Phân tích đoạn trích Khi tỉnh rượu lúc tàn canh

Xuất bản: 17/07/2024 - Tác giả:

Gợi ý làm bài văn phân tích đoạn trích Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,/.../ Ai tri âm đó mặn mà với ai? trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du có kèm theo bài văn mẫu tham khảo.

Phân tích đoạn trích Khi tỉnh rượu lúc tàn canh /.../ Ai tri âm đó mặn mà với ai? khắc họa nỗi đau đớn và tủi nhục của Thúy Kiều khi bị dồn vào bước đường cùng. Đoạn trích là những dòng thơ chứa đựng tâm trạng xót xa, thấm đẫm bi kịch của nàng khi bị vùi dập trong chốn lầu xanh. Cùng tìm hiểu và phân tích đoạn trích này để khám phá vẻ đẹp và giá trị nhân văn sâu sắc của Truyện Kiều.

Nội dung đoạn trích Khi tỉnh rượu lúc tàn canh

Khi tỉnh rượu lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình xót xa
Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường?
Mặt sao dày gió dạn sương?
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!
Mặc người mưa Sở mây Tần
Những mình nào biết có xuân là gì?
Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu?
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!
Đôi phen nét vẽ câu thơ
Cung cầm trong nguyệt, nước cờ dưới hoa.
Vui là vui gượng kẻo là,
Ai tri âm đó mặn mà với ai?

(Trích “Nỗi thương mình” - Truyện Kiều, Nguyễn Du)

Đoạn trích diễn tả tâm trạng, nỗi đau đớn, tủi hổ, nhục nhã, nỗi cô đơn, thương thân trách phận và ý thức sâu sắc về thân phận bất hạnh của Thúy Kiều ở chốn lầu xanh.

Gợi ý dàn bài phân tích đoạn trích Khi tỉnh rượu lúc tàn canh

1. Mở bài

+ Giới thiệu tác giả, tác phẩm, vị trí đoạn trích.

+ Khái quát nội dung chính: Tâm trạng, nỗi niềm của Kiều.

2. Thân bài: Tâm trạng, nỗi niềm của Thúy Kiều

a) Ý thức về bản thân (2 câu đầu)

- Thời gian:

+ “Khi tỉnh rượu”: khi con người tỉnh táo trong nhận thức.

+ “Lúc tàn canh” là khi đêm muộn - không gian quen thuộc của thơ ca Trung đại.

- Không gian: Lầu xanh lúc vắng vẻ, tĩnh lặng cô đơn.

=> Hoàn cảnh rất phù hợp cho con người nảy sinh cảm xúc.

=> Ý thức về thân phận bọt bèo, sự cô đơn nhục nhã, đau đớn khi ý thức sâu sắc thân phận của mình, giật mình, bàng hoàng nhìn lại tấm thân tàn mà tự thấy xót xa, thương cảm.

- Điệp từ “mình” được lặp lại ba lần nhằm nhấn mạnh, hằn sâu nỗi đau đớn, xót xa của Kiều.

b) Ý thức về sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại (6 câu tiếp theo)

- “Khi sao phong gấm rủ là”: nhắc về cuộc sống tươi đẹp, no đủ êm đềm trướng rủ màn che trong quá khứ.

- “Giờ sao… bấy thân": hiện tại đã thay đổi một cách chóng mặt, Kiều không nơi nương tựa, nặng nề, chán chường, cuộc sống chìm trong những ngày tháng sắc dục, buôn phấn bán hương. Kiều tự nhận thấy bản thân mình ứng với mấy chữ “tan tác như hoa giữa đường”, vốn là đóa mẫu đơn cao quý, trong sạch, cuối cùng lại bị chà đạp không thương tiếc, chỉ còn lại bộ dạng tàn tạ, nhơ nhuốc.

-> Bằng các thủ pháp nghệ thuật: điệp từ, phép đối xứng, đối lập… đã diễn tả sự giày vò, đau đớn trong tâm hồn Thuý Kiều, nàng thờ ơ, tủi nhục, buồn bã.

=> Quá khứ càng rực rỡ tươi đẹp, càng được trân trọng bao nhiêu thì khi trở về hiện tại phũ phàng con người càng đau đớn đến tột cùng, không làm chủ được bản thân.

- "Mặt sao dày gió dạn sương?": Khuôn mặt phải ngày ngày chường ra cho kẻ Bắc người Nam, ngắm nghía, bình phẩm, phải “dày gió dạn sương” ôm ấp nam tử như người tình, điệu bộ lả lướt, ngả ngớn, chiều lòng.

- "Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!": lời thở than, ý thức của nàng về tấm thân tàn tạ, rẻ mạt của mình, ám chỉ sự trơ chẽn, mất hết liêm sỉ, không còn gì để yêu thương, đến chính mình cũng chán ghét bản thân mình.

-> Từ “sao” được lặp lại nhiều lần như những câu hỏi tu từ để hỏi chính bản thân mình, tự chà xát, chất vấn chính bản thân mình.

=> Cuộc sống tủi hổ, nhục nhã đau đớn tột cùng về cả thể xác và tinh thần của nàng Kiều.

c) Vẻ đẹp tâm hồn Thúy Kiều và cái nhìn về cảnh lầu xanh

- "Mặc người mưa Sở mây Tần": dẫu cuộc đời có chà đạp, vùi dập phận liễu yếu đào tơ, thì Kiều vẫn mạnh mẽ kiên cường, giữ vững cho mình cốt cách thanh cao, tinh khiết. Dẫu bốn bề chốn lầu xanh nơi nào cũng “mây Sở mưa Tần” thì nàng cũng chẳng buồn để tâm đến những thú vui hoan lạc, tầm thường ấy.

- “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu / Người buồn cảnh cũng vui đâu bao giờ?”: hoàn cảnh éo le, buồn tủi của Thúy Kiều.

- “Đòi phen nét vẽ câu thơ / Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa”: hoàn cảnh trêu ngươi của Thúy Kiều, nàng vốn là người thông minh, sắc sảo ca từ thi phú âm luật có cái nào mà không thông, nhưng nhìn viễn cảnh trước mắt, lại nhìn tới số phận bọt bèo của mình thì những thứ mà nàng yêu thích trước đây cũng trở nên tẻ nhạt, chán chường.

- “Ai tri âm đó mặn mà với ai”: nỗi trăn trở về một người có thể thấu hiểu, xót thương, mong mỏi thoát khỏi chốn phong trần càng làm cho Kiều trở nên chán nản, xót xa đến tột cùng.

- Cái nhìn về lầu xanh của Kiều:

+ Cảnh đẹp đầy đủ, tao nhã, phong lưu (“gió tựa hoa kề”, “tuyết ngậm”, “trăng thâu”)

+ Những cảnh vô sắc nhạt nhòa đối lập với cảnh quyến rũ lúc đầu, cảnh vật nơi đây đối với Thúy Kiều chính là một sự giả tạo.

+ Chỉ gửi thân xác ở đó, tâm hồn như đã chết, không thể tìm thấy bầu bạn, không thể tìm thấy tri âm, nàng thờ ơ với mọi thứ xung quanh mình.

=> Con người không bị cuốn vào chốn phù phiếm đó mà luôn hướng thượng, vượt lên trên hoàn cảnh, ngay cả trong cảnh nhơ nhớp hay quyến rũ nhất.

3. Kết bài

- Nêu cảm nhận của em về đoạn trích.

>>> Tham khảo các biện pháp tu từ trong Khi tỉnh rượu lúc tàn canh

TOP 3 bài văn mẫu phân tích đoạn trích Khi tỉnh rượu lúc tàn canh hay nhất

Phân tích đoạn trích Khi tỉnh rượu lúc tàn canh mẫu số 1

Trong kiệt tác "Truyện Kiều" của đại thi hào Nguyễn Du, đoạn trích "Khi tỉnh rượu lúc tàn canh" là một trong những đoạn thơ đặc sắc và giàu giá trị nhân văn. Đoạn thơ khắc họa sâu sắc nỗi đau đớn, tủi nhục cùng tâm trạng cô đơn của Thúy Kiều khi bị dồn vào bước đường cùng, phải dấn thân vào chốn lầu xanh ô nhục.

Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Du đã sử dụng nghệ thuật đối lập giữa thời gian và không gian để làm nổi bật tâm trạng của Kiều:

Khi tỉnh rượu lúc tàn canh

Giật mình mình lại thương mình xót xa

"Tàn canh" là thời điểm cuối đêm, khi vạn vật chìm vào tĩnh lặng, bóng tối bao trùm. Đó cũng là lúc con người ta dễ đối diện với chính mình nhất. Trong khoảnh khắc tỉnh rượu, Kiều bỗng "giật mình" nhận ra thực tại phũ phàng. Từ "giật mình" diễn tả sự bừng tỉnh của nàng sau cơn say, đồng thời thể hiện nỗi đau xót đang trào dâng trong lòng. Nàng "thương mình" - một cách nói thể hiện sự đồng cảm, xót xa cho chính số phận bi đát của mình.

Nỗi đau của Kiều càng được khắc họa rõ nét qua những hình ảnh đối lập:

Khi sao phong gấm rủ là

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường

"Phong gấm rủ là" gợi lên hình ảnh những ngày tháng cuộc sống huy hoàng, sung sướng "trướng rủ màn che" trong quá khứ. Còn hiện tại, nàng chỉ còn là "hoa giữa đường" - hình ảnh ẩn dụ cho thân phận bèo bọt, bị vùi dập, chà đạp. Sự đối lập này càng làm tăng thêm nỗi đau đớn, tủi nhục của Kiều.

Không chỉ đau đớn vì thân phận, Kiều còn cảm thấy cô đơn, lạc lõng giữa dòng đời:

Mặt sao dày gió dạn sương

Thân sao bướm chán ong chường bấy thân

Câu thơ sử dụng biện pháp so sánh để diễn tả sự tủi nhục của Kiều, sự chán chường, mệt mỏi, không còn thiết tha gì với cuộc sống hiện tại, chỉ muốn buông xuôi. Dù đau đớn và tủi nhục, Kiều vẫn không hoàn toàn buông xuôi. Nàng vẫn khao khát được giải thoát, được sống một cuộc đời tự do, trong sạch:

Mặc người mưa Sở mây Tần

Những mình nào biết có xuân

Câu thơ thể hiện sự kiên cường, bất khuất của Kiều trước số phận. Nàng "mặc người" - mặc kệ những lời gièm pha, khinh miệt, vẫn giữ vững niềm tin vào tương lai. Hình ảnh "xuân" ở cuối đoạn thơ là một tia hy vọng le lói về một ngày mai tươi sáng hơn.

Không chỉ đối lập giữa cuộc sống ở quá khứ và hiện tại, mà giờ đây, trong Thúy Kiều còn hiện hữu rõ nét sự đối lập giữa cảnh vật bên ngoài với nỗi niềm tâm trạng của chính mình. Bi kịch ấy của Thúy Kiều được thể hiện rõ nét trong những câu thơ cuối của đoạn trích.

Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?
Đòi phen nét vẽ câu thơ,
Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa
Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó mặn mà với ai?

Cuộc sống nơi chốn lầu xanh ở khung cảnh bên ngoài với đầy đủ những nét thanh cao, tao nhã, phong lưu được tác giả tái hiện lại thông qua các hình ảnh giàu sức gợi “gió tựa hoa kề”, “tuyết ngậm”, “trăng thâu”, “nét vẽ”, “câu thơ”, “cung cầm”, “nước cờ”. Nhưng ẩn sâu bên trong đó là bản chất phũ phàng và đầy xót xa, đầy tủi nhục và nhơ nhớp. Và bởi vậy, cảnh vật ở nơi đây đối với Thúy Kiều chính là một sự giả tạo và nàng không thể tìm thấy bầu bạn, không thể tìm thấy tri âm và nàng thờ ơ với mọi thứ xung quanh mình. Đặc biệt, với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, tác giả Nguyễn Du đã cho thấy tâm trạng của Thúy Kiều khi sống ở nơi đây, đó chính là sự gượng gạo, tự thương, tự xót xa cho số phận của chính mình. Đặc biệt, tâm trạng đau đớn như xé lòng của Kiều được thể hiện qua việc sử dụng hàng loạt các câu hỏi tu từ.

Đoạn trích "Khi tỉnh rượu lúc tàn canh" không chỉ là bức tranh tâm trạng đầy xúc động của Thúy Kiều, mà còn là lời tố cáo mạnh mẽ xã hội phong kiến bất công, tàn nhẫn đã đẩy người phụ nữ vào con đường cùng. Qua đoạn thơ, Nguyễn Du đã thể hiện sự đồng cảm sâu sắc với những đau khổ của người phụ nữ và khẳng định vẻ đẹp tâm hồn cao quý của họ.

Với bút pháp tả cảnh ngụ tình tài hoa, ngôn ngữ giàu hình ảnh và giàu tính biểu cảm, Nguyễn Du đã khắc họa thành công một Thúy Kiều đau đớn, tủi nhục nhưng vẫn giữ được phẩm giá và khát vọng sống. Đoạn trích "Khi tỉnh rượu lúc tàn canh" xứng đáng là một trong những viên ngọc quý của văn học Việt Nam, có giá trị nhân văn sâu sắc và trường tồn với thời gian.

Phân tích đoạn trích Khi tỉnh rượu lúc tàn canh mẫu số 2

Trong dòng chảy văn học trung đại, mỗi nhà văn, nhà thơ đều góp phần làm nên diện mạo của nền văn học Việt Nam qua nhiều tác phẩm xuất sắc thuộc nhiều thể loại khác nhau. Và khi nhắc đến Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, bạn đọc mọi thế hệ không thể không nhắc tới tác phẩm “Truyện Kiều”. Đọc những trang Kiều, người đọc như thấm thía nỗi đau mà Kiều phải chịu đựng nhưng ẩn sau đó chính là vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của nàng. Có thể nói, đoạn trích trích từ câu “Khi tỉnh rượu lúc tàn canh” đến “Ai tri âm đó mặn mà với ai?” là một minh chứng tiêu biểu cho điều đó.

Trước tình cảnh đầy trớ trêu nơi chốn lầu xanh, trong Thúy Kiều luôn hiện lên bao nỗi niềm đau đớn, xót thương cho thân phận, cuộc đời của mình.

Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,

Giật mình mình lại thương mình xót xa.

Câu thơ “Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh” đã mở ra thời gian ban đêm, khi những cuộc vui đã tàn, đó là thời điểm hiếm hoi Kiều được sống là chính mình, đối diện với chính mình cùng bao nỗi niềm, suy tư, trăn trở. Trong chính khoảnh khắc ít ỏi ấy, Kiều “giật mình” bởi sự bàng hoàng, thảng thốt trước thực tại cuộc sống của mình. Để rồi, sau cái giật mình ấy chính là nỗi thương mình, xót xa cho chính bản thân mình và nỗi thương mình, sự xót xa ấy của Kiều xét đến cùng chính là sự tự ý thức về nhân cách của Thúy Kiều. Trong nỗi niềm xót xa, sự cô đơn đến tột cùng ấy, Thúy Kiều đã đi tìm nguyên nhân để lí giải chúng.

Khi sao phong gấm rủ là,

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.

Mặt sao dày gió dạn sương

Thân sao bướm chán ong chường bấy thân.

Phân tích đoạn trích Khi tỉnh rượu lúc tàn canh

Nghệ thuật đối đã được tác giả sử dụng thành công thông qua việc sử dụng hàng loạt các hình ảnh đối lập nhau, giữa một bên là “phong gấm rủ là” gợi những tháng ngày quá khứ êm đềm, hạnh phúc với một bên là những hình ảnh “tan tác”, “hoa giữa đường”, “dày gió dạn sương”, “bướm chán ong chường” để gợi lên hiện tại phũ phàng, bị chà đạp, vùi dập. Thể hiện sự đối lập giữa quá khứ với hiện tại, tác giả Nguyễn Du đã tô đậm cuộc sống cùng tâm trạng ê chề, nhục nhã, chán chường của Thúy Kiều trong hoàn cảnh đầy trớ trêu. Thêm vào đó, với việc sử dụng hàng loạt từ để hỏi “khi sao”, “giờ sao”, “mặt sao”, “thân sao” đã tạo nên giọng điệu chất vấn, Thúy Kiều như đang tự hỏi, tự dằn vặt chính bản thân mình. Trong nỗi niềm chua xót, đầy giày vò ấy, Thúy kiều đã nhận thức rõ sự đối lập đau xót và chua chát giữa ta và người.

Mặc người mưa Sở mây Tần

Những mình nào biết có xuân là gì.

Không chỉ đối lập giữa cuộc sống ở quá khứ và hiện tại, mà giờ đây, trong Thúy Kiều còn hiện hữu rõ nét sự đối lập giữa cảnh vật bên ngoài với nỗi niềm tân trạng của chính mình. Bi kịch ấy của Thúy Kiều được thể hiện rõ nét trong những tám câu thơ cuối của đoạn trích.

Đòi phen gió tựa hoa kề

Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?

Đòi phen nét vẽ câu thơ,

Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa

Vui là vui gượng kẻo là

Ai tri âm đó mặn mà với ai?

Cuộc sống nơi chốn lầu xanh ở khung cảnh bên ngoài với đầy đủ những nét thanh cao, tao nhã, phong lưu được tác giả tái hiện lại thông qua các hình ảnh giàu sức gợi “gió tựa hoa kề”, “tuyết ngậm”, “trăng thâu”, “nét vẽ”, “câu thơ”, “cung cầm”, “nước cờ”. Nhưng ẩn sâu bên trong đó là bản chất phũ phàng và đầy xót xa, đầy tủi nhục và nhơ nhớp. Và bởi vậy, cảnh vật ở nơi đây đối với Thúy Kiều chính là một sự giả tạo và nàng không thể tìm thấy bầu bạn, không thể tìm thấy tri âm và nàng thờ ơ với mọi thứ xung quanh mình. Đặc biệt, với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, tác giả Nguyễn Du đã cho thấy tâm trạng của Thúy Kiều khi sống ở nơi đây, đó chính là sự gượng gạo, tự thương, tự xót xa cho số phận của chính mình. Đặc biệt, tâm trạng đau đớn như xé lòng của Kiều được thể hiện qua việc sử dụng hàng loạt các câu hỏi tu từ.

Tóm lại, đoạn trích với việc sử dụng thành công nghệ thuật đối cùng những hình ảnh giàu sức gợi đã thể hiện một cách rõ nét và sâu sắc nỗi niềm tâm trạng, sự xót thương số phận của Thúy Kiều. Đồng thời, ẩn sau đó người đọc cũng cảm nhận được vẻ đẹp nhân cách của nàng.

Phân tích Khi tỉnh rượu lúc tàn canh mẫu số 3

Phân tích Nỗi thương mình (Truyện Kiều) là một đoạn trích thể hiện khá rõ tài năng nghệ thuật độc đáo, cái nhìn vượt thời đại và đặc biệt tinh thần nhân đạo mới mẻ của đại thi hào nguyễn Du. Trong đó, đoạn trích "Khi tỉnh rượu lúc tàn canh/ Ai tri âm đó mặn mà với ai?" cho thấy tâm trạng đau đớn, tủi nhục, nỗi cô đơn, thương thân trách phận và ý thức sâu sắc về thân phận bất hạnh của Thúy Kiều ở chốn lầu xanh.

Từ lúc gia đình gặp biến cố, phải bán mình chuộc cha, trao duyên lại cho em là Thúy Vân, Kiều đã trải qua 15 năm lưu lạc. Trong 15 năm ấy, Kiều gặp phải bao sự lọc lừa nhưng lần Thúy Kiều bị lừa đau đớn nhất có lẽ là lần nàng bị Mã Giám Sinh lừa bán đến lầu xanh. Nó là bước ngoặt bẻ ngang cuộc đời Thúy Kiều rẽ sang một hướng khác. Rơi vào tay Tú Bà, Kiều rút dao định tự tử nhưng không thành.

Ở lầu Ngưng Bích, Kiều lại mắc bẫy Sở Khanh, bị Tú Bà đánh đập tơi bời. Tiếp đó là những tháng ngày ê chề nhục nhã của nàng trong vai trò kĩ nữ - gái làng chơi, đem tấm thân trong ngọc trắng ngà của mình mua vui cho những kẻ lắm tiền háo sắc. Những ngày Thúy Kiều ở chốn lầu xanh là những ngày nàng vô cùng buồn tủi, tâm trạng rối bời như tơ vò nghĩ về thân phận, sự tủi nhục của kiếp hồng nhan. Đoạn trích có một kết cấu khá logic với diễn biến tâm trạng và trớ trêu của cuộc đòi đầy bất hạnh khi nghe những lời độc thoại nội tâm đầy đau đớn: “Khi tỉnh rượu… xuân là gì?” Đó cũng là thời điểm mở đầu cho những chuỗi tâm sự nối kết, ngổn ngang. Kiều nghĩ đến thân phận mình để rồi “mình lại thương mình xót xa”, Kiều xót xa cho chính bản thân mình. Với nàng, hiện tại như một giấc mơ cay đắng khi so sánh với quá khứ.

Ở lầu xanh có nhiều kĩ nữ, họ có thể bình thản coi việc làm của mình rất đỗi bình thường, trớ trêu thay Kiều lại có một nhân phẩm quá đỗi cao đẹp, một tâm hồn trong trắng, một bông hoa từ cảnh sống “êm đềm trướng rủ màn che” bỗng nhiên bị ném vào bùn nhơ, hai câu tiếp nói về tâm trạng của Kiều trong những ngày tủi nhục, nỗi ê chề, sự ép buộc, đày đọa mà Kiều phải chịu đựng:

“Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh

Giật mình mình lại thương mình xót xa”

Ở nơi lầu xanh đầy “cuộc say, trận cười” thì chỉ “khi tỉnh rượu lúc tàn canh” Kiều mới có một khoảnh khắc hiếm hoi để sống thực với chính mình và cũng là hoàn cảnh Kiều tỉnh táo nhất đối diện với con người mình. Thời gian và không gian thật vắng lặng như gợi lên nỗi niềm xót xa. Nhịp thơ có sự thay đổi giữa hai câu thơ trên từ nhịp 3/3 chuyển sang nhịp 2/4/2. Hai chữ “giật mình” kết hợp với cách ngắt nhịp ấy đã diễn tả sự biến đổi đột ngột trong tâm hồn Kiều. Nàng bàng hoàng đau xót trước thực tại phũ phàng và trơ trọi chỉ có một mình nàng tự xót xa, đau đớn cho chính số phận bi thương, đoạn trường của mình.

Giật mình không chỉ là hành động bên ngoài của nhân vật khi có một sự tác động đột ngột nào đó của môi trường bên ngoài. Đó là cái giật mình từ cảm xúc bên trong mà nếu không có thì Kiều cũng giống như tất cả các kĩ nữ khác trong thanh lâu của Tú bà. Kiều giật mình vì nhận ra sự tàn phá thảm hại về thể xác và phẩm cách của mình ở chốn lầu xanh, sự cô đơn lẻ loi của mình và sự yếu đuối bất lực của mình trước bao nhiêu sự xấu xa, cạm bẫy đang bủa vây mình mà ko thể chống đỡ. Điệp từ “mình’’ lặp lại ba lần trong một câu thơ như tiếng nấc nghẹn ngào, tha thiết của Thúy Kiều ý thức được về phẩm giá, nhân cách, quyền sống bản thân đó cũng là ý thức cá nhân và quyền sống của con người trong lịch sử phong kiến mà Nguyễn Du muốn truyền tải đến người đọc.

Đối với hai câu trên với nhịp thơ đầy nỗi tủi nhục của Kiều thì những câu tiếp theo sau là những hồi ức dội về, hồi ức tươi sáng va đập thực tại tăm tối đọa đày:

“Khi sao phong gấm rủ là

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường

Mặt sao dày gió dạn sương

Thân sao bướm chán ong chương bấy thân”

Một cô gái khuê các, tài sắc vẹn toàn, hiền lành đoan trang hết mực. Một cô gái nho gia bây giờ trở thành một cành hoa tan tác. Sự biến chuyển nhanh chóng đến mức chính Kiều cũng phải bàng hoàng, sửng sốt. Phép đối lập như một biện pháp nghệ thuật chủ yếu toàn đoạn trích và nhất là trong hai câu này càng tăng thêm giá trị biểu cảm. Nó tạo nên sự so sánh đối lập giữa hai quãng đời, hai thời gian, hai tình cảm. Cặp từ đối lập chỉ thời điểm: “Khi sao / giờ sao” tạo nên cảm giác đột ngột của sự thay đổi trong một khoảng thời gian không mấy cách biệt. Chính vì điều này đã làm vết thương của Kiều nhức nhối, đau đớn như đào sâu thêm vào nỗi xót xa, tê tái của Kiều.

Quá khứ hiện về đối lập với thực tại một cách khốc liệt, Kiều hồi tưởng lại những tháng năm “êm đềm trướng rủ màn che” thì lập tức thực tại phũ phàng lại hiện lên rõ nét hơn gấp bội, từ “phong gấm” diễn tả một sự bình yên, êm đềm trong quá khứ đối lập gay gắt với từ “tan tác” trong câu thơ nói về hiện tại như cái thực trạng phũ phàng bao trùm vùi chôn quá khứ êm đẹp. Phép so sánh “như hoa giữa đường” càng làm nổi bật sự đối lập tuyệt đối giữa quá khứ và thực tại, giữa cá nhân và hoàn cảnh. Cụm từ “bướm chán ong chường” và “dày gió dạn sương” là nét sáng tạo về cách dùng từ của Nguyễn Du, nhấn mạnh có ý so sánh theo mức độ tăng tiến cho ta thấy sự vùi dập, chà đạp mà Kiều phải gánh chịu. Các câu hỏi tu từ ở đây được Nguyễn Du sử dụng nhằm làm rõ hơn sự đau đớn, ê chề của Kiều trước thực tại phũ phàng, tàn nhẫn.

Hai câu thơ day dứt một tiếng thở dài tuyệt vọng của một cô gái vốn tài sắc hơn người, khát khao hạnh phúc nhưng bây giờ đã chán ngán tất cả":

“Mặc người mưa Sở mây Tần

Những mình nào biết có xuân là gì?”

Sống trong cảnh lầu xanh suốt ngày phải mua vui cho người khác hành hạ bản thân mình, lặp đi lặp lại hằng ngày ai cũng sẽ thấy chán chường muốn bỏ bê tất cả và Kiều cũng vậy. Sự đối lập giữa người - khách làng chơi (số nhiều) với chính mình - Kiều (số ít) như thể hiện tột cùng nỗi cô đơn của nàng. Từ ''xuân'' ở đây ý chỉ niềm vui được hưởng hạnh phúc lứa đôi nhưng với Thúy Kiều sống làm vợ khắp người ta thì làm gì còn có mùa xuân, chỉ thấy trong đó là sự nhục nhã, lẻ loi, trơ trọi và cô đơn của cuộc đời người kĩ nữ mua vui. Từ ''mặc'' ở đây lại chỉ sự bất lực, mặc cho mọi thứ muốn tới đâu thì tới, dằn vặt nặng nề đay nghiến của Thúy Kiều nhưng không làm sao khác được.

“Đòi phen gió tựa hoa kề

Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ

Đòi phen nét vẽ câu thơ

Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa

Vui là vui gượng kẻo là

Ai tri âm đó, mặn mà với ai.”

Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp hiện lên, có đủ cả: phong - hoa - tuyết - nguyệt, cảnh đẹp bốn mùa hội tụ vào nơi đây, gió xuân vi vu thổi, hoa hạ đua nhau khoe sắc ngát hương, trăng thu sáng vằng vặc, tuyết đông phủ kín cả lầu tất cả đều rất thực, rất sinh động như vẽ nên bức tranh đầy màu sắc, âm thanh của lầu xanh và trong đó có đủ những thú vui của con người: cầm - kì - thi - họa càng tô điểm cho bức tranh ấy thêm phần nhộn nhịp, sống động hơn bao giờ hết. Nhưng nêu lên những cảnh thiên nhiên đẹp đẽ, tao nhã, nên thơ ấy lại như một sự giễu cợt, mỉa mai, chua chát. Vì dù ngụy trang khéo đến mấy, cũng không thể che đậy nổi cái bản chất nhơ nhớp, bẩn thỉu bên trong của chốn “buôn thịt bán người”. Đoạn thơ vì thế đồng thời hướng vào tâm trạng Kiều: Kiều luôn phải tách mình thành hai nửa: một con người bề ngoài vui gượng, giả tạo và một con người thực, sống để xót xa mỗi lúc tàn canh.

Cảnh không thể vui vì lòng người nặng trĩu nỗi tê tái... Khi gió tựa hoa kề, khi cung cầm thi họa, lúc nào nỗi đau cũng dâng đầy và nghẹn ứ trong lòng nàng. Ý thức về nhân phẩm một khi trỗi dậy là lại bị giày xéo, khiến nàng không nguôi bẽ bàng, nhục nhã về thân phận. Hai từ “đòi phen” được lặp lại trong tám câu thơ càng thể hiện rõ hơn đó là một nỗi đau thường trực, chưa lúc nào thôi dằn vặt Kiều. Nỗi sầu của Kiều lan tỏa sang cảnh vật:

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Bằng sự thông cảm lạ lùng và bằng tài năng kì diệu, Nguyễn Du đã viết nên hai câu thơ hay nhất giữa ngoại cảnh và tâm cảnh, giữa cảnh và tình. Từ một trường hợp cụ thể, thơ Nguyễn Du đã vươn tới tầm phổ quát, trở thành chân lí của mọi thời. Có thể nói hai câu thơ là đỉnh điểm của đoạn trích vì nó gột tả được sâu sắc hơn bao giờ hết nội tâm của nhân vật từ đó lan tỏa sang cảnh vật một cách thật tự nhiên và hợp lí. Nỗi buồn của Thúy Kiều cứ dâng lên, như sóng cồn triền miên không bao giờ dứt, nó cứ khuấy động bên trong sâu thẳm con người Kiều để rồi đến một lúc nào đó, tức nước vỡ bờ, nó dâng lên cuồn cuộn đánh động vào nỗi lòng, cảm xúc của Thúy Kiều, khiến cho mọi vật qua cái nhìn của nàng đều trở nên u buồn, tăm tối, nhuộm màu tang thương.

“Vui là vui gượng kẻo là

Ai tri âm đó mặn mà với ai?”

Hai câu thơ cuối là nỗi lòng của Thúy Kiều được Nguyễn Du thể hiện một cách tinh tế, độc đáo mà tâm sự này, tâm trạng này, Kiều của Thanh Tâm tài nhân không hề có được. Từ “vui gượng” nói lên tất cả sự lạc lõng, cô độc cũng là sự mâu thuẫn, bế tắc không lối thoát của Kiều trước hoàn cảnh. Sống trong cảnh nhơ nhớp, phải tiếp khách làng chơi, trải qua những cơn say, trận cười quanh năm suốt tháng, phải lả lơi… là điều bất đắc dĩ, Kiều không bao giờ muốn thậm chí không bao giờ có thể tưởng tượng được cuộc đời mình lại bi kịch như thế. Giữa chốn lầu xanh mà đồng tiền lên ngôi, có bao kẻ đến rồi đi, cái còn lại sau cùng với Kiều chỉ là sự rã rời, đau đớn cả về thể xác và tâm hồn thì làm gì có ai là tri kỉ, có ai để “mặn mà” nhưng trong sâu thẳm cõi lòng, Kiều vẫn luôn mong ngóng một tấm lòng, một người hiểu mình. Một lần nữa ngôn ngữ nửa trực tiếp lại khiến cho câu thơ có những lớp nghĩa sâu sắc kết hợp câu hỏi tu từ đầy sót xa cay đắng cho thấy phẩm chất tốt đẹp của Thúy Kiều giàu lòng tự trọng, coi trọng phẩm giá và muốn sống một cuộc sống bình yên, trong sạch.

Nỗi thương mình của Thúy Kiều có một ý nghĩa vô cùng sâu sắc xét về sự tự ý thức của con người cá nhân trong lịch sử văn học Việt Nam thời trung đại. Người phụ nữ xưa được giáo huấn theo tinh thần cam chịu, nhẫn nhục, buông xuôi. Khi con người biết “Giật mình mình lại thương mình xót xa” thì không còn nhẫn nhục cam chịu nữa mà đã ý thức rất cao về phẩm giá và nhân cách bản thân, ý thức về quyền sống của bản thân.

Thương thân xót phận là một chủ đề phổ biến trong văn học Việt Nam cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX (Cung oán ngâm, Chinh phụ ngâm, thơ Hồ Xuân Hương,…). Nguyễn Du là người viết về cảm hứng này sâu sắc và thấm thía hơn cả. Thương thân mình là một cách phản ứng với hiện thực của thân phận. Điều đó cho thấy con người không bị tàn đi, không bị cuốn theo, không bị hủy diệt. Giữa chốn lầu xanh nhơ nhớp, Kiều tách ra như một điểm sánh về tâm hồn. Chính vì vậy mà Từ Hải, Kim Trọng, Nguyễn Du và người đọc bao thế hệ đều rất trân trọng nàng.

Vẫn chủ đề quen thuộc vẫn là những số phận nhỏ bé của người phụ nữ nhưng đến Nguyễn Du ông đã dùng cây bút của mình viết nên vần thơ tựa như lời bộc bạch thấm thía, sâu sắc vô cùng. Dường như hình ảnh Thúy Kiều hiện thân cho người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa được đặc tả tinh tế nhất. Nỗi thương mình là nền tảng của lòng thương người, ông tự thương lấy chính cuộc đời ông và đồng cảm với nàng Kiều sống giữa chốn bụi trần đầy rẫy những lưỡi dao cắt xé lòng. Đoạn trích mang đậm chất bi thương vừa là chuỗi hành trình kể lại từng mảnh đời của Thúy Kiều vừa là lên án được xã hội vạn ác đã chồng chất bao nỗi khổ đau lên một kiếp người.

-/-

Trên đây là những gợi ý của Đọc tài liệu cho bài văn phân tích phân tích đoạn trích Khi tỉnh rượu lúc tàn canh có kèm theo một số bài văn mẫu tham khảo. Ngoài ra, để cải thiện và nâng cao kĩ năng viết văn các em có thể tìm đọc thêm các bài Văn mẫu lớp 11 khác do Đọc tài liệu biên soạn.

Bạn còn vấn đề gì băn khoăn?
Vui lòng cung cấp thêm thông tin để chúng tôi giúp bạn
Hủy

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM