"Vợ nhặt" của Kim Lân không chỉ là một câu chuyện cảm động về tình người trong nạn đói mà còn là một tác phẩm nghệ thuật đặc sắc với cách xây dựng tình huống độc đáo, đầy bất ngờ. Tình huống "nhặt vợ" trong bối cảnh nạn đói kinh hoàng đã tạo nên sức hút mãnh liệt cho câu chuyện, đồng thời thể hiện rõ nét tư tưởng nhân đạo của nhà văn. Hãy cùng phân tích nghệ thuật xây dựng tình huống trong truyện Vợ nhặt để hiểu rõ hơn về giá trị của tác phẩm.
Nghệ thuật xây dựng tình huống trong truyện ngắn Vợ nhặt
* Đặc biệt chú ý khai thác các quan hệ trong bức tranh đời sống
- Tương quan đối lập giữa bối cảnh đói khát, đầy ám ảnh chết chóc với khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của con người:
+ Bối cảnh của nạn đói được miêu tả khá tỉ mỉ: không gian năm đói mang cảm giác gai lạnh, ghê rợn, cái chết ngự trị khắp mọi ngóc ngách, có người đã chết vì đói, có người còn sống song cũng vật vờ như những bóng ma, sự sống bị cái chết dồn đuổi trở nên yếu thế. Khi đó, sự kiện anh Tràng đưa vợ về làm cho xóm ngụ cư xôn xao, tạo ra “một cái gì lạ lùng và tươi mát đang thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy của họ”.
+ Sự đối lập không chỉ ở bên ngoài mà còn tồn tại ngay trong lòng nhân vật. Ngòi bút miêu tả tâm lí của Kim Lân đã lách sâu vào thế giới nội tâm nhân vật để khám phá và miêu tả các trạng thái tâm lí đối lập nhau ở mỗi con người: nỗi lo lắng “thóc gạo này đến cái thân mình còn chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng” và cái tặc lưỡi đầy liều lĩnh của một người đàn ông chưa bao giờ có cái hạnh phúc được sống trong một gia đình đầy đủ “chậc, kệ”, nỗi buồn tủi xót xa vì thân phận nghèo hèn, cảnh sống đói khổ không hạnh phúc, không biết đến tương lai và niềm vui con trai có vợ...
+ Cái đói, cái chết với những ám ảnh khủng khiếp mà nó gây ra không thắng nổi khát khao hạnh phúc ở những con người biết sống có tình người. Với những biểu hiện tâm hồn, tính cách như thế của nhân vật, sự chiến thắng của sự sống với cái chết trở nên hợp lí vì gợi nhiều xúc động.
- Tương quan tương đồng trong hướng vận động của tâm lí nhân vật:
+ Tâm trạng của dân làng trước khi Tràng đưa Thị về: đám trẻ ủ rũ, anh Tràng “lảm nhảm than thở”, mệt mỏi nặng nề.
+ Tâm trạng của dân làng khi Tràng đưa Thị về: cả xóm ngụ cư như bừng lên một nguồn sinh khí mới, dân xóm ngụ cư bàn tán xôn xao, trẻ con xúm lại trêu Tràng, Tràng thì phớn phở khác thường, người đàn bà trở nên hiền hậu đúng mực, bà cụ Tứ sau những lo âu, buồn tủi đã trở nên vui vẻ và nhanh nhẹn hẳn lên.
=> Khi xây dựng tình huống truyện, nhà văn ít khai thác các quan hệ đời sống bên ngoài mà chủ yếu đi vào đặc tả những biến chuyển tâm lí. Vì vậy, truyện tuy có gợi ra cảnh sống bi thảm của con người năm đói song ấn tượng sâu đậm mà nó tạo ra lại là ý nghĩa thiêng liêng của sự sống, của tình người.
* Tổ chức điểm nhìn trần thuật
- Nhằm tránh sự đơn điệu, tẻ nhạt và tạo chiều sâu tâm lí cho tình huống truyện, Kim Lân đã rất khéo léo khi tổ chức điểm nhìn trần thuật: người trần thuật khi thì đứng ngoài để quan sát, kể và tả một cách khách quan, có lúc hóa thân vào nhân vật để hồi tưởng, trải nghiệm.
* Ngôn ngữ truyện
- Ngôn ngữ người kể chuyện: Khi thì tự nhiên, hóm hỉnh, hài hước, khi thì trang nghiêm, chân thực và nhìn chung là giản dị mà vẫn rất gợi cảm, có những đoạn văn chan chứa chất thơ.
- Ngôn ngữ nhân vật: Ngôn ngữ đối thoại ngắn gọn, giản dị, có lúc hơi thô mộc và phù hợp với tính cách nhân vật, phù hợp với mục đích lời nói của nhân vật, đó là thứ ngôn ngữ làm quen, làm thân, thăm dò, vừa xa lạ, vừa gần gũi.
- Phát hiện chi tiết: Tác giả sử dụng nhiều chi tiết rất gợi cảm để tạo không khí cho truyện (tiếng hờ khóc, thấy người chết, mùi xác chết). Đặc biệt có những chi tiết có sức phát hiện và khả năng biểu hiện rất lớn (Tràng mua 2 hào dầu và khoe với vợ, Tràng đánh diêm đốt đèn, bữa ăn ngày đói...) Những chi tiết tạo ra tính cụ thể sinh động của tình huống, làm bật phẩm chất người trong con người.
* Mạch truyện
- Xoay quanh và bám rất sát sự kiện nhặt vợ của Tràng song không đơn điệu một chiều, nhà văn cố ý đảo trình tự kể để vừa dẫn dắt, vừa giải thích, vừa nhận xét để khai thác mọi khía cạnh của sự kiện.
Dàn ý phân tích nghệ thuật xây dựng tình huống truyện Vợ nhặt
1. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về tác giả Kim Lân và tác phẩm Vợ nhặt.
- Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề: Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện trong Vợ Nhặt.
2. Thân bài
* Khái niệm tình huống truyện
- Tình huống truyện là hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi một sự kiện đặc biệt mà tại đó cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất, bộc lộ rõ nét nhất ý đồ tư tưởng của tác giả.
- Tình huống truyện giữ vai trò là hạt nhân của cấu trúc thể loại.
* Mục đích của Kim Lân khi viết Vợ nhặt
- Viết về nạn đói song ý đồ của nhà văn không phải là phản ánh thảm cảnh đói khát cùng tất cả vỏ cơ cực nhếch nhác của con người do nạn đói gây ra. Với Kim Lân “Đói, nó vừa cay đắng, vừa đớn đau, đồng thời một mặt nào đó nó lại lóe lên những tia sáng về đạo đức, danh dự (Nhà văn nói về tác phẩm). Truyện Vợ nhặt khai thác các khía cạnh sau cùng của bi kịch ấy.
* Tình huống nhặt vợ
- Bối cảnh xây dựng tình huống truyện:
+ Bối cảnh nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà kết quả là hơn hai triệu người chết.
+ Một không khí ảm đạm, thê lương, những người sống luôn bị cái chết đe dọa.
- Tóm tắt tình huống nhặt vợ: Vốn là một anh chàng dân ngụ cư, xấu trai, ế ẩm lại nghèo, thế mà Tràng đã “nhặt” được vợ một cách ngẫu nhiên và quá dễ dàng ngay trong những ngày đói chỉ bằng mấy câu hát, mấy lời bông đùa “tầm phơ tầm phào”, mấy bát bánh đúc…
* Những đặc sắc nghệ thuật của Kim Lân khi triển khai tình huống
- Tác giả đặc biệt chú ý khai thác các quan hệ trong bức tranh đời sống
- Tương quan đối lập giữa bối cảnh đói khát, đầy ám ảnh chết chóc với khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của con người:
- Sự đối lập không chỉ ở bên ngoài mà còn tồn tại ngay trong lòng nhân vật. Ngòi bút miêu tả tâm lí của Kim Lân đã lách sâu vào thế giới nội tâm nhân vật để khám phá và miêu tả các trạng thái tâm lí đối lập nhau ở mỗi con
- Với những biểu hiện tâm hồn, tính cách như thế của nhân vật, sự chiến thắng của sự sống với cái chết trở nên hợp lí vì gợi nhiều xúc động.
- Tương quan tương đồng trong hướng vận động của tâm lí nhân vật: Tâm trạng của dân làng trước và sau khi Tràng đưa vợ về
+ Trước khi Tràng đưa vợ về: cả xóm ngụ cư cũng như mỗi cá nhân đều như chìm nghỉm trong nạn đói: đám trẻ ủ rũ, anh Tràng “lảm nhảm than thở”, mệt mỏi nặng nề.
+ Khi Tràng đưa vợ về: cái đói dường như đã bị đẩy lùi để nhường chỗ cho sự sống, cho niềm vui: dân xóm ngụ cư bàn tán xôn xao, trẻ con xúm lại trêu Tràng...
=> Kim Lân khi xây dựng tình huống truyện thì ít khai thác các quan hệ đời sống bên ngoài mà chủ yếu đi vào đặc tả những biến chuyển tâm lí.
- Tổ chức điểm nhìn trần thuật: Nhằm tránh sự đơn điệu, tẻ nhạt và cũng là để tạo chiều sâu tâm lí cho tình huống truyện, Kim Lân đã rất khéo léo khi tổ chức điểm nhìn trần thuật: người trần thuật khi thì đứng ngoài để quan sát, kể và tả một cách khách quan, có lúc hóa thân vào nhân vật để hồi tưởng, trải nghiệm.
- Ngôn ngữ truyện:
+ Ngôn ngữ người kể chuyện: Khi thì tự nhiên, hóm hỉnh, hài hước, khi thì trang nghiêm, chân thực và nhìn chung là giản dị mà vẫn rất gợi cảm, có những đoạn văn chan chứa chất thơ.
+ Ngôn ngữ nhân vật: Đáng lưu ý nhất là ngôn ngữ đối thoại: ngắn gọn, giản dị, có lúc hơi thô mộc và phù hợp với tính cách nhân vật, phù hợp với mục đích lời nói của nhân vật, đó là thứ ngôn ngữ làm quen, làm thân, thăm dò, vừa xa lạ, vừa gần gũi.
- Tác giả sử dụng nhiều chi tiết rất gợi cảm để tạo không khí cho truyện (tiếng hờ khóc, thấy người chết, mùi xác chết,....), tạo ra tính cụ thể sinh động của tình huống, làm bật phẩm chất người trong con người.
- Mạch truyện:
+ Xoay quanh và bám rất sát sự kiện nhặt vợ của Tràng song không đơn điệu một chiều, nhà văn cố ý đảo trình tự kể để vừa dẫn dắt, vừa giải thích, vừa nhận xét để khai thác mọi khía cạnh của sự kiện.
3. Kết bài
- Khẳng định tài năng nhà văn qua việc xây dựng tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn.
- Khẳng định giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm.
Bài văn mẫu phân tích nghệ thuật xây dựng tình huống trong truyện Vợ nhặt
Mẫu 1:
Để một tác phẩm văn học trở nên thành công thì cần có rất nhiều yếu tố tác động vào như nội dung, nghệ thuật, cùng các giá trị nhân văn mà nó mang lại. Một trong những yếu tố quan trọng đó chính là cách xây dựng tình huống truyện.Trong văn học, tình huống truyện là một yếu tố quan trọng góp phần thể hiện chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Một truyện ngắn muốn hay, cuốn hút người đọc thì phải có được một cốt truyện hấp dẫn. Một trong số ít nhà văn được mệnh danh là bậc thầy trong xây dựng cốt truyện đó chính là Kim Lân. Các tác phẩm của ông đều có những nét riêng biệt, đặc sắc, nổi bật trong số đó chính là tác phẩm “Vợ nhặt”. Truyện ngắn đã thành công trong việc xây dựng một tình huống truyện độc đáo, đầy bất ngờ, vừa phản ánh chân thực hiện thực xã hội, vừa làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn của con người trong hoàn cảnh khốn cùng.
Truyện ngắn nói về nhân vật Tràng, một người dân ngụ cư nghèo khổ sống cùng mẹ. Nhà văn Kim Lân đã miêu tả Tràng như một sản phẩm vội vàng của tạo hóa “hai con mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng chiều, hai quai hàm bạnh ra, cái mặt bặm lại lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú vừa dữ tợn. Cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng trước, cái lưng dài rộng như là lưng gấu lại thêm tật vừa đi vừa ngẩng mặt lên trời cười hềnh hệch". Quả thực Tràng là một thanh niên rất xấu xí, chả ai thèm ngó ngàng. Chẳng những vậy, cái nghèo, cái đói luôn đeo bám, quẩn quanh hai mẹ con Tràng. Kim Lân đã dùng những từ ngữ chân thật để miêu tả cuộc sống và ngôi nhà mà Tràng đang ở “những bụi cỏ dại lổn nhổn”, “đống quần áo rách vắt khươm mươi niên trong một góc nhà”, “hai cái ang nước để khô cong trơ trọi dưới gốc cây ổi”…. Cuộc sống túng thiếu của hai mẹ con hiện lên thật giản dị, tội nghiệp, khiến người khác không khỏi cảm thấy xót thương cho hai số phận. Nhưng điều làm cho Tràng cảm thấy tủi nhục nhất đó chính là mang trong mình cái danh dân ngụ cư, bị dân làng khinh miệt, coi thường.
Tuy nghèo đói nhưng chàng vẫn có một công việc để làm, để trông mong, đó chính là phu xe, hàng ngày bốc vác, chở gạo ra các chợ. Công việc thì vất vả, đói khát nhưng quả thật anh ta lúc nào cũng có thể vui vẻ, lạc quan. Giữa trời trưa nắng gắt, phải kéo cả một xe gạo đầy nặng trĩu, nhưng chàng ta vẫn có sức cất lên những câu hò:
“Muốn ăn cơm trắng mấy giò này
Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì”
Những câu hò này không hẳn là có ý trêu ghẹo những cô gái ngồi bên đường, mà chủ yếu để giúp chàng ta quên đi những mệt mỏi, đói khát mà mình đang phải chịu. Ấy vậy mà chỉ bằng vài ba lời hát vu vơ mà khiến Tràng được một người con gái để ý và đi theo đẩy giúp. Tràng là người hiểu rõ hơn ai hết những gì mà mình hát ở trên không phải là sự thật, làm gì mà có gạo trắng mà ăn chứ nói gì đến giò chả. Để rồi đến khi gặp người con gái ấy lần thứ hai, Tràng đã rất đỗi ngạc nhiên trước sự thay đổi ngoại hình của Thị “Thị hôm nay rách quá, trên khuôn mặt lưỡi cày chỉ trở lại hai con mắt”.
Quả thực Thị đã gầy đi rất nhiều, có lẽ vì đói, vì khát mà cơ thể con người Thị đã bị tàn phá nhanh đến như vậy. Thị chạy đến sưng sỉa trước mặt Tràng “Điêu! người thế mà điêu”, mới đầu hắn ta chẳng hiểu gì nhưng rồi một lúc cũng ngộ ra rồi mời Thị đi ăn “thích ăn gì thì ăn”. Thị ta chẳng ngại ngùng gì mà cắm đầu ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc, quả thực lúc này Thị ta nhìn rất trơ trẽn. Người ngoài nhìn vào có người sẽ khinh bỉ, cho rằng thị ta đang vứt hết cả lòng tự trọng đi để ăn, nhưng cũng sẽ có những người xót thương, đồng cảm cho một con người đang phải chịu cơn đói hành hạ. Khi ấy, con người ta chẳng còn bận tâm đến danh dự, hay nhân phẩm gì nữa, ăn no mới là điều quan trọng trước hết. Đợi đến khi Thị ăn xong, Tràng có nói câu nửa vui nửa đùa rằng “về với tớ thì khuôn hàng lên xe rồi cùng về”. Tưởng Thị sẽ cười chê mình, nào ngờ Thị về thật, về làm dâu nhà Tràng. Một đám cưới diễn ra.
Việc một con trai lớn lên, xây nhà, cưới vợ là việc quá đỗi bình thường, nhưng nhân vật Tràng lại là một thanh niên xấu xí, nghèo đói, gia cảnh khó khăn, đặc biệt là dân ngụ cư nữa nên việc Tràng có được vợ làm rất nhiều người ngạc nhiên. Qua đây, ta đã thấy được nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo của Kim Lân: vợ đáng lẽ ra là người ta yêu, qua tìm hiểu, đính ước mà đến với nhau, nhưng ở đây, Tràng ta lại “nhặt” được vợ theo đúng nghĩa đen và của hồi môn chắc có lẽ chỉ là vài bát bánh đúc mà thị ta vừa ăn lúc trước.
Việc Tràng có vợ khiến rất nhiều người ngạc nhiên, cụ Tứ – mẹ Tràng cùng tất cả những người thôn ngụ cư, người trong xóm lạ lắm: Họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán. Đến khi hiểu ra là Tràng có vợ theo về, thì họ lại càng ngạc nhiên hơn nữa. Người thì “cười lên rung rúc", người lại lo dùm cho anh ta "Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ dài về". Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?”. Người đời cười chê, chế nhạo thế nhưng chẳng làm hai vợ chồng Tràng cảm thấy tủi nhục, xấu hổ. Cho đến khi dẫn Thị về nhà, cả cụ Tứ lẫn Tràng đều không tin nhà mình có con dâu.
Cụ Tứ vừa vui vừa buồn, vừa cảm thấy thương xót cho con trai mình. Bà vui vì con trai mình đến tuổi trưởng thành đã cưới được vợ, bà mừng cho hai đứa chúng nó, nhưng bà cũng buồn, buồn vì gia đình nhà mình quá nghèo. Đám cưới gì mà chẳng có cờ có hoa, không một mâm cỗ, không kèn trống, không người đưa đón, chỉ đơn giản là đưa dẫn nhau về ở chung, cùng nhau vun vén, xây dựng gia đình. Bước vào căn nhà lụp xụp mà hai mẹ con Tràng đang ở mà Thị chỉ biết thở dài, bắt tay vào công việc dọn dẹp. Đến bữa ăn về nhà chồng cũng chỉ là nồi cháo loãng với chút muối trắng, cuộc sống của ba con người quả thực rất nghèo khổ.
Qua câu chuyện, nhà văn đã dành những tình cảm tốt đẹp nhất đối với con người nghèo khổ bằng cả tấm lòng nhân hậu của mình. Ông xót thương cho dân tộc trước thảm họa đói chết. Ông cũng ái ngại cho người con gái bị nạn đói cướp đi gần hết (gia đình, nhan sắc, tính cách, tên tuổi…). Không những vậy, nhà văn còn rất tinh tế khi phát hiện ra khát vọng hạnh phúc và niềm vui khi nhặt vợ của Tràng; cái duyên thầm của thị qua cái liếc mắt với Tràng… Có thể nói, nhà văn rất trân trọng và tự hào về vẻ đẹp nhân tính của con người lao động nghèo trước thảm họa đau thương, chết chóc.
Đồng thời nhà văn còn tập trung ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của nhân dân lao động qua hình ảnh của bà cụ Tứ: một người mẹ giàu tình thương con, giàu lòng nhân hậu và niềm tin vào cuộc sống và đây cũng chính là niềm tin của nhà văn vào phẩm chất tốt đẹp của con người. Thông qua tình huống truyện, nhà văn lên án và tố cáo tội ác của Nhật - Pháp đã đẩy nhân dân ta vào thảm họa đói nghèo, chết chóc. Chính chúng đã làm cho giá trị con người trở thành rẻ rúng như rơm như rác: vợ mà nhặt được.
Đúng là một tình huống truyện rất lạ mà Kim Lân đã dựng nên. Nhà văn đã đặt nhân vật của mình vào một tình huống éo le để làm nổi bật lên những giá trị nhân văn sâu sắc. Ông không chỉ muốn nói lên nét đẹp trong tính cách con người Việt Nam là dù có ở trong hoàn cảnh khó khăn như thế nào, lúc nào cũng có thể đối mặt với cái chết nhưng họ vẫn yêu thương, quan tâm nhau mà ông còn muốn lên án chế độ thực dân độc ác đã khiến nhân dân ta trở nên nghèo đói, lầm than.
Mẫu 2:
Mỗi tác phẩm văn học khi khép lại đều để lại trong lòng người đọc những dư âm khác nhau. Dư âm ấy có thể là một nhân vật, 1 chi tiết hay một sự việc nào đó. Song đến với truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân, điều ấn tượng nhất trong lòng người đọc lại là tình huống truyện độc đáo. Nghệ thuật tạo dựng tình huống truyện của Kim Lân đã góp phần không nhỏ làm lên sự thành công cho tác phẩm và tên tuổi nhà văn Kim Lân.
Tình huống truyện là gì? Tình huống truyện được hiểu là tình thế xảy ra truyện, là “cái khoảnh khắc” mà Nguyễn Minh Châu cho là “chứa đựng cả đời người”. Từ tình huống truyện, người đọc có thể thấy rõ hơn mối quan hệ giữa các nhân vật với nhau, giữa nhân vật với hoàn cảnh, qua đó, thể hiện tư tưởng của toàn bộ tác phẩm. Tình huống truyện “Vợ nhặt” là một tình huống vừa lạ, độc đáo lại vừa oái oăm, trớ trêu.
Trước tiên, người ta đánh giá đây là một tình huống vô cùng độc đáo. Anh cu Tràng vốn là người dân xóm ngụ cư ngờ nghệch xấu xí lại có thể lấy được vợ trong thời điểm nạn đói lịch sử diện ra. Tràng không phải lấy được vợ mà nói đúng hơn là “nhặt vợ”. Trong một lần kéo xe bò lên tỉnh, Tràng gặp được Thị, chỉ với bốn bát bánh đúc, Thị đồng ý theo không anh về làm vợ. Dưới ánh nhìn của những người dân xóm ngụ cư, người như Tràng lấy được vợ là chuyện không tưởng. Bởi lẽ thời điểm bây giờ, người ta luôn coi những người ngụ cư là tầng lớp dưới đáy cùng bị xã hội xem thường, khinh rẻ, lấy một người là dân xóm ngụ cư cũng sẽ bị người khác xem nhẹ. Hơn nữa, Tràng lại là một người xấu xí, nghèo khổ. Giữa thời buổi khó khăn ấy, nuôi được thân mình đã khó mà lại còn đèo bòng chuyện vợ con.
Nhưng, trong hoàn cảnh kì lạ ấy, nhặt vợ lại đáng thương hơn là coi rẻ, khinh thường. Vợ vốn là người đáng lẽ ra phải được cưới hỏi tử tế, đàng hoàng, đầy đủ sinh lễ và lễ nghi đón rước. Vậy mà người vợ mà Tràng cưới về hôm nay lại rẻ rúng, chỉ bằng một câu nói bông đùa và bốn bát bánh đúc. Tình huống nhặt vợ của anh và kỳ quặc, oái oăm vui mừng mà bi thảm. Dù thoạt nhìn có vẻ phi lý nhưng lại vô cùng hợp lý. Tràng lấy được vợ là do vào thời điểm đó, nạn đói hoành hành, nếu không phải vì miếng cơm có lẽ cũng không có người đàn bà nào chịu lấy một người như anh. Hành động nhặt vợ ấy dẫu chỉ là hành động nhất thời nhưng nó còn thể hiện được sự cưu mang, đùm bọc lẫn nhau của anh với Thị, thể hiện sự yêu thương giữa con người với con người trong nạn đói năm ấy.
Bên cạnh đó, tình huống truyện còn là một tình huống éo le đầy trớ trêu. Trong gia đình bình thường, việc con trai lớn lấy được vợ thường mang đến niềm vui cho người làm cha, làm mẹ. Nhưng éo le thay, chàng lấy được vợ lại khiến bà cụ Tứ vừa vui lại vừa buồn, người dân xóm ngụ cư cũng chẳng soi mói gì thiệt hơn. Ai cũng chỉ nghĩ dưới cái u ám đang bao trùm cả vùng này, “cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào”, lấy vợ có khiến cuộc sống khó khăn hơn không? Bà cụ Tứ thậm chí còn nghĩ đến những điều tệ hại hơn: “biết rằng chúng nó lấy nhau liệu có nuôi nổi nhau qua cơn đói khát này không?”. Bà vui mừng vì con trai lấy được vợ, nhưng lại lo cho tương lai vợ chồng con lúc bây giờ. Chính Tràng cũng từng cảm thấy chán khi nghĩ đến niềm hạnh phúc nhỏ nhoi vừa nhen nhóm: “thóc gạo này đến thân mình chẳng biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng?”.Còn với Thị - người vợ được nhặt về thì nỗi tủi hổ dường như lấn át cả niềm vui. Có lẽ ai cũng nhìn thấy, người đàn bà ấy chấp nhận lấy Tràng vì muốn sống sót qua cơn đói, níu lấy một chiếc phao cứu sinh, hi vọng được sống. Tất cả đều thể hiện sự éo le đến thương cảm. Nó lan tràn trong suy nghĩ của mỗi nhân vật và bao phủ cả đêm tân hôn. Đêm tân hôn của cặp vợ chồng mới cưới đầy gió lồng lộng từ bờ sông thổi vào, ngọn đèn dầu vàng đục và tiếng hờ khóc của người chết vang lên trong xóm ngụ cư.
Từ những giá trị đó chúng ta có thể cảm nhận được giá trị hiện thực vô cùng sâu sắc. Tình huống đó đã góp phần phơi bày số phận những người nông dân trước Cách mạng Tháng Tám. Họ phải gánh chịu bao bất công từ cuộc sống. Vì nghèo khổ nên Tràng không thể nào lấy được vợ, phải chờ đến cơ hội “trời cho” khi thân phận con người trở nên rẻ rúng. Cơ hội ấy không phải thời điểm nào tươi sáng đẹp đẽ hơn mà là nạn đói lịch sử, là thảm cảnh đau thương của bao người. Hoàn cảnh đó khiến người đàn bà tự nguyện vứt bỏ nhân phẩm, vứt bỏ giá trị của chính mình theo không một người đàn ông xa lạ về làm vợ.
Bên cạnh giá trị hiện thực, tình huống còn thể hiện cả giá trị nhân đạo gây cho người đọc nhiều suy ngẫm. Từ tình huống éo le, Kim Lân đã gợi lên trong trái tim mỗi người niềm xót xa khôn nguôi và sự cảm thông với số phận những người nông dân nghèo khổ. Đồng thời, nó cũng góp phần ngợi ca phẩm chất đáng quý của người nông dân ngay giữa hoàn cảnh đói khát. Trong cái đói bủa vậy mẹ con bà cụ Tứ vốn chẳng khá khẩm gì hơn cũng sẵn sàng dang tay cưu mang một người xa lạ. Lời mời “có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” của Tràng nghe có vẻ như bông đùa nhưng thực ra lại mang ý nghĩa như một cơ hội cứu vớt Thị từ bên bờ vực của cái đói, cái chết về đến hạnh phúc gia đình. Người đàn ông có vẻ ngờ nghệch đó vẫn biết quan tâm, lo lắng và trân trọng hạnh phúc của mình. Dù chỉ là người vợ được nhặt về, anh vẫn đưa Thị vào hàng ăn một bữa cơm thật no, sắm cho Thị một cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt, mua dầu thắp đèn cho sáng đêm tân hôn… Gặp mẹ, Tràng cũng giới thiệu với mẹ một cách đàng hoàng để Thị bớt tủi hổ.
Kim Lân qua việc khắc họa nhân vật trong xây dựng tình huống truyện còn thể hiện niềm tin vào tương lai cuộc đời họ. Đây chính là giá trị nhân đạo mới mẻ của ông. Điều này được thể hiện rõ nét trong đoạn kết khi nghe vợ kể chuyện nông dân Thái Nguyên, Bắc Giang phá kho thóc chia cho dân nghèo và chợt nhớ đến cảnh đoàn người với cờ đỏ sao vàng trên đê Sộp.
Có thể nói, tình huống truyện “Vợ nhặt” mang rất nhiều giá trị sâu sắc, thể hiện tài năng của ngòi bút Kim Lân. Một tình huống nhặt vợ vừa lạ vừa oái oăm, nhưng đã thể hiện cái nhìn tin tưởng vào sự thay đổi số phận của người nông dân. Nó ngợi ca nhân cách con người ngay trong những năm tháng khó khăn, trong nạn đói lịch sử năm 1945. Với những giá trị sâu sắc ấy, người đọc càng thấm thía hơn tư tưởng nhân đạo của Kim Lân. Để rồi rất nhiều năm tháng qua đi, “Vợ nhặt” vẫn là một tác phẩm nổi bật trong nền văn học Việt Nam.
-/-
Các em vừa cùng Đọc tài liệu điểm qua những gợi ý cho bài văn phân tích nghệ thuật xây dựng tình huống trong truyện ngắn Vợ nhặt có kèm theo một số bài văn mẫu tham khảo. Ngoài ra, để cải thiện và nâng cao kĩ năng viết văn các em có thể tìm đọc thêm các bài Văn mẫu lớp 11 khác do Đọc tài liệu biên soạn.