảnh. Hút nước được miêu tả bằng thủ pháp điện ảnh, hất ngược từ dưới lên một cách sống động, truyền cảm từ hình khối của một thành giếng xây toàn bằng nước cho đến màu sắc của dòng sông “nước xanh ve”, và thậm chí cho đến cả cảm giác sợ hãi rất chân thực của con người khi cái thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, khi phải đứng trong lòng một khối pha lê xanh như sắp vỡ tan, bất cứ lúc nào cũng như sắp đổ ụp vào người. Những thước phim ấy truyền cảm lại cho người xem những cảm giác rất mạnh như đang lấy gân ngồi giữ chặt chiếc ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng vừa bị vứt vào một chiếc cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn.

3. Nhận xét về cách nhìn mang tính phát hiện về dòng sông Đà và cái tôi của nhà văn Nguyễn Tuân

- Cách nhìn mang tính phát hiện về dòng sông Đà của nhà văn Nguyễn Tuân:

+ Nhà văn nhìn Sông Đà không còn là con sông vô tri, vô giác mà là con sông có linh hồn, có cá tính như con người: hung bạo, dữ dằn, hùng vĩ; khám phá vẻ đẹp của dòng sông ở góc độ địa lí nhưng đậm chất văn chương, kết hợp với nhiều ngành nghệ thuật khác như âm nhạc, hội hoạ, điện ảnh, đầy ấn tượng.

+ Ý nghĩa: Qua hình tượng sông Đà, Nguyễn Tuân thể hiện tình yêu mến tha thiết đối với thiên nhiên đất nước. Với ông, thiên nhiên cũng là một tác phẩm nghệ thuật vô song của tạo hóa. Cảm nhận và miêu tả sông Đà, Nguyễn Tuân đã chứng tỏ sự tài hoa, uyên bác và lịch lãm của mình. Hình tượng sông Đà là phông nền cho sự xuất hiện và tôn vinh vẻ đẹp của người lao động trong chế độ mới.

- Về cái tôi của nhà văn:

+ Tinh tế, tài hoa qua sự rung động say mê trước vẻ đẹp thiên nhiên

+ Uyên bác qua cách nhìn khám phá, phát hiện hiện thực, vận dung linh hoạt kiến thức sách vở và các tri thức đời sống đầy đa dạng. Các thuật ngữ chuyên môn của các ngành được diễn tả linh động chính xác.

+ Tình yêu thương, lòng yêu cái đẹp.

Mẫu số 4: Phân tích Người lái đò sông Đà

Nguyễn Tuân - người nghệ sĩ suốt một đời đi tìm cái đẹp và trăn trở về cái đẹp. Nếu như trước cách mạng ông thoát li thực tại, tìm cái đẹp ở thời còn vang bóng, thì sau cách mạng cốt cách ấy vẫn duy trì nhưng ông tìm thấy cái đẹp trong cuộc sống này, ở những con người lao động hết sức bình dị. Người lái đò sông Đà được trích từ tập bút kí Sông Đà là những nét vẽ chân thực về vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc, và vẻ đẹp hào hùng của con người trong lao động.

Tập tùy bút Sông Đà nói chung là kết quả chuyến đi thực tế của nhà văn Nguyễn Tuân lên mảnh đất Tây Bắc vào những năm 1958 - 1960. Đây là thời kỳ miền Bắc sau ngày giải phóng đang tiến lên chủ nghĩa xã hội. Theo tiếng gọi của Đảng miền Bắc đang dấy lên phong trào tình nguyện đến những vùng xa xôi của Tổ quốc để khôi phục kinh tế và hàn gắn vết thương chiến tranh.

Như chúng ta biết rằng, mỗi lời đề từ xuất hiện, thường sẽ tập trung tư tưởng của tác phẩm, là chìa khóa mở cánh cửa vào tác phẩm, hé lộ tư tưởng, chủ đề, cảm hứng chủ đạo. Người lái đò sông Đà sử dụng hai lời đề từ. Lời đề từ thứ nhất: “Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông”, đây là câu thơ nổi tiếng của nhà thơ cách mạng Ba Lan mang cấu trúc cảm thán. Câu thơ có thể là câu hát của những người chèo đò, kéo thuyền vượt thác với tâm hồn lạc quan, yêu thiên nhiên, yêu lao động, cũng có thể là sự ngợi ca của chính nhà văn trước tư thế làm chủ thiên nhiên của con người trong cuộc sống mới. Câu thơ thứ hai, Nguyễn Tuân mượn câu thơ của Nguyễn Quang Bích: “Chúng thủy giai đông tẩu / Đà giang độc bắc lưu”. Câu thơ đã hé mở cho người đọc thấy, mọi dòng sông đều chảy về hướng đông, duy có sông Đà chảy theo hướng bắc. Câu thơ đã khẳng định sự độc đáo của Đà giang đồng thời hé lộ cá tính nghệ thuật của Nguyễn Tuân - nhà văn của những phong cảnh tuyệt mĩ, cảm giác mãnh liệt.

Trước hết về hình tượng con sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả trên nhiều phương diện, vừa mang vẻ đẹp hung bạo nhưng đồng thời cũng hết sức nên thơ, trữ tình. Vẻ đẹp hung bạo của dòng sông được Nguyễn Tuân thể hiện ở cảnh đá bờ sông dựng vách thành. Lúc ấy “mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời” đã gợi ra được độ cao và diễn tả được cái lạnh lẽo, âm u của khúc sông. Không chỉ vậy “vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu” đã diễn tả sự nhỏ hẹp của dòng chảy gợi ra lưu tốc rất lớn nhất là vào mùa nước lũ với bao nhiêu nguy hiểm rình rập. Với trường liên tưởng độc đáo, Nguyễn Tuân tiếp tục khắc họa đậm nét hơn nữa về những vách đá lạnh lẽo, tăm tối, ở khúc sông nhỏ và hẹp: “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.

Không chỉ vậy sự hung bạo còn thể hiện ở “quãng mặt ghềnh Hát Loóng”, ở đoạn này, Nguyễn Tuân đã nhân hóa dòng sông như một sinh thể người, đó là kẻ đi đòi nợ thuê với gương mặt dữ dằn, tàn bạo. Câu văn với nhịp điệu dồn dập, điệp từ, điệp cấu trúc được vận dụng liên tiếp (nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió) kết hợp với các thanh trắc liên tiếp đã tạo nên âm hưởng dữ dội, nhịp điệu khẩn trương, dồn dập như vừa xô đẩy, vừa hợp sức của sóng, gió và đá khiến cho cả ghềnh sông như sôi lên, cuộn chảy dữ dằn, tạo nên một mối đe dọa thực sự đối với bất kì người lái đò nào “quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”.

Sự hung bạo còn được thể hiện ở những cái hút nước tàn độc, được giăng mắc trên khắp khúc sông, như trực lấy mạng của con người bất cứ lúc nào. Để tái hiện sự khủng khiếp của những cái hút nước, Nguyễn Tuân đã lia máy quay ở nhiều chiều kích khác nhau, cho người đọc một cái nhìn toàn diện, đầy đủ nhất. Khi nhìn từ trên xuống mặt nước sông “giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”; từ dưới lòng sông nhìn ngược lên “thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào…”. Và để giúp người đọc cảm nhận được rõ hơn, tác giả còn đưa ra những vị thế cảm nhận khác nhau, với người quay phim thì như “ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút sông Đà…”; với người xem phim lại thấy “thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn…”. Với những trải nghiệm và góc nhìn phong phú Nguyễn Tuân đã cho người đọc cảm nhận đầy đủ mức độ nguy hiểm tột cùng của dòng sông Đà mà ở đây là những cái hút nước.

Cuối cùng sự hung bạo của sông Đà được khắc họa ở các trùng vi thạch trận khác nhau. Với trùng vi thách trận thứ nhật là “cả một chân trời đá”, “mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này”. Đá còn bày binh bố trận, như cố tình nhấn chìm con thuyền. Trùng vi thạch trận thứ hai tiếp tục tăng thêm thử thách, cửa tử nhiều hơn để đánh lừa con thuyền và chỉ có duy nhất một cửa sinh. Cửa sinh ấy lại không kém phần nguy hiểm khi “thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào”, phối hợp với đá là dòng thác như hùm beo như chực vồ và nhấn mình con thuyền xuống đáy song. Ở trùng vi thạch trận cuối cùng ít cửa ra vào, “bên phải bên trái đều là luồng chết cả”, chỉ có một luồng sống lại “ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác”. Tất cả các trùng vi, thạch trận đều vô cùng hiểm ác, với mục đích duy nhất là làm cho con thuyền mất sức, bỏ mạng.

Bên cạnh vẻ đẹp hung bạo, sông Đà lại hiện lên một vẻ đẹp rất khác, hoàn toàn đối lập, đó chính là vẻ đẹp trữ tình. Từ trên cao nhìn xuống, dòng chảy uốn lượn của con sông giống như “cái dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình”, đặc biệt là giống như mái tóc của người thiếu nữ “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Dòng sông như một người thiếu nữ, với mái tóc tuôn dài, tuôn dài, tha thướt, uyển chuyển không ngờ. Vẻ đẹp của dòng sông hài hòa với núi rừng Tây Bắc, được núi rừng điểm tô thêm cho nhan sắc mĩ miều. Không chỉ vậy ở những thời điểm khác nhau sông Đà cũng mang vẻ đẹp riêng: Mùa xuân, nước sông Đà xanh màu “xanh ngọc bích”, tươi sáng, trong trẻo, lấp lánh; Mùa thu, nước sông Đà lại “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”. Không chỉ vậy, vẻ đẹp sông Đà con như được bước ra từ miền cổ tích xa xôi, với những bãi bờ hoang dại như thời tiền sử: “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà”. Nhà văn đã cảm nhận được cái chất “đằm đằm ấm ấm” thân thuộc khi gặp lại sau một thời gian “ở rừng đi núi đã hơi lâu”.

Người lái đò sông Đà không chỉ nổi bật ở hình tượng con sông Đà, mà để điểm tô, hoàn thiện vẻ đẹp sông Đà cần có sự xuất hiện của con người, và thật đẹp đẽ, chân dung người lái đò đã được Nguyễn Tuân thể hiện tài tình, rõ nét. Người lái đò không có một tên gọi cụ thể, mà chỉ được gọi tên là người lái đò Lai Châu. Để làm bật vẻ đẹp người lái đò, chân dung ông luôn được tái hiện tương quan với dòng sông Đà. Nghệ thuật tương phản đã làm nổi bật một cuộc chiến không cân sức: một bên là thiên nhiên bạo liệt, hung tàn, sức mạnh vô song với sóng nước, với thạch tinh nham hiểm, một bên là con người bé nhỏ trên chiếc thuyền con én đơn độc và vũ khí trong tay chỉ là những chiếc cán chèo. Nhưng dù sông Đà có gian ngoan, xảo quyệt bao nhiêu thì người lái đò lại kiên cường bám trụ bấy nhiêu “hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình”. Đặc biệt trong lần vượt trùng vi thạch trận thứ ba, ông lái đò đã thể hiện rõ tài nghệ của mình. Ông cứ “phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa… vút qua cổng đá”, “vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được”… để rồi chiến thắng vinh quang. Câu văn “thế là hết thác” như một tiếng thở phào nhẹ nhõm khi ông lái đã bỏ lại hết những thác ghềnh ở phía sau lưng. Chiến thắng của ông trước hết xuất phát từ sự ngoan cường, lòng dũng cảm, ý chí quyết tâm vượt qua những thử thách khốc liệt của cuộc sống. Đây đồng thời cũng là chiến thắng của tài trí con người, của sự am hiểu đến tường tận tính nết của sông Đà.

Đặc biệt, cũng như những nhân vật khác của mình, người lái đò còn được Nguyễn Tuân khắc họa ở vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ. Tài hoa là khi con người đạt tới trình độ điêu luyện, thuần thục trong công việc của mình, đến độ có thể sáng tạo được, có thể vươn tới tự do. Chính vì vậy, Nguyễn Tuân đã tập trung bút lực ca ngợi hình ảnh ông lái băng băng trên dòng thác sông Đà một cách ung dung, bình tĩnh, tự tại trong cuộc chiến đầy cam go nhưng cũng thật hào hùng. Và phong thái nghệ sĩ của ông lái đò thể hiện trong cách ông nhìn nhận về công việc của mình, bình thản đến độ lạ lùng. Khi dòng sông vặn mình hết thác cũng là khoảnh khắc “sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ”. Những nhà đò dừng chèo, đốt lửa nướng ống cơm lam, bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, “về những cái hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra tràn đầy ruộng”.

Bằng ngòi bút vô cùng tài hoa, tinh tế, Nguyễn Tuân đã tạo nên những trang văn đẹp cả về hình thức và tư tưởng. Tác phẩm được tạo nên từ tình yêu quê hương đất nước sâu nặng, tha thiết. Không chỉ ngợi ca vẻ đẹp hùng vĩ của quê hương đất nước mà còn khẳng định sự lớn lao, sức mạnh phi thường của những con người bình thường trong hành trình chinh phục thiên nhiên.

Cành lá

Mẫu số 5. Phân tích Người lái đò sông Đà chuyên sâu

Hơn mười năm đã trôi qua, kể từ khi Nguyễn Tuân vào cõi vĩnh hằng; có lẽ con người "suốt đời đi tìm cái đẹp" ấy không phải băn khoăn hối tiếc điều gì nữa. Bởi những gì ông đã cống hiến cho nền văn học Việt Nam hiện đại không ai thay thế được. Đọc tuỳ bút Người lái đò Sông Đà của ông, ta càng thấm thía lời nhận xét của Anh Đức: "Không biết chừng nào mới lại có một nhà văn như thế, một nhà văn mà khi ta gọi là một bậc thầy của ngôn từ ta không hề thấy ngại miệng; một nhà văn độc đáo, vô song mà mỗi dòng, mỗi chữ tuôn ra đầu ngọn bút đều như có đóng một dấu triện riêng".

Có thể nói Nguyễn Tuân là người viết tùy bút nổi tiếng nhất trong văn học Việt Nam hiện đại. Với các tập Tuỳ bút I (1941), Tuỳ bút II (1943), ông đã làm sống lại khái niệm tuỳ bút trong văn học, đồng thời "định nghĩa" lại thể tùy bút. Phạm Đình Hổ (1768 - 1839) đã từng nêu lên khái niệm về thể loại này trong Vũ trung tuỳ bút. Theo ông, tuỳ bút đề cập đến những vấn đề rất đa dạng, không theo một trình tự nào, từ chuyện thân thế, gia đình đến chuyện xã hội, thời cuộc, lịch sử... Tuỳ theo hứng thú, sự quan tâm của người viết mà thể hiện các đề tài ấy.

Trong văn học hiện đại, tùy bút là khái niệm được dùng để chỉ những tác phẩm viết một cách phóng khoáng, tự do, theo dòng suy nghĩ liên tưởng của người viết. Tùy bút cũng là kí, là ghi chép, nhưng không chỉ ghi chép sự việc mà trong đó có cả suy nghĩ, cảm xúc người viết khi tiếp xúc với thực tế. Theo "định nghĩa" mới của Nguyễn Tuân, phần trình bày suy nghĩ, nhận xét, liên tưởng, tưởng tượng của người viết chiếm một tỉ trọng lớn, do đó chất trữ tình thường khá đậm nét. Người lái đò Sông Đà thể hiện đầy đủ những điểm đặc sắc nghệ thuật tuỳ bút của Nguyễn Tuân. Có thể nói thể tuỳ bút đã tạo đất cho nhà văn dụng võ, ngược lại, với Nguyễn Tuân, thể tuỳ bút cũng đã có một bước phát triển mới.

Trước hết phong cách nghệ thuật tùy bút của ông thể hiện những trang viết tài hoa và uyên bác. Tài hoa và uyên bác trong kể và tả. Ở Nguyễn Tuân, kể và tả đều kĩ càng, tỉ mỉ, có ngọn ngành, thông kim bác cổ. Mỗi liên tưởng, liên hệ trong tư duy, tư tưởng rất rộng, rất sâu. Cho nên những trang viết của ông đưa lại cho người đọc nhiều kiến thức văn hoá. Chính vì thế, đến với thiên tuỳ bút Người lái đò Sông Đà, ta như được chứng kiến một công trình khảo cứu công phu, một áng văn trữ tình giàu tính thẩm mĩ về sông Đà và những gì sinh sông trên con sông đó. [...]

Sông Đà, như tôi biết qua sự miêu tả của Nguyễn Tuân, có một vẻ đẹp vừa hung bạo vừa trữ tình, được thể hiện qua cái nhìn từ nhiều góc độ của tác giả. Đặc biệt là bằng vốn từ vựng phong phú và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ bậc thầy của ông. Nói như nhà văn Anh Đức: "mỗi dòng, mỗi chữ tuôn ra đầu ngọn bút như có đóng một dấu triện riêng". Tại sao khi ta gọi Nguyễn Tuân là "một bậc thầy của ngôn từ, ta không hề thấy ngại miệng"? Bởi lẽ đọc Người lái đò Sông Đà của ông ta nhận thấy văn Nguyễn Tuân là thứ ngôn từ nóng rẫy sự sống. Sức nóng trong ngôn ngữ của ông phát ra từ mọi hướng. Nhà nghệ sĩ "độc đáo vô song" ấy đã sáng tạo ra hàng loạt từ ngữ mới cho từ điển tiếng Việt.

Chỉ trong vài trang kí, mà có biết bao động từ trong đó. Tả tiếng thác nước, Nguyễn Tuân đem lại cho người đọc cả một hệ thống động từ được xếp cạnh nhau theo cấp tăng tiến: Lúc đầu là "tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên" rồi "nghe như là oán trách"; "van xin", "khiêu khích"; "giọng gằn mà chế nhạo". Thế rồi nó "rống lên", "lồng lộn", "gầm thét". Ngôn ngữ sinh động lại được kết hợp một cách tài tình khiến ta như cảm nhận cái hồn thác đang gầm lên giận dữ. Hết thác rồi đến đá, đội quân đá đang mai phục, sẵn sàng dưới sự chỉ huy của thác. Chúng đang chờ "có chiếc thuyền nào xuất hiện" là "nhổm cả dậy để vồ lấy".

Thật thú vị khi chứng kiến sự bài binh bố trận của những hòn đá "nhăn nhúm méo mó" kia. "Đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền". Trận địa đá gồm "hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở" để dụ đối phương đi vào sâu nữa" rồi "đánh khuýp quật vu hồi lại". Nếu chọc thủng được tuyến hai thì nhiệm vụ của những boong ke chìm và pháo đài đá nổi ở tuyến ba phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên". Hấp dẫn nhất phải kể đến cuộc chiến đấu một mất một còn giữa người lái đò và thác sông Đà. Bằng cái nhìn chứa đựng đầy tính điện ảnh cũng như hiểu biết uyên bác của mình, Nguyễn Tuân đã cho người đọc xem một đoạn phim bằng ngôn từ có một không hai: "Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện" và "hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt" trông "y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến". "Một hòn khác" thì "thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào".

Trí tưởng tượng sinh động của tác giả khiến người đọc vô cùng ngỡ ngàng và thú vị. Trận chiến đã bắt đầu "Trùng vì thạch trận vòng thứ nhất" có "mặt nước hò la vang dậy quanh mình", "sóng nước như thể quân liều mạng" "có lúc chúng đội cả thuyền lên". Nào là "đòn độc hiểm nhất, đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm"... Trùng vi thạch trận thứ hai không kém phần ác liệt. Có nhiều "cửa tử" để hòng đánh lừa con thuyền. Dòng nước cuồn cuộn của sông Đà được Nguyễn Tuân ví như "hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá". Ta có thể thấy sự biến hóa khôn lường trong cách sử dụng ngôn ngữ của tác giả. Đoạn trên, ông tả tiếng thác như tiếng "một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn" thì đến đoạn sau dòng thác hiện lên như "hùm beo".

Cuộc chiến ở cửa ải thứ hai với ưu thế nghiêng hẳn về người lái đò. Dường như Nguyễn Tuân ưa dùng những động từ sắc lạnh. Ông lái đò hiện hình như một dũng tướng hiên ngang xông pha trận mạc "nắm chắc lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái", "bám chắc", "phóng nhanh", "lái miết"... Niềm vui hân hoan của tác giả khi ông lái vượt qua được vòng chiến thứ hai như lan tỏa trong những câu văn tiếp theo: "Chỉ còn vẳng lại tiếng hò của sóng thác. Chúng vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng". Tâm hồn của người đọc như bị cuốn theo lối kể và tả đầy hấp dẫn của người viết. Chi tiết "tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng" của "cái thằng đá tướng" khiến người đọc như cùng cảm nhận sự khoái chí của tác giả.

Trùng vi thứ ba diễn ra nhanh hơn". Con thuyền vút qua cổng đá mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái lượn được". Cuộc chiến kết thúc "thế là hết thác". Dòng sông đột ngột hiện lên thanh bình, hiền hòa với sự bắt đầu bằng một hình ảnh vừa chân thực, vừa lãng mạn: "Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ". Câu văn miêu tả rất sinh động những đám bọt trắng xóa của dòng thác rơi từ trên cao và khi chạm đến cái đích cuối cùng là dòng sông thì vỡ ra, tạo thành âm thanh "xèo xèo tan". Nó có thể tan trong trí nhớ người lái đò bởi "cuộc sống của họ ngày nào cũng chiến đấu với sóng nước Sông Đà dữ dội", ngày nào cũng biết đến cảm giác "xèo xèo tan" của sóng thác. Nhưng âm thanh ấy in sâu vào tâm trí người đọc. Dòng thác đổ qua miền nhớ và để lại những nét chạm khắc không thể nào quên.

Sức nóng trong ngôn ngữ Nguyễn Tuân còn phát ra từ màu sắc con sông Đà mà ông miêu tả. Tất cả đều là gam màu nóng chói, và thể hiện một óc quan sát, liên tưởng, so sánh vô cùng tinh tế. Con sông Tây Bắc khi thì được miêu tả như "một cái mặt giếng mà thành giếng xây bằng nước sông xanh ve một áng thuỷ tinh khôi đúc dày, khôi pha lê xanh như sắp vỡ tan"; khi thì "xanh ngọc bích" vào mùa xuân, "lừ lừ chín đỏ" vào mùa thu. Có lúc sông như "miếng sáng loé lên một màu nắng tháng ba Đường thi". Cái "dấu triện riêng" mà mỗi dòng, mỗi chữ, mỗi câu văn Nguyễn Tuân đều được in vào đấy, phải chăng chính là kho ngôn ngữ vô cùng phong phú và đặc sắc của ông? Bởi có ai nhìn thấy "cái mặt xanh lè, tiu nghỉu" của đá; cái màu "lừ lừ chín đỏ" của sông, nghe thấy âm thanh "xèo xèo tan" của bọt thác?

Gọi Nguyễn Tuân là "bậc thầy ngôn ngữ" quả là không sai. Chỉ nói về con sông Đà mà ông đã sử dụng bao nhiêu từ đồng nghĩa. Khi thì gọi sông Đà là "con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình", khi thì bảo "cái dây thừng ngoằn ngoèo", lúc lại như "áng tóc trữ tình"... Ông còn gọi sông Đà là "cố nhân", là "cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi", rồi "một áng tóc trên mảng đầu Tây Bắc", "một con cá bị chúa đất từng vùng đem cắt ra từng khúc nhỏ"... Chỉ riêng điều đó thôi cũng cho ta thấy vốn từ vựng của Nguyễn Tuân vô cùng phong phú. Nguyễn Tuân viết như lấy chữ từ trong túi ra, thổi vào mỗi chữ một linh hồn sống và tạo nên những trang viết tài hoa.

Nói đến Nguyễn Tuân, người ta thường nghĩ đến chủ nghĩa xê dịch. Con người thích "chơi ngông" ấy "đi không cần mục đích, không cần đến nơi, cốt là cứ được lăn cái vỏ mình mãi mãi trên mặt đất này" (Nguyễn Đăng Mạnh). Mặc dù thế, văn chương là tâm huyết thực sự của đời ông. Và điều làm nên linh hồn của những áng văn xê dịch ấy là tấm lòng gắn bó thiết tha với quê hương, đất nước của ông. Tôi chưa đọc được nhiều những trang văn của Nguyền Tuân, nhưng ấn tượng của tôi về ông gói trọn trong chữ "ngông" độc đáo, vô song ấy.

Dù trước hay sau cách mạng thì vẫn là con người ấy. Đằng sau sự uyên bác về kiến thức, sự cầu kì, tỉ mỉ trong từng câu chữ, là một tấm lòng tha thiết yêu quê hương xứ sở. Không có tấm lòng ấy, không thể nhìn thấy con sông Đà như "một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai". Không yêu quê hương, làm sao ông có được nhận xét: "người cố nhân ấy biết mình lắm bệnh, lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy". Ông đâu chỉ miêu tả sông Đà, với ông "áng tóc mun dài ngàn ngàn vạn vạn sải" ấy như một cố nhân. Từ lòng yêu nước tha thiết cùng với tài hoa độc đáo của mình, Nguyễn Tuân đã để lại cho đời những trang văn tuyệt bút.

Trở lại nhận xét của Anh Đức về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân, người đọc tự hỏi thế nào là phong cách nghệ thuật? Đó hẳn phải là một cái nhìn mới mẻ, một sự khám phá độc đáo, có tính phát hiện đối với đời sống. Cái nhìn mới mẻ ấy được thể hiện bằng một bút pháp nghệ thuật đặc sắc mang dấu ấn riêng, vẻ đẹp riêng của mỗi nhà văn. Những nhà văn thực tài mới có phong cách. Nguyễn Tuân là nhà văn có phong cách sâu sắc và độc đáo. Sự độc đáo của phong cách Nguyễn Tuân thể hiện ở những tư tưởng mới lạ được nhìn nhận và khám phá từ những gì rất bình thường, giản dị, thậm chí ngay cả ở những gì người đời coi là "tầm thường", thấp kém. Những tư tưởng mới mẻ ấy lại được thể hiện và diễn đạt bằng một kho tàng ngôn ngữ hết sức phong phú và linh hoạt với nhiều sáng tạo trong dùng từ, đặt câu. Cũng như Nguyễn Du đã làm giàu và làm sang cho ngôn ngữ dân tộc bằng Truyện Kiều, Nguyễn Tuân cũng thế. Những trang văn của ông không chỉ thấm đượm linh hồn quê hương mà còn thể hiện sự giàu có của tiếng nói dân tộc Việt. Có nhà nghiên cứu nhận xét rất đúng về ngôn ngữ Nguyễn Tuân, đó là "sự giàu có và giá trị tạo hình cao", "như muốn ganh đua cùng tạo hoá".

Nhà văn Mắc-xim Goóc-ki đã từng nói: "con người, tiếng ấy thật tuyệt điệu, nó vang lên kiêu hãnh và hùng tráng xiết bao". Sự uyên bác, tài hoa, đầy sáng tạo bất ngờ trong những trang văn của Nguyễn Tuân nồng ấm một tình yêu và lòng tự hào về con người. Từ hình tượng Huấn Cao "Vang bóng một thời" đến người lái đò trên sông Đà có một sự chuyển biến trong tư tưởng thẩm mĩ của nhà văn. Song cả hai nhân vật đều có điểm chung: họ đều là những người có phẩm chất nghệ sĩ, chiến sĩ, vẻ đẹp thăng hoa của con người. Họ đều là sản phẩm của sự kết hợp cái Tâm và cái Tài của người viết. Nhà nghệ sĩ lớn ấy đi săn tìm cái đẹp suốt cả cuộc đời để rồi mang lại cho ta "chất vàng mười" của nghệ thuật.

Đọc Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân, chúng ta thực sự bị cuốn hút vào dòng thác cuồn cuộn của sông chữ, sông đời; thực sự như bị lạc vào "bờ sông hoang dại như một nỗi niềm cổ tích" ngày xưa. Từng câu, từng chữ mà ông đặt lên trang giấy là cả một quá trình sáng tạo công phu, cẩn trọng và thiêng liêng. Nguyễn Tuân thích sáng tạo, độc đáo cả trong đời thực lẫn trong văn chương. Ông thích Đô-xtôi-ép-xki và dường như chính ông là một minh họa cho cái định nghĩa nổi tiếng của Đô-xtôi-ép-xki: "Tài nghệ vĩ đại nhất của nhà văn là ở chỗ biết xóa bỏ". Phải chăng trong suốt cuộc đời lao động nghệ thuật cần cù, miệt mài, trau chuốt từng câu, từng chữ, Nguyễn Tuân đã biết tự "xóa bỏ" để tồn tại và trở thành một nghệ sĩ lớn.

Nguyễn Tuân đã ra đi vào ngày 28 tháng 7 năm 1987, để lại biết bao nhớ tiếc, ngẩn ngơ trong lòng người đọc. "Không biết chừng nào lại có một nhà văn như thế, một nhà văn mà ta gọi là một bậc thầy của ngôn từ ta không thấy ngại miệng, một nhà văn độc đáo vô song mà mỗi dòng, mỗi chữ như có đóng một dấu triện riêng". Đến bao giờ mới có một nhà văn như thế?

Mẫu số 6. Phân tích Người lái đò sông Đà ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên, con người Tây Bắc

Trong thế kỷ XX, Nguyễn Tuân là một trong những tên tuổi nhà văn lớn của Việt Nam. Qua các tác phẩm nổi tiếng như "Vang bóng một thời" và "Một chuyến đi", ông đã gây được tiếng vang lớn với độc giả giai đoạn trước Cách mạng Tháng Tám. Tuy nhiên, sau Cách mạng Tháng Tám, ông đã chuyển hướng qua thể loại tùy bút và sáng tác thành công nhất của ông chính là tác phẩm tùy bút "Người lái đò sông Đà". Tùy bút đã để lại một ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả, không chỉ bởi hình tượng con sông Đà "hung bạo, trữ tình" mà còn bởi hình tượng của người lái đò vững chãi trên những thác nước dữ dội.

Tùy bút "Người lái đò sông Đà" là một tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Tuân được xuất bản trong tập Sông Đà (1960). Tác phẩm là kết quả của những chuyến đi trải nghiệm và viết về vùng Tây Bắc trong thời kì kháng chiến chống Pháp của ông. Tùy bút mang đậm nét đặc trưng phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Với cây bút tài hoa của mình, nhà văn đã khám phá và ca ngợi, tôn vinh vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước và con người lao động Việt Nam.

Nguyễn Tuân đã mở đầu thiên tùy bút bằng việc trích dẫn hai câu thơ làm đề từ: "Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông" và "Chúng thủy giai đông tẩu/ Đà giang độc bắc lưu". Thông qua hai câu đề từ này, nhà văn đã gián tiếp thông điệp đến người đọc về hai đặc điểm trái ngược trong tính cách riêng của con sông: dữ dội, hiểm ác – kiều diễm, thơ mộng. Trong mắt của những người thích khám phá, thiên nhiên sông Đà trở thành một bản thể phức tạp, mang trong mình những tính cách đa chiều. Ban đầu, ta có thể nhận thấy sự hùng vĩ, dữ dội và nguy hiểm của con sông Đà.

Theo quan điểm của Nguyễn Tuân, con sông Đà có lẽ là một con sông với nhiều thác ghềnh, vực xoáy và cực kỳ nguy hiểm đối với con người. Tới mùa lũ, nó trở thành một "người dì ghẻ" độc ác, một con quái vật đáng sợ và "kẻ thù số một" của con người. Sự hùng vĩ của con sông Đà được thể hiện trước tiên qua cảnh đá bờ sông dựng đứng thành vách, những bức thành đá cao vút chẹt lấy lòng sông hẹp. Độ hẹp của dòng sông được nhà văn mô tả đa dạng giác độ: "mặt sông chỉ khi ngọ mới có ánh nắng mặt trời", "chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu"... đây thật sự là những chi tiết thú vị. Sức hấp dẫn thông thường không thể so sánh được với những so sánh chính xác, tinh tế, phong phú, bất ngờ và lạ lùng như thế.

Nguyễn Tuân luôn khám phá sâu vào sự phong phú của ngôn ngữ để mang đến cho người đọc không chỉ trải nghiệm thị giác và cảm xúc mà còn những tưởng tượng thú vị. Cái khủng khiếp, dữ dội và nguy hiểm của con sông Đà tiếp tục được Nguyễn Tuân mô tả tới tận cùng trong những đoạn mặt ghềnh Hát Loong: nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn... Tiếp theo đó là những xoáy nước hút mạnh "Hút nước xoáy nước tít đáy lừ lừ như cánh quạ đàn... sâu như tiếng bê tông thả xuống", "Tiếng nước thở và kêu như cống cái bị sặc". Tuy nhiên, Nguyễn Tuân không dừng lại ở đó mà tiếp tục tìm ra những cảnh tượng gây ấn tượng mạnh cho người đọc.

Đó là cảnh thác nước: “Tiếng thác nước nghe gần mãi lại réo to mãi lên,…nghe như oán trách rồi lại như van xin…Thế rồi nó bỗng rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre, nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bừng bừng,...”. Nếu như ở đoạn trên nhà văn dùng ngôn ngữ điện ảnh để diễn tả sự khủng khiếp mà đầy lý thú của những xoáy hút nước thì ở đoạn này ta nghe như có âm thanh của bản nhạc giao hưởng, dạo đầu bằng những tiếng nỉ non của dòng thác, rồi nghe như oán trách, van xin, rồi lại như chế nhạo, khiêu khích.

Thế rồi bỗng phóng to hết cỡ dồn dập, bừng bừng gào thét hỗn độn tất cả các loại âm thanh của núi rừng, thiên nhiên đang ở đỉnh điểm của cơn phấn khích dữ dội, man dại và cuồng loạn bởi những âm thanh đập ầm ầm vào đá. Để nói cho tận cùng tình dữ dội, hiểm ác của con sông, Nguyễn Tuân tiếp tục đưa người đọc đến khúc ngoặt của sông và chân trời đá: “đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông”. Chúng ngỗ ngược, đứng, ngồi, nằm tùy sở thích. Dường như từ ngàn xưa, sông đã giao việc cho chúng phải bày binh bố trận, có hàng tiền vệ, tuyết giữa và hậu vệ, có cửa sinh, cửa tử, biết dụ biết lừa, biết đánh, biết đá, biết hỏi và biết cả thách thức. Phối hợp với đá là thác nước, chúng hò la vang động làm thanh viện cho đá, có khi liều mạng sóng nước ùa vào làm “bẻ gãy cán chèo, đá trái, thúc gối, túm thắt lưng lật ngửa đánh đòn hiểm…”. Nguyễn Tuân đã sử dụng ngôn ngữ của nhiều ngành khác nhau: võ thuật, thể thao, quân sự để làm sống dậy một con sông. Nhà văn xoay ngắm ở nhiều chiều, nhiều bề: cao – rộng, trên bề mặt – dưới lòng sâu, đào xới đến tận cùng bản chất dữ dằn, hiểm ác để chứng tỏ sông Đà – con thủy quái – kẻ thù số một của con người.

Sông Đà làm một bản thể chính vì vậy mà bên cạnh sự hùng vĩ, dữ dằn của con sông, sông Đà còn hiện lên với vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình.

Nguyễn Tuân không bằng lòng với những tri thức hời hợt, quen nhàm khi viết về vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con sông Đà. Với những trang văn đầy cảm xúc, ông luôn dồn hết tâm huyết, dụng công khó nhọc để mang đến cho người đọc sự hiểu biết phong phú, toàn diện về một con sông, một vùng đất giàu giá trị vàng. Đoạn văn này không còn sự hiện diện của thác, ghềnh, đá mà sông Đà đã trở nên hiền hòa và thơ mộng. Lời văn của Nguyễn Tuân đột nhiên thay đổi, tràn đầy tình cảm với ngôn ngữ giàu chất thơ, chất nhạc, chất họa. Người đọc có cảm giác như đang cùng Nguyễn Tuân trên một chuyến bay quan sát từ trên không "từng nét sông tã ra trên đại dương đá lờ lờ bóng mây dưới chân mình" và nhìn thấy Tổ quốc thật bao la, rộng lớn. Cũng từ đó, bậc du tử vảy bút vẽ một bức tranh thủy mặc chỉ trong một câu văn: "Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mùi khói núi Mèo đốt nương xuân". Không có so sánh nào có thể đẹp hơn dòng chảy của sông Đà với mái tóc của một mĩ nhân.

Màu sắc của con sông Đà còn trữ tình và đáng yêu hơn nữa. Nguyễn Tuân cũng đã nhận ra sự thay đổi màu sắc của sông Đà theo từng mùa, mang đến vẻ đẹp riêng biệt. "Mùa xuân, dòng sông xanh như ngọc bích," và "dưới ánh nắng mùa thu, sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bần đi vì rượu bữa". Cách nhân hóa và so sánh này thể hiện tài nghệ của nhà văn khi miêu tả màu nước của sông Đà. Với tư cách là những nhà văn luôn khám phá và tìm kiếm vẻ đẹp, Nguyễn Tuân và đồng nghiệp không ngại khó khăn và gian khổ để vượt qua đèo, lội suối để đến với miền Tây Bắc xa xôi của Tổ quốc, để khám phá "vàng mười" của núi sông Tây Bắc.

Người lái đò đã đi lại hàng trăm lần xuôi ngược trên dòng sông Đà. Đối với ông, dòng sông "như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những cái chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng". Ông hiểu rõ quy luật của dòng nước, ghi nhớ từng thác nước, xoáy nước, luồng lành, luồng dữ, luồng tử, luồng sinh, sắc bén và gan dạ, nhanh nhẹn tự tin như một vị tướng trong trận đồ bát quái. Nguyễn Tuân đã mô tả vẻ đẹp bên ngoài của người lái đò, người đã vượt qua tuổi bảy mươi, mái tóc bạc trắng, thân hình như một pho tượng được tạc bằng đá cẩm thạch. Nước da ánh lên chất sừng và chất mun. Đôi cánh tay rắn chắc, mạnh mẽ và trẻ tráng "lêu nghêu như cái sào". Đôi mắt tinh anh với tầm nhìn xa vời. Trên ngực hiện lên một số vết thương tích từ "chiến trường Sông Đà" mà Nguyễn Tuân ngưỡng mộ và gọi đó là "Huân chương lao động siêu hạng". Người lái đò là một "tay lái tài hoa" đã vượt qua nhiều khó khăn, đối đầu với sự sống và cái chết với "lũ đá trong ải nước". Người đó là một nhân vật vô danh, đại diện cho những con người trên khắp đất nước Việt Nam, làm việc siêng năng và âm thầm, không ngừng đối mặt với thiên tai và nguy hiểm để bảo vệ sự sống và đất nước. Chính vì thế, hình ảnh người lái đò ngày càng trở nên lớn lao và kỳ vĩ.

Vẻ đẹp của hình tượng người lái đò sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả qua ba trận thủy chiến. Cuộc đối đầu giữa một con thuyền nhỏ bé, mong manh và một người lái đò cô đơn với hàng chục con thác khổng lồ được xem như những quái vật tàn ác, biểu trưng cho sức mạnh kỳ vĩ và dữ dội của thiên nhiên. Mặc dù cuộc chiến không cân sức, nhưng người lái đò vẫn giữ chặt mái chèo, chân kẹp chặt vào cuống lái, kiên cường và tự tin đối mặt với tình huống, dũng cảm và quyết liệt, táo bạo trước con quái vật hung ác và giành chiến thắng.

Nguyễn Tuân đã mô tả cuộc giao tranh cam go và quyết liệt giữa người lái đò và con sông Đà hung bạo thông qua việc sử dụng kiến thức địa lí, lịch sử và ngôn ngữ thuộc các lĩnh vực thể thao, võ thuật, quân sự, kết hợp với phép nhân hóa và so sánh liên tưởng một cách khôn lường, bất ngờ, mang đến cho người đọc những đoạn văn, những bức tranh thủy chiến sống động, hấp dẫn.

Trong cuộc giao chiến lần thứ nhất, sông Đà hiện lên như một kẻ thù xảo quyệt và nham hiểm, đó là chân trời đá. Những tảng đá tại con thác này đã trải qua hàng ngàn năm, chúng đứng, nằm, ngồi một cách ngỗ ngược, tuỳ ý, biết bày binh bố trận như binh pháp của Tôn Tử. Chúng bao gồm 5 cửa trận, trong đó có 4 cửa tử và một cửa sinh, được chia thành ba tuyến: tiền, trung, hậu vệ... Chúng tấn công đòi ăn chết chiếc thuyền đơn độc nhưng người lái đò vẫn ghi nhớ khuôn mặt từng đứa.

Khi thạch trận đã được bày xong, có sự kết hợp của nước thác và sóng thác, tiếng hò vang dậy của nước đã làm nên âm thanh uy nghi của trận chiến. Đá đầy uy quyền và oai phong, tiến lùi đầy thách thức. Sóng nước đánh mạnh như quân lính liều mạng tấn công con thuyền, thúc gối vào bụng, vào hông thuyền, thậm chí cố gắng túm lấy dây thắt lưng của người lái đò để lật úp thuyền giữa trận nước vang vọng trời xanh. Nhưng người lái đò vẫn nắm chặt cây chèo để không bị cuốn trôi ra khỏi cuộc chiến sóng. Sóng tấn công dữ dội, đánh đòn dày đặc, và đánh đòn âm thầm vô cùng tinh vi, nhưng người lái đò vẫn kiên cường vượt qua những vết thương, quyết tâm vượt qua cuộc hỗn chiến đó.

Nguyễn Tuân đã dùng sức mạnh điêu khắc của ngôn từ truyền hồn sống vào từng khối đá, biến chúng thành bày thạch tinh hung hãn trong cuộc giao chiến với con người. Miêu tả thiên nhiên dữ dội nguy hiểm chẳng qua là để tôn vinh sức mạnh, lòng quả cảm của con người trong cuộc chinh phục thiên nhiên. Đoạn văn thật đặc sắc, đem lại cho người đọc những cảm xúc thẩm mĩ mới mẻ, lo âu và đầy kiêu hãnh như chính mình là người trong cuộc.

Để tô đậm hình ảnh người lái đò tài hoa, trí dũng, Nguyễn Tuân tiếp tục miêu tả cuộc giao tranh lần hai. Dưới cây bút tài hoa, phóng túng, con sông Đà tiếp tục được dựng dậy như “kẻ thù số một” của con người với tâm địa còn độc ác và xảo quyệt hơn. Khúc sông này nhiều cửa tử chỉ có một cửa sinh. Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Ông lái đò cùng chiếc thuyền cưỡi trên con sông như cưỡi trên lưng hổ, ông nắm chắc bờm sóng, ghì cương bám chắc vào dòng nước, phóng nhanh vào cửa sinh, lái miết. Bốn năm bọn thủ quân cửa ải nước liên xô ra định níu thuyền vào cửa tử. Dòng sông như con thú hoang lồng lộn đòi ăn chết con thuyền. Nó là hiện thân của sức mạnh thiên nhiên khó chế ngự. Ông lái đò nắm chắc quy luật của thần sông thần đá, không hề nao núng, luôn tỉnh táo, sáng tạo, thay đổi chiến thuật, ứng phó kịp thời. Mặc cho Đà giang hung dữ, hiểm ác ông vẫn bám chặt dòng nước, ghì cương lái như bám chặt vào sự sống. Nguyễn Tuân thật tài hoa trong cách dùng từ, ông không dùng “ghì tay lái” mà “ghì cương lái” khiến dòng sông như con hổ, dòng thác là hùm beo và con thuyền là chiến mã, còn ông lái vụt lớn cao như kị sĩ anh hùng điều khiển con chiến mã tung hoành trên chiến trận sông Đà. Để chiến thắng, ông lái đò không chỉ dũng cảm mà còn mưu trí trong cách đối phó. Thông qua nghệ thuật ngôn từ của Nguyễn Tuân hình ảnh con người hiện lên thật oanh liệt, hào hùng.

Cuộc giao tranh thứ ba kịch tính được đẩy lên đỉnh điểm. Ngòi bút của Nguyễn Tuân trở nên bay bổng, linh hoạt bởi nhiều liên tưởng tạt ngang đầy thú vị. Trong trùng vi thạch trận thứ ba này, dòng thác càng trở nên điên cuồng, dữ dội hơn, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là cửa tử. Cái luồng sống ở ngay giữa bọn đá hậu nên sự sống của ông đò càng hết sức mong manh. Chính giữa ranh giới của sự sống và cái chết, người đọc càng thấy tài nghệ chèo đò vượt thác thật tuyệt của ông lái. Ông cứ phóng thẳng, chọc thủng, vút qua cổng đá để rồi chiến thắng vinh quang. Thác dữ không chặn bắt được con thuyền, cuối cùng vẫn là con người chiến thắng. Sức mạnh thần thánh của tự nhiên cũng phải cúi đầu. Con người cưỡi lên thác ghềnh, xé toang hết lớp này đến lớp khác trùng vi thạch trận, biểu lộ sức mạnh phi thường trong quá trình thuần phục sự hung hãn của dòng sông. Ngôn ngữ miêu tả nhanh, gọn mà nhẹ nhàng như chính ông lái đò đang lướt đi trên băng khiến người đọc vô cùng cảm phục những con người lao độ động bình thường giản dị mà rất đỗi phi thường.

Con sông Đà hung dữ là vậy ông lái đò chỉ coi nó như một chiếc lá thu. Ông đến với nó như đến với một người lắm chứng nhiều tật nhưng đằm thắm như một cố nhân. Ông hiểu nó, lắng nghe âm vang của nó, thủy chung với nó. Qua mỗi lần chinh phục, mọi nguy hiểm đều tan biến: “Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ”. Họ lại đốt lửa nướng cơm lam, bàn chuyện về cá anh vũ, cá dầm xanh như không hề có chuyện gì xảy ra, mặc dù ngày nào họ cũng phải vật lộn, đối mặt với thác dữ. Đó thực là vẻ đẹp của một tâm hồn nghệ sĩ.

Có thể nói, "Người lái đò sông Đà" của Nguyễn Tuân là thiên tùy bút mang đậm phong cách nghệ thuật độc đáo. Tác giả đã tiếp cận và khai thác đối tượng từ nhiều khía cạnh và phương diện thẩm mỹ, văn hóa một cách độc đáo, tài hoa và uyên bác. Dòng sông được miêu tả như một công trình mĩ thuật tuyệt vời được sáng tạo bởi tự nhiên và người lái đò được khắc họa với tư chất trí dũng tài hoa, như một nghệ sĩ. Tác giả sử dụng ngôn ngữ điêu luyện từ nhiều ngành nghệ thuật khác nhau như hội họa, âm nhạc, điện ảnh, điêu khắc,... và huy động kiến thức từ nhiều lĩnh vực như địa lí, lịch sử, thể thao, võ thuật,... Tất cả đã kết hợp và tạo nên vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội và thơ mộng của dòng sông Đà, cùng với hình ảnh đặc biệt của người lao động, bình dị nhưng cũng kì vĩ và lớn lao.

Kết thúc tác phẩm "Người lái đò sông Đà", Nguyễn Tuân đã mang đến cho độc giả một bức tranh thiên nhiên sông nước hùng vĩ, dữ dội những cũng rất trữ tình, thơ mộng. Bức tranh đó còn khắc họa hình ảnh người lao động trí dũng tài hoa trong thời đại mới - thời đại của Hồ Chí Minh.

Cành lá

Mẫu số 7. Phân tích Người lái đò sông Đà - "chủ nghĩa anh hùng đâu chỉ có ở nơi chiến trường"

Nguyễn Tuân là một nhà tùy bút lớn. Sự nghiệp sáng tác của ông phong phú và đạt được sự cân bằng giữa hai thời kì lịch sử trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945. Qua cái mốc ấy, tư tưởng và phong cách của ông tất nhiên có những biến đổi nhất định. Nhưng dù biến đổi thế nào, vẫn trên một căn bản thống nhất của một cái tôi rất Nguyễn Tuân: tài hoa, uyên bác, thích cảm giác mạnh, suốt đời say mê đi tìm và diễn tả cái đẹp. Người lái đò Sông Đà rút trong tập tuỳ bút Sông Đà - một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám.

Sau Cách mạng tháng Tám 1945, tuỳ bút Nguyễn Tuân ngày càng giàu thêm chất kí. Nghĩa là tư liệu rất phong phú, bề bộn, nhất là tư liệu về địa lí, lịch sử, dân tộc học. Nhưng dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, những tư liệu ấy trở thành hình tượng sống động, thành những sinh thể, những nhân vật có linh hồn. Vì vậy bài tuỳ bút không chỉ có một nhân vật mà hai nhân vật: người lái đò và con sông Đà.

Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một con sông Đà không phải là thiên nhiên vô tri, vô giác, mà là một sinh thể có hoạt động, có tính cách, cá tính, có tâm trạng hẳn hoi và khá phức tạp. Nó có hai nét tính cách cơ bản đối lập với nhau - như tác giả nói - "hung bạo và trữ tình". Lúc trở mặt hung bạo, nó cứ như là "kẻ thù số một" của con người. Nhưng lúc trữ tình thì lại đầy chất thơ, rất đỗi dịu dàng, thân thiết, giống như một người tình, một "cố nhân" gặp thì mừng vui, xa thì nhớ nhung, lưu luyến.

Hai nét tính cách này đã khơi đúng vào cảm hứng nghệ thuật của Nguyễn Tuân - một cây bút vốn luôn luôn khao khát những cảm giác, cảm xúc mới lạ, nồng nàn, say đắm. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân đã viết rất hay về đèo cao, dốc thẳm, về gió, về bão, về thác nước dữ dội, nếu không phải là về vẻ đẹp tuyệt vời của cảnh, của người, của viên ngọc trai đáy biển, của bầu trời trong trên đỉnh núi Mèo, về hoa thuỷ tiên nở đúng đẻm giao thừa, về sắc đẹp đổ quán xiêu đình, nghiêng thành nghiêng nước của nàng Kiều,... Về tính cách hung bạo của con sông Đà thì từ xa xưa ông cha ta đã diễn tả bằng biểu tượng Sơn Tinh - Thuỷ Tinh: "Núi cao sông hãy còn dài - Năm năm báo oán đời đời đánh ghen".

Nguyễn Tuân thì không thể dùng lối huyền thoại như thế, ông phải dựng lên những bức tranh chân thực về những cảnh tượng hùng vĩ và dữ dội của con sông Đà khiến người đọc cũng phải rùng mình sởn gáy như đứng trước cảnh thực. Ông đã tung ra biết bao chữ nghĩa đắt giá, biết bao thủ pháp có sức diễn tả mãnh liệt để quyết một phen thi tài với Tạo hoá.

Chẳng hạn, ông dùng thủ pháp liên tưởng, so sánh để diễn tả đoạn sông bị chẹt giữa hai vách đá dựng thành cao vút "Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện". Và đây nữa, ông tả cái hút nước ghê gớm "giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn [...]. Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới".

Dùng thủ pháp văn học như thế ông vẫn chưa cho là đủ. Nguyễn Tuân còn chuyển sang sử dụng kĩ thuật đặc tả của điện ảnh. Ông tưởng tượng ra một anh quay phim điên rồ nào đấy, ngồi vào một cái thuyền thúng cho nó hút xuống đáy cái hút nước khủng khiếp kia cả người lẫn máy thu hình: "Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, cái máy lia ngược contre - plongée lên một cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thuỷ tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem. Cái phim ảnh thu được trong lòng giếng tít đáy, truyền cảm lại cho người xem phim kí sự thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn".

Sức tưởng tượng của Nguyễn Tuân đến thế thật là đã được đẩy lên đến mức kì khu, kì quái do cái động lực bướng bỉnh: không chịu lùi bước trước tạo hoá.

Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, con sông Đà thực sự trở thành một loài thủy quái khổng lồ. Tiếng gầm gào của nó qua những con thác dữ, từ xa nghe đã dễ sợ: "tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo". Khi đến gần, tiếng nó bỗng "rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng".

Con thuỷ quái không chỉ hung hãn. Nó còn hết sức xảo quyệt. Trong cuộc vật lộn với ông lái đò, nó đã trổ ra đủ mưu ma chước quỷ để lừa người ta vào thế trận đã bày sẵn và hướng người ta vào cửa tử. Chỗ ngoặt sông thì đánh phục kích. Dụ được vào sâu thì đánh khuýp vu hồi. Giáp lá cà thì giở đủ ngón hiểm ác: đòn âm, đòn dương, đá trái, thúc gối, túm thắt lưng, lật nửa người, bóp chặt hạ bộ,... Vừa đánh vừa hò la vang trời dậy đất để áp đảo tinh thần đối phương,...

Nhưng vượt qua được con thác dữ thì sông nước lại trở nên rất đỗi êm ả thanh bình. Nguyễn Tuân gọi thế là tính cách trữ tình của con sông Đà. Sông Đà lúc này lại như một tiên nữ giáng trần. Nó "tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo". Đẹp biết bao khi được ngắm nhìn những làn mây mùa xuân bay trên sông Đà. Nước sông Đà cũng thay đổi theo mùa: mùa xuân là dòng xanh ngọc bích, mùa thu thì lừ lừ chín đỏ như da mặt người say rượu... Cảm hứng dạt dào, nhà tùy bút cũng muốn trở thành thi sĩ. Ông thấy "lai láng thêm cái lòng muốn đề thơ vào sông nước".

Từ những chạm khắc gân guốc, bạo khoẻ, từ những màu sắc gây ấn tượng dữ dằn, Nguyễn Tuân chuyển sang những đường nét thanh thoát, dịu dàng thơ mộng. Quả thật nhiều khi ông đã đạt tới khả năng gợi tả của ngôn ngữ thơ, nghĩa là nói được những điều khó nói bằng văn xuôi: ấy là cái mà ông gọi là "màu nắng tháng ba Đường thi "Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu" - thoáng hiện lên trên sóng nước sông Đà; ấy là cái bâng khuâng ngẩn ngơ của dòng nước lững lờ trôi xuôi như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Có một cái gì tựa như nỗi thương nhớ mênh mang mơ hồ của thi sĩ Tản Đà gửi "một người tình nhân chưa quen biết" - "Dải sông Đà bọt nước lênh bênh - Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình".

Nói chung qua cảm nhận của Nguyễn Tuân, chất thơ của phong cảnh sông Đà thường đậm đà màu sắc cổ điển: "Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người, cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa.

Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu. Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: "Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?". Có thể gọi đấy là những dòng thơ văn xuôi của nhà tuỳ bút.

Trên cái nền của con sông vừa "hung bạo" vừa "trữ tình" ấy hiện lên lừng lững hình tượng người lái đò sông Đà. Thực ra ông lái này chủ yếu xuất hiện trong cuộc vật lộn với một con thác dữ, nghĩa là ở cái phía hung bạo của sông Đà. Giả sử tác giả đặt ông ta trong khung cảnh khác - khung cảnh thơ mộng trữ tình - chắc hẳn ông sẽ trở thành một anh chàng Trương Chi si tình trong cổ tích. Nhưng ở đây, đối đầu với con sông dữ, với một loài thủy quái, ông lái đò nhất thiết phải trở thành một dũng sĩ kiên cường - một nhân vật sử thi trong thiên trường ca leo ghềnh vượt thác...

Nói đến nhân vật của Nguyễn Tuân, không thể không lưu ý đến cách tiếp cận riêng của ông đối với con người. Ấy là cách tiếp cận từ phương diện tài hoa nghệ sĩ. Ở Nguyễn Tuân khái niệm này có một nghĩa rất rộng: không chỉ thu hẹp ở những người làm nghệ thuật như thi sĩ, hoạ sĩ hay đào nương, kép hát,... mà gồm bất cứ ai đã đẩy được cái công việc mình thường làm lên đến độ cao siêu, trác việt, dù công việc ấy chỉ là uống trà, ăn phở, giã giò, giã cốm, thậm chí công việc của tên đao phủ chém đầu người...

Ở đây, ông lái đò cũng được tiếp cận như vậy. Đúng là ông lái đò của Nguyễn Tuân. Lái đò như thế thì không còn là chuyện nghề nghiệp thông thường nữa mà đã sang hẳn phạm trù của nghệ thuật, nghệ sĩ - nói như tác giả - là "tay lái ra hoa".

Tất cả nghệ thuật của ông lái đò là nắm chắc "quy luật tất yếu của dòng nước sông Đà". Làm chủ được quy luật thì có nghĩa là đạt tới tự do và nghệ thuật. Có điều đây là một quy luật hết sức khắc nghiệt. Chỉ một chút thiếu chính xác, một tích tắc thiếu bình tĩnh, loá mắt lơ tay là phải trả giá bằng sinh mạng của mình. Để làm nổi bật tài nghệ của ông lái đò, Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một cuộc vượt thác của ông ta như là một viên tướng ngày xưa tiến vào một trận đồ bát quái được bố trí sẵn với rất nhiều cạm bẫy giăng ra hết vòng này đến vòng khác, mỗi vòng đều có những "viên tướng đá" nham hiểm, quái ác chờ sẵn và quyết tiêu diệt bằng được đối phương của mình.

Ở đây Nguyễn Tuân lại phải vận dụng đến những hiểu biết về khoa học quân sự và về võ thuật để diễn tả: nào là đòn dương, đòn âm, đá trái, thúc gối, phục kích, vu hồi,... Nào là tuyến một, tuyến hai, cửa sinh, cửa tử,... Chỉ là chuyện một ông lái đò và một cái thác nước mà Nguyễn Tuân đã viết được những trang thật hấp dẫn mà người đọc cứ như được nhìn thẳng vào những thước phim quay cận cảnh, đặc tả với bao tình huống hồi hộp,...

Viết được những trang như thế, phải có một trí tưởng tượng phong phú lắm, phải có một kho chữ nghĩa giàu có lắm và phải có một vốn tri thức thuộc nhiều lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật khác nhau. Nguyễn Tuân thường đã say một cái gì thì muốn quan sát, mô tả nó từ mọi mặt, mọi phía, nói cho đến sơn cùng thuỷ tận, dường như không muốn cho ai nói thêm được gì nữa. Con người này chủ trương uống rượu phải uống cả cấn (dĩ tận vi độ), văn của ông cũng muốn như thế.

Và ông lái đò đã hiện lên như Nguyễn Tuân mong muốn: một con người tài hoa trí dũng tuyệt vời đã đánh bại được cái thác nước hung dữ nham hiểm, phá hết vòng vây này đến vòng vây khác "cưỡi lên con thác", "nắm chặt lấy bờm sóng", "phóng nhanh", "lái xiết", "đè sấn lên" luồng sóng này, "chặt đôi" luồng sóng khác, tránh cửa tử, lao thẳng vào cửa sinh, vượt qua trùng trùng ải đá "Vút vút cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước" để cuối cùng thoát hẳn ra ngoài con thác dữ.

Qua bài tuỳ bút, đặc biệt là qua đoạn tả cuộc vượt thác của ông lái đò, Nguyễn Tuân muốn nói với người đọc rằng: chủ nghĩa anh hùng đâu chỉ có ở nơi chiến trường. Nó ở ngay trong cuộc sống của nhân dân ta hằng ngày phải vật lộn với thiên nhiên vì miếng cơm manh áo. Và trí dũng tài ba không phải tìm ở đâu đâu, mà ở ngay những người dân lao động bình thường kia. Cuộc đời của ông lái đò vô danh nơi ngọn thác hoang vu khuất nẻo kia là cả một thiên anh hùng ca, là cả một pho nghệ thuật tuyệt vời.

Mẫu số 8. Phân tích Người lái đò sông Đà ngắn gọn nhất

Nguyễn Tuân, sinh năm 1910 và qua đời năm 1987, là một danh họa văn chương Việt Nam. Nhà văn tri thức và yêu nước này, với tư duy sâu rộng về văn hóa dân tộc, đã sáng tác những tác phẩm uyên bác, mang đầy giá trị. Trước cách mạng, tác phẩm của ông thường chú trọng đến vẻ đẹp tài hoa của những con người 'một thời vang bóng' như Huấn Cao. Sau cách mạng, Nguyễn Tuân thu hút độc giả bằng sự tinh tế và tài năng trong việc vẽ nên những nét đẹp gần gũi, bình dị trong thiên nhiên và đời sống con người. Tuỳ bút 'Người lái đò sông Đà' là một áng văn thể hiện rõ phong cách văn học ấy.

Trong tuyển tập, sông Đà được mô tả vừa hùng vĩ, kiêu sa, dữ dội và vừa xinh đẹp, dịu dàng, thơ mộng. Nguyễn Tuân mô tả sông từ nhiều góc độ, mỗi góc độ đều khiến người đọc cảm nhận được vẻ đẹp và tình yêu thương. Không chỉ đẹp trong bức tranh bình lặng của hàng tre mỗi trưa hè, sông Đà còn hiện lên sống động, mãnh liệt khi màn đêm buông xuống. Con sông trở thành 'kẻ thù số một của con người'. Những con thác, những gạn nước từ Vạn Yên về xuôi tạo nên một bức tranh mênh mang. Hai bờ sông như những vách đá hiểm trở khôn cùng. Nước và sóng xô chồng lên nhau như đang thi nhau phô bày vẻ dữ tợn, oai hùng của mình. Tất cả là những thách thức, nguy hiểm mà ai đi qua sông Đà cũng phải đối mặt. Sông hùng dũng, bạo ngược, sẵn sàng nhấn chìm bất kỳ thuyền nào không làm chủ tốt tay lái.

Nhờ am hiểu và trải nghiệm sâu sắc, Nguyễn Tuân đã sử dụng những ngôn từ mới lạ, linh hoạt, độc đáo để mô tả sông Đà. Sông Đà hiện lên đẹp đẽ, dịu dàng và thơ mộng, giống như vẻ đẹp của người thiếu nữ Tây Bắc. Sông Đà trở nên trữ tình, khơi dậy sự yêu thương và tạo nên một sức hấp dẫn kỳ diệu. Đôi khi, sông Đà có những cảm xúc, cảm giác như người, nhớ nhung và thương yêu. Vẻ đẹp của sông được thể hiện qua thiên nhiên, mây trời, tạo nên nét đặc sắc riêng biệt. Mỗi lúc, sông Đà khiến người ta thích thú với sắc nước thay đổi theo mùa: "Mùa xuân, sông xanh ngọc bích, nước không xanh như sông Gâm, sông Lô. Mùa thu, nước sông Đà chín đỏ như da mặt người say rượu, như màu đỏ giận dữ của người bất mãn mỗi khi thu về".

Bờ sông Đà hiện lên tuyệt vời, dịu dàng bởi hương hoa, bướm, chuồn chuồn và những cảnh ngô non, cỏ non tơ mềm mại. Hình ảnh đàn hươu tự do gặm cỏ non sương đêm, cùng với mọi sinh linh hòa mình vào vẻ đẹp tuyệt vời của sông, tạo nên bức tranh hấp dẫn. Nguyễn Tuân với cảm xúc chân thành và sự trân trọng, biểu hiện sự quý giá của những điều nhỏ bé, bình dị. Ông khắc họa một bức tranh tuyệt vời của sông Đà, đậm chất trữ tình.

Ngoài hình ảnh hùng vĩ của sông Đà, tác phẩm còn mô tả hình ảnh người lái đò tài năng, nghệ sĩ, duyên dáng trên dòng sông. Không phải là một thanh niên trai tráng, người lái đò là một ông già gần bảy mươi, đã trải qua hàng trăm hành trình. Những kinh nghiệm đó giúp ông trở nên thuần thục và kiên trường. Người lái đò như "vàng mười" đã vượt qua thách thức của sóng kinh hoàng và thạch trận nguy hiểm. Đối mặt với những cảnh sóng dữ, ông không sợ hãi mà ngược lại vô cùng hứng khởi. Ông chiến thắng ba trùng vi thạch trận và quay trở về cuộc sống bình yên. Đây là hình ảnh của một người lao động kiên trường, đối mặt với những khó khăn để có được niềm vui trong cuộc sống.

Nguyễn Tuân đã tạo nên một kiệt tác độc đáo, một phong cách nghệ thuật uyên bác và tài hoa. Khi đọc tùy bút "Người lái đò sông Đà", chúng ta không ngừng trải qua những cảm xúc sâu sắc. Đó chính là vẻ đẹp tuyệt vời mà văn học mang lại, kích thích những cảm xúc thẩm mỹ to lớn. Chúng ta biết ơn Nguyễn Tuân, một nghệ sĩ trải qua cuộc đời tìm kiếm cái đẹp, để nâng niu những giá trị vững bền của cuộc sống và dân tộc.

Mẫu số 9: Phân tích Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân

Nguyễn Tuân được biết đến là một cây bút tài hoa, uyên bác, cả đời say mê tìm kiếm vẻ đẹp của cuộc sống. Ông có sở trường về thể loại tuỳ bút. Một trong những sáng tác tiêu biểu của ông là tuỳ bút “Người lái đò sông Đà”. Tác phẩm dường như đã khắc họa vẻ đẹp đa dạng vừa hung bạo vừa trữ tình của con sông Đà và ca ngợi người lái đò giản dị mà kì vĩ trên dòng sông.

Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” đã được in trong tập tuỳ bút “Sông Đà” (1960), và gồm có 15 bài tuỳ bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó chính là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đã đi đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn công cuộc xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo bất tận.

Có thể nói ngoài phong cảnh Tây Bắc uy nghiêm, hùng vĩ và tuyệt vời thơ mộng, Nguyễn Tuân còn phát hiện những điểm quý báu trong tâm hồn con người mà ông gọi là “thứ vàng mười đã được thử lửa, là chất vàng mười của tâm hồn Tây Bắc.”

Qua tác phẩm đặc sắc “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân với một tấm lòng tự hào của mình đã khắc hoạ những nét thơ mộng, hùng vĩ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên đất nước qua hình ảnh con sông Đà hung bạo nhưng có lúc lại hết sức trữ tình. Đồng thời, nhà văn dường như cũng phát hiện và ca ngợi chất nghệ sĩ, sự tài ba trí dũng của con người lao động mới đó chính là chất vàng mười đã qua thử lửa của đất nước trong xây dựng chủ nghĩa xã hội thông qua hình ảnh người lái đò sông Đà. Từ đó mà nhà văn đã ca ngợi con sông Đà vừa hung dữ nhưng cũng có lúc trữ tình, núi rừng Tây Bắc vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, đồng bào Tây Bắc cần cù, dũng cảm, rất tài tử và cũng rất tài hoa.

Người lái đò dường như đã hiện lên trước hết là một người lao động từng trải, có nhiều kinh nghiệm đò giang. Hơn nữa lại có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán nữa. Nguyễn Tuân thật tài tình khi đã đưa nhân vật của mình vào ngay hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ. Và nếu không phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Có lẽ nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó còn chính là một cuộc vượt thác đầy nguy hiểm đến tính mạng, diễn ra nhiều hồi, và cũng rất nhiều đợt như một trận đánh mà ở đó dường như đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một.

Dường như “Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này” có thể thấy rằng mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là ngay lập tức có một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”. Có thể nói Nguyễn Tuân như đã dùng rất đắt cho việc sử dụng ngôn ngữ của mình bằng cách tả những hòn đá. Ông tả mặt của hòn đá nào dường như cũng trông ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này…”. Con sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Và khi đi tới đây mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền. Và việc một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh khỏi ra được một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn phía trước.

Dường như trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Khi con sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất đó chính là dùng nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, ông lão vẫn không hề nao núng, mà dường như vẫn giữ được sự bình tĩnh, đầy mưu trí. Lúc này đây người lái đò bỗng như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác. Và ngay cả khi người lái đò bị thương, thì ông vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, rồi cả đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm nữa. Nhưng khi mà người lái đò “Phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất”, không quản mệt nhọc thì ngay lập tức người lái đò đã lại “phá luôn vòng vây thứ hai”.

Ông lão lái đò dường như cũng đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Và cho đến vòng thứ ba, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, nhưng dường như lúc này người lái đã chủ động “tấn công”: Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền đã vun vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút cửa ngoài rồi lại cả cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Và dường như trong cuộc chiến không cân sức ấy, người lái đò chỉ có một cán chèo, một con thuyền không có đường lùi còn dòng sông dường như mang sức mạnh siêu nhiên thật hung dữ của loài thuỷ quái. Tuy nhiên, có thể nói rằng chính những cái kết cục cuối thì với người lái đò vẫn chiến thắng, khiến cho bọn đá tướng tiu nghỉu bộ mặt xanh lè vì phải chịu thua một con thuyền nhỏ bé.

Người lái đò hiển hiện trong tác phẩm chính là một người lao động vô danh, làm lụng âm thầm, giản dị, nhờ lao động mà chinh phục được dòng sông dữ, trở nên lớn lao, kì vĩ và người lái đò trở thành đại diện của CON NGƯỜI. Người lao động chân chính đã chiến thắng thiên nhiên là nhờ ý chí kiên cường, bền bỉ, quyết tâm mà chiến thắng sức mạnh thần thánh của thiên nhiên. Đó chính là yếu tố làm nên chất vàng mười của nhân dân Tây Bắc.

Có thể nhận thấy nổi bật nhất, độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà là phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Dường như khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân có nghĩa rộng, không cứ là những người làm thơ, viết văn mà cả những người làm nghề chẳng mấy liên quan tới nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ dường như đã đạt đến trình độ tinh vi và siêu phàm. Trong Người lái đò sông Đà, tác giả Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình tượng người lái đò nghệ sĩ mà nhà văn trân trọng gọi là tay lái ra hoa. Nghệ thuật được sử dụng đặc sắc ở đây là phải am hiểu và nắm chắc các quy luật tất yếu của sông Đà và vì làm chủ được nó nên có tự do.

Quy luật ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Nếu như chỉ cần có một chút thiếu bình tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống. Mà ngay ở những khúc sông Đà không có thác lại dễ dại tay dại chân mà buồn ngủ ngay. Chung quy lại, thì ở bất cứ nơi nào cũng hiểm nguy. Ông lão lái đò dường như vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, vừa nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Có lẽ chính vì thế, vào trận mạc, ông thật khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba. Dường như mọi giác quan của ông lão đều hoạt động trong sự phối hợp nhịp nhàng, chính xác.

Xong trận, lúc nào cũng ung dung, thanh thản như chưa từng vượt thác: sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Và trong đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang ca mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi túa ra đầy tràn ruộng. Cũng như chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi cả.

Như những nghệ sĩ chân chính, thì sau khi đã vắt kiệt sức mình để thai nghén nên tác phẩm để đời thì không mấy ai tự tán dương về công sức của mình, và chính nhà văn Nguyễn Tuân đưa ra một lời nhận xét rằng “Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy sự sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp, đáng nhớ”. Chính vì thế mà họ nghĩ thế lúc ngừng chèo. Phải chăng người lái đò anh hùng có lẽ dễ thấy, nhưng nhìn người lái đò tài hoa thì chỉ có Nguyễn Tuân mà thôi.

Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” còn chính là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật tài hoa uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân. Tác phẩm đặc sắc này không chỉ ngợi ca vẻ đẹp kì vĩ thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc mà dường như còn ca ngợi vẻ đẹp bình dị, anh hùng mà tài hoa của người dân lao động nơi đây. Qua đó, nhà văn Nguyễn Tuân đã có thể bộc lộ tình yêu đất nước, niềm tự hào hứng khởi, gắn bó tha thiết với non sông Việt.

Mẫu số 10: Nghe bài phân tích Người lái đò sông Đà hay nhất

Tham khảo thêm top 5 bài văn phân tích hình tượng người lái đò sông Đà để thấy rõ nét bức tranh về người anh hùng lao động tài hoa được khắc họa qua ngòi bút của Nguyễn Tuân.

Cành lá

TOP 4 bài phân tích người lái đò sông Đà với hình tượng người lái đò

Hình tượng người lái đò sông Đà bài số 1:

“Người lái đò sông Đà” là thiên tùy bút rút trong tập “Sông Đà” (1960) của Nguyễn Tuân. Đây là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong chuyến đi thực tế đến Tây Bắc năm 1958. Trong chuyến đi này, tác giả đã có cơ hội sống với những khoảnh khắc thân thuộc nhất, hào hứng nhất của người nghệ sỹ trong ông. Ông cảm nhận được “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của những người lao động bình dị trên miền sông nước hùng vĩ và thơ mộng. Thật đúng khi cho rằng “thiên tùy bút là bài ca về vẻ đẹp của người lao động trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”, mà điển hình, dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, là hình tượng người lái đó vừa là người anh hùng, vừa là người nghệ sỹ tài ba trong nghề của mình.

Trong các tác phẩm của mình dù viết trước hay sau cách mạng tháng Tám thì các nhân vật chính luôn được ông xây dựng thành những con người đặc biệt, tài hoa nghệ sỹ. Hình ảnh ông lái đò cũng không phải là một ngoại lệ. Khi đọc tác phẩm, ta sẽ ấn tượng ngay đầu tiên với ngoại hình của ông: “Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng. Giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù…”.

Sức vóc ông khỏe mạnh chẳng khác gì thanh niên trai tráng mười tám đôi mươi: “Gần bảy mươi tuổi, cái đầu quắc thước của ông đặt trên một thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng, chất mun… ông giơ tay lên, đôi cánh tay trẻ tráng quá bịt cái đầu bạc hói đi. Không ai không lầm tưởng mình đang đứng trước một chàng trai đang ngồi ngoài bến chính bờ sông”.

Những dòng này được nhà văn viết ra không chỉ để giới thiệu ngoại hình của một con người mà còn để ca ngợi sự gắn bó, yêu quý nghề ở chính con người đó. Chỉ có yêu quý nghề, gắn bó sâu đậm với nghề, nhiều năm một nắng hai sương dong duổi chở khách trên con sông Đà hùng vĩ thì ngoại hình mới mang đậm dấu ấn nghề nghiệp như vậy. Đây chính là phong cách viết độc đáo của Nguyễn Tuân, ông luôn nén câu văn của mình nhiều điều muốn nói, “hàm lượng thông tin” ở đó không bao giờ chỉ ở một tầng hiển ngôn, chỉ khi chuyên chú đọc ta mới khám phá ra được nhiều tầng ẩn ngôn hàm chứa trong từng câu văn của tác giả.

Nhưng chỉ những nét miêu tả ngoại hình thôi thì chưa đủ. Trong ông lái đò còn ẩn chứa rất nhiều điều tuyệt vời đặc biệt của một người từng trải thạo nghề. Ông là một linh hồn muôn thuở của sông nước này. “Trên sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay giữ lái đò sáu mươi lần cho những chuyến thuyền then đuôi én sau chèo”. Sự từng trải ấy còn được thể hiện qua trí nhớ siêu phàm của ông. Trí nhớ ấy được rèn luyện cao độ bằng cách lấy mắt mà nhớ tỷ mỉ 73 con thác, như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của con thác hiểm trở.

Hơn thế nữa, sông Đà đối với ông lái đò như một bản trường thiên anh hùng ca mà ông thuộc lòng đến cả những cái dấu chấm than chấm câu và cả những đoạn xuống dòng. Khi được tác giả hỏi chuyện, người lái đò đã bảy mươi tuổi, làm nghề đó dọc mười năm liền và đã nghỉ làm nghề đôi chục năm nhưng trong ông, bản lĩnh kiên cường dường như không hề suy chuyển. Ông vẫn rất tự tin mà rằng: “Tôi bỏ nghề đã lâu rồi nhưng nay cho lên thác xuống ghềnh tôi dám thi đua với bạn đò ở khắp mấy châu có địa giới loang ra bờ sông Đà, cũng còn cái linh lợi để trở mừng một phái đoàn trung ương vừa lên vừa xuống thăm dò khảo sát toàn bộ sông Đà cho đến biên giới Trung Quốc”.

Nhưng trên hết tất cả, hình tượng ông lão lái đò được khắc họa rõ nét nhất qua trận thủy chiến với sông Đà. Vẻ đẹp sức mạnh của ông lái đò được khắc họa trong tương quan với vẻ đẹp của con sông Đà hung bạo, hùng vĩ. Chỉ từng trải thôi thì chưa đủ, đối với con sông Đà, ai chế ngự được nó đòi hỏi phải có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán nữa. Nguyễn Tuân đã đưa nhân vật của mình vào ngay hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Đây chính là dụng ý của tác giả khi viết về hình tượng ông lái đò, phẩm chất dũng cảm, gan dạ, kiên cường chỉ được bộc lộ rõ nhất khi nhận vật đối mặt với khó khăn, nguy hiểm.

Giả sử đặt ông lái đò trong khung cảnh thi vị, trữ tình của sông Đà thì hình tượng lại phát triển theo một hướng khác, trở thành một nghệ sỹ đa tình lẫn vào thế giới nhân vật của Nguyễn Tuân trước Cách mạng. Còn ở đây, ông lái đò trở thành người anh hùng nghệ sỹ trong thiên sử thi leo ghềnh vượt thác. Đó chính là cuộc vượt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương đã hiện ra ngay diện mạo và tâm địa độc ác của kẻ thù số một, lực lượng đá hậu, đá tương, đá tiền vệ với nhiều thủ đoạn nham hiểm tạo thành một lực lượng hùng hậu, đông đảo, dữ dằn và nham hiểm.

Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn chúng giăng sẵn trận đồ bát quái với ba trùng vi. Trùng vi một có 4 cửa tử và 1 cửa sinh. Sóng trận địa phóng thẳng, mặt nước hò la vang dậy mà vào bẻ gãy cán chèo vũ khí của ông lái đò nhưng ông vẫn hai tay giữ chắc mái chèo khỏi bị hất lên. Vì thế sóng nước lại càng dọa dẫm, sấn sổ, hiếu chiến như thể quân liều mạng. Nước bám lấy thuyền như đồ vật túm lấy thắt lưng ông lái đò lật ngửa mình giữa trận nước. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất nốc ao đối phương, ông lái đò cũng chẳng run tay, cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt móc bệch.

Ông chỉ huy hết sức ngắn gọn và tỉnh táo, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua trùng vi một hiểm trở. Phá xong trùng vi thạch trận thứ nhất ông lái đò phá luôn vòng vây thứ hai. Trùng vi hai tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, cửa sinh lại được bố trí lệch qua bờ hữu ngạn thật nham hiểm và xảo quyệt, thiên nhiên hùng mạnh như thú dữ.

Bốn, năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định nhử thuyền vào tập đoàn cửa tử. Nhưng ông lái đò đã nắm chắc được binh pháp của thần sông, thần đá, không một chút nghỉ tay nghỉ mắt, ông lái đò nắm chặt lấy cái bờm sóng đúng luồng, ghì cương lái bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh lái miết một đường chéo về phía cửa đá. Thật điêu luyện.

Đến vòng thứ ba, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, luồng sông nằm ở ngay giữa bọn đá hậu vệ. Một ông lái đò và sáu tay trèo, tưởng chừng như con người hết sức nhỏ bé, ít ỏi, cạn kiệt sức lực giữa một thiên nhiên hung dữ. Nhưng không, như một vị tướng lão luyện dày dặn kinh nghiệm, trận mạc, ông lão phóng thẳng thuyền trọc thủng cửa giữa. Thuyền vụt qua cổng đá, cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh cho qua hơi nước, vừa xuyên, vừa tự động lái được. Thế là kết thúc.

Tác giả đã rất dày công khi miêu tả trận thủy chiến với con sông Đà của ông lão lái đò. Một loạt những hành động nhanh mạnh: Phóng nhanh, phóng thẳng, lái miết một đường, chọc thủng, xuyên nhanh,… Kết hợp với nhịp văn gấp gáp, hơi văn căng thẳng, câu văn dồn dập gợi nên một cuộc giao tranh giáp lá cà một sống, một chết. Hơn nữa thủ pháp nghệ thuật tương phản được sử dụng triệt để và rất độc đáo trong tác phẩm đã xây dựng lên hai phe đối lập: một bên là thiên nhiên hung tàn, bạo liệt với một bên là con người nhỏ bé nhưng đầy bản lĩnh, sự quả cảm và khả năng chinh phục thiên nhiên kỳ diệu. Ông lái đò trong tay chỉ có một mái chèo “Như cái que giữa bạt ngàn sóng thác” như một vị tướng bách chiến bách thắng, phá thành vượt ải.

Với ngòi bút tài hoa và sự uyên bác, am hiểu về mọi lĩnh vực như thể thao, võ thuật, quân sự… của mình, Nguyễn Tuân đã biến câu chuyện bình thường thành bản trường ca hào hùng, biến ông lái đò bình thường thành một anh hùng, một nghệ sỹ lái đò trong nghệ thuật leo ghềnh vượt thác. Ông vừa là dũng sĩ, vừa là nghệ sĩ - tay lái ra hoa, ông tiêu biểu cho hình ảnh con người lao động trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Không chỉ là cô Đào trong truyện ngắn “Mùa lạc” của Nguyễn Khải, tình nguyện lên Điện Biên xây dựng nông thôn mới, không chỉ là tầng lớp thanh niên “Tuổi hai mươi khi hướng đời đã thấy/ Là xa xôi biết mấy cũng lên đường”, mà cùng với họ, ông lái đò sông Đà đã góp phần làm nổi bật, tôn lên vẻ đẹp, phẩm chất của người lao động trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội những năm 55 - 60.

Quả thật, vẻ đẹp "chất vàng mười đã qua thử lửa" trong tâm hồn của con người Tây Bắc đã được Nguyễn Tuân dày công khám phá trên dòng Đà giang khuất nẻo. Nếu như sông Đà trong tác phẩm của Nguyễn Tuân là “Kẻ thù số một của con người”, thì cũng chính thiên nhiên qua ngòi bút của nhà văn là nơi đã tôn vinh giá trị con người lao động. Quả thật sâu sắc khi nói “Thiên tùy bút là bài ca về vẻ đẹp của con người lao động trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Tác phẩm sẽ mãi là bản trường ca hào hùng đi cùng năm tháng.

Hình tượng người lái đò sông Đà bài số 2:

Thế giới nhân vật trên trang văn của Nguyễn Tuân thật đáng yêu vô cùng. Một cụ Kép, lông mày bạc, tóc bạc, râu bạc, thấp thoáng giữa vườn lan “nguyện đem cái quãng đời xế chiều của một nhà nho để phụng sự hoa thơm cỏ quý” (Hương Cuội). Một cụ Ấm thức dậy lúc mờ sáng, mang phong thái “một triết nhân ngồi tính bước đi của thời gian”. Trong ấm trà pha ngon, cụ đã “nhận thấy có một mùi thơ và một vị triết lí” (Chén trà sương). Một Huấn Cao tử tù chân vướng xiềng, cổ mang gông, vung bút viết lên tấm lụa bạch những chữ như rồng bay phượng múa, thể hiện “những cái hoài bão tung hoành của một đời con người” (Chữ người tử tù)… Và hình ảnh ông lái đò người Thái (Tây Bắc) có “tay lái ra hoa”. Đó là những con người cực kì tài hoa mang cốt cách nghệ sĩ.

Trên thác đá đầy đủ tướng dữ quân tợn, những hút nước chết người, những yết hầu chật hẹp, lạnh lẽo và “sóng xô đá, đá xô gió” bỗng hiên ngang một người lái đò hùng dũng, oai phong như khắc như chạm. Bước vào cái tuổi 70, đầu tóc bạc trắng, thân hình ông lái đò vẫn đẹp như một pho tượng tạc bằng đá cẩm thạch. Nước da ánh lên chất sừng chất mun. Cánh tay rắn chắc trẻ tráng “Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng”. Cặp mắt tinh anh, nhãn lực nhìn xa vời vợi. Trên ngực của ông nổi lên một số “củ nâu” thương tích trên “chiến trường Sông Đà” mà Nguyễn Tuân ngưỡng mộ gọi là “thứ Huân chương lao động siêu hạng”. Ông lái đò sông Đà này có “tay lái ra hoa” đã từng vượt qua bao trùng vây thạch trận, giao phong sinh tử với “lũ đá nơi ải nước”. Sau hơn mười năm chèo đò và chỉ huy một con thuyền có 6 mái chèo đã ngược xuôi sông Đà trăm chuyến, chở da trâu, xương hổ, chè, cánh kiến về xuôi, ông nắm vững từng con thác, cái ghềnh, nắm chắc binh pháp thần Sông, thần Đá.

Không chỉ mang vẻ đẹp ngoại hình gắn với lao động sông nước, ở ông còn in đậm vẻ đẹp tâm hồn tính cách:

Thứ nhất, thể hiện ở sự từng trải, giàu kinh nghiệm, có sự hiểu biết sâu sắc về luồng lạch trên sông Đà. Ông lái đò thể hiện sự hình thành “tính cách” của mình qua “trí nhớ ông được rèn luyện cao độ bằng cách lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở . Sông Đà, đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những cái chấm than chấm câu và những đọan xuống dòng”. Chính vì vậy “ông lái đã nắm chắc được binh pháp của thần sông, thần đá. Ông đã thuộc qui luật phục kích của lũ đá”. Đó chính là hình ảnh của một con người gắn bó với lao động, yêu nghề sông nước, từng trải và giàu kinh nghiệm.

Thứ hai, ở sự thông minh linh hoạt, dũng cảm như một viên tướng tài ba, như một nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác sông Đà. Cuộc sống của người lái đò sông Đà là một cuộc chiến đấu hằng ngày. Và ngày nào cũng phải giành những cái sống từ tay nhưng con thác. Vẻ đẹp này được ngòi bút Nguyễn Tuân thể hiện qua hình ảnh ông lái đò vượt thác: Vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò là sự tài ba dũng mãnh của một vị thuyền trưởng dày dạn kinh nghiệm thủy chiến. Chất tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò là ở bản lĩnh chiến đấu và tinh thần dũng cảm phi thường. Cảnh vượt thác của ông lái đò đã thể hiện rõ vẻ đẹp và cốt cách ấy. Ở trùng vây thứ nhất, ông lái đò xung trận với khí thế nghênh chiến quyết thắng: “Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới”. Cảnh hỗn chiến ác liệt diễn ra. Những hòn đá “bệ vệ oai phong lẫm liệt” được nước thác “reo hò làm thanh viện” chúng liều mạng xông vào mà “đá trái” mà “ thúc gối vào bụng và hông thuyền… Có lúc chúng đội cả thuyền lên”. Nguy hiểm là vậy nhưng ông lái đò vẫn bình tĩnh “hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng”. Ngay cả lúc bị con thủy quái này đánh miếng đòn hiểm nhất “bóp chặt lấy hạ bộ” đau điếng nhưng vị thuyền trưởng vẫn “ hai chân vẫn kẹp lấy cuống lái” dù mặt méo bệch vì đau đớn nhưng tiếng chỉ huy của ông vẫn sắc lạnh, tỉnh táo, đưa con thuyền thoát khỏi nguy hiểm.Thật là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có! Cao cường biết bao !Trùng vây thứ hai lại vô cùng hiểm trở, bố trí nhiều cửa tử hơn: “Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá”. Ông lái đò bắt đầu cuộc tấn công bằng cách “nắm chặt được cái bờm sóng đúng luồng rồi” ông cho con thuyền “phóng nhanh vào cửa sinh mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy”. Bọn tướng đá, đứa thì “ông tránh mà rảo bơi chèo lên”, đứa thì bị “ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”. Cuối cùng ông thắng còn bọn đá tướng thất bại thảm hại đưa cái mặt “tiu nghỉu, xanh lè thất vọng”.Trùng vây thứ ba, bên phải bên trái đều là “luồng chết cả”. Đã vậy, còn bố trí “bọn đá hậu vệ” canh cửa hòng “bắt chết” cái thuyền. Ông lái đò mưu trí “phóng thẳng con thuyền”, “chọc thủng” trùng vây rồi “vút qua cổng đá cánh mở cánh khép”. Chiếc thuyền như một mũi tên tre “vút, vút” xuyên nhanh qua hơi nước. Thế là hết thác. Sông nước lại thanh bình.

Qua đó, ta thấy ông lái đò oai phong lẫm liệt như một vị danh tướng, trí dũng song toàn, quyết đoán và quyết thắng. Đó là vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò được Nguyễn Tuân khám phá và ca ngợi. Những ẩn dụ, so sánh, nhân hóa được tác giả sử dụng sáng tạo gợi lên cảm giác mãnh liệt đầy ấn tượng. Cảnh vượt thác là bài ca chiến trận hào hùng. Nguyễn Tuân đã tung ra một đội quân ngôn ngữ thật hùng hậu, đa dạng, biến ảo thần kì với liên tục những phép tu từ vô cùng sinh động : so sánh ngầm , nhân hóa , cường điệu … Câu chữ tuôn chảy ào ạt , điệp điệp trùng trùng tạo ra  một bức tranh hòanh tráng . Nhà văn đã dụng tâm diễn tả cuộc chiến giữa ông lái đò với dòng sông theo hướng thọat đầu tưởng như không cân sức. Nhưng cuối cùng phần thắng đã thuộc về con người nhờ sự thông minh và dũng cảm. Cuộc vượt thác thật ngoạn mục, ông lái đò thực sự là một người nghệ sĩ tài hoa.

Thứ ba, ở sự khiêm nhường, bình dị, phong thái ung dung mang cốt cách nghệ sĩ. Đối với người lái đò, hiểm nguy trên dòng sông cũng chính là một phần trong cuộc sống của ông. Khi vượt qua gian nguy , sóng nước lại tan xèo xèo trong trí nhớ “sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam, và toàn bàn tán về cá anh vũ , cá dầm xanh … Cũng chẳng thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua ”. Nhà văn như muốn nghỉ ngơi sau chặng đường dài cùng nhân vật của mình đua tranh tài trí với thiên nhiên hung dữ . Song qua giọng văn nhẹ nhàng , ta lại thấm thía thêm một vẻ đẹp của người lái đò . Đó là sự khiêm nhường, bình dị, ung dung bởi vì “ngày nào cũng giành lấy cái sống từ tay những cái thác , nên nó cũng không có gì là hồi hộp đáng nhớ … ”. Cái phi thường đã trở thành bình thường. Phẩm chất chiến sĩ đã hòa quyện với phong thái tài tử, nghệ sĩ .

Có thể nói Người lái đò sông Đà được miêu tả trong tác phẩm vừa có tư thế của một người lao động trí dũng, vừa có phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Hình tượng người lái đò thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân ở giai đoạn sau Cách mạng Tháng Tám: người lái đò dù là người lao động bình dị vẫn hiện lên với chất tài hoa, nghệ sĩ; để miêu tả vẻ đẹp của hình tượng, nhà văn sử dụng kiến thức của nhiều ngành khoa học khác nhau; ngôn ngữ sinh động, giàu hình ảnh…

Qua hình tượng người lái đò, nhà văn tỏ thái độ yêu mến, tự hào và cảm phục trước những con người lao động bình dị vùng Tây Bắc, những con người mà nhàvăn gọi là “chất vàng mười” quí giá của Tổ quốc. Qua nhân vật người lái đò, Nguyễn Tuân cho rằng chủ nghĩa anh hùng đâu phải tìm kiếm đâu xa. Nó có trong cuộc sống tìm miếng cơm manh áo của nhân dân lao động. Những người bình dị có trí dũng tài ba họ có thể tạo hình tạc mẫu cho nghệ thuật.

Hình tượng người lái đò sông Đà bài số 3:

Nguyễn Tuân - một nhà văn lớn của văn học Việt Nam hiện đại, một nghệ sĩ tài hoa uyên bác có cá tính sáng tạo độc đáo. Một trong những trang viết đẹp nhất của ông sau cách mạng tháng Tám đó là Người lái đò sông Đà. Thứ mà tác phẩm đã khám phá, ngợi ca chính là vẻ đẹp của thiên nhiên và con người lao động vùng Tây Bắc xa xôi của tổ quốc. Nổi bật trong tác phẩm là hình tượng người lái đò sông Đà - "thứ vàng mười đã qua thử lửa" mà tác giả dày công tìm kiếm.

Người lái đò là một trong hai hình tượng chính được Nguyễn Tuân xây dựng rất thành công. Hiện lên nổi bật trong tác phẩm, ông lái đò chính là hình tượng nghệ thuật tiêu biểu cho những con người lao động trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới ở miền Tây Bắc của tổ quốc. Vẻ đẹp của ông lái đò được khắc họa chủ yếu qua cuộc chiến đấu với thác dữ ở trùng vi thạch trận của sông Đà.

Ông lái đò qua lời giới thiệu của Nguyễn Tuân sinh ra và lớn lên bên bờ sông Đà. Ông đã hơn 70 tuổi, phần lớn cuộc đời ông dành cho nghề lái đò trên sông Đà, một dòng sông hung bạo dữ dội có tới 73 con thác. Không phải ngẫu nhiên ông là nhân vật trung tâm của tác phẩm mà lại không có tên riêng, tác giả gọi ông là người lái đò, tên gọi đã cho biết đây là nghề nghiệp của ông, một nghề nghiệp rất khó khăn gian khổ đòi hỏi sự mưu trí dũng cảm. Trong trang văn của Nguyễn Tuân, người lái đò hiện lên với ngoại hình gọn quánh, “tiếng nói ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh hai tay dài lêu nghêu hai chân khuỳnh khuỳnh như đang kẹp chặt cái cuống lái trong tưởng tượng”. Đúng là ngoại hình của một người gắn bó với nghề sông nước thì có nhiều gian nan vất vả in hằn trong hình hài ông lái đò.

Người lái đò có trí nhớ tuyệt vời, có lẽ tình cảm đam mê yêu quý sông Đà đều được Nguyễn Tuân gửi vào nhân vật người lái đò nên nhà văn để cho nhân vật của mình gắn bó với sông đà như máu thịt, hiểu và thuộc lòng từng tên thác tên ghềnh của dòng sông. Cả cuộc đời ông đã hơn 100 lần lái thuyền vượt thác sông Đà nên ông có thể dùng mắt để nhớ tỉ mỉ, ông am hiểu tường tận về dòng sông hung bạo. Chính vì thế mà ông đã khuất phục chế ngự được sự hung bạo của sông Đà, ông không phải là thần thánh mà chỉ là một người lao động bình thường bằng xương bằng thịt nhưng với trí dũng song toàn, ông vẫn chiến thắng thiên nhiên để lao động sáng tạo xây dựng đất nước.

Tài năng và trình độ lái đò điêu luyện của ông được thể hiện qua ba cuộc giao tranh dữ dội với nước, sóng, gió, đá trên sông Đà với ba vòng trùng vi thạch trận. Nguyễn Tuân dùng hết bút lực vào miêu tả trùng vi thạch trận đầu tiên. Ở trùng vi thạch trận này thác đá đã chuẩn bị dàn trận địa sẵn đó là trận địa với bốn cửa từ và một cửa sinh nằm “lập lờ phía tả ngạn”. Sông Đà như một kẻ địch hung hăng táo bạo lưu manh côn đồ. Ông lái đò bị tấn công bất ngờ nhưng vẫn rất bình tĩnh sử dụng chiến thuật để dưỡng sức cho những trùng vi sắp tới. Ban đầu sóng nước tấn công trực diện với sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Đó là đòn ra tay rất nhanh mạnh và bất ngờ khiến ông lái đò dính đòn hiểm, mắt ông hoa lên, "Đòn đau khiến ông đò mặt méo bệch đi". Hai chữ méo bệch được dùng rất chính xác vì trong hai chữ ấy Nguyễn Tuân đã cực tả được cái đau của ông lái đò. Nỗi đau làm biến dạng và nhợt nhạt cả khuôn mặt nhưng ông đò có sức chịu đựng phi thường nén cơn đau đang hành hạ, ông vẫn bình tĩnh tỉnh táo vượt qua những cửa tử để đi vào cửa sinh. Vậy là ông đã chiến thắng phá xong trùng vi thạch trận vòng thứ nhất.

Ở trùng vi thạch trận thứ hai, đá nước sóng tăng thêm nhiều cửa tử, không những nhiều cửa tử hơn chiến thuật của kẻ địch thay đổi, cửa sinh bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn thay vì ở phía tả ngạn như mọi khi để đánh lừa con thuyền. Kẻ địch ở vòng thứ hai cũng vô cùng hung hãn táo bạo “dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông Đà”. Người lái đò chuyển từ thế phòng ngự sang chủ động tấn công dù kẻ địch mưu mô xảo quyệt hơn nhưng không phải vì thế mà ông đò nao núng. Ông đò đã cảnh giác và dày dặn kinh nghiệm nên “đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”. Đó là sự linh hoạt trong chiến thuật của ông lái đò. Hàng loạt các động từ được nhà văn huy động như một đội quân ngôn ngữ hùng hậu đang gieo hò theo từng nhịp tiến công của ông đò "nắm, ghì, phóng, lái, đè chặt", các động tác của ông rất chắc khỏe nhanh mạnh và đạt độ chính xác cao. Đoạn văn khiến người đọc liên tưởng ông đò như một viên tướng dũng mãnh cưỡi lên con tuấn mã mà tả đột hữu xung ngoài mặt trận. Vậy là một vòng trùng vi với bao cửa tử mà chỉ vài ngón đòn ông đò đánh sập vòng vây lũ đá, đồng thời làm cho bọn đá thua cuộc. Qua đó người đọc thấy ông lái đò hiện lên với vẻ đẹp trí dũng song toàn.

Ở trùng vi thạch trận thứ ba, sông Đà càng trở nên điên cuồng, dữ dội. Trận địa trên sông bày ra ít cửa hơn, bên trái bên phải đều là luồng chết, cái luồng sống thì nằm ngay ở giữa bọn đá hậu vệ, sông Đà quả thật lắm mưu mô. Đây là tuyến phòng ngự kiên cố cuối cùng cũng là phòng tuyến nguy hiểm, dữ dội quyết ngăn cản người lái đò đi qua. Có thể nói trận chiến này sông Đà đẩy người lái đò đối mặt với tình thế tiến thoái lưỡng nam nhưng vào lúc “cái khó ló cái khôn”, ông lái đò biến chiếc thuyền sáu bơi chèo thành một mũi tên, còn ông giống như một cung thủ phóng thẳng thuyền chọc thủng cửa giữa. “Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước…”. Những hành động liên tiếp đã thể hiện thái độ bình tĩnh, chủ động, mưu trí cũng như sức mạnh thể lực của ông đò. Trong cuộc chiến đấu, ông còn bộc lộ sự thăng hoa, điêu luyện trong nghề nghiệp, với hình ảnh so sánh “thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước” đã tô đậm tốc độ nhanh, thuyền như bay trên mặt sóng. Sự xuất hiện của các động từ “xuyên”, “lái”, “lụa” gợi ra đường đi lắt léo của thuyền vừa miêu tả sự khéo léo thuần thục của ông đò làm các cánh cửa đã lần lượt bị kéo sập. Nghệ thuật lái thuyền của ông đò đến đây khiến người đọc hoàn toàn khâm phục. Đúng là ông lái đò đạt đến mức nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình. Phẩm chất nghệ sĩ trong con người lao động bình thường chính là điều mà Nguyễn Tuân khao khát kiếm tìm sau cách mạng tháng 8.

Phân tích Người lái đò sông Đà ta thấy sự tài hoa của Nguyễn Tuân thể hiện rõ nhất khi nhà văn miêu tả cuộc vượt thác như một trận đánh. Trong đó, sông Đà như một con người có tính cách nham hiểm xảo quyệt đã bày trạch trận và giao nhiệm vụ cho mỗi hòn đá phải tiêu diệt tất cả thuyền trưởng và thủy thủ ngay ở chân con thác. Dòng sông càng hung bạo dữ dội bao nhiêu càng làm nổi bật trình độ điêu luyện và lòng dũng cảm của ông lái đò. Nói về tình yêu và sự gắn bó sâu nặng với quê hương của ông lái đò trong cuộc vượt thác. Ông lái đò rất dũng cảm nhưng trong đời thường cũng rất giàu tình cảm. Trong hành trình vượt thác trên sông Đà, ông buộc bu gà vào đuôi thuyền để có tiếng gà gáy để được nhớ ruộng, nhớ người bản làng, nỗi nhớ đời thường mà thi vị ấy đã hé mở tâm hồn giàu tình cảm gắn bó sâu nặng với quê hương của ông.

Nguyễn Tuân đích thị là một nghệ sĩ tài hoa là bậc thầy trong việc ngợi ca những người lao động trong gian lao, nguy hiểm nhưng đầy vinh quang. Điển hình là hình tượng người lái đò trong tùy bút Người lái đò sông Đà với nhiều nét đẹp với phẩm chất nghệ sĩ trong nghề nghiệp và cả trong cuộc sống đời thường. Bằng việc sử dụng ngôn ngữ rất điêu luyện phong phú, câu văn đa dạng nhiều tầng nghĩa, hình ảnh mới lạ độc đáo, các phép tu từ được sử dụng sáng tạo bất ngờ, kiến thức được huy động ở nhiều lĩnh vực võ thuật, quân sự, thể thao. Qua đó nhà văn ca ngợi con người lao động Tây Bắc với nhiều phẩm chất cao quý đó là “chất vàng mười đã qua thử lửa”.

Tùy bút Người lái đò sông Đà đã khắc họa thành công vẻ đẹp của ông lái đò, qua đó góp phần thể hiện phong cách tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân cũng như tình yêu mến của nhà văn dành cho những con người lao động trong công cuộc chinh phục tự nhiên xây dựng đất nước. Hình tượng người lái đò sông Đà là một thành công xuất sắc của Nguyễn Tuân. Qua đó, tác giả đã thể hiện niềm tự hào về con người lao động Việt Nam và góp phần làm phong phú thêm cho nền văn học nước nhà.

Hình tượng người lái đò sông Đà bài số 4:

Nói đến Nguyễn Tuân là người ta nghĩ ngay đến một nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp. Cái đẹp trong các tác phẩm của ông phải là cái đẹp đạt đến độ hoàn thiện, hoàn mỹ. Sự nghiệp cầm bút của Nguyễn Tuân đạt được rất nhiều thành tựu kể cả trước và sau cách mạng. “Người lái đò sông Đà” trích từ tập tuỳ bút “Sông Đà” là một trong những sáng tác tiêu biểu của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám. Tác phẩm là kết quả của chuyến đi Tây Bắc của Nguyễn Tuân để kiếm tìm “chất vàng thử lửa của thiên nhiên Tây Bắc” và “chất vàng mười đã qua thử lửa” của con người nơi đây.

Ngay ở những câu văn đầu tiên, Nguyễn Tuân đã thể hiện rất rõ sự hung bạo của sông Đà. Dòng sông không trôi giữa đôi bờ “cát trắng phẳng lì” thơ mộng mà bờ sông “dựng vách thành”, cao vút, dựng đứng. Quãng sông thì hẹp đến nỗi “con nai, con hổ có lần vọt từ bờ sông này sang bờ kia”. “Mặt sông chỗ ấy chỉ đúng ngọ mới có mặt trời”, “đang mùa hè đi đò qua quãng ấy cũng cảm thấy lạnh”, cái lạnh của từng lớp da thịt, của sự sợ hãi trước thiên nhiên nơi đây. Khi đi qua quãng này, người ta cảm tưởng như mình “đang đứng ở một cái ngõ nào mà ngóng vọng lên cái cửa sổ trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Bằng một loạt hình ảnh miêu tả, Nguyễn Tuân đã đẩy người đọc từ phố xá đô thị về khung cảnh hoang sơ đến đáng sợ của thiên nhiên sông nước. Người ta thấy hiện ra trước mắt là một khúc sông Đà vừa sâu, vừa hẹp, vừa tối, vừa lạnh đủ để bất kỳ ai đến đây cũng phải rùng mình sợ hãi.

Đi qua bảy mươi ba cái ghềnh, có thể kể tên đến năm mươi cái ghềnh nhưng sợ hãi nhất là ghềnh Hát Loóng “dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm…”. Kết cấu trùng điệp, nhịp văn nhanh mạnh khiến người đọc không khỏi hãi hùng trước những âm thanh của sóng, gió, nước, đá. Các từ láy “cuồn cuộn”, “gùn ghè” vừa gợi âm thanh ghê rợn vừa gợi những hình ảnh khủng khiếp của nơi đây. Sông Đà được miêu tả như những kẻ sẵn sàng “đòi nợ xuýt” những người lái đò trên sông. Nó có thể gây ra rất nhiều nguy hiểm mà con người không thể nào lường trước được.

Nhiêu đó vẫn chưa kể hết những sự đáng sợ của sông Đà. Nguyễn Tuân đã sử dụng một loạt thủ pháp nghệ thuật khác nhau để lột tả hết cái vẻ hung bạo của hút nước sông Đà. Nhìn từ xa những cái xoáy nước trên sông giống như cái lúm đồng tiền trên má cô gái nhưng nó lại không hề duyên dáng, dễ thương, thay vào đó nó có thể lôi tuột một cái thuyền xuống đáy sông và đánh cho tan xác. Không chỉ vậy, Nguyễn Tuân còn so sánh những cái hút nước với những cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Hình ảnh so sánh này vừa gợi độ sâu hun hút của những cái xoáy nước vừa khiến người đọc khiếp sợ khi hình dung ra nó.

Càng sợ hãi hơn khi đọc những câu văn miêu tả âm thanh của những cái hút nước. “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”. Nước không chỉ dồn về nhiều và nhanh mà còn ặc ặc lên như mới rót dầu sôi vào. Từ láy “ặc ặc” gợi cảm giác sông Đà giống như một loài thủy quái bị bóp chặt yết hầu đang quằn quại giãy giụa. Sự hung bạo này khiến nhà văn liên tưởng đến hình ảnh một anh quay phim táo tợn nào đó mang máy quay ngồi trên thuyền thúng xuống tận cái hút sông Đà rồi từ đó lia ngược ống kính để ghi lại cảnh tượng ghê sợ: một cái giếng như xanh toàn bằng thuỷ tinh như sắp vỡ tan đổ ụp xuống cả người, cả máy quay phim. Con thuyền xoáy tít, những thước phim màu cũng quay tít. Ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Tuân khiến người đọc cảm giác như đang được xem một bộ phim hành động hấp dẫn nhưng cũng vô cùng đáng sợ.

Sự hung bạo của sông Đà còn được miêu tả qua những cái thác nước. Nhà văn hướng người đọc chú ý vào âm thanh của chúng và miêu tả lần lượt theo trình tự từ xa đến gần. “Còn xa lắm mới đến cái thác” nhưng tâm địa và diện mạo thứ “kẻ thù số một của con người” đã dần hiện ra. Chúng vẳng tới bằng âm thanh “réo gần mãi lại réo to mãi lên”. Tiếng thác nghe như là “oán trách”, nghe như là “van xin”, “khiêu khích”, giọng gằn mà “chế nhạo”. Cách kết hợp khéo léo giữa so sánh và nhân hoá này đã khiến sông Đà hiện lên với một tâm địa phức tạp. “Thế rồi nó rống lên”, âm thanh được phóng to hết cỡ giống như đang ở đỉnh điểm của một cơn phấn khích man dại. Nguyễn Tuân còn so sánh tiếng thác sông Đà giống như tiếng của một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn để phá tuông sự bủa vây của rừng lửa.

Và để tăng thêm sự hung dữ của sông Đà, Nguyễn Tuân còn hướng ngòi bút của mình vào miêu tả đá sông. Hình ảnh ẩn dụ “cả một chân trời đá” gợi cảm giác đá sông Đà nhiều vô kể. Những tảng đá sông Đà đã được Nguyễn Tuân thổi hồn vào đó với từng tảng đá mặt hòn nào trông cũng “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó”. Rồi chúng còn vây thành một thạch trận giống như một trận đồ bát quái trên sông Đà.

Qua ngòi bút của Nguyễn Tuân, con sông hung bạo này chẳng khác gì kẻ thù số một của con người. Thế nhưng ngay sau đó, khi sự hung bạo trôi qua, nó lại hiện lên với cả vẻ trữ tình, thơ mộng đến khó tin. Từ trên máy bay nhìn xuống “con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi mèo đốt nương xuân”. Với việc so sánh sông Đà “như một áng tóc trữ tình”, nhà văn đã khiến dòng sông hiện lên với cái vẻ kiều diễm của một người phụ nữ. Thông thường người ta sẽ thấy chữ “áng” hay được dùng để chỉ những tác phẩm nghệ thuật, vậy mà ở đây Nguyễn Tuân đã dùng để chỉ sông Đà. Có thể thấy trong suy nghĩ của tác giả, sông Đà giống như một tác phẩm nghệ thuật mà tạo hóa đã tạo ra.

Sông Đà không chỉ đẹp ở dáng hình mà còn đẹp ở màu nước. Tác giả đã quan sát dòng sông ở những không gian và thời gian khác nhau. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, vừa trong xanh vừa óng ánh. Thu sang nước sông chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa. Bằng việc miêu tả chi tiết, cụ thể cùng những so sánh độc đáo sông Đà hiện lên vừa đẹp, vừa đa dạng và qua đây ta cũng thấy được sự hiểu biết sâu rộng cũng như khả năng quan sát tinh tế của nhà văn. Bờ bãi sông Đà thì mênh mang, trải dài “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm sông Đà”. Câu văn ngắt thành nhiều đoạn đã tạo nên nhịp văn hối hả, mau lẹ. Rồi khi nhìn từ trên thuyền xuống, sông Đà mang dáng vẻ “lặng tờ”, tĩnh lặng tuyệt đối. Sự tĩnh lặng của dòng sông ẩn chứa trong đó là một sức sống dạt dào.

Nhà văn còn dùng những so sánh vô cùng gợi cảm khi miêu tả dòng sông “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”, “bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Nhà văn đã sử dụng những khái niệm trừu tượng để miêu tả vẻ đẹp cụ thể của sông Đà khiến sông Đà hiện ra không chỉ là dòng không của không gian mà còn là dòng sông của thời gian. Câu văn “thuyền tôi trôi trên sông Đà” đã gợi ra cái vẻ tĩnh lặng của sông Đà và sự thanh thản trong tâm hồn con người. Giữa cái khung cảnh thơ mộng ấy nhà văn nghe thấy một tiếng còi sương - tiếng còi xúp lê của một chuyến tàu đường sắt Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu, đó là âm thanh của một cuộc sống hiện đại, đủ đầy. Có thể thấy những câu văn miêu tả vẻ trữ tình, thơ mộng của sông Đà đã tạo nên một đoạn văn giàu chất thơ. Chất thơ ở cảnh sắc sông Đà, chất thơ của tâm hồn con người.

Bằng vốn hiểu biết sâu rộng cùng tài năng miêu tả sắc sảo của mình, Nguyễn Tuân đã đưa người đọc đi hết từ sợ hãi này đến bất ngờ khác khi miêu tả hai vẻ đẹp hung bạo và trữ tình của sông Đà. Đọc “Người lái đò sông Đà” người ta càng hiểu hơn lý do vì sao cái đẹp trong văn của Nguyễn Tuân được gọi là cái đẹp đạt đến độ hoàn thiện, hoàn mỹ. Tác phẩm một lần nữa khẳng định tài năng bậc thầy của Nguyễn Tuân trong việc sử dụng ngôn từ vừa giúp người đọc thấy được tình yêu quê hương, đất nước mà ông gửi gắm trong các tác phẩm của mình.

Cành lá

Những câu hỏi thường gặp về Người lái đò sông Đà

1. Cảm hứng trong tác phẩm Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân được khơi gợi từ:

A. Vẻ đẹp của sông Đà và sự tài hoa của người lái đò sông Đà.

B. Cuộc sống mới của người dân Tây Bắc.

C. Lịch sử của con sông Đà

D. Vẻ đẹp của núi rừng Tây Bắc gắn liền với sông Đà.

2. Cảm hứng sáng tạo của tập tùy bút “Sông Đà” được khơi gợi chủ yếu từ hiện thực nào?

A. Hiện thực cuộc kháng chiến hào hùng ở Tây Bắc.

B. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở Tây Bắc.

C. Hình ảnh con Sông Đà.

D. Hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc.

3. Biện pháp tu từ nào sau đây được Nguyễn Tuân sử dụng nhiều nhất khi khắc họa hình tượng con sông Đà?

A. Cường điệu.

B. Nhân hóa.

C. Ẩn dụ.

D. So sánh.

4. Thông tin nào về tập “Sông Đà” là chưa chính xác?

A. Tác phẩm được xuất bản vào năm 1960 và là kết quả của nhiều dịp Nguyễn Tuân đến với Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp và đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958.

B. Tác phẩm chủ yếu hướng tới ngợi ca nhân dân Tây Bắc trong cuộc kháng chiến chống Pháp.

C. Tác phẩm vừa mang yếu tố truyện, vừa thoải mái bàn bạc, nghị luận, triết luận.

D. Tác phẩm gồm 15 bài tùy bút và bài thơ ở dạng phác thảo.

5. Trong thiên tùy bút, tác giả đã dùng biện pháp nghệ thuật nào để khắc họa được một cách ấn tượng hình ảnh con sông Đà hung bạo? (Câu hỏi 2 trang 192 SGK Ngữ văn lớp 12 tập 1)

6. Chọn phân tích một số câu văn thể hiện rõ nhất nét tài hoa về bút pháp trong cách sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân. (Câu hỏi bài 5 trang 193 SGK Ngữ văn lớp 12 tập 1)

7. Dòng nào dưới đây chưa nói đúng đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật của tác phẩm Sông Đà?

A. Ngôn ngữ đôi chỗ kiểu cách cầu kì quá mức.

B. Tinh tế, hiện đại, vừa trí tuệ lại vừa giàu cảm xúc thẩm mĩ.

C. Vừa đậm màu sắc cổ điển, vừa rất giàu chất hội họa

D. Vừa đậm chất thơ, vừa giàu chất tạo hình.

   Trên đây là những nội dung hướng dẫn, dàn ý và bài văn mẫu phân tích người lái đò sông Đà đặc sắc nhất. Chúc các bạn học tốt và luôn đạt được thành tích cao.

Bạn còn vấn đề gì băn khoăn?
Vui lòng cung cấp thêm thông tin để chúng tôi giúp bạn
Hủy

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM