Phân tích lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn trong Hịch tướng sĩ

Xuất bản: 20/08/2023 - Tác giả:

Phân tích lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn trong Hịch tướng sĩ với những bài văn mẫu tuyển chọn giúp học sinh hiểu thêm về tinh thần yêu nước của Trần Quốc Tuấn

Hịch tướng sĩ là tác phẩm khích lệ tinh thần các tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, đồng thời bài hịch cũng thể hiện rõ ràng tinh thần yêu nước của ông. Đọc tài liệu sẽ cùng các em phân tích tình yêu nước của Trần Quốc Tuấn thông qua bài Hịch tướng sĩ với những bài văn mẫu dưới đây.

Tìm hiểu chung
tinh thần yêu nước của Trần Quốc Tuấn trong Hịch tướng sĩ

Chi tiết thể hiện tinh thần yêu nước trong Hịch tướng sĩ

Lòng yêu nước, căm thù giặc của Trần Quốc Tuấn thể hiện qua những chi tiết:

- Nỗi đau trước cảnh nước mất nhà tan được diễn tả thống thiết: "Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”. Uất hận trào dâng đến cực điểm khi tác giả bộc lộ thái độ của mình đối với kẻ thù: chỉ căm tức chưa được xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù.

- Vị tướng đã tự xác định một tinh thần hi sinh hết mình cho đất nước: “Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.”

→ Qua những câu văn chân thành và xúc động, những lời tâm huyết, ruột gan của Trần Quốc Tuấn, ta có thể cảm nhận sâu sắc được tấm lòng yêu nước nồng nàn cùng tinh thần căm thù giặc cực độ của ông.

Sơ đồ tư duy

Dàn ý Phân tích lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn trong Hịch tướng sĩ

I. Mở bài

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm.

– Nêu vấn đề: “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn, là một tác phẩm thể hiện lòng yêu nước nồng nàn của vị chủ tướng.

II. Thân bài

1. Lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn thể hiện ở lòng căm thù giặc.

– Vạch trần bản chất xâm lược của giặc phương Bắc qua hình ảnh tên sứ giặc:

+ “đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ”.

→ Giặc đã xúc phạm đến quốc thể và niềm tự tôn dân tộc.

+ Hai hình ảnh ẩn dụ “lưỡi cú diều”, “thân dê chó” cùng với từ gợi tả “nghênh ngang”: thể hiện thái độ ngạo mạn, hống hách của giặc

→ Thể hiện lòng căm thù giặc và khinh bỉ đối với sứ giặc của Trần Quốc Tuấn, khơi gợi ý thức dân tộc đối với các tướng sĩ.

– Giặc tìm đủ trăm phương ngàn kế mà “đòi”, mà “thu”, mà “vét” tài sản quý báu của ta, bóc lột dân ta đến tận xương tủy.

– Trần Quốc Tuấn gọi sứ giặc là “hổ đói” gợi tả sự tham tàn của bọn ngụy sứ. Qua đó cho ta thấy cái nhìn sáng suốt và cảnh giác của vị chủ tướng.

2. Lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn thể hiện ở nỗi lòng lo lắng trước vận mệnh đất nước, đau xót trước nỗi đau của nhân dân.

– Lo lắng đến quên ăn quên ngủ trước tình cảnh ngàn cân treo sợi tóc của đất nước: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”.

– Là vị chủ soái nên trách nhiệm của ông càng nặng. Vì vậy, nỗi lo cứ thường trực trong lòng, cứ nặng trĩu cả ngày lẫn đêm. Đó là lời tâm sự sâu kín nhất mà ông bày tỏ với các tướng sĩ, mong họ hiểu mình, chia sẻ nỗi lo cùng mình và có ý thức trách nhiệm giết giặc cứu nước.

– Đó là thái độ căm phẫn, quyết không dung tha lũ giặc cướp nước “chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù”. Các động từ mạnh kết hợp với phép tăng cấp, thậm xưng đã diễn tả sâu sắc lòng căm thù giặc, quyết không đội trời chung với bọn giặc.

– Khép lại đoạn văn là lời nguyền của Trần Quốc Tuấn “dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng vui lòng” đã nêu cao ý chí quyết tâm chiến đấu, sẵn sàng hi sinh để rửa hận cho nước, rửa nhục cho dân, bảo vệ chủ quyền dân tộc, lấy lại danh dự cho triều đình.

3. Lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn thể hiện trong thái độ chăm sóc quan tâm đối với các tướng sĩ dưới quyền.

– “Các ngươi ở cùng ta coi giữ binh quyền đã lâu, không có… lương ít thì ta cấp bổng…” ông quan tâm đến họ về nhiều mặt, kịp thời, sống có thủy có chung, đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi với họ.

– Để rồi từ đó tác giả phê phán thái độ bàng quan, vô trách nhiệm, ăn chơi hưởng lạc. Phê phán thật nghiêm khắc. Ông muốn họ hiểu rằng chiến đấu cho chính cuộc sống của họ.

– Bài hịch chứa đựng tình cảm yêu nước và khí phách anh hùng, đồng thời còn mang tính nghệ thuật độc đáo, xứng đáng là áng văn thiên cổ hùng văn trong lịch sử văn học nước nhà.

III. Kết bài

- Khái quát vấn đề. Nêu suy nghĩ của bản thân về lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn.

- Bài học cho thế hệ trẻ ngày nay.

Phân tích Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn giúp học sinh hiểu rõ ý nghĩa từng câu trong bài hịch mà Trần Quốc Tuấn nhắn nhủ nỗi lòng của mình tới tướng sĩ.

9 bài văn hay
Phân tích lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn trong Hịch tướng sĩ

Cùng Đọc tài liệu tham khảo một số bài văn mẫu dưới đây để có thêm tư liệu bổ sung cho bài văn của mình.

Phân tích lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn - Mẫu 1

Từ xưa tới nay, trong suốt 4000 năm văn hiến, nhân dân ta luôn có một tấm lòng yêu nước nồng nàn, thủy chung son sắt, từ thời bình đến thời chiến, ta chưa một ngày đánh mất hay làm phai mờ tấm lòng ấy. Đó là một truyền thống quý báu của dân tộc ta. Tình yêu nước được thể hiện trong nhiều khía cạnh, từ những người anh hùng đứng lên cầm súng, cầm gươm giết giặc, đến những nghệ sĩ với ngòi bút tinh tế điêu luyện, viết ra những tác phẩm thật sâu sắc, ẩn chứa lòng yêu nước thiết tha. Trần Quốc Tuấn là tổng hòa của cả hai yếu tố ấy, điều đó thể hiện trong lịch sử và bài Hịch tướng sĩ.

Trần Quốc Tuấn (1231-1300), tước là Hưng Đạo đại vương, ông có công lớn trong cuộc chiến chống quân Mông – Nguyên, là một vị tướng tài ba của nhà Trần trong những năm triều đình hưng thịnh. Hịch tướng sĩ thuộc thể loại hịch. Hịch thường do vua chúa, tướng lĩnh thủ lĩnh viết để cổ vũ, khích lệ tinh thần của quân sĩ tham gia chống giặc, giọng văn tình cảm, hùng hồn, mạnh mẽ thể hiện được tinh thần của người viết, có sức lan tỏa. Thường sử dụng các câu văn biền ngẫu, hoa mĩ, trang trọng.

Văn bản thể hiện tấm lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn rất sâu sắc, có phong thái của một vị chủ tướng thống lĩnh ba quân, có trách nhiệm. Vì yêu nước, vì muốn chiến thắng quân Mông-Nguyên nên ngài viết bài Hịch để kêu gọi, ủng hộ, củng cố tinh thần tướng sĩ. Sau khi nói về những tấm gương sáng về lòng yêu nước chiến đấu hết mình Tổ quốc trong lịch sử thời Xuân Thu chiến quốc, nói về tình hình địch ta. Trần Quốc Tuấn bắt đầu bày tỏ nỗi lòng của mình, từng câu từng chữ nghe thật thấm thía, ngậm ngùi. Trước hết là ở thái độ căm tức khi chứng kiến cảnh “Ngó thấy sự giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, để thoả lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, vét của kho có hạn, thật khác nào đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi để tai hoạ về sau!”. Sự so sánh thật gay gắt, ví quân giặc như lũ thú vật ác ôn là diều hâu, cú mèo, vốn là những thứ xui xẻo, bị người đời khinh ghét. Rồi lại coi chúng chẳng khác nào loài gia súc như dê chó, tất cả những điều đó đều nhằm thể hiện thái độ khinh ghét, lòng căm phẫn sự nghênh ngang, vô sỉ của quân cướp nước. Ông yêu nước lại thương dân nên khi gặp cảnh giặc thù giày xéo quê hương, thì thân là chủ tướng mà trước hết là con dân Đại Việt ông luôn có một mối trăn trở, day dứt đến nỗi “tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, nước mắt đầm đìa”. Đó là nỗi lo lắng đến mất ăn mất ngủ, nỗi đau xót khôn cùng khiến bậc đại trượng phu cũng phải khóc than. Là lòng căm thù quân giặc cùng cực “chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù”. Đó là tấm lòng nguyện hy sinh máu xương cho Tổ quốc “dẫu trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa cũng cam lòng”, đó là tấm lòng thật đáng quý trân trọng biết bao. Và hơn thế Trần Quốc Tuấn muốn lan tỏa tấm lòng ấy tình cảm ấy đến toàn thể các binh sĩ, khơi dậy trong họ lòng yêu nước, tinh thần hy sinh, lòng căm thù quân giặc. Ông dùng những lời lẽ động viên hết sức chân thành và thuyết phục “Giặc với ta là kẻ thù không đội trời chung, các ngươi cứ điềm nhiên không biết rửa nhục, không lo trừ hung, không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo mà chịu đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy rồi đây sau khi giặc đã dẹp yên, muôn đời để thẹn, há còn mặt mũi nào đứng trong trời đất nữa?”. Đánh đòn tâm lý, vào cái tinh thần yêu nước tiềm tàng của quân sĩ, vào cái lòng tự tôn dân tộc vốn đã tồn tại từ rất lâu chỉ đợi có người khơi gợi.

Hơn thế nữa, ông còn có một tấm lòng nhân hậu, yêu thương và quan tâm đến binh sĩ của mình mà nền tảng là tấm lòng yêu nước thương dân sâu sắc. Ông hết mực lưu tâm đến cuộc sống của họ, đối đãi công bằng, người có công thì được thưởng, cơm ăn áo mặc, thăng quan tiến chức đều đủ cả. Chủ tướng sát cánh cùng binh sĩ, sống chết có nhau, lúc thanh bình lại tán gẫu đàm đạo vui cười, quả thực là gần gũi thân thiết vô cùng. Rồi ông phê phán những kẻ bàng quan trước thế sự, không biết lo nghĩ, quên hết ân tình của chủ của đất nước, chỉ ham những thú vui chọi gà, đánh bạc tầm thường, ham vui thú đồng ruộng, vợ con, hay nghe hát kịch mà chẳng biết quân giặc đã mò đến tận cổng. Đó là không biết lo, không biết nhục. Ông vẽ ra viễn cảnh đất nước bị giặc thôn tính, nhân dân lầm than, mà trước hết là các binh lính sẽ chết trong nỗi nhục ê chề trăm năm, ngàn năm vì không bảo vệ được đất nước, được gia đình, “đau xót biết chừng nào!”. Sau đó ông vẽ ra viễn cảnh thái bình thịnh trị, vui vẻ nếu đánh bay quân giặc, câu nào cũng thật chí lý, thật hay, khiến người ta nghe mà hưng phấn và vui mừng, tinh thần binh lính lập tức được dâng cao hẳn, người người nhà nhà muốn ra sa trường bêu đầu giặc cho thỏa chí nam nhi.

Lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn còn thể hiện qua việc ông dồn hết tâm sức viết cuốn Binh thư yếu lược để cho binh sĩ đọc và học tập, để nâng cao binh pháp, tinh thần chiến đấu. Đó là tấm lòng chân thành tha thiết của người chủ tướng gửi gắm đến binh sĩ của mình. Ông chỉ có một mơ ước sao cho nước nhà sạch bóng quân thù, để muôn dân được ấm no, không phải chịu nỗi nhục mất nước, nỗi đau ly tán. Chỉ cần thế thì người chủ tướng như ông đã chẳng còn gì phải hối tiếc. Ôi một tấm lòng thật đẹp!

Qua tác phẩm Hịch tướng sĩ, với giọng văn vừa hùng hồn mạnh mẽ lại tràn đầy tình cảm có sức lay động tâm hồn của Trần Quốc Tuấn. Ta có thể thấy được tấm lòng yêu nước yêu dân của vị anh hùng đáng kính, ông tựa như một người cha, với những lời lẽ thật tâm huyết cho những đứa con còn nhỏ dại, còn mơ hồ về tình trạng đất nước. Qua đó thể hiện lòng yêu nước tha thiết, lòng căm thù quân thù sâu sắc cảu Trần Quốc Tuấn.

Phân tích lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn - Mẫu 2

Trần Quốc Tuấn là một vị tướng văn võ song toàn, người đã có công lớn trong hai cuộc kháng chiến chống giặc Mông. Tên của ông luôn mãi được khắc sâu trong tâm trí mỗi người dân Việt Nam cùng với những trang sử vàng của dân tộc. Hịch tướng sĩ từ xưa đã được xem là một "thiên cổ hùng văn" bất hủ của dân tộc. Bài hịch là sự kết tinh sâu sắc của truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm, là kết tinh của ý chí và sức mạnh quật cường của dân tộc qua mấy trăm năm lịch sử. Qua bài hịch, Trần Quốc Tuấn đã thể hiện mạnh mẽ lòng yêu nước thiết tha và căm thù giặc sâu sắc của vị chủ tướng một lòng vì nước vì dân.

Hịch tướng sĩ được Trần Quốc Tuấn viết vào năm 1282 và trước hội nghị quân sự Bình Than của các vương hầu. Đó là một luận văn quân sự nổi tiếng trong lịch sử dân tộc, là lời kêu gọi chiến đấu quyết tâm đánh thắng quân xâm lược để bảo vệ sơn hà xã tắc của ông cha ta hơn bảy trăm năm về trước từng làm sôi sục lòng người. Có ý kiến cho rằng: Hịch tướng sĩ là khúc tráng ca anh hùng sáng ngời hào khí Đông – A. Hịch tướng sĩ đã đạt thành công đầu tiên của mình bằng cách sử dụng chất giọng hùng hồn, thuyết phục hiếm có. Chất hùng văn của ông được tạo nên từ nghệ thuật trữ tình hùng biện và tình cảm mãnh liệt, nồng cháy trong tim người anh hùng dân tộc. Đó là ngọn lửa của tình yêu nước thiết tha và ý chí quyết tâm chống giặc cứu nước.

Bài hịch của ông là sự kết hợp tuyệt vời giữa sức mạnh của từng từ và tình cảm cháy bỏng, ý chí quyết chiến quyết thắng giặc thù. Tất cả những điều này đã tạo nên chất nhân văn cao đẹp của bài hịch. Trong bài hịch, vị chủ tướng đã nêu cao gương sáng của các anh hùng nghĩa sĩ đã quên mình vì chúa Kỷ Tín, Do Vu, Dự Nhượng, Thân Khoái, Kính Đức, Cảo Khanh hay anh dũng chống giặc hy sinh vì nước. Đó là những tấm gương tiêu biểu, được lưu truyền trong nhân gian, không ai mà không biết. Tuy nhiên, dưới lời văn của Trần Quốc Tuấn, các tấm gương này lại được nâng cao lên nhiều lần, trở thành điều tâm niệm mà mỗi tướng sĩ nên có. Tình yêu nước theo vị chủ tường, trước hết là phải biết sống anh hùng và lập nên những chiến công hiển hách, lưu danh thiên cổ. Bằng lời văn ngắn gọn, súc tích, Trần Quốc Tuấn đã đánh động được nỗi lòng của các tướng sĩ, khiến họ nhìn lại bản thân mình và thấy được giá trị của tình yêu nước và tấm gương các anh hùng nghĩa sĩ.

Tình yêu quê hương được Hưng Đạo Vương thể hiện bằng sự căm thù đối với kẻ thù. Ngọn lửa yêu nước mãnh liệt bao trùm, khiến lòng căm phẫn trước sự tàn ác của quân giặc càng cháy bỏng hơn. Hưng Đạo Vương đã lộ ra tội ác của quân thù, đó là sự ngang ngược, huênh hoang và tàn bạo. Quân giặc đầy tham lam, hành động tàn ác như bọn cầm thú, gian mãnh, hung tàn. Họ có những hành động đáng xấu hổ như lén nhìn sứ ngụy đi lại, lăng nhục triều đình bằng cách uốn éo lưỡi và khinh rẻ tổ phụ bằng cách lăng nhục đồng bào. Họ còn đòi ngọc lụa để phục vụ lòng tham khảo cùng, đeo bằng hiệu Vân Nam Vương để tích trữ kho báu vô giá. Tinh thần đó còn được thể hiện qua nỗi lòng của một vị tướng luôn lo lắng cho vận mệnh của dân tộc đang đối mặt với nguy cơ hiểm nghèo, và quê hương đang đứng trước một hiểm họa lớn, khó lòng giữ vững độc lập và toàn vẹn.

Tác giả thương xót và lo lắng, trăn trở cho tình hình đất nước lúc này. Quân giặc phá phách trên quê hương, dân chúng lầm than, chết chóc thảm hại, khiến nỗi lòng kẻ sĩ không yên: “ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”. Nỗi căm tức biến thành hành động, mạnh mẽ và dứt khoát: “Dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm”. Một nỗi căm phẫn đến tột cùng của một trái tim thấm đẫm tình yêu nước, yêu nhân dân. Một ý chí quyết tâm tột độ, dẫu cho phải có hi sinh tất cả cũng phải giết được lũ giặc bất nhân, phi nghĩa. Trần Quốc Tuấn không khỏi băn khoăn lo lắng, đến độ quên ăn, mất ngủ, xót xa như đứt từng khúc ruột. Nỗi niềm ấy được chuyển hóa, nâng lên thành niềm uất hận ngàn thâu, chứa chan trong lòng khi chưa rửa được nhục cho tổ quốc, quyết không đội trời chung với giặc: “xả thịt lột da, nuốt gan, uống máu quân thù.” Không chỉ căm thù giặc mà trần Quốc Tuấn còn nguyện hy sinh thân mình cho sự nghiệp đánh đuổi ngoại xâm, giành lại độc lập cho dân tộc. Trần Quốc Tuấn quả là một con người yêu nước thương dân, ông đúng là tấm gương sáng cho binh sĩ noi theo để mà biết hy sinh bản thân vì nước vì dân. Một vị tướng tài ba, ngoài lòng yêu nước, họ còn phải biết yêu thương binh sĩ. Và Trần Quốc Tuấn đã hội tụ đủ những yếu tố đó. Ông luôn quan tâm, chia sẻ, xem binh sĩ như những người anh em khi xông pha trận mạc cũng như khi thái bình: “không có mặc thì ta cho cơm, không có ăn thì ta cho cơm, quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì ra cấp bổng, đi thủy thì cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa”. Thật là cảm động thay cho tình sâu nghĩa nặng của ông đối với binh sĩ. Cũng chính nhờ tình cảm đó đã thắp lên ngọn lửa yêu nước trong lòng họ.

Tinh thần yêu nước được thể hiện thông qua đoàn kết và khích lệ đồng bào, đặc biệt trong việc chống giặc cứu nước. Những lời chân tình thắm thiết ghi lại những tình cảm yêu thương và lo lắng của vua đối với binh sĩ. Vua không chỉ đưa ra những lời khuyên nhẹ nhàng, mà còn phê phán quyết liệt những hành động sai trái của binh sĩ, như thờ ơ, bàng quan trước vận mệnh của đất nước. Ông nói rằng: "Nếu thấy nước nhục mà không lo, thấy chủ nhục mà không thẹn, thì làm sao tướng triều đình có thể hầu quân giặc mà không tức giận". Những hành động hưởng lạc, ham vui, và quên mất trách nhiệm đối với vận mệnh của đất nước, như chơi đùa, đánh bạc, vui chơi, hoặc quá mải mê với gia đình và công việc riêng, đều làm giảm chất lượng và hiệu quả của binh sĩ trong việc bảo vệ đất nước. Những lời giáo huấn của vua có ý nghĩa rất sâu sắc, nó giúp đánh thức những binh lính lạc lối và lầm đường trở lại con đường đúng đắn, đồng thời rèn luyện ý thức về độc lập dân tộc. Vua cũng chỉ ra rằng, trong bối cảnh nguy cơ bị xâm lược từ nước ngoài, việc đoàn kết và cảnh giác là rất quan trọng, và việc học "Binh thư yếu lược" do trần Quốc Tuấn biên soạn cũng là một cách để rèn luyện kỹ năng và chiến thắng quân thù.

Bài Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn phản ánh tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc ta nói chung và Trần Quốc Tuấn nói riêng trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Nó được thể hiện qua lòng căm thù giặc, ý chí quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược và những tình cảm dành cho tướng sĩ dưới trướng. Hịch tướng sĩ là một áng văn nghị luận mẫu mực, bất hủ với kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc sảo, lý lẽ sắc bén, dẫn chứng phong phú, sinh động và lời văn khi hùng hồn đanh thép, khi thống thiết chân thành có sức lôi cuốn và sức thuyết phục mạnh mẽ. Với bài hịch ngắn gọn, súc tích, Trần Quốc Tuấn đã viết nên một bản hùng ca vang mãi đến muôn đời.

Trên đây Luật Minh Khuê đã chia sẻ cho các bạn bài văn mẫu Phân tích lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn qua tác phẩm Hịch tướng sĩ. Thông qua tác phẩm ta hiểu thêm một vị tướng tài ba Trần Quốc Tuấn cũng là một vị tướng văn võ song toàn, người đã có công lớn trong hai cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm. Hy vọng bài viết trên đây sẽ giúp các bạn học tập tốt! Trân trọng cảm ơn.

Phân tích lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn trong Hịch tướng sĩ - Mẫu 3

Lòng yêu nước vốn là cảm hứng xuyên suốt chiều dài văn học. Được viết trong thời điểm giặc Mông Nguyên sắp xâm lược nước ta lần 2, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn đã bộc lộ sâu sắc tình yêu nước và tinh thần trách nhiệm của vị chủ tướng trước giặc ngoại xâm.

Trước hết, Hịch tướng sĩ là áng văn tràn đầy tinh thần yêu nước. Tình yêu nước ấy được bộc lộ rõ nét qua lòng căm thù giặc sâu sắc. Bằng những từ ngữ giàu hình ảnh, biện pháp ẩn dụ, hình thức đỗi ngẫu, quân giặc hiện lên trong sự hống hách ngang ngược và vô lối, tham lam: đi lại nghênh ngang, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu vàng bạc, vét của kho có hạn. Từ việc vạch trần bản chất xấu xa, đê hèn của quân giặc, Trần Quốc Tuấn đã khơi dậy lòng căm thù giặc sâu sắc và lòng tự tôn dân tộc.

Bên cạnh ý thức về vận mệnh của quốc gia, dân tộc trước họa xâm lăng, Trần Quốc Tuấn còn có tinh thần trách nhiệm đối với sự bình yên của non sông, đất nước. Qua nghệ thuật ẩn dụ, so sánh và lối nói khoa trương, phóng đại, ta phần nào thấu hiểu được tâm trạng đau đớn đến tột độ của vị chủ tướng: "Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa. Chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan, uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng vui lòng". Mượn những hình ảnh so sánh, ẩn dụ có phần khoa trương, phóng đại thường dùng trong văn chương cổ, tác giả đã bộc lộ trực tiếp tâm trạng của mình. Đó là tâm trạng đau đớn, luôn lo lắng, dằn vặt vì vận mệnh của quê hương, đất nước. Suy cho cùng, tâm trạng ấy cũng xuất phát từ tinh thần trách nhiệm cao cả của tác giả, không thể nhắm mắt làm ngơ trước nguy cơ đất nước rơi vào tay kẻ thù.

Với lòng căm thù giặc sục sôi, tác giả khao khát được trừng trị quân giặc bằng những hình thức ghê gớm nhất: xả thịt, lột da, uống máu mới xả hết được lòng căm giận. Mỗi dòng, mỗi chữ ở đây đều là một tấc lòng và tâm huyết của vị Quốc công tiết chế, nó không khỏi làm cho người đọc có niềm xúc động, cảm thông sâu sắc. Từ tinh thần trách nhiệm và bổn phận của mình, tác giả nêu cao ý chí quyết chiến, sẵn sàng hy sinh để báo ơn và bảo vệ đất nước. Tinh thần ấy được ông truyền sang tướng sĩ để khích lệ ý chí chiến đấu của họ. Ông thể hiện một thái độ rõ ràng, dứt khoát: "Giặc với ta là kẻ thù không đội trời chung, các ngươi cứ hiển nhiên không biết rửa nhục, không lo trừ hung, không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo mà chịu đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy rồi đây sau khi giặc đã dẹp yên, muôn đời để thẹn, há còn mặt mũi nào đứng trong trời đất nữa?".

Đối với binh lính dưới quyền, Trần Quốc Tuấn không chỉ là một vị chủ tướng mà còn như một người cha, luôn quan tâm, lo lắng cho họ: nhường cơm sẻ áo, chia ngọt sẻ bùi, cùng đồng cam cộng khổ, vào sinh ra tử, xông pha vào trận mạc. Nhằm khích lệ ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi người, ông cũng không quên phê phán những trò tiêu khiển, thú ăn chơi hưởng lạc và những suy nghĩ cá nhân ích kỉ sẽ để lại những hậu quả khôn lường đối với gia đình, đất nước và chính bản thân họ. Từ đó mà ông khuyên họ nêu cao tinh thần cảnh giác, tích cực luyện tập, sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng.

Bài hịch kết hợp hài hòa giữa yếu tố chính luận và văn chương đã phản ánh tinh thần yêu nước nồng nàn của vị chủ tướng, cũng là của dân tộc ta trong thời đại bấy giờ. Vì vậy, tác phẩm mãi mãi là áng thiên cổ hùng văn trong lịch sử dân tộc.

Phân tích lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn trong Hịch tướng sĩ - Mẫu 4

Trần Quốc Tuấn (1231 - 1300) - người đã được vua Trần giao cho thống lĩnh quân đội, đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên thắng lợi vẻ vang. Người nổi tiếng là biết trọng kẻ sĩ thu phục nhân tài. Trần Quốc Tuấn là một người anh hùng dân tộc, nhà quân sự thiên tài, lòng yêu nước của ông được thể hiện rõ qua văn bản "Hịch tướng sĩ", văn bản khích lệ tướng sĩ học tập cuốn "Binh thư yếu lược" do ông biên soạn.

Trước sự lâm nguy của đất nước, lòng yêu nước thiết tha của vị chủ soái Trần Quốc Tuấn được thể hiện ở lòng căm thù sục sôi quân cướp nước. Ta hãy nghe ông kể tội ác của giặc: "Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, để thoả lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, vét của kho có hạn, thật khác nào đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi để tai hoạ về sau!". Tác giả gọi giặc là "cú diều, dê chó, hổ đói" không chỉ vạch trần sự tham lam, độc ác mà còn vạch rõ dã tâm xâm lược của giặc; thể hiện sự khinh bỉ, căm ghét tột độ. Không chỉ kể tội ác của giặc mà Trần Quốc Tuấn còn bày tỏ nỗi đau xót trước nỗi nhục của quốc thể, nỗi đau đớn xót xa. Đó là biểu hiện của sự sẵn sàng xả thân để rửa nhục cho nước, để bảo vệ nền độc lập của dân tộc, khát vọng xả thân cho đất nước: "Chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan, uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng vui lòng".

Qua bài hịch, Trần Quốc Tuấn không chỉ thể hiện lòng căm thù sục sôi quân cướp nước mà còn thể hiện ý chí quyết chiến, quyết thắng, quyết xả thân cho độc lập dân tộc. Ông vạch ra hai con đường chính - tà cũng là một con đường sống chết để thuyết phục tướng sĩ. Trần Quốc Tuấn biểu lộ một thái độ dứt khoát: hoặc là địch hoặc là ta, không có vị trí chông chênh cho những kẻ bàng quan trước thời cuộc. "Giặc với ta là kẻ thù không đội trời chung, các ngươi cứ điềm nhiên không biết rửa nhục, không lo trừ hung, không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo mà chịu đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy rồi đây sau khi giặc đã dẹp yên, muôn đời để thẹn, há còn mặt mũi nào đứng trong trời đất nữa?", đó là lời động viên tới mức cao nhất ý chí và quyết tâm chiến đấu của mọi người.

Tình yêu thương chân thành, tha thiết dành cho tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn đều được xuất phát từ lòng nhân hậu, từ lòng yêu nước. Với quân sĩ dưới quyền, Trần Quốc Tuấn luôn đối xử như với con mình, với những người quen: "Các ngươi cùng ta coi giữ binh quyền đã lâu ngày, không có mặc thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho cơm; quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì ta cấp bổng; đi thuỷ thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa; lúc trận mạc xông pha thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà nhàn hạ thì cùng nhau vui cười". Đó là mối ân tình giữa chủ và tướng nhằm khích lệ ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi người đối với lẽ vua tôi cũng như tình cốt nhục. Chính tình yêu thương tướng sĩ chân thành tha thiết mà Trần Quốc Tuấn đã phê phán những biểu hiện sai, đồng thời chỉ ra cho tướng sĩ những hành động đúng nên theo, nên làm. Những hành động này đều xuất phát từ ý chí quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược. Đó là sự băn khoăn trước tình trạng tướng sĩ không biết lo lắng cho đất nước: không thấy lo, thấy thẹn khi nhà vua và đất nước bị kẻ thù làm nhục; chỉ biết vui thú tiêu khiển, lo làm giàu, ham săn bắn, thích rượu ngon, mê tiếng hát,... Nguy cơ thất bại rất lớn khi có giặc Mông Nguyên tràn sang: "cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp của giặc, mẹo cờ bạc không thể dùng làm mưu lược nhà binh; dẫu rằng ruộng lắm, vườn nhiều, tấm thân quí nghìn vàng khôn chuộc; vả lại vợ bìu con díu; việc quân cơ trăm sự ích chi; tiền của tuy nhiều không mua được đầu giặc, chó săn tuy khoẻ không đuổi được quân thù, chén rượu ngon không thể làm cho giặc say chết, tiếng hát hay không thể làm cho giặc điếc tai. Lúc bấy giờ, ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào!". Chính lòng yêu nước mà Trần Quốc Tuấn đã chỉ ra cho tướng sĩ những hành động nên làm: "Nay ta bảo thật các ngươi: nên nhớ câu "đặt mồi lửa vào giữa đông củi là nguy cơ, nên lấy điều "kiềng canh nóng mà thổi rau nguội" "làm run sợ. Huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên"...

Bài Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn phản ánh tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc ta nói chung và Trần Quốc Tuấn nói riêng trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Nó được thể hiện qua lòng căm thù giặc, ý chí quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược và những tình cảm dành cho tướng sĩ dưới trướng.

Phân tích lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn trong Hịch tướng sĩ - Mẫu 5

Trước khí thế tiến công ào ạt của ba mươi vạn quân Nguyên lần thứ hai sang xâm lược nước ta, Trần Quốc Tuấn đã viết bài: Hịch tướng sĩ để khích lệ lòng yêu nước, quyết chiến đấu của các tướng sĩ. Tác phẩm của Trần Quốc Tuấn không những là một áng thiên cổ hùng văn mà còn "bộc lộ sâu sắc nhiệt tình yêu nước, và tinh thần trách nhiệm của ông trước hoạ ngoại xâm".

Trước hết, đúng như ý kiến đã nhận định, bài Hịch tướng sĩ đã thể hiện sâu sắc nhiệt tình yêu nước của người trước hoàn cảnh đất nước đang bị ngoại xâm.

Vì lòng yêu nước, Trần Quốc Tuấn không thể nhắm mắt bịt tai trước những hành vi ngang ngược của sứ giả nhà Nguyên mà ông đã tức giận gọi chúng lũ diều hâu dê chó, hổ đói", những con vật hung.dữ; để bày tỏ thái độ căm thù. khinh bỉ. Bằng lối văn biền ngẫu nhịp nhàng và rắn rỏi, Trần Quốc Tuấn vạch mặt bọn giả nhân giả nghĩa, có lòng tham không đáy, mưu toan vét sạch tài nguyên của cải đất nước ta.

"... thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa; để thoả lòng tham không cùng, lấy hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, để vét của kho có hạn,.."

Vì lòng yêu nước, Trần Quốc Tuấn đã quên ăn, mất ngủ, đau lòng nát ruột vì chưa có cơ hội để "xả thịt, lột da, nuốt gan, uống máu quân thù" cho thoả lòng tức giận. Ông sẵn sàng hi sinh, để cho Tổ quốc được độc lập, tự do. Ông viết: Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng".

Điều rất dễ hiểu là nếu không vì nhiệt tình yêu nước nồng nàn thì Trần Quốc Tuấn đã không thể đau đớn dằn vặt căm thù sôi sục như thế!

Mặt khác, hài Hịch tướng sĩ còn nêu cao tinh thần trách nhiệm của vị chủ soái trước cảnh Tổ quốc đang lâm nguy bằng những lời phê phán nghiêm khắc thái độ hàng quan, chỉ biết hưởng lạc của các tướng sĩ vô trách nhiệm.

Ông đã khéo léo nêu lên lòng yêu thương của ông đối với các tướng sĩ, cùng với tinh thần đồng cam cộng khổ của ông để khơi gợi sự hồi tâm của họ. Giọng văn của ông vô cùng thiết tha và thấm thìa: ".. không có mặc thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho cơm, quan thấp thì ta tăng chức, lương ít thì ta cấp bổng..."

Tiếp đến, bằng những hình ảnh tiêu biểu đầy xúc động, ông đã nêu lên những hậu quả nghiêm trọng, không những sẽ xảy đến cho ông mà còn cho gia đình những tướng sĩ vô trách nhiệm ấy, một khi đất nước rơi vào tay quân thù. Bằng cách sử dụng các hệ thống từ dồn dập "chẳng những ... mà... cũng" lặp đi lặp lại có giá trị nêu bật những hậu quả tai hại, những nỗi khổ nhục của người dân mất nước, Tổ quốc mất độc lập, tự do:

"... Chẳng những thái ấp của ta không còn mà bổng lộc các ngươi cũng mất; chẳng những gia quyến của ta bị tan mà vợ con các ngươi cũng khốn, chẳng những xã tắc tổ tông ta bị giày xéo, mà phần mộ cha mẹ các ngươi cũng bị quật lên...

Tinh thần trách nhiệm của ông còn thể hiện ở việc ông viết nên cuốn Binh thư yếu lược để cho các tướng sĩ rèn luyện. Đối với ông, yên nước là phải có bổn phận giữ nước, phải có hành động thiết thực cứu nước tầm binh pháp các thời để tạo nên bí quyết chống giặc, phá giặc, Trần Quốc Tuấn đã thể hiện lòng yêu nước và trách nhiệm của người chỉ huy công cuộc kháng chiến chống quân Nguyên. Chính lòng yêu nước mãnh liệt tinh thần trách nhiệm cao độ của ông đã đốt cháy lên ngọn lửa chiến đấu và chiến thắng trong lòng các tướng sĩ lúc bấy giờ.

Từ sự nhìn thấu suốt dã tâm của giặc, nhận thức rõ mối hoạ của Tổ quốc, ông đã chứng minh sự còn mất của mỗi quan tướng, gắn liền với sự thắng bại của cuộc kháng chiến; lợi ích thiết thân của họ gắn liền với lợi ích lối cao của Tổ quốc. Chính vì thế bài Hịch tướng sĩ đã biểu hiện một chủ nghĩa yêu nước chân chất mà sâu sắc, đã biểu hiện một nhận thức hồn nhiên và cụ thể đầy tinh thần trách nhiệm của Hưng Đạo Đại Vương đầy lòng yêu nước...

Phân tích lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn trong Hịch tướng sĩ - Mẫu 6

Tinh thần yêu nước từ lâu đã là một nét đẹp truyền thống trong tâm hồn mỗi người dân Việt. Và lòng yêu nước ấy cũng được các nhà thơ, nhà văn mang vào văn học với những màu sắc mới mẻ mà chân tình, được biểu hiện trên nhiều mặt. Đó là tình yêu thiên nhiên, là lòng tự hào về gấm vóc non sông. Đó là tinh thần khâm phục trong ý chí chiến đấu anh dũng trước mũi súng quân thù. Đó là tình yêu của tiếng nói, của cội nguồn dân tộc. Và lòng yêu nước ấy được Trần Quốc Tuấn thể hiện sâu sắc một lần nữa trong bài “Hịch tướng sĩ”, bài hịch được ông viết vào thời điểm trước cuộc kháng chiến Mông – Nguyên nhằm khích lệ tinh thần chiến đấu của quân dân nhà Trần.

Bài hịch chứa chan tình thần yêu nước và ý chí quật cường của một tướng lĩnh tài ba. Thứ nhất, tình yêu nước được thể hiện ở niềm tự hào, khâm phục trước những tên tuổi của cha anh đi trước với bao chiến công oanh liệt. Đó là lòng hết mình, trung tín phục vụ chúa của những vị anh hùng . Đó là những gương chiến đấu hào hùng với quân của bao anh hùng hi sinh vì đất nước thân yêu. Họ là những gương để ta soi sáng, để ta lấy đó làm động lực mà nuôi ý chí chiến đấu. Đó là tinh thần trung quân ái quốc từ bao đời. “Ta thường nghe: Kỷ Tín đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao Đế; Do Vu chìa lưng chịu giáo, che chở cho Chiêu Vương; Dự Nhượng nuốt than, báo thù cho chủ; Thân Khoái chặt tay để cứu nạn cho nước. Kính Đức một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thái Sung; Cảo Khanh một bầy tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc. Từ xưa các bậc trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước, đời nào chẳng có?” . Chí anh hùng phải lập nên những thành công vĩ đại, những công danh hiển hách để lưu danh sử sách, đời đời mong nhớ. Bằng việc nêu ra gương các vị anh hùng, Trần Quốc Tuấn đã khiến cho quân sĩ phải suy ngẫm, tự nhìn lại chính mình, xem có xứng đáng với những truyền thống bất khuất mà thế hệ đi trước đã để lại.

Thứ hai, tình yêu nước được Hưng Đạo Vương thể hiện ở lòng căm thù giặc. Ngọn lửa yêu nước mãnh liệt, cháy bỏng bao nhiêu thì lòng căm phẫn trước quân giặc tàn độc càng lớn lao bấy nhiêu. Ông đã vạch trần tội ác, ngang ngược, huênh hoang của quân thù. Quân gian tà hống hách, nham hiểm và tham lam. Hành động như những tên cầm thú, gian mãnh, hung tàn: “ta cùng các ngươi sinh ra phải thời loạn lạc, lớn lên gặp buổi gian nan. Lén nhìn sứ ngụy đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn tấc lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đình; đem tấm thân dê chó mà khinh rẻ tổ phụ. Ỷ mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa để phụng sự lòng tham khôn cùng; khoác hiệu Vân Nam Vương mà hạch bạc vàng, để vét kiệt của kho có hạn. Thật khác nào đem thịt ném cho hổ đói, tránh sao khỏi tai họa về sau”.

Tinh thần ấy còn được thể hiện ở nỗi lòng của một vị tướng ngày đêm lo cho vận mệnh của dân tộc đang lâm vào cơn nguy kịch, hiểm hoạ đang đứng trước mắt, Tổ quốc khó lòng giữ trọn vẹn. Tác giả đã rất đau khổ, thương xót và lo lắng, trăn trở cho tình hình đất nước lúc này. Quân giặc phá phách trên quê hương, dân chúng lầm than, chết chóc thảm hại, khiến nỗi lòng kẻ sĩ không yên. “ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”. Nỗi căm tức biến thành hành động, mạnh mẽ và dứt khoát: “dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm”. Một nỗi căm phẫn đến tột cùng của một trái tim thấm đẫm tình yêu nước, yêu nhân dân. Một ý chí quyết tâm tột độ, dẫu cho phải có hi sinh tất cả cũng phải giết được lũ giặc bất nhân, phi nghĩa.

Thứ ba, lòng yêu nước được thể hiện ở tinh thần đoàn kết, khích lệ nghĩa sĩ anh em trên dưới một lòng chống giặc cứu nước. Những lời lẽ chân tình thắm thiết được viết ra rất đỗi cảm động về tình cảm vua-tôi:

“Các ngươi ở lâu dưới trướng, nắm giữ binh quyền, không có mặc thì ta cho áo; không có ăn thì ta cho cơm. Quan thấp thì ta thăng tước; lộc ít thì ta cấp lương. Đi thủy thì ta cho thuyền; đi bộ thì ta cho ngựa. Lâm trận mạc thì cùng nhau sống chết; được nhàn hạ thì cùng nhau vui cười.”

Đó còn là những lời lẽ thấu tình đạt lý, nghiêm khắc mà thấu đáo của ông khi nhận thấy những tướng sĩ tài giỏi của mình đang vì lòng riêng mà quên mất việc lớn. Trần Quốc Tuấn đã thẳng thắn chỉ ra những khuyết điểm còn tồn tại của chính quân sĩ mình: đó là sự thờ ơ trước nỗi đau của nhân dân, trước mũi gươm của giặc mặc sức giằng xéo quê hương. Đất nước đang cảnh lâm nguy” ngàn cân treo sợi tóc” mà vẫn ham những thú vui tầm thường, không đáng: “Có kẻ lấy việc chọi gà làm vui; có kẻ lấy việc cờ bạc làm thích. Có kẻ chăm lo vườn ruộng để cung phụng gia đình; có kẻ quyến luyến vợ con để thỏa lòng vị kỷ. Có kẻ tính đường sản nghiệp mà quên việc nước; có kẻ ham trò săn bắn mà trễ việc quân. Có kẻ thích rượu ngon; có kẻ mê giọng nhảm.” Vì vậy, Trần Quốc tuấn đã căn dặn, khuyến khích tướng sĩ hãy hành động, nêu cao ý chí chiến đấu, tinh thần anh dũng cảm quật cường, cảnh giác cao độ, chăm lo tập dượt binh thư yếu lược, thà chết vinh rửa nhục quân thù còn hơn sống mà chịu cảnh nước mất lầm than.

“Nay ta chọn lọc binh pháp các nhà hợp thành một tuyển, gọi là Binh Thư Yếu Lược. Nếu các ngươi biết chuyên tập sách này, theo lời ta dạy bảo, thì trọn đời là thần tử; nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời ta dạy bảo thì trọn đời là nghịch thù.”.

Bài hịch đã thể hiện rõ lòng yêu nước của một vị lãnh tướng tài ba. Còn thôi thúc trong lòng mỗi chúng em, những thế hệ trẻ tương lai ý thức về độc lập dân tộc, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ. Trần Quốc Tuấn như một gương sáng mãi về tình yêu nước, dạy cho mỗi người lòng tự hào, ý thức và trách nhiệm công dân, sẵn sàng đứng lên khi đất nước có ngoại xâm và trân quý hòa bình của nước nhà hiện tại.

Phân tích lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn trong Hịch tướng sĩ - Mẫu 7

Hịch tướng sĩ từ xưa đã được xem là một “thiên cổ hùng văn” bất hủ của dân tộc. Bài hịch là sự kết tinh sâu sắc của truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm, là kết tinh của ý chí và sức mạnh quật cường của dân tộc qua mấy trăm năm lịch sử. Qua bài hịch, Trần Quốc Tuấn đã thể hiện mạnh mẽ lòng yêu nước thiết tha và căm thù giặc sâu sắc của vị chủ tướng một lòng vì nước vì dân.

Thành công đầu tiên của Hịch tướng sĩ là chất giọng hùng hồn, thuyết phục hiếm có. Chất hùng văn của Hịch tướng sĩ được tạo nên từ nghệ thuật trữ tình hùng biện và tình cảm mãnh liệt, nồng cháy trong tim người anh hùng dân tộc. Đó là ngọn lửa của tình yêu nước thiết tha và ý chí quyết tâm chống giặc cứu nước. Tình cảm sục sôi và nhiệt tình yêu nước cháy bỏng, ý chí quyết chiến quyết thắng giặc thù làm nên chất nhân văn cao đẹp của bài hịch.

Mở đầu bài hịch, vị chủ tướng nêu cao gương sáng các anh hùng nghĩa sĩ đã quên mình vì chúa (Kỉ Tín, Do Vu, Dự Nhượng, Thân Khoái, Kính Đức, Cảo Khanh) hay anh dũng chống giặc hi sinh vì nước (Nguyễn Văn Lập, Xích Tu Tư). Đó là những tấm gương tiêu biểu, được lưu truyền trong nhân gian, không ai mà không biết nhưng dưới lời văn của Trần Quốc Tuấn lại được nâng cao lên nhiều lần, trở thành điều tâm niệm mà mỗi tướng sĩ nên có. Tình yêu nước theo vị chủ tường, trước hết là phải biết sống anh hùng và lập nên những chiến công hiển hách, lưu danh thiên cổ. Lời văn ngắn gọn, súc tích nhưng đã đánh động được nỗi lòng của các tướng sĩ, khiến họ biết tự nhìn lại mình.

Tình yêu nước của Trần Quốc Tuấn được bộc lộ rõ ràng hơn khi ông nói về sự ngang ngược và tội ác của quân giặc. Ông đã lột tả bản chất tham lam, hống hách, tàn bạo của đoàn quân xâm lược: Đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tề phụ, đòi ngọc lụa, thu bạc vàng. Thái độ của Trần Quốc Tuấn vừa tủi nhục, xót xa vừa căm giận, khinh bỉ, coi chúng như những loài cầm thú: cú diều, dê chó, hổ đói, lột rõ bản chất tham lam, tàn bạo của chúng.

Trần Quốc Tuấn đã thấu suốt dã tâm của giặc, nhận thức rõ hiểm họa của Tổ quốc, nguy cơ của sự bại vong. Lời lẽ chân tình, thống thiết, thấu tận nhân tâm khiến ta càng kính trọng hơn người anh hùng đã hết lòng vì nước quên mình. Bởi lo thế giặc mạnh, quân giặc hung bạo, bất nhân còn thế nước lại yếu, tướng sĩ vô tâm, cái nguy cơ mất nước hiện hữu trước mắt khiến cho vị chủ tướng “tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”, ngày đêm suy nghĩ cách phá giặc bảo vệ non sông. Trong khi, quân giặc đang giày xéo trên quê hương, muôn dân đang bị chúng cướp bóc, sát hại thảm thiết. Nỗi căm tức dâng lên tột cùng, uất nghẹn: “căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù”. Vì đất nước “dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa”, ông cũng vui lòng.

Với bút pháp khoa trương, tính chất ước lệ, giọng văn nghẹn ngào, thống thiết, hào sảng, phù hợp với ngôn ngữ hùng biện của thể hịch văn, bài hịch có sức ngân vang lớn. Đoạn văn đã thể hiện đậm nét trạng thái sục sôi, hận thù bỏng rát của một trái tim vĩ đại, chất chứa cảm xúc lớn với vận mệnh đất nước, sự tồn vong của dân tộc, số phận của nhân dân. Tất cả những trạng thái cảm xúc ấy đều được đẩy tới cực điểm. Chưa bao giờ trong văn học Việt Nam, lòng căm thù giặc và nỗi đau xót trước vận mệnh dân tộc lại được biểu hiện sâu sắc, mãnh liệt và xúc động lòng người đến thế.

Từ căm thù cháy bỏng đến hành động giết giặc cứu nước là tất yếu và phải được đặt lên hàng đầu, thà chết chứ không chịu khuất phục. Đó là khí phách của một dân tộc anh hùng. Hơn ai hết, Trần Quốc Tuấn hiểu rõ ràng ý chí quyết chiến quyết thắng, sẵn sàng xả thân vì nước của vị thống soái toàn quân là yếu tố rất quan trọng, nhưng chưa đủ làm nên chiến thắng, cần có một sức mạnh tổng hợp. Sức mạnh ấy phải được tạo nên từ sự đồng lòng nhất chí, từ ý chí quyết chiến, quyết thắng giặc thù của cả dân tộc.

Trong khi tướng sĩ vẫn còn đang mải lo cho bản thân, ham mê lạc thú mà quên đi nhiệm vụ bảo vệ nước nhà. Ông đã rất đau xót và nghiêm khắc khi nhắc nhở tướng lĩnh của mình. Đầu tiên ông nhắc lại mối ân tình của mình với tướng sĩ: không có mặc thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho cơm, quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì ta cấp bổng, đi thủy thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa. Ông còn nhắc lại mối giao hòa chủ tướng thắm thiết như phụ tử cùng sống chết trong mặc, cùng vui vẻ khi bình yên. Ông cũng nghiêm khắc chỉ trích lối sống thờ ơ, hèn nhục của tướng sĩ khi quân giặc giày xéo quê hương: thấy chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn…, không biết căm,…

Mỗi thú vui của tướng sĩ không có gì là xấu nhưng nó không hợp với thời cuộc. Đất nước đang trong nước sôi lửa bỏng, vận mệnh dân tộc đang lâm nguy, kẻ thù thiện chiến và hùng mạnh, mà tướng sĩ vẫn thờ ơ tức là tự đẩy mình vào diệt vong, muôn đời chịu nhục. Bằng lập luận chặt chẽ, lời lẽ sắc bén, sử dụng nghệ thuật đối lập, cấu trúc câu trùng điệp tạo khí thế hùng hồn, từng lời từng chữ như chảy ra từ trong tim tha thiết vô cùng, Trần Quốc Tuấn đã thức tỉnh toàn quân cầm gươm chống giặc. Đó không phải là một mệnh lệnh cứng nhắc mà là một lời tâm tình rưng rưng nước mắt. Tình yêu thương chân thành, tha thiết dành cho tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn đều được xuất phát từ trái tim nhân hậu, từ lòng yêu nước lớn lao.

Không những vạch rõ yếu kém của tướng sĩ, ông còn chỉ ra cái nguy cơ dẫn đến thảm kịch của đất nước, của gia đình, của cá nhân và cách để hóa giải cái nguy cơ ấy. Với bản lĩnh của một vị tướng kiệt xuất có tầm nhìn xa trông rộng và niềm tin tất thắng của dân tộc, ông hoàn toàn tin tưởng vào thắng lợi nếu mỗi binh sĩ đều hết lòng xả thân chống giặc cứu nước. Đó cũng là một lời hứa đinh ninh trước trời đất của vị chủ tướng để huy động toàn bộ sức mạnh dân tộc trong cuộc quyết chiến với kẻ thù xâm lược.

Hịch tướng sĩ của Trần Quốc tuấn đã phản ánh tinh thần yêu nước nồng nàn, lòng căm thù giặc sâu sắc, tinh thần quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược của dân tộc ta. Hịch tướng sĩ là một áng văn nghị luận mẫu mực, bất hủ với kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc sảo, lí lẽ sắc bén, dẫn chứng phong phú, sinh động và lời văn khi hùng hồn đanh thép, khi thống thiết chân thành có sức lôi cuốn và sức thuyết phục mạnh mẽ.

Phân tích lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn trong Hịch tướng sĩ - Mẫu 8

Hưng Đạo vương là con của Khâm Minh Đại vương Trần Liễu, anh ruột của vua Trần Thái Tông, ông là một vị tướng tài năng đồng thời là một anh hùng có lòng yêu nước sâu sắc. Tác phẩm "Hịch tướng sĩ" đã bộc lộ sâu sắc nhiệt tình yêu nước và tinh thần trách nhiệm của ông trước hoạ ngoại xâm.

Nửa cuối thế kỉ XIII, chỉ trong ba mươi năm (1257 - 1287), giặc Mông - Nguyên đã ba xâm lược nước ta. Lúc bấy giờ, thế giặc rất mạnh, muốn đánh bại chúng, cần phải có sự đồng tình, ủng hộ của toàn quân, toàn dân. Trần Quốc Tuấn đã viết bài hịch này để kêu gọi, khích lệ tướng sĩ dưới quyền hết lòng đánh giặc vì nước.

Lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn đầu tiên thể hiện ở thái độ căm tức của ông trước việc tướng giặc lộng hành trên quê hương: "Lén nhìn sứ ngụy đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn tấc lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đình; đem tấm thân dê chó mà khinh rẻ tổ phụ. Ỷ mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa để phụng sự lòng tham khôn cùng; khoác hiệu Vân Nam Vương mà hạch bạc vàng, để vét kiệt của kho có hạn. Thật khác nào đem thịt ném cho hổ đói, tránh sao khỏi tai họa về sau" Ông đã tố cáo những tội ác của kẻ thù bằng một giọng văn sôi sục căm tức. Những hình ảnh so sánh thật gây ấn tượng cho người đọc, ông đã coi kẻ thù là một lũ dê chó, hổ đói cũng với giọng văn căm phẫn tột cùng. Là một vị tướng quân, ông đối với việc quân giặc chà đạp lên mảnh đất giang san, chà đạp lên tổ tiên cha ông không chỉ là căm ghét thông thường mà còn "Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, nuốt gan, uống máu quân thù". Những câu văn biền ngẫu cùng những động từ mạnh "xả thịt", "lột da", "nuốt gan", "uống máu" không chỉ cho thấy Trần Quốc Tuấn vô cùng căm phẫn, hận thù quân ngoại xâm, không thể đội chung một trời với chúng mà với trách nhiệm của một võ tướng, ông thấy mình có trách nhiệm phải dẹp yên bè lũ "dê chó", đánh đuổi chúng ra khỏi bờ cõi, trả lại sự bình yên cho con dân chính vì tâm nguyện ấy còn bỏ ngỏ trong khi lũ giặc thì chà đạp dân ta khiến cho ông mất ăn mất ngủ. Thậm chí ông sẵn sàng hi sinh để rửa mối nhục cho đất nước: "Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng". Những câu văn này khiến người đọc nhớ mãi bởi ta như thấy tấm lòng của một vị tướng hết mực vì dân, vì nước mà lo nghĩ khôn nguôi.

Vì yêu nước, thương dân, ý thức được trách nhiệm của bản thân với giang san xã tắc nên ông đã khơi dậy lòng tự ái của binh lính dưới quyền đồng thời chỉ ra cho họ con đường đi đúng đắn cốt để họ vì dân, vì nước mà góp sức, góp lòng, đoàn kết một lòng tiêu diệt quân thù. Đối với ông: "Giặc Mông với ta là kẻ thù không đội trời chung, mà các ngươi cứ hiển nhiên không muốn rửa nhục, không lo trừ hung, lại không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo mà xin đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy, rồi đây, sau khi dẹp yên nghịch tặc, để thẹn muôn đời, há còn mặt mũi nào đứng trong cõi trời che đất chở này nữa?"

"Hịch tướng sĩ" xứng đáng được coi là một tác phẩm xuất sắc. Đây không chỉ là một bài hịch thông thường với nội dung chiêu binh mãi mã mà còn lưu truyền sử sách bởi nó đã thể hiện nhiệt tình yêu nước và tinh thần trách nhiệm của ông trước hoạ ngoại xâm.

Phân tích lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn trong Hịch tướng sĩ - Mẫu 9

Trước khí thế tiến công ào ạt của ba mươi vạn quân Nguyên lần thứ hai sang xâm lược nước ta, Trần Quốc Tuấn đã viết bài: Hịch tướng sĩ để khích lệ lòng yêu nước, quyết chiến đấu của các tướng sĩ. Tác phẩm của Trần Quốc Tuấn không những là một áng thiên cổ hùng văn mà còn "bộc lộ sâu sắc nhiệt tình yêu nước, và tinh thần trách nhiệm của ông trước hoạ ngoại xâm".

Trước hết, đúng như ý kiến đã nhận định, bài Hịch tướng sĩ đã thể hiện sâu sắc nhiệt tình yêu nước của người trước hoàn cảnh đất nước đang bị ngoại xâm.

Vì lòng yêu nước, Trần Quốc Tuấn không thể nhắm mắt bịt tai trước những hành vi ngang ngược của sứ giả nhà Nguyên mà ông đã tức giận gọi chúng lũ diều hâu dê chó, hổ đói", những con vật hung.dữ; để bày tỏ thái độ căm thù. khinh bỉ. Bằng lối văn biền ngẫu nhịp nhàng và rắn rỏi, Trần Quốc Tuấn vạch mặt bọn giả nhân giả nghĩa, có lòng tham không đáy, mưu toan vét sạch tài nguyên của cải đất nước ta.

"... thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa; để thoả lòng tham không cùng, lấy hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, để vét của kho có hạn,.."

Vì lòng yêu nước, Trần Quốc Tuấn đã quên ăn, mất ngủ, đau lòng nát ruột vì chưa có cơ hội để "xả thịt, lột da, nuốt gan, uống máu quân thù" cho thoả lòng tức giận. Ông sẵn sàng hi sinh, để cho Tổ quốc được độc lập, tự do. Ông viết: Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng".

Điều rất dễ hiểu là nếu không vì nhiệt tình yêu nước nồng nàn thì Trần Quốc Tuấn đã không thể đau đớn dằn vặt căm thù sôi sục như thế!

Mặt khác, hài Hịch tướng sĩ còn nêu cao tinh thần trách nhiệm của vị chủ soái trước cảnh Tổ quốc đang lâm nguy bằng những lời phê phán nghiêm khắc thái độ hàng quan, chỉ biết hưởng lạc của các tướng sĩ vô trách nhiệm.

Ông đã khéo léo nêu lên lòng yêu thương của ông đối với các tướng sĩ, cùng với tinh thần đồng cam cộng khổ của ông để khơi gợi sự hồi tâm của họ. Giọng văn của ông vô cùng thiết tha và thấm thìa: ".. không có mặc thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho cơm, quan thấp thì ta tăng chức, lương ít thì ta cấp bổng..."

Tiếp đến, bằng những hình ảnh tiêu biểu đầy xúc động, ông đã nêu lên những hậu quả nghiêm trọng, không những sẽ xảy đến cho ông mà còn cho gia đình những tướng sĩ vô trách nhiệm ấy, một khi đất nước rơi vào tay quân thù. Bằng cách sử dụng các hệ thống từ dồn dập "chẳng những ... mà... cũng" lặp đi lặp lại có giá trị nêu bật những hậu quả tai hại, những nỗi khổ nhục của người dân mất nước, Tổ quốc mất độc lập, tự do:

"... Chẳng những thái ấp của ta không còn mà bổng lộc các ngươi cũng mất; chẳng những gia quyến của ta bị tan mà vợ con các ngươi cũng khốn, chẳng những xã tắc tổ tông ta bị giày xéo, mà phần mộ cha mẹ các ngươi cũng bị quật lên...

Tinh thần trách nhiệm của ông còn thể hiện ở việc ông viết nên cuốn Binh thư yếu lược để cho các tướng sĩ rèn luyện. Đối với ông, yên nước là phải có bổn phận giữ nước, phải có hành động thiết thực cứu nước tầm binh pháp các thời để tạo nên bí quyết chống giặc, phá giặc, Trần Quốc Tuấn đã thể hiện lòng yêu nước và trách nhiệm của người chỉ huy công cuộc kháng chiến chống quân Nguyên. Chính lòng yêu nước mãnh liệt tinh thần trách nhiệm cao độ của ông đã đốt cháy lên ngọn lửa chiến đấu và chiến thắng trong lòng các tướng sĩ lúc bấy giờ.

Từ sự nhìn thấu suốt dã tâm của giặc, nhận thức rõ mối hoạ của Tổ quốc, ông đã chứng minh sự còn mất của mỗi quan tướng, gắn liền với sự thắng bại của cuộc kháng chiến; lợi ích thiết thân của họ gắn liền với lợi ích lối cao của Tổ quốc. Chính vì thế bài Hịch tướng sĩ đã biểu hiện một chủ nghĩa yêu nước chân chất mà sâu sắc, đã biểu hiện một nhận thức hồn nhiên và cụ thể đầy tinh thần trách nhiệm của Hưng Đạo Đại Vương đầy lòng yêu nước...

-/-

Hy vọng với những mẫu "Phân tích lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn trong Hịch tướng sĩ" mà Đọc tài liệu tổng hợp giúp các em có thêm tài liệu tham khảo. Cùng với trọn bộ văn mẫu lớp 10 là những tài liệu hữu ích giúp các em học tốt Ngữ Văn 10!

Bạn còn vấn đề gì băn khoăn?
Vui lòng cung cấp thêm thông tin để chúng tôi giúp bạn
Hủy

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM