Kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du là bức tranh toàn cảnh về cuộc đời đầy bi kịch của nàng Kiều. Mỗi đoạn trích trong tác phẩm đều là những mảnh ghép góp phần tạo nên bức tranh ấy, chứa đựng những tâm tư, tình cảm, những bi kịch của nhân vật. Phân tích một đoạn trích tự chọn trong tác phẩm Truyện Kiều để hiểu rõ hơn về thế giới nội tâm, vẻ đẹp tâm hồn và số phận bi thương của Kiều, cũng như những giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Bài viết này sẽ hướng dẫn em các bước phân tích một đoạn trích trong Truyện Kiều, giúp các em hiểu sâu hơn về một trong những tác phẩm văn học vĩ đại nhất của dân tộc.
Lựa chọn đoạn trích
Việc lựa chọn đoạn trích để phân tích có thể dựa trên các tiêu chí sau:
- Chọn đoạn trích mà em cảm thấy tâm đắc, có nhiều điều muốn chia sẻ, phân tích, có thể là đoạn trích miêu tả tâm trạng nhân vật, cảnh thiên nhiên, hay một sự kiện quan trọng trong truyện.
- Chọn đoạn trích phù hợp với yêu cầu cụ thể của đề bài về nội dung, chủ đề hoặc số câu thơ (nếu có).
- Có thể chọn đoạn trích mà em yêu thích, cảm thấy có nhiều cảm xúc và suy nghĩ để viết bài một cách hứng thú và sâu sắc hơn.
- Đoạn trích nên có những đặc sắc về nghệ thuật như ngôn ngữ, hình ảnh, biện pháp tu từ,... để em có thể phân tích, đánh giá.
Gợi ý các đoạn trích có thể lựa chọn:
- Chị em Thúy Kiều
- Kiều ở lầu Ngưng Bích
- Thúy Kiều báo ân báo oán
- Cảnh ngày xuân
- Trao duyên
- Thề nguyền
- Nỗi thương mình
- Chí khí anh hùng
- ....
Tìm hiểu, nghiên cứu đoạn trích
- Đọc kỹ đoạn trích nhiều lần để hiểu rõ nội dung, nắm bắt các chi tiết, hình ảnh, từ ngữ đặc sắc.
- Đặt đoạn trích trong toàn bộ tác phẩm, xác định vị trí của đoạn trích, mối quan hệ của nó với các đoạn trích khác trong tác phẩm, từ đó hiểu rõ hơn về ý nghĩa và vai trò của đoạn trích.
- Nghiên cứu về tác giả và tác phẩm: cuộc đời, sự nghiệp của Nguyễn Du, bối cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa của thời đại mà Nguyễn Du sống và sáng tác Truyện Kiều để hiểu rõ hơn về ý đồ sáng tác của ông.
- Tham khảo các bài bình luận, phân tích của các nhà nghiên cứu, học giả về Truyện Kiều và đoạn trích em đã chọn để có thêm góc nhìn và ý tưởng.
Dàn ý phân tích một đoạn trích tự chọn trong tác phẩm Truyện Kiều
Dàn ý chung
1. Mở bài
- Giới thiệu đoạn trích: Nêu rõ tên tác phẩm, tác giả, thể loại.
- Xác định vị trí đoạn trích trong tác phẩm, nội dung chính của đoạn trích và lý do chọn đoạn trích.
2. Thân bài
a) Phân tích nội dung đoạn trích
- Nêu chủ đề của đoạn trích (nhân vật, sự kiện, tâm trạng, tình cảm...)
- Phân tích các tình tiết, sự kiện, những chi tiết đặc sắc trong đoạn trích.
- Liệt kê những nhân vật xuất hiện trong đoạn trích, vai trò, tính cách, mối quan hệ giữa các nhân vật.
- Phân tích tâm trạng, tình cảm, những suy nghĩ, giọng điệu của nhân vật (thông qua lời thoại, hành động, suy nghĩ).
- Nêu rõ những giá trị nội dung được thể hiện qua đoạn trích (giá trị nhân đạo, giá trị xã hội, giá trị lịch sử, giá trị văn hóa...)
b) Phân tích đặc sắc nghệ thuật của đoạn trích
- Phân tích các biện pháp nghệ thuật được sử dụng (so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa, điệp ngữ, đối ngữ, câu hỏi tu từ…) và tác dụng của chúng trong việc thể hiện nội dung.
- Phân tích cách sử dụng ngôn ngữ (từ ngữ, câu văn, giọng điệu, nhịp điệu, vần điệu…)
- Phân tích các yếu tố nghệ thuật khác như: thể thơ, vần luật, cách gieo vần, cấu trúc câu...
- Nêu rõ những nét đặc sắc về nghệ thuật của đoạn trích (tài năng, nghệ thuật độc đáo của tác giả...)
3. Kết bài
- Khẳng định lại giá trị nội dung, nghệ thuật của đoạn trích.
- Nêu cảm nhận chung về đoạn trích, nêu rõ những ấn tượng, suy nghĩ, cảm xúc mà đoạn trích mang lại cho bạn.
Dàn ý chi tiết phân tích đoạn trích Nỗi thương mình
1. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều.
- Giới thiệu đoạn trích Nỗi thương mình.
2. Thân bài
a) Tình cảnh trớ trêu của Thúy Kiều ở lầu xanh (4 câu đầu)
- Bút pháp ước lệ, tượng trưng: bướm, ong, cuộc vui, trận cười. → Cảnh sinh hoạt xô bồ, tấp nập ở chốn lầu xanh.
- Sử dụng điển cố, điển tích: lá gió, cành chim, Tống Ngọc, Trường Khanh.
- Nghệ thuật tiểu đối, gợi nên sự bẽ bàng, xấu hổ của Thúy Kiều: bướm lả - ong lơi, cuộc vui… - trận cười…., sớm – tối
- Từ ngữ chỉ mức độ: biết bao, đầy tháng, suốt đêm
=> Cuộc sống xô bồ ở lầu xanh, Kiều phải tiếp khách làng chơi suốt ngày đêm. Đây là một tình cảnh trớ trêu của cuộc đời Kiều khi bị vùi dập, chà đạp cả thể xác và nhân phẩm
b) Niềm thương xót cho thân phận của Kiều
- Không gian: lầu xanh
- Thời gian: tàn canh, ban đêm
-> Thời gian, không gian nghệ thuật thích hợp để Kiều soi thấu tâm trạng của mình.
- Tâm trạng của Thúy Kiều:
+ Giật mình: bàng hoàng, thảng thốt, không tin vào cảnh sống ở thực tại của bản thân mình.
+ Thương mình xót xa -> Cái giật mình trân quý, làm nên nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều.
- Nghệ thuật:
+ Cặp từ đối lập “khi sao” và “giờ sao” với nghệ thuật đối giữa hai câu lục/ bát => Nhấn mạnh sự khác biệt: quá khứ thì êm đềm, hạnh phúc còn hiện tại thì đau đớn, phũ phàng, bị vùi dập.
+ Ngữ điệu hỏi: “mặt sao”, “thân sao”
+ Sử dụng thành ngữ chéo: “dày gió dạn sương” (dày dạn gió sương), “bướm chán ong chường” (ong bướm chán chường) => Nhấn mạnh sự ngỡ ngàng, bàng hoàng.
+ Đối lập giữa khách và Kiều
=> Khi sống thật với chính mình, Kiều bàng hoàng, xót xa cho thân phận của mình và phải chăng đó cũng chính là tiếng nói đòi quyền sống cá nhân của con người trong xã hội phong kiến của Nguyễn Du - con người biết nhận thức và ý thức về hạnh phúc của mình.
c) Tâm trạng cô đơn, đau khổ của Thúy Kiều (phần còn lại)
- Cuộc sống chốn thanh lâu: có phong, hoa, tuyết, nguyệt (cảnh đẹp bốn mùa), thú vui cầm, kì, thi, họa.
-> Cảnh vật đối với Thúy Kiều là sự giả tạo, Kiều không tìm được tri âm, tri kỉ, nàng thờ ơ với tất cả mọi thứ xung quanh.
- Qua nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, tác giả khắc họa tâm trạng của Thúy Kiều ở chốn lầu xanh: sống nơi lầu xanh dập dìu, Thúy Kiều tự thương, tự đau, tự xót xa cho thân phận của mình.
- Điệp từ vui, ai… và câu hỏi tu từ là tiếng kêu đến xé lòng của con người tài hoa bạc mệnh.
-> Trong chốn lầu xanh nơi mà tất cả đều phù phiếm, đồng tiền lên ngôi, Kiều vẫn cố gắng tách mình ra, tìm một tâm hồn tri âm, thể hiện khát vọng sống trong sạch của Kiều mà ta thật sự đáng trân trọng.
=> Nguyễn Du đề cao giá trị nhân văn, cảm thông sâu sắc với số phận của Kiều và lên án xã hội gay gắt.
3. Kết bài
- Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích.
- Nêu cảm nhận của bản thân về đoạn trích.
5 bài văn mẫu phân tích một đoạn trích tự chọn trong Truyện Kiều
Phân tích đoạn trích Nỗi thương mình bài số 1
Giật mình mình lại thương mình xót xa.
Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!
Mộng Liên Đường chủ nhân đã khái quát về thân thế Thúy Kiều: “Khi lai láng tình thơ, người tựa án khen tài châu ngọc; Khi duyên ưa kim cải non biển thề bồi; Khi đất nổi ba đào cửa nhà tan tác; Khi lầu xanh, khi rừng tía, cõi đi về nghĩ cũng chồn chân; Khi kinh kệ, khi can qua, mùi từng trải nghĩ cùng tê lưỡi…”. Thúy Kiều đã trải qua hầu hết những nỗi đau khổ tái tê nhất của người phụ nữ dưới thời phong kiến. Khổ đau nhưng luôn có ý thức về “kiếp đoạn trường” của bản thân, rơi vào lầu xanh, Kiều thương thân xót phận nhưng cũng luôn ý thức về phẩm giá. Điều đó góp phần làm nên giá trị nhân đạo lớn lao và sâu sắc của tác phẩm.
"Nỗi thương mình" (Truyện Kiều) là một đoạn trích thể hiện khá rõ tài năng nghệ thuật độc đáo, cái nhìn vượt thời đại và đặc biệt tinh thần nhân đạo mới mẻ của đại thi hào Nguyễn Du. Đoạn trích chỉ vỏn vẹn hai mươi câu, từ câu 1229 đến câu 1248, cho thấy tâm trạng đau đớn, tủi nhục, nỗi cô đơn, thương thân trách phận và ý thức sâu sắc về thân phận bất hạnh của Thúy Kiều ở chốn lầu xanh.
Từ lúc gia đình gặp biến cố, phải bán mình chuộc cha, trao duyên lại cho em là Thúy Vân, Kiều đã trải qua 15 năm lưu lạc, trong 15 năm ấy, Kiều gặp phải bao sự lọc lừa nhưng lần Thúy Kiều bị lừa đau đớn nhất có lẽ là lần nàng bị Mã Giám Sinh lừa bán đến lầu xanh. Nó là bước ngoặt bẻ ngang cuộc đời Thúy Kiều rẽ sang một hướng khác. Rơi vào tay Tú Bà, Kiều rút dao định tự tử nhưng không thành.
Ở lầu Ngưng Bích, Kiều lại mắc bẫy Sở Khanh, bị Tú Bà đánh đập tơi bời. Tiếp đó là những tháng ngày ê chề nhục nhã của nàng trong vai trò kĩ nữ - gái làng chơi, đem tấm thân trong ngọc trắng ngà của mình mua vui cho những kẻ lắm tiền háo sắc. Những ngày Thúy Kiều ở chốn lầu xanh là những ngày nàng vô cùng buồn tủi, tâm trạng rối bời như tơ vò nghĩ về thân phận, sự tủi nhục của kiếp hồng nhan. Đoạn trích có một kết cấu khá logic với diễn biến tâm trạng và trớ trêu của cuộc đời đầy bất hạnh khi nghe những lời độc thoại nội tâm đầy đau đớn:
“Khi tỉnh rượu… xuân là gì?”
Đó cũng là thời điểm mở đầu cho những chuỗi tâm sự nối kết, ngổn ngang. Kiều nghĩ đến thân phận mình để rồi “mình lại thương mình xót xa” Kiều xót xa cho chính bản thân mình. Với nàng, hiện tại như một giấc mơ cay đắng khi nàng sánh với quá khứ.
Mở đầu đoạn trích Nỗi thương mình là tâm trạng đau buồn, tủi hổ đến ê chề của Thúy Kiều phải nếm trải trong chốn lầu xanh của mụ Tú Bà:
“Biết bao bướm lả ong lơi,
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh”
Bốn câu đầu của đoạn trích cho ta thấy rõ hình ảnh lối sống xô bồ, nhơ nhớp và thân phận bẽ bàng của người kĩ nữ ở chốn lầu xanh. Nguyễn Du đã miêu tả thật sống động bức tranh sinh hoạt ở chốn lầu xanh bằng bút pháp ước lệ tượng trưng. Trong chốn lầu xanh ấy Kiều phải tiếp khách mua vui cho “biết bao” người mà nàng không thể nào nhớ được hay là đếm được, bởi lẽ một điều rằng hằng ngày Kiều tiếp khách làng chơi triền miên “suốt đêm, sớm đưa, tối tìm” những từ ngữ ấy đã cho ta thấy được sự nhộn nhịp của chốn lầu xanh, nơi mà Tú Bà ăn nên làm ra.
Bằng những hình ảnh ẩn dụ: "bướm lả ong lơi, cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm” và các điển tích điển cố: “lá gió cành chim”, “Tống Ngọc, Trường Khanh” - chỉ chung cho loại khách làng chơi phong lưu, Nguyễn Du cho thấy tình cảnh của Thúy Kiều tuy sống trong cảnh lầu xanh tưởng như thanh tao, phong nhã nhưng thực chất đó chỉ là giả tạo, hằng ngày Kiều phải làm công việc nhơ nhuốc, tiếp đủ các loại khách đến mua vui. Điều này cho ta thấy rõ hơn về nỗi bất hạnh và tình cảnh trớ trêu của Thúy Kiều. Bút pháp ước lệ giúp Nguyễn Du không tránh né số phận thực tế của Kiều mà vẫn giữ được chân dung cao đẹp của nàng. Qua đó ta thấy được thái độ trân trọng, cảm thông của tác giả đối với nhân vật.
Ông đã tái hiện cái hoàn cảnh của Thúy Kiều bằng những sự đối lập nghiệt ngã: một bên là nước mắt Thúy Kiều - một bên là những cơn say, trận cười triền miên. Do vậy ở bốn câu thơ đầu, mặc dù chưa được miêu tả trực tiếp, người đọc vẫn thấy Kiều đang bị cuốn đi trong một cơn lốc vô hình, bị buộc vào cảnh sống nhơ nhớp nơi nhà chứa. Hiện thực nghiệt ngã mà nhân vật phải trải qua, hé mở thân phận bẽ bàng của người kỹ nữ. Nguyễn Du đã mỹ lệ hóa cho cảnh sống ấy bằng một thứ ngôn ngữ ước lệ rất tài tình: ước lệ theo thành ngữ dân gian, ước lệ theo điển tích làm cho sự hồi tưởng kiếp sống đớn đau của Kiều trở nên tao nhã hơn. Bởi vì chỉ có hồi tưởng mới diễn tả hết sức sống chân thật của nội tâm nhân vật, mới thể hiện đúng nỗi đau, mới nổi bật được phẩm giá và sự chịu đựng giày vò đáng thương của nhân vật. Đằng sau những câu thơ ấy là tấm lòng cảm thông, trân trọng mà tác giả dành cho Thúy Kiều.
Bốn câu thơ đầu đã đặt ra một tình thế của tâm trạng. Ở lầu xanh có nhiều kĩ nữ, họ có thể bình thản coi việc làm của mình rất đỗi bình thường, trớ trêu thay Kiều lại có một nhân phẩm quá đỗi cao đẹp, một tâm hồn trong trắng, một bông hoa từ cảnh sống “êm đềm trướng rủ màn che” bỗng nhiên bị ném vào bùn nhơ, hai câu tiếp nói về tâm trạng của Kiều trong những ngày tủi nhục, nỗi ê chề, sự ép buộc, đày đọa mà Kiều phải chịu đựng:
“Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình xót xa”
Ở nơi lầu xanh đầy “cuộc say, trận cười” thì chỉ “khi tỉnh rượu lúc tàn canh” Kiều mới có một khoảnh khắc hiếm hoi để sống thực với chính mình và cũng là hoàn cảnh Kiều tỉnh táo nhất đối diện với con người mình. Thời gian và không gian thật vắng lặng như gợi lên nỗi niềm xót xa. Nhịp thơ có sự thay đổi giữa hai câu thơ trên từ nhịp 3/3 chuyển sang nhịp 2/4/2. Hai chữ “giật mình” kết hợp với cách ngắt nhịp ấy đã diễn tả sự biến đổi đột ngột trong tâm hồn Kiều. Nàng bàng hoàng đau xót trước thực tại phũ phàng và trơ trọi chỉ có một mình nàng tự xót xa, đau đớn cho chính số phận bi thương, đoạn trường của mình.
Giật mình không chỉ là hành động bên ngoài của nhân vật khi có một sự tác động đột ngột nào đó của môi trường bên ngoài. Đó là cái giật mình từ cảm xúc bên trong mà nếu không có thì Kiều cũng giống như tất cả các kĩ nữ khác trong thanh lâu của Tú bà. Kiều giật mình vì nhận ra sự tàn phá thảm hại về thể xác và phẩm cách của mình ở chốn lầu xanh, sự cô đơn lẻ loi của mình và sự yếu đuối bất lực của mình trước bao nhiêu sự xấu xa, cạm bẫy đang bủa vây mình mà ko thể chống đỡ. Điệp từ “mình’’ lặp lại ba lần trong một câu thơ như tiếng nấc nghẹn ngào, tha thiết của Thúy Kiều ý thức được về phẩm giá, nhân cách, quyền sống bản thân đó cũng là ý thức cá nhân và quyền sống của con người trong lịch sử phong kiến mà Nguyễn Du muốn truyền tải đến người đọc.
Đối với hai câu trên với nhịp thơ đầy nỗi tủi nhục của Kiều thì những câu tiếp theo sau là những hồi ức dội về, hồi ức tươi sáng va đập thực tại tăm tối đọa đày:
“Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân”
Một cô gái khuê các, tài sắc vẹn toàn, hiền lành đoan trang hết mực. Một cô gái nho gia bây giờ trở thành một cành hoa tan tác. Sự biến chuyển nhanh chóng đến mức chính Kiều cũng phải bàng hoàng, sửng sốt. Phép đối lập như một biện pháp nghệ thuật chủ yếu toàn đoạn trích và nhất là trong hai câu này càng tăng thêm giá trị biểu cảm. Nó tạo nên sự so sánh đối lập giữa hai quãng đời, hai thời gian, hai tình cảm. Cặp từ đối lập chỉ thời điểm: “Khi sao / giờ sao” tạo nên cảm giác đột ngột của sự thay đổi trong một khoảng thời gian không mấy cách biệt. Chính vì điều này đã làm vết thương của Kiều nhức nhối, đau đớn như đào sâu thêm vào nỗi xót xa, tê tái của Kiều.
Quá khứ hiện về đối lập với thực tại một cách khốc liệt, Kiều hồi tưởng lại những tháng năm “êm đềm trướng rủ màn che” thì lập tức thực tại phũ phàng lại hiện lên rõ nét hơn gấp bội, từ “phong gấm” diễn tả một sự bình yên, êm đềm trong quá khứ đối lập gay gắt với từ “tan tác” trong câu thơ nói về hiện tại như cái thực trạng phũ phàng bao trùm vùi chôn quá khứ êm đẹp. Phép so sánh “như hoa giữa đường” càng làm nổi bật sự đối lập tuyệt đối giữa quá khứ và thực tại, giữa cá nhân và hoàn cảnh. Cụm từ “bướm chán ong chường” và “dày gió dạn sương” là nét sáng tạo về cách dùng từ của Nguyễn Du, nhấn mạnh có ý so sánh theo mức độ tăng tiến cho ta thấy sự vùi dập, chà đạp mà Kiều phải gánh chịu. Các câu hỏi tu từ ở đây được Nguyễn Du sử dụng nhằm làm rõ hơn sự đau đớn, ê chề của Kiều trước thực tại phũ phàng, tàn nhẫn.
Hai câu thơ day dứt một tiếng thở dài tuyệt vọng của một cô gái vốn tài sắc hơn người, khát khao hạnh phúc nhưng bây giờ đã chán ngán tất cả:
“Mặc người mưa Sở mây Tần
Những mình nào biết có xuân là gì?”
Sống trong cảnh lầu xanh suốt ngày phải mua vui cho người khác hành hạ bản thân mình, lặp đi lặp lại hằng ngày ai cũng sẽ thấy chán chường muốn bỏ bê tất cả và Kiều cũng vậy. Sự đối lập giữa người - khách làng chơi (số nhiều) với chính mình - Kiều (số ít) như thể hiện tột cùng nỗi cô đơn của nàng. Từ ''xuân'' ở đây ý chỉ niềm vui được hưởng hạnh phúc lứa đôi nhưng với Thúy Kiều sống làm vợ khắp người ta thì làm gì còn có mùa xuân, chỉ thấy trong đó là sự nhục nhã, lẻ loi, trơ trọi và cô đơn của cuộc đời người kĩ nữ mua vui. Từ ''mặc'' ở đây lại chỉ sự bất lực, mặc cho mọi thứ muốn tới đâu thì tới, dằn vặt nặng nề đay nghiến của Thúy Kiều nhưng không làm sao khác được.
“Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
Đòi phen nét vẽ câu thơ
Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa
Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó, mặn mà với ai.”
Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp hiện lên, có đủ cả: phong - hoa - tuyết - nguyệt, cảnh đẹp bốn mùa hội tụ vào nơi đây, gió xuân vi vu thổi, hoa hạ đua nhau khoe sắc ngát hương, trăng thu sáng vằng vặc, tuyết đông phủ kín cả lầu tất cả đều rất thực, rất sinh động như vẽ nên bức tranh đầy màu sắc, âm thanh của lầu xanh và trong đó có đủ những thú vui của con người: cầm - kì - thi - họa càng tô điểm cho bức tranh ấy thêm phần nhộn nhịp, sống động hơn bao giờ hết. Nhưng nêu lên những cảnh thiên nhiên đẹp đẽ, tao nhã, nên thơ ấy lại như một sự giễu cợt, mỉa mai, chua chát. Vì dù ngụy trang khéo đến mấy, cũng không thể che đậy nổi cái bản chất nhơ nhớp, bẩn thỉu bên trong của chốn “buôn thịt bán người”. Đoạn thơ vì thế đồng thời hướng vào tâm trạng Kiều: Kiều luôn phải tách mình thành hai nửa: một con người bề ngoài vui gượng, giả tạo và một con người thực, sống để xót xa mỗi lúc canh tàn.
Cảnh không thể vui vì lòng người nặng trĩu nỗi tê tái... Khi gió tựa hoa kề, khi cung cầm thi họa, lúc nào nỗi đau cũng dâng đầy và nghẹn ứ trong lòng nàng. Ý thức về nhân phẩm một khi trỗi dậy là lại bị giày xéo, khiến nàng không nguôi bẽ bàng, nhục nhã về thân phận. Hai từ “đòi phen” được lặp lại trong tám câu thơ càng thể hiện rõ hơn đó là một nỗi đau thường trực, chưa lúc nào thôi dằn vặt Kiều. Nỗi sầu của Kiều lan tỏa sang cảnh vật:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Bằng sự thông cảm lạ lùng và tài năng kì diệu, Nguyễn Du đã viết nên hai câu thơ hay nhất giữa ngoại cảnh và tâm cảnh, giữa cảnh và tình. Từ một trường hợp cụ thể, thơ Nguyễn Du đã vươn tới tầm phổ quát, trở thành chân lí của mọi thời. Có thể nói hai câu thơ là đỉnh điểm của đoạn trích vì nó gột tả được sâu sắc hơn bao giờ hết nội tâm của nhân vật từ đó lan tỏa sang cảnh vật một cách thật tự nhiên và hợp lí. Nỗi buồn của Thúy Kiều cứ dâng lên, như sóng cồn triền miên không bao giờ dứt, nó cứ khuấy động bên trong sâu thẳm con người Kiều để rồi đến một lúc nào đó, tức nước vỡ bờ, nó dâng lên cuồn cuộn đánh động vào nỗi lòng, cảm xúc của Thúy Kiều, khiến cho mọi vật qua cái nhìn của nàng đều trở nên u buồn, tăm tối, nhuộm màu tang thương.
“Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó mặn mà với ai?”
Hai câu thơ cuối là nỗi lòng của Thúy Kiều được Nguyễn Du thể hiện một cách tinh tế, độc đáo mà tâm sự này, tâm trạng này, Kiều của Thanh Tâm tài nhân không hề có được. Từ “vui gượng” nói lên tất cả sự lạc lõng, cô độc cũng là sự mâu thuẫn, bế tắc không lối thoát của Kiều trước hoàn cảnh. Sống trong cảnh nhơ nhớp, phải tiếp khách làng chơi, trải qua những cơn say, trận cười quanh năm suốt tháng, phải lả lơi… là điều bất đắc dĩ, Kiều không bao giờ muốn thậm chí không bao giờ có thể tưởng tượng được cuộc đời mình lại bi kịch như thế. Giữa chốn lầu xanh mà đồng tiền lên ngôi, có bao kẻ đến rồi đi, cái còn lại sau cùng với Kiều chỉ là sự rã rời, đau đớn cả về thể xác và tâm hồn thì làm gì có ai là tri kỉ, có ai để “mặn mà” nhưng trong sâu thẳm cõi lòng, Kiều vẫn luôn mong ngóng một tấm lòng, một người hiểu mình. Một lần nữa ngôn ngữ nửa trực tiếp lại khiến cho câu thơ có những lớp nghĩa sâu sắc kết hợp câu hỏi tu từ đầy xót xa, cay đắng cho thấy phẩm chất tốt đẹp của Thúy Kiều giàu lòng tự trọng, coi trọng phẩm giá và muốn sống một cuộc sống bình yên, trong sạch.
Nỗi thương mình của Thuý Kiều có một ý nghĩa vô cùng sâu sắc xét về sự tự ý thức của con người cá nhân trong lịch sử văn học Việt Nam thời trung đại. Người phụ nữ xưa được giáo huấn theo tinh thần cam chịu, nhẫn nhục, buông xuôi. Khi con người biết “Giật mình mình lại thương mình xót xa” thì không còn nhẫn nhục cam chịu nữa mà đã ý thức rất cao về phẩm giá và nhân cách bản thân, ý thức về quyền sống của bản thân.
Thương thân xót phận là một chủ đề phổ biến trong văn học Việt Nam cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX (Cung oán ngâm, Chinh phụ ngâm, thơ Hồ Xuân Hương,…). Nguyễn Du là người viết về cảm hứng này sâu sắc và thấm thía hơn cả. Thương thân mình là một cách phản ứng với hiện thực của thân phận. Điều đó cho thấy con người không bị tàn đi, không bị cuốn theo, không bị hủy diệt. Giữa chốn lầu xanh nhơ nhớp, Kiều tách ra như một điểm sáng về tâm hồn. Chính vì vậy mà Từ Hải, Kim Trọng, Nguyễn Du và người đọc bao thế hệ đều rất trân trọng nàng.
Vẫn chủ đề quen thuộc, vẫn là những số phận nhỏ bé của người phụ nữ nhưng đến Nguyễn Du ông đã dùng cây bút của mình viết nên vần thơ tựa như lời bộc bạch thấm thía, sâu sắc vô cùng. Dường như hình ảnh Thúy Kiều hiện thân cho người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa được đặc tả tinh tế nhất. Nỗi thương mình là nền tảng của lòng thương người, ông tự thương lấy chính cuộc đời ông và đồng cảm với nàng Kiều sống giữa chốn bụi trần đầy rẫy những lưỡi dao cắt xé lòng. Đoạn trích “Nỗi thương mình” mang đậm chất bi thương vừa là chuỗi hành trình kể lại từng mảnh đời của Thúy Kiều vừa là lên án được xã hội vạn ác đã chồng chất bao nỗi khổ đau lên một kiếp người.
Phân tích đoạn trích Trao duyên bài số 2
Truyện Kiều đỉnh cao trong đời thơ Nguyễn Du cũng là đỉnh cao của văn học Việt Nam, tác phẩm để lại những giá trị sâu sắc về cả nội dung và nghệ thuật. Cuộc đời nàng Kiều trải qua biết bao truân chuyên, biến cố, phải trải qua biết bao khoảnh khắc đau lòng mà có lẽ đau lòng nhất chính là khoảnh khắc trao duyên cho em. Toàn bộ suy nghĩ tâm trạng của nàng được tái hiện chân thực, đầy đủ qua đoạn trích: Trao duyên.
Trao duyên được trích trong phần gia biến và lưu lạc, sau khi gia đình gặp cơn tai biến, Kiều phải bán mình cho Mã Giám Sinh với giá vàng ngoài bốn trăm để lo cho cha và em thoát nạn. Đêm cuối cùng trước khi phải đi cùng Mã Giám Sinh, Thúy Kiều đã trò chuyện với em là Thúy Vân vào trao duyên mình cho em với Kim Trọng.
Để thuyết phục em đồng ý thay mình trả nghĩa cho chàng Kim, Thúy Kiều nhờ cậy hết sức chân thành: Cậy em em có chịu lời/ Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa. Thúy Kiều đã sử dụng ngôn từ hết sức tinh tế, hết sức cẩn trọng để đạt được hiệu quả cao nhất. Ngoài ra, nàng cũng rất hiểu cho tình thế của Thúy Vân, đây là câu chuyện rất đột ngột với Thúy Vân, đó là chuyện không phải dễ dàng có thể chấp nhận. Là cậy chứ không phải bất từ ngữ nào khác, cậy gửi gắm sự tin tưởng, sự trông mong tha thiết của Kiều với em. Chịu lời – nhận làm một việc với thái độ miễn cưỡng, nàng hiểu cho tình cảm của Thúy Vân khi phải nghe những điều mình chuẩn bị giãi bày. Cặp từ lạy, thưa thoạt nhìn có vẻ phi lí trong lễ giáo phong kiến vì chị làm sao có thể lạy, thưa với em. Nhưng nó lại là hợp lý trong tư thế người cậy nhờ và kẻ được nhờ cậy. Cách dùng từ của Kiều đã đặt Thúy Vân vào tình thế khó có thể từ chối trước những điều éo le, nghịch cảnh sắp nói.
Để thuyết phục em, Kiều đã đưa ra lí lẽ về tình thế éo le của bản thân: “Kể từ khi gặp chàng Kim/ Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề/ Sự đâu sóng gió bất kì/ Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”. Nhắc lại chuyện tình cảm của mình và Kim Trọng hẳn lòng Kiều cũng nhói đau, hàng loạt hình ảnh thể hiện hình ảnh tình yêu đôi lứa được nói đến: quạt ước – tặng quạt để ngỏ ý hẹn ước trăm năm, chén thề - uống rượu thề nguyền trung thủy. Những lời hẹn thề sắt son, những tưởng cả hai sẽ được hưởng hạnh phúc mãi mãi nào ngờ gia đình gặp biến cố khiến tình duyên lỡ dở. Hai câu thơ sau đã chỉ rõ nguyên nhân khiến Thúy Kiều phải bội ước. Gia đình gặp biến cố lớn, là chị cả trong gia đình, Thúy Kiều lúc này bị đặt giữa mâu thuẫn: chuyện gia đình và chuyện tình cảm, chọn chữ hiếu thì nàng bội nghĩa tình, lời hẹn thề với Kim Trọng, nhưng nếu trọn chữ tình thì lại trở thành kẻ đại bất hiếu. Và cuối cùng nàng đã quyết định: “Làm con trước phải đền ơn sinh thành”.
Trong đau đớn, dằn vặt nàng vẫn hết sức bản lĩnh, bình tĩnh để đưa ra cách giải quyết phù hợp nhất: “Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”. Keo loan được làm từ máu của con chim loan, dùng keo loan để chắp vá cho mối duyên của em và Kim Trọng. Hai chữ “tơ thừa” như nhấn mạnh vào nỗi đau đớn của Thúy Kiều nhưng đồng thời cho thấy sự tội nghiệp của nàng Vân. Biết bao đau đớn, biết bao tủi hơn trong chuyện tình duyên này. Kiều luôn tỏ ra là người rất am hiểu tâm lí và tình thế của Thúy Vân, nếu ở trên là mặc em, gần như giao phó, thì câu thơ dưới lại như một lời mong mỏi, tha thiết: “Ngày xuân em hãy còn dài/ Xót tình máu mủ thay lời nước non”. Thúy Kiều mong Vân vì tình chị em ruột thịt mà em có thể trả nghĩa cho Kim Trọng thay mình, nếu vậy: “Chị dù thịt nát xương mòm/ Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”. Trong nàng bao giờ cũng vậy, luôn có dự cảm không lành cho tương lai của chính mình. Đồng thời với lập luận như vậy kiến Vân không nỡ từ chối lời đề nghị của mình. Bằng lối lập luận chặt chẽ, sắc sảo vừa cho thấy sự thông minh của Thúy Kiều, vừa thực hiện được mục đích khiến Vân trả nghĩa cho Kim Trong cho nàng.
Sau lời nhờ cậy em, Thúy Kiều bắt đầu trao kỉ vật cho Thúy Vân và dặn dò chuyện tương lai. Từng kỉ vật khi xưa của nàng và Kim Trọng đều được nâng niu, giữ gìn, mỗi kỉ vật gắn liền với một niềm hạnh phúc mà cả cuộc đời này nàng sẽ không bao giờ quên. Là chiếc vành mà Kim Trọng đã trao cho Thúy Kiều, là bức tờ mây – thư từ với những lời yêu thương họ dành cho nhau. Nhưng đó đâu phải đã hết họ còn có chung những kỉ niệm “phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa” và giờ đây Thúy Kiều trao lại hết cho em, nàng trao kỉ vật cũng đồng nghĩa với việc trao duyên. Nhưng khi nàng trao kỉ vật vẫn có sự mâu thuẫn, giằng xé giữa lí trí và tình cảm: lí trí thì nàng muốn trao hết cho em, nhưng tình cảm dường như không muốn: “Duyên này thì giữ, vật này của chung”, nàng vừa muốn trao, vừa muốn giữ, giữ lại một chút gì đó cho bản thân. Tâm lí này cũng thật dễ hiểu, bởi trong tình yêu nhu cầu sở hữu rất cao, mấy ai có đủ dũng khí để trao duyên, vậy mà, Kiều đã phải làm, nên hành động muốn giữ lại một chút của chung cho mình là hoàn toàn dễ hiểu và hợp quy luật tâm lí. Đồng thời nàng cũng mong họ có cuộc sống êm đềm, hạnh phúc nhưng lại cũng muôn họ không bao giờ quên mình: “Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên”. Thúy Kiều rõ ràng có sự ích kỉ, mềm yếu nhưng chính trong đó lại thấy tình cảm nàng dành cho Kim Trọng rất sâu nặng và trong giây phút trao duyên này nàng rất đau đớn, mất mát, hụt hẫng.
Trao kỉ vật đau đớn, xót xa bao nhiêu thì những lời dặn dò chuyện mai sau càng quặn thắt bấy nhiêu: “Mai sau dù có bao giờ/ Đốt lò hương ấy so tơ phím này”. Sau này, mỗi khi đốt hương, đánh đàn, linh hồn của nàng sẽ trở về, khi đó nàng chỉ mong Thúy Vân hãy rưới giọt nước để giải oan cho chị “rưới xin giọt nước cho người thác oan”. Ta thấy rằng ở bất cứ đâu trong Kiều cũng luôn mang khao khát hạnh phúc, sum họp: Hồn còn mang nặng lời thề/ Nát thân bồ liễu, đền ghì trúc mai. Dù nàng có bị vùi dập thịt nát xương mòn nhưng lòng vẫn nặng lời thề với Kim Trọng. Bởi vậy khi Kim Trọng và Thúy Vân được hưởng hạnh phúc thì Thúy Kiều cũng sẽ trở về để chung hưởng hạnh phúc ấy. Mâu thuẫn này đã cho thấy sự tiếc nuối và đau khổ của nàng Kiều đồng thời cho thấy tình cảm sâu nặng nàng dành cho Kim Trọng.
Tám câu thơ cuối, nàng Kiều trở về với thực tại đau đớn, xót xa: tình yêu dang dở, tan vỡ, mãi mãi không thể hàn gắn. “Bây giờ trâm gãy gương tan/ Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi”, thành ngữ “trâm gãy gương tan” là sự tan vỡ trong tình yêu cũng là sự tan nát trong cõi lòng Thúy Kiều. Nàng thức tỉnh nỗi đau thân phận: “Phận sao phận bạc như vôi/ Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng/ Ôi Kim lang, hỡi Kim lang/ Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”. Hai từ ôi, hỡi trong câu thơ sáu chữ đã cho thấy lời gọi tha thiết, khắc khoải và nỗi đau đến tột cùng của Kiều. Câu kết là lời nhận tội, tự trách của Thúy Kiều “Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”.
Bằng nghệ thuật miêu tả nội tâm đặc sắc, sự phối hợp linh hoạt các hình thức ngôn ngữ đã diễn đạt tâm trạng, cảm xúc của Thúy Kiều khi trao duyên cho em. Đoạn trích cho thấy bi kịch tình yêu và bi kịch thân phận của người phụ nữ hồng nhan, bạch mệnh trong xã hội phong kiến. Đồng thời trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp của Thúy Kiều.
Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều bài số 3
Nguyễn Du là nhà thơ thiên tài của dân tộc ta. Truyện Kiều là kiệt tác của nguyễn Du và của nền thi ca cổ điển dân tộc, sáng ngời tinh thần nhân đạo. Cả trên phương diện nghệ thuật, áng thơ này là mẫu mực tuyệt vời về ngôn ngữ, về tả cảnh, tả người, tả tình, tự sự,... đem lại cho nhân dân ta nhiều thú vị văn chương. Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” là một trong những đoạn tuyệt bút của thi hào Nguyễn Du. Mượn vật tả người, lấy ý họa hình quả thực là sức mạnh phi thường trong ngòi bút của thiên tài Nguyễn Du. Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” là một trong những đoạn thơ hay nhất, đẹp nhất trong “Truyện Kiều”. Thúy Kiều là nhân vật trung tâm của truyện thơ, một thiếu nữ tài, sắc vẹn toàn đã được thi hào khắc họa một cách thần tình, mĩ lệ.
Hai chị em Thúy Kiều mang vẻ đẹp thanh cao, trinh trắng như “mai”, như “tuyết”, mỗi người một vẻ đẹp riêng nhưng vẻ đẹp nào cũng toàn thiện, toàn bích:
“Mai cốt cách, tuyết tinh thần.
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười”.
Tiếp sau vẻ đẹp của hai chị em, Nguyễn Du vẽ ra trước mắt người đọc bức chân dung tuyệt mĩ của Thúy Vân:
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Sắc đẹp của Thúy Vân là sắc đẹp của một thiếu nữ “đoan trang”, “trang trọng khác vời”; rất quý phái. Nàng sở hữu khuôn mặt “đầy đặn”, tươi sáng như vầng trăng, mắt phượng, mày ngài, miệng cười tươi như hoa, giọng nói trong như tiếng ngọc,… Lại còn thêm mái tóc suôn mượt hơn mây, làn da trắng sáng hơn tuyết, quả là mĩ miều xưa nay hiếm có.
Nhà thơ đã sử dụng biện pháp ước lệ tượng trưng, tạo nên những hình ảnh ẩn dụ đầy gợi cảm. Bức chân dung của Thúy Vân hiện lên cao khiết, trinh sạch và gần gũi trong ánh nhìn và tưởng tượng. Vẻ đẹp ấy hòa hợp với trần thế, khiến cho vạn vật tôn vinh, ngưỡng mộ. Với cách miêu tả ấy, Nguyễn Du ngầm dự báo Thúy vân sẽ có một cuộc đời êm đẹp, hạnh phúc.
Không hề dài dòng, tiếp ngay sau đó, tác giả miêu tả tiếp vẻ đẹp của Thúy Kiều. Ánh sáng bừng lên, vũ trụ hân hoan khi từng đường nét Thúy Kiều hiện lên trên ngòi bút của bậc thiên tài:
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.
Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Tả Thúy Vân trước, tả Thúy Kiều sau là một dụng ý nghệ thuật của tác giả. Trên cái nền vẻ đẹp của Thúy Vân, Thúy Kiều tỏa hiện với vẻ đẹp lộng lẫy có thể khiến cho thành nghiêng nước đổ. Khác với bức chân dung của Thúy Vân, ở bức chân dung của Thúy Kiều, Nguyễn Du chỉ miêu tả hai đặc điểm. Mắt nàng trong như sắc nước mùa thu, hàng chân mày thanh tú, diễm lệ như dáng núi mùa xuân. Chỉ hai thôi mà đã lộ rõ sắc đẹp phi thường của nàng rồi, thực là kì bút.
Đó là một vẻ đẹp vừa đằm thắm vừa sắc sảo, mặn mà, ẩn đầy nội lực tồn sinh. Phía sau vẻ đẹp hình thức là một nguồn sức mạnh huyền bí, có sức lôi cuốn và quyến rũ đến mê dại. Bởi thế, vẻ đẹp của Thúy Kiều đã khiến cho đất trời phải “ghen”, phải “hờn”. Ở đây, ngòi bút tả người của thi hào có sự biến hóa đa dạng. Kết hợp thần tình các biện pháp nghệ thuật ẩn dụ nhân hóa, vận dụng tinh tế và hiệu quả thi liệu cổ điển tạo nên sức mạnh biểu đạt kì lạ. Cao hơn thế, thi hào còn mạnh mẽ khẳng định: “Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”. Nghĩa là, nếu sắc đẹp của Thúy Kiều là hiếm có thì tài năng và tuyệt kĩ của nàng là chưa từng có, chưa từng xuất hiện trên cõi đời này. Phải chăng, điều đó như dự báo rằng cuộc đời Thúy Kiều sẽ gặp nhiều trắc trở, tai ương bởi những phẩm chất và năng lực ngoại hạng của mình.
Sau bức chân dung tuyệt sắc của hai đại mĩ nhân, Nguyễn Du dành nhiều hơn để miêu tả tài năng của Thúy Kiều:
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung, thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên “Bạc mệnh” lại càng não nhân.
Trước hết, nàng là người rất thông minh, vừa sở hữu vẻ đẹp trác việt, vừa thông minh tuyệt đỉnh, quả thực người như thế xưa nay hiếm lắm. Nguyễn Du có lẽ đã quá ưu ái cho nhân vật của mình chăng? Mọi thú tiêu dao của người xưa, nàng đều thông thuộc, thậm chí là đạt đến tuyệt kĩ tài hoa. Cầm, kì, thi, họa, âm luật, thi luật, kể cả tác thuật nàng đều sành sỏi. Người như thế, ai mà chẳng say mê. Bức chân dung của Thúy Kiều đã đạt đến mức toàn thiện, vượt qua tất cả ngưỡng hình dung của con người. Nàng chính là thần tiên trên mặt đất. Bởi là thần tiên nên nàng không thể nào hòa hợp với luật lệ của chốn trần gian vốn khắc nghiệt và giả dối nên cuộc đời mới trầm luân, dâu bể đến thế chăng?
Tóm lại, Thúy Kiều là một nhân vật tuyệt đẹp trong “Đoạn trường tân thanh”. Thi hào Nguyễn Du với cảm hứng nhân đạo và tài nghệ thơ ca trác việt đã miêu tả Thúy Kiều bằng những vần thơ lục bát đẹp đến nhuần nhị, thấu cảm lòng người. Ông đã dành cho nhân vật bao tình cảm yêu mến, trân trọng sâu sắc. Sự kết hợp tài tình bút pháp ước lệ, tượng trưng, sử dụng sáng tạo các biện pháp tu từ, nhất là phép ẩn dụ, so sánh, lớp ngôn ngữ thơ tinh luyện, hàm súc, hình tượng gợi cảm, tài năng miêu tả người xuất chúng vẽ nên bức chân dung của bậc tuyệt thế giai nhân bằng thơ sáng giá nhất trong nền văn học cổ nước nhà. Xưa nay, chưa từng có người đẹp như thế.
Phân tích đoạn trích Thề nguyền bài số 4
Vào dịp đi chơi tiết Thanh minh cùng hai em, Thuý Kiểu dã gặp Kim Trọng, bạn của Vương Quan. Chỉ trong thoáng chốc: Người quốc sắc, kẻ thiên tài, Tình trong như đã, mặt ngoài còn e. Tình yêu kì lạ giữa họ bắt đầu nảy nở từ đây. Ngay trong đêm hôm ấy, hình bóng phong nhã, hào hoa của Kim Trọng đã in đậm trong tâm hồn Thuý Kiều, khiến trái tim nhạy cảm của nàng thổn thức. Nàng băn khoăn tự hỏi:
Người đâu gặp gỡ làm chi,
Trăm năm biết có duyên gì hay không?
Còn Kim Trọng thì cũng ao ước được gặp lại Thuý Kiều lần nữa:
Bâng khuâng nhớ cảnh nhớ người,
Nhớ nơi kì ngộ vội dời chân ơi,
Như mối lương duyên tiền định, Kiều làm vương chiếc kim thoa cài đầu trên cành đào trong vườn Thúy, Kim Trọng nhặt được đem trả và nhân thể bày tỏ nỗi niềm thầm yêu trộm nhớ. Họ trao đổi kỉ vật cho nhau: "Giở kim thoa với khăn hồng trao tay" và hứa hạn sẽ chung thủy cùng nhau. Rồi một hôm, nhân lúc cha mẹ và các em về quê ngoại dự tiệc sinh nhật, Thúy Kiều đã chủ động sang gặp người yêu. Đoạn trích kể về cảnh hai người gặp gỡ tại nhà trọ của Kim Trọng và cùng nhau thề nguyền gắn bó trăm năm dưới vầng trăng vằng vặc giữa trời.
Thông qua nghệ thuật kể chuyện và miêu tả có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp hiện thực và bút pháp cổ điển, Nguyễn Du đã ca ngợi tình yêu tự do trong sáng và say đắm của đôi trai tài, gái sắc, vượt lên trên những rào cản, ràng buộc khắt khe của giáo lí phong kiến đương thời. Đoạn trích này có liên quan với các đoạn khác trong Truyện Kiều, ví dụ như đoạn Trao duyên. Những hình ảnh đốt lò hương ấy, so tơ phím này mà Kiều nhắc đến trong lời kể với Thúy Vân chính là những hình ảnh trong đêm thề nguyền này. Thúy Kiều bị ám ảnh bởi tính chất mong manh, bất định của tình yêu sau khi thắp hương ở nấm mồ cô quạnh của Đạm Tiên. Trong mơ, Kiều gặp hồn ma người kĩ nữ bất hạnh ấy và từ đó nàng luôn bị ám ảnh bởi bốn chữ tài hoa bạc mệnh.
Thúy Kiều là nhân vật chính trong cảnh Thề nguyền nên tác giả đã dành nhiều câu thơ tâm huyết để viết về nàng. Mải mê tình tự với người yêu trọn một ngày, đến sẩm tối Kiều mới sực tỉnh, bèn e thẹn nói rằng: vắng nhà chẳng tiện ngồi dai rồi vội vàng chia tay. Cha mẹ và hai em vẫn chưa về, nàng lại vội vàng sang với chàng Kim lần nữa:
Cửa ngoài vội rủ rèm the,
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình.
Nguyễn Du đã sử dụng từ ngữ có khả năng gợi tả, gợi cảm mỗi lúc một cao để miêu tả khát vọng tình yêu của Thúy Kiều. Từ láy "xăm xăm" tả bước chân Kiều đi rất nhanh, rất quả quyết; động từ "băng" thể hiện sự táo bạo, liều lĩnh của nàng khi dám tìm lối tắt qua vườn khuya để sang nhà Kim Trọng. Nhịp thơ ngắn, gấp gáp: Xăm xăm / băng lối / vườn khuya / một mình đặc tả thái độ chủ động và tâm trạng sốt ruột của Kiều mong được nhanh chóng gặp lại người yêu. Đồng thời, dường như phần nào Kiều muốn tranh đua với thời gian và phủ nhận định mệnh đang ám ảnh, phần khác cũng vì tình yêu mãnh liệt thôi thúc.
Khung cảnh đêm trăng trong vườn Thúy có vẻ đẹp huyền ảo và thơ mộng, như xui khiến những người đang yêu tìm đến với nhau:
Nhặt thưa gương giọi đầu cành,
Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu.
Sinh vừa tựa án thiu thiu,
Dở chiều như tinh dở chiều như mê.
Tiếng sen sẽ động giấc hòe,
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần.
Trong cái đêm thần tiên ấy, không gian được Nguyễn Du miêu tả bằng hình ảnh ánh trăng chiếu qua vòm lá in những mảng sáng tối mờ tỏ không đều trên mặt đất: Nhặt thưa gương giọi đầu cành. Ánh đèn từ phòng học của Kim Trọng lọt ra dịu dịu, hắt hiu. Tiếng gót sen của Thúy Kiều nhè nhẹ đến gần khiến cho Sinh vừa tựa án thiu thiu, Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê, bỗng sực tỉnh để rồi lại rơi ngay vào trạng thái vừa ngạc nhiên, vừa lâng lâng sung sướng, vì không tin đó là sự thực. Kim Trọng không ngờ bóng dáng nàng Kiều đang thấp thoáng trong giấc mơ bỗng hiện ra trước mắt:
Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần,
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.
Là một văn nhân nho nhã, lại đang say đắm Thúy Kiều nên Kim Trọng đã tiếp đón Kiều rất trân trọng và lắng nghe tâm sự của nàng. Thúy Kiều chủ động sang và cũng chính nàng chủ động thắp lên ngọn lửa tình yêu:
Nàng rằng: “Khoảng vắng đêm trường,
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa.
Bây giờ rõ mặt đôi ta,
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?”
Lời nói của Thúy Kiều hàm chứa nhiều nét nghĩa. Thứ nhất, nhà nàng ở liền với nhà Kim Trọng trọ học, vậy mà nàng lại nói là khoảng vắng đêm trường, đó là biểu hiện của không gian và thời gian tâm lí. Khi yêu nhau, người ta cảm thấy gần nhau bao nhiêu vẫn là chưa đủ, cứ muốn gần thêm nữa. Bởi thế, việc Thúy Kiều sang nhà Kim Trọng trong đêm cũng có thể coi là nàng đã tự vượt qua sự ngăn cách của thời gian và không gian tâm lí để vươn tới làm chủ tình yêu, tự sắp xếp số phận của mình.
Thứ hai, Thúy Kiều nói: Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa là có ý nói vì tình yêu mãnh liệt mà mình phải chủ động sang nhà Kim Trọng. Chữ hoa thông thường để chỉ người con gái, nhưng ở đây, Kiều dùng chữ hoa như một hàm ý tốt đẹp chỉ tình yêu nồng nàn, tha thiết của mình dành cho Kim Trọng. Tiếp đó, Kiều nói: Bây giờ rõ mặt đôi ta, Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao? Trong lời vừa là thanh minh vừa là bày tỏ của Kiều đã ẩn chứa dự cảm chẳng lành về sự dang dở của tình yêu đôi lứa. Nàng như đang cố chạy đua với thời gian, muốn vượt qua định mệnh khắc nghiệt của đời mình. Nguyễn Du đã nhập thân vào nhân vật Thúy Kiều để hiểu và thông cảm với thái độ, hành động trái với lẽ thường của nàng.
Nghe Thúy Kiều tâm sự, Kim Trọng hiểu lòng nàng hơn: Vội vàng làm lễ rước vào, Đài sen nối sáp, lò đào thêm hương. Rồi hai người: Liền thi cùng thảo mật chương, cùng thề nguyền kết tóc se tơ, trăm năm vàng đá. Tác giả đã đặc tả không khí khẩn trương, gấp gáp của buổi lễ thề nguyền bất ngờ, không được chuẩn bị trước. Nó diễn ra rất nhanh chóng nhưng cũng rất trang nghiêm, đầy đủ trong một không khí thiêng liêng:
Vừng trăng vằng vặc giữa trời,
Đinh ninh hai miệng một lời song song.
Tóc tơ căn vặn tấc lòng,
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.
Ở đoạn trích này, tác giả dùng hai lần từ vội: Cửa ngoài vội rủ rèm the, Vội vàng làm lễ rước vào, một lần từ xăm xăm, một lần từ băng. Nhịp điệu khẩn trương của buổi lễ thề nguyền đã được tác giả tô đậm bằng những từ đặc biệt ấy. Lời thề nguyền gắn bó Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương của Thúy Kiều và Kim Trọng đã được Vừng trăng vằng vặc giữa trời chứng giám. Đây cũng là sự tiếp tục một cách lôgic quan niệm về tình yêu của Thúy Kiều. Những chi tiết trong đoạn trích này góp phần làm cho người đọc hiểu sâu nội dung của đoạn Trao duyên, vì đêm thề nguyền đã trở thành kỉ niệm đẹp đẽ, sâu sắc của mối tình đầu nên Kiều không bao giờ quên được. Tình yêu mãnh liệt, lời thề xuất phát từ hai trái tim yêu nồng nàn sẽ mãi mãi in đậm dấu ấn vào tâm tưởng của đôi trai tài gái sắc. Cũng vì thế mà trải qua bao gió dập sóng vùi của cuộc đời, họ vẫn thương nhớ nhau khôn nguôi.
Đoạn trích kể về đêm thề nguyền, đỉnh cao của tình yêu Thúy Kiều - Kim Trọng mà trong đó Thúy Kiều đóng vai trò chủ động. Sự chủ động này đã từng gây ra phản ứng phê phán, chỉ trích dữ dội của một số nhà Nho vốn mang nặng thành kiến Nho giáo. Có hai lý do hiện thực và tâm linh khiến Thúy Kiều phải giành quyền chủ động. Lí do hiện thực tất nhiên là tình yêu mãnh liệt. Thúy Kiều và Kim Trọng đến với nhau bằng một tình yêu rất tự nhiên, nhất kiến chung tình. Thúy Kiều đến với Kim Trọng cũng giống như cánh buồm gặp gió, cánh buồm phải căng gió, con người phải có tình yêu, do đó nàng không có lỗi. Nhà thơ đã xây thành công một tình yêu trong sáng và lãng mạn tuyệt vời. Mối tình giữa Thúy Kiều và Kim Trọng là mối tình đẹp đẽ giữa trai tài gái sắc. Bên cạnh đó là lí do tâm linh: Thúy Kiều, số mệnh bất công dành cho những người con gái tài sắc nên tìm đến với tình yêu để chống lại định mệnh: Sống làm vợ khắp người ta, Hại thay thác xuống làm ma không chồng. Đến đây thì chúng ta đã hiểu vì sao Thúy Kiều nói với Kim Trọng như để thanh minh về sự chủ động của mình: Bây giờ rõ mặt đôi ta, Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?
Đoạn trích Thề nguyền còn thể hiện rõ quan niệm của Nguyễn Du đối với tình yêu và hôn nhân. Nhà thơ ủng hộ tình yêu và hôn nhân hoàn toàn tự do, tự nguyện, vượt ra ngoài khuôn khổ, định kiến khắt khe của lễ giáo phong kiến đương thời. Thông thường, quan niệm Nho giáo cho rằng trong quan hệ nam nữ, bao giờ người con trai cũng phải đóng vai trò chủ động; nhưng ở đây, bất chấp sự hà khắc của luân lí, của dư luận, Nguyễn Du đã nhấn mạnh sự chủ động của Thúy Kiều. Nhà thơ thể hiện ước mơ về tình yêu tự do qua mối tình Kim - Kiều; điều đó chứng tỏ rằng ông đã có cái nhìn tiến bộ vượt trước thời đại.
Mối tình Thúy Kiều - Kim Trọng trong sáng, đẹp đẽ như vậy mà rồi phải tan vỡ nhanh chóng trước phong ba bão táp của chế độ phong kiến bạo tàn. Nhưng xã hội bất nhân chỉ đày đọa, vùi dập được tấm thân của Thúy Kiều chứ làm sao cướp được tình yêu tha thiết của nàng dành cho Kim Trọng? Có điều, tấm lòng kiên trinh, chung thủy của nàng không thể đương đầu nổi với bao nhiêu thế lực hung hãn trong xã hội vạn ác. Thời gian dẫu có trôi qua nhưng không thể dập lắt tình yêu trong tim Thúy Kiều. Mỗi khi nghĩ đến Kim Trọng, nàng luôn có tâm trạng băn khoăn, day dứt: Tiếc thay chút nghĩa cũ càng / Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng. Đoạn trích này góp phần giúp người đọc hiểu đúng và hiểu sâu hơn nội dung đoạn Trao duyên, vì đây là một kỉ niệm đẹp đối với Thúy Kiều và nàng sẽ nhớ mãi những chi tiết của đêm thề nguyền thiêng liêng này trong suốt cuộc đời.
Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích bài số 5
Truyện Kiều là một kiệt tác văn học nên đã có rất nhiều người yêu thích, sáng tác những tác phẩm văn thơ vịnh về Truyện Kiều. Trong đó có những câu thơ rất hay vịnh về nàng Kiều khi ở lầu Ngưng Bích.
“Một mình đối diện với mình
Mênh mông trăng gió vô tình thoảng qua
Mong manh như một nhành hoa
Ầm ầm tiếng sóng biết là về đâu?
Chưa đi đến thuở bạc đầu
Mà sao như đã nhuốm màu hư vô”?
Đó là những câu thơ người ta vịnh về tâm trạng của nàng Kiều khi Nguyễn Du miêu tả cảnh nàng bị Tú Bà giam lỏng ở lầu Ngưng Bích.
Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” nằm ở phần thứ hai “Gia biến và lưu lạc” của “Truyện Kiều”. Sau khi bán mình cho Mã Giám Sinh, Kiều “thất thân” với hắn “đuốc hoa để đó mặc nàng nằm trơ”, nàng bị hắn bán vào lầu xanh. Biết mình bị lừa và phải làm nghề dơ bẩn, Kiều uất ức, rút dao định tự vẫn. Tú Bà sợ hãi “Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma”, nhanh trí, mụ liền vờ hứa hẹn đợi Kiều bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế, rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới. Vì thế đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” dựng lên cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Thúy Kiều một mình bơ vơ nơi xứ người, đồng thời qua đoạn trích, người đọc thấy được bút pháp “tả cảnh ngụ tình” độc đáo, đạt tới trình độ điêu luyện bậc thầy của thiên tài văn học Nguyễn Du.
Trước hết là sáu câu thơ đầu, tác giả nêu lên hoàn cảnh sống và nỗi niềm cô đơn, tội nghiệp của nàng Kiều. Ngay câu thơ mở đầu: “Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân”, Nguyễn Du đã nêu bật lên cảnh ngộ đáng thương của Kiều. “Khóa xuân” tức khóa kín tuổi xuân và ở đây ý nói về việc Kiều đang bị giam lỏng. Vậy là tuổi thanh xuân của nàng Kiều bị giam hãm, khóa kín trong cấm cung và không được giao tiếp với bên ngoài. Vì thế, lầu Ngưng Bích như là nhà tù giam lỏng cuộc đời Kiều, nó cho thấy tình cảnh đáng thương, xót xa mà nàng Kiều phải chịu đựng.
Những câu thơ tiếp theo, tái hiện quang cảnh xung quanh lầu Ngưng Bích rộng lớn, mênh mông được nhìn dưới con mắt đầy tâm trạng của Kiều:
“Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”.
Nguyễn Du đã đặt Kiều trong một cảnh ngộ rất đặc biệt: một mình, cô đơn, trơ trọi giữa một không gian rộng lớn, mênh mông: “bốn bề bát ngát”. Đứng trên lầu mà ngước mắt lên trời cao, Kiều chỉ thấy “non xa” và “tấm trăng gần”. Nhìn xuống mặt đất chỉ thấy khoảng không trống vắng, xa xa là những con sóng lượn, những bãi cát dài phẳng lặng nối tiếp nhau, dưới ánh nắng của buổi chiều tà, bãi cát như trở nên lấp lánh giống như những bụi hồng. Cảnh thật đẹp, thơ mộng, lãng mạn nhưng đượm buồn. Bởi xung quanh Kiều, không hề có một chút bóng dáng sự sống của con người. Vì thế, từ “xa trông” như miêu tả cái nhìn xa xăm của Kiều, nàng đang cố gắng kiếm tìm một chút bóng dáng, sự sống xung quanh. Nhưng tuyệt nhiên chỉ là một không gian vắng lặng, tĩnh tại, không có chút động nhỏ bé nào đó xung quanh mình. Sau này trong bài thơ “Tràng Giang”, Huy Cận cũng từng có câu thơ:
“Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”.
Vì thế, ẩn sau ánh mắt nhìn “xa trông” như đang trông mong, ngóng chờ ấy là niềm mong mỏi, khát khao, đợi chờ một tương lai hạnh phúc phía trước nhưng trước không gian trống trải, hoang vắng ấy thì chắc chắn chỉ làm cho Kiều trở nên thất vọng, cô đơn hơn mà thôi.
“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”.
Tính từ “bẽ bàng” gợi lên sự xấu hổ và tủi thẹn của Kiều khi nghĩ đến thân phận và duyên phận của mình. Có lẽ, nàng cảm thấy xấu hổ là vì bị Mã Giám Sinh lừa vào lầu xanh, còn nàng cảm thấy tủi thẹn là vì cảm thấy không còn xứng đáng với tình cảm mà Kim Trọng mong chờ. Cụm từ “mây sớm đèn khuya” gợi nên vòng tuần hoàn thời gian khép kín và ẩn sau đó là sự cô đơn, đơn điệu, nhàm chán khi mà ở đó Kiều chỉ có một thân một mình đối diện với chính mình, sớm thì làm bạn với mây, tối thì lại chỉ biết trò chuyện với bóng đèn. Vì thế tâm trạng của Kiều mới chia đôi thành hai ngả: “nửa tình - nửa cảnh như chia tấm lòng”. Cảnh có đẹp đến bao nhiêu đi chăng nữa cũng không thể nào khỏa lấp đi tâm trạng “bẽ bàng” của nàng.
Tóm lại, bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, kết hợp với những từ ngữ giàu tính tạo hình và biểu cảm, Nguyễn Du đã phác họa được khung cảnh lầu Ngưng Bích rất rộng lớn, mênh mông và tuyệt nhiêu không có sự sống của con người. Đồng thời qua đó, tác giả còn cho thấy được tâm trạng cô đơn, tủi hổ, bẽ bàng của Kiều khi bị giam lỏng trong lầu Ngưng Bích.
Trong nỗi cô đơn cố hữu đang bủa vây quanh mình, khi một mình Kiều phải bơ vơ dưới góc bể chân trời ở lầu Ngưng Bích thì nỗi nhớ gia đình, nỗi nhớ người yêu đến như một lẽ tất yếu, rất phù hợp với qui luật tâm lí của con người xa quê. Tám câu thơ tiếp là nỗi niềm thương nhớ Kim Trọng và cha mẹ của Kiều. Đến đây, chúng ta thấy được cách dùng từ rất đắc địa, khéo léo của nhà thơ. Để diễn tả nỗi nhớ của Kiều dành cho chàng Kim, tác giả đã dùng động từ “Tưởng”. Tưởng là nhớ tới mức hình dung ra Kim Trọng đang ở trước mắt trò chuyện với Kiều. Kiều nhớ đến đêm trăng thề nguyện, hai người cùng uống chén rượu thủy chung, hứa sẽ bên nhau trọn đời. Nhưng bây giờ nàng đang phải lạc lõng nơi đất khách, nên nàng tưởng Kim Trọng đang đợi tin tức của mình, còn mình thì bặt vô âm tín:
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ”.
Rồi nàng băn khoăn tự hỏi:
“Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”.
Câu thơ có hai cách hiểu: Cách hiểu thứ nhất: Câu thơ như một lời khẳng định về tấm lòng son sắt, thủy chung của Kiều đối với Kim Trọng dù trên bước đường đời có phải trải qua bao sóng gió thì tấm lòng son ấy mãi vẹn nguyên. Cách hiểu thứ hai: câu thơ như một lời tự vấn lương tâm của Kiều, Kiều cho rằng tấm lòng son sắt của mình với Kim Trọng đã bị hoen ố, đã bị dập vùi khi Kiều đã thất thân với Mã Giám Sinh nên không biết bao giờ mới gột rửa cho sạch được vết nhơ nhuốc ấy. Như vậy, trong nỗi nhớ chàng Kim, Thúy Kiều không chỉ bộc lộ nỗi niềm mong ngóng khắc khoải mà còn bộc lộ cả nỗi đau đớn, cùng cực, tủi hổ đến xé tâm can. Qua đó cho thấy được tấm lòng thủy chung, son sắt của Kiều dành cho Kim Trọng.
Sau nỗi nhớ người yêu, Kiều tiếp tục nhớ tới cha mẹ - người thân yêu ruột thịt của mình:
“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt lồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”.
Nếu như khi diễn tả nỗi nhớ chàng Kim của Kiều, Nguyễn Du dùng động từ “tưởng” thì khi diễn tả tấm lòng hiếu lễ với cha mẹ của Kiều, tác giả lại sử dụng tính từ “Xót”. Xót nghĩa là thương, thương đến mức xót xa trong lòng. Không xót xa sao được khi một đứa con hiếu thảo như Kiều lại cứ nghĩ đến hình ảnh cha mẹ đang tựa cửa ngóng trờ con trở về, còn con thì vẫn bóng chim tăm cá, không thấy đâu. Nàng còn lo lắng cho cha mẹ khi mà đã tuổi cao sức yếu không biết có ai chăm sóc cho không, hai em có làm tốt nghĩa vụ và trách nhiệm của phận làm con hay không. Cụm từ “cách mấy nắng mưa” có tính chất gợi tả thời gian, cho thấy sự xa cách của biết bao ngày mưa nắng nhưng cũng đồng thời gợi đến khoảng cách về không gian địa lí, sự xa xôi cách trở giữa nàng với cha mẹ biết bao giờ được gặp lại để làm tròn bổn phận làm con. Qua tâm trạng xót xa, buồn tủi và lo lắng khi nhớ về cha mẹ, gia đình của Kiều, chúng ta thấy được tấm lòng thảo thơm, hiếu nghĩa của Kiều dành cho cha mẹ rất là lớn lao, cao cả và thiêng liêng.
Tuy nhiên, một nàng Kiều hiếu thảo với cha mẹ như thế, tại sao Kiều lại nhớ người yêu trước, sau đó mới nhớ đến cha mẹ của mình. Có được điều này là một dụng ý nghệ thuật độc đáo của tác giả. Bởi hình ảnh ánh trăng đang bắt đầu nhô lên nơi cửa ải xa xa kia khiến Kiều tức cảnh mà sinh tình, nhớ tới đêm trăng thanh thề nguyền giữa mình với Kim Trọng. Hơn thế, Kiều lại là một cô gái trẻ, Kim Trọng là mối tình đầu của nàng, mà mối tình đầu của một cô gái bao giờ cũng rất mãnh liệt. Chính vì vậy, Kiều luôn luôn nhớ tới Kim Trọng, hình ảnh Kim Trọng luôn thường trực trong lòng Kiều. Đặc biệt, Kiều đã bán mình chuộc cha và em, giúp gia đình thoát khỏi cơn tai biến thế là coi như Kiều đã tạm làm tròn bổn phận làm con đối với bậc sinh thanh; còn với Kim Trọng thì Kiều vẫn cảm thấy mình là một kẻ phụ tình và không còn trinh tiết, không còn xứng đáng với chàng Kim nữa. Đó là sự cắn rứt, đang dày vò trong trái tim nàng. Chính những lí do đó mà Nguyễn Du đã miêu tả nỗi nhớ của Kiều dành cho chàng Kim trước. Điều đó chứng tỏ Nguyễn Du là một thi sĩ rất am hiểu diễn biến tâm lí nhân vật. Sự am hiểu tâm lí ấy xuất phát từ tấm lòng yêu thương, trân trọng và ngợi ca con người của một nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa.
Bài thơ khép lại với tám câu thơ cuối thể hiện tâm trạng đau buồn, lo âu của Kiều qua cách nhìn cảnh vật.
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”.
Điệp ngữ “buồn trông” được lặp đi lặp lại bốn lần. Đây là điệp ngữ liên hoàn và đồng thời cũng là điệp khúc của tâm trạng. Kiều buồn nên Kiều mới trông cảnh vật, khác với đoạn trước, Kiều trông mới thấy buồn. Ở đây, vì buồn nên trông, mà càng trông thì Kiều lại càng buồn. Nỗi buồn cứ thế điệp đi điệp lại dâng lên thành lớp lớp sóng trào, cứ cuộn xoáy trong tâm khảm của Kiều mà trở thành gánh nặng tâm tư.
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu”?
Chiều hôm là khoảng thời gian của buổi chiều hoàng hôn, khi mà mặt trời đã dần dần ngả về tây, bóng tối bắt đầu xâm lấn. Xa xa là hình ảnh của một chiếc thuyền nhỏ bé, cô đơn thoát ẩn, thoát hiện thấp thoáng trên cửa biển; một cánh hoa đang trôi bất định trên dòng nước mà không biết đi về đâu. Hình ảnh chiếc thuyền, cánh hoa được đặt trong thế tương phản đối lập với vũ trụ không cùng của trời đất mênh mang càng tô đậm hơn sự nhỏ bé, đơn độc, đáng thương và tội nghiệp. Đây là hình ảnh ẩn dụ cho thân phận của Kiều lênh đênh, chìm nổi giữa dòng đời mà không biết trôi dạt về đâu. Và đứng trước một không gian bao la của trời đất, của buổi chiều hoàng hôn sắp tắt, nỗi nhớ nhà, nhớ người thân đến như một lẽ tất yếu trong lòng Kiều. Nhưng trong tình cảnh “bốn bề góc bể trơ vơ” thì Kiều biết bao giờ mới được sum họp, đoàn viên cùng với gia đình, người yêu. Vì thế câu hỏi tu từ cứ réo rắc, khắc khoải trong lòng của Kiều, dấy lên niềm khao khát được trở về nhà, trở về quê hương nơi chôn rau cắt rốn của mình.
“Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”.
Ngước mắt trông về phía xa của cửa biển Kiều chỉ càng cảm thấy rộng trống, cơ đơn, buồn tủi. Kiều quay trở về nhìn xuống mặt đất quanh mình để tìm kiếm sự sống của cảnh vật xung quanh thì lại chỉ thấy những đám cỏ xanh héo úa, lụi tàn. Hình ảnh “nội cỏ rầu rầu” là một hình ảnh nhân hóa, biểu hiện tâm trạng của con người. Lòng người buồn nên nhìn đâu cũng thấy buồn; nỗi buồn của Kiều như thấm vào cảnh vật khiến cho cảnh vật cũng nhuốm màu tâm trạng. Trong văn học từ xưa tới nay, màu sắc xanh thường khiến chúng ta nghĩ tới màu của sự sống, của sự sinh sôi bất diệt. Nhưng cũng có trường hợp, màu xanh có khi trở thành màu sắc của bi kịch con người. Bài thơ “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn đã diễn tả nỗi nhớ của người chinh phụ đối với người chồng của mình nơi biên ải qua màu xanh ngắt của cỏ lá:
“Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiết ai sầu hơn ai?”
Như vậy, màu xanh ngắt, xanh xanh của cỏ lá đã trở thành màu của sự xa cách, sự li biệt và nhạt nhòa. Nay từ “xanh xanh” lại xuất hiện trong câu thơ của Nguyễn Du nên màu sắc ấy biểu trưng cho sự nhạt nhòa, sự chán nản, vô vọng của Kiều trước một khung cảnh thiếu vắng sự sống, cô đơn, và tẻ nhạt.
“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”.
Nếu như những bức tranh thiên nhiên bên trên đều được tái hiện trong trạng thái tĩnh thì khép lại bài thơ, bức tranh thiên nhiên được miêu tả trong trạng thái động. Đó là âm thanh dữ dội của gió, của sóng; gió làm cho mặt biển tung lên những con sóng ồ ạt đập vào bờ mà phát ra tiếng kêu. Nhưng quan trọng, tiếng sóng ấy không đơn thuần là những con sóng thực ở ngoài biển khơi mà đó còn là con sóng lòng của tâm trạng. Diệp khúc “buồn trông” ở những câu thơ trên kết đọng, tích tụ rồi dồn đẩy xuống câu thơ cuối khiến cho nỗi buồn ngày càng trở nên chồng chất như lớp lớp sóng trào. Đồng thời, tiếng sóng “ầm ầm” dữ dội ấy cũng chính hình ảnh ẩn dụ cho cuộc đời phong ba bão táp đã và đang đổ ập xuống đời Kiều, đổ ập xuống đôi vai gầy yếu của một cô gái trẻ đáng thương và tội nghiệp. Vì thế lúc này Kiều không chỉ buồn mà còn lo lắng, sợ hãi như đang rơi vào vực thẳm một cách bất lực.
Qua tám câu thơ cuối, Nguyễn Du đã sử dụng thật tài tình bút pháp “tả cảnh ngụ tình” của văn học cổ điển để diễn tả tâm trạng “tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này” của Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. Mỗi câu thơ là một bức tranh thực cảnh cũng chính là thực tình của một con người mang trong mình nỗi buồn đau chồng chất. Đó là nỗi đau đớn, xót xa, lo lắng và khắc khoải của một kiếp má đào, trôi nổi, vô định, mong manh và bế tắc không biết đi về nơi đâu. Vì thế, dù nàng “Thông minh vốn sẵn tính trời” nhưng đang đứng trước sự tuyệt vọng, yếu đuối của bản thân, Kiều đã bị Sở Khanh lừa gạt để rồi dấn thân vào một cuộc đời đầy sóng gió, truân chuyên “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”.
Qua việc phân tích ở trên, chúng ta thấy đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những đoạn thơ hay, đặc sắc và thành công nhất trong Truyện Kiều về nghệ thuật miêu tả, khắc họa thế giới nội tâm nhân vật và nghệ thuật “tả cảnh ngụ tình”. Qua đoạn thơ chúng ta thấy được cảnh ngộ cô đơn, đáng thương, tội nghiệp và tấm lòng thủy chung son sắt với người yêu, hiếu thảo với cha mẹ của nàng Kiều, một con người tài hoa mà bạc mệnh!
-/-
Trên đây là những gợi ý của Đọc tài liệu về cách làm bài văn phân tích một đoạn trích tự chọn trong tác phẩm Truyện Kiều kèm theo một số bài văn mẫu dành cho các em đọc tham khảo trước khi viết. Ngoài ra, các em có thể tìm đọc thêm các bài Văn mẫu lớp 11 khác do Đọc tài liệu biên soạn để cải thiện và nâng cao kĩ năng viết văn.