Phân tích đoạn kết Vợ Nhặt: Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống

Xuất bản: 28/06/2023 - Cập nhật: 18/03/2024 - Tác giả:

Phân tích đoạn kết Vợ nhặt: Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã... Trong óc Tràng vãn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới.

Trong bài viết này Đọc tài liệu sẽ cùng các em phân tích đoạn kết của tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân. Với hướng dẫn lập dàn ý cùng tuyển chọn bài văn mẫu phân tích đoạn trích "Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã.... Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới." các em sẽ hiểu hơn về ý nghĩa sâu sắc của tác phẩm.

Đề bài: Trong truyện ngắn Vợ nhặt, nhà Văn Kim Lân viết:

Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã. Đàn quạ trên những cây gạo cao chót vót ngoài bãi chợ hốt hoảng bay vù lên, lượn thành từng đám bay vần trên nền trời như những đám mây đen. Người con dâu khẽ thở dài, thị nói lí nhí trong miệng:

- Trống gì đấy, u nhỉ?

- Trống thúc thuế đấy. Đằng thì nó bắt gồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ...

- Bà lão ngoảnh vội ra ngoài. Bà lão không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc. Người con dâu có vẻ lạ lắm, thị lầm bầm:

- Ở đây vẫn phải đóng thuế cơ à?

Im lặng một lúc thị lại tiếp:

- Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật, chia cho người đói nữa đấy.

Tràng thần mặt ra nghĩ ngợi. Cái mặt to lớn bặm lại, khó đăm đăm. Miếng cám ngậm trong miệng hắn đã bã ra chát xít... Hắn đang nghĩ đến những người phá kho thóc Nhật.

Tràng hỏi vội trong miếng ăn:

- Việt Minh phải không?

- Ừ, sao nhà biết?

Tràng không trả lời. Trong ý nghĩ của hắn vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm.

Hôm ấy hắn láng máng nghe người ta nói họ là Việt Minh đấy. Họ đi cướp thóc đấy. Tràng không hiểu gì sợ quá, kéo vội xe thóc của Liên đoàn tắt cánh động đi lối khác. À ra họ đi phá kho thóc chia cho người đói. Tự dưng hắn thấy ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu.

Ngoài đình tiếng trống thúc thuế vẫn dồn dập. Mẹ và vợ Tràng đã buông đũa đứng dậy. Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…

(Trích Vợ nhặt, Kim Lân, Ngữ văn 12, tập hai, Nxb Giáo dục, 2011, tr.24)

Anh/chị hãy phân tích đoạn trích trên.

Mới nhất: Đáp án đề thi Văn thpt quốc gia 2023 và barem điểm được cập nhật sớm nhất sau kì thi chính thức diễn ra.

Dàn ý phân tích đoạn trích Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống

Dưới đây là 3 mẫu dàn ý phân tích đoạn kết tác phẩm Vợ nhặt giúp các em tham khảo để có thêm hướng viết bài phân tích của mình

Dàn ý 1 Phân tích đoạn kết Vợ Nhặt: Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống

I. Mở bài

- Kim Lân là cây bút văn xuôi tiêu biểu của nền văn học Việt Nam. Các sáng tác của ông thiên về chủ đề nông  thôn và người nông dân nghèo với ngòi bút phân tích tâm lý nhân vật tài tình.

- Vợ nhặt là một trong những tác phẩm xuất sắc của Kim Lân viết trong bối cảnh nạn đói năm 1945. Tác phẩm  đã ngợi ca giá trị tình thần của con người ngay trên bờ vực cái chết.

- Khái quát vấn đề: Phân tích đoạn trích trên. Từ đó nhận xét sự mới mẻ của nhà văn Kim Lân khi viết về đề tài người nông dân trước cách mạng tháng Tám.

II. Thân bài

1. Vị trí đoạn trích:

Đoạn trích nằm ở phần cuối cùng của tác phẩm. Trong bữa cơm đón nàng dâu mới và sự mở đầu cho lối thoát của người nông dân.

2. Phân tích đoạn trích: 

- Đoạn trích thể hiện niềm tin vào tương lai của nhân vật Thị: Thị đã đưa đến những thông tin mang tính chất  như định hướng để mở ra lối thoát.

- Đoạn trích đã cho thấy khát vọng đổi đời của nhân vật Tràng.

+ Tràng quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội: mạn Thái Nguyên Bắc Giang không đóng thuê mà còn phá  kho thóc Nhật cha cho người đói.

- Tràng bắt đầu nghĩ ngợi, nhớ lại rồi ân hận, tiếc rẻ khi trong một lần đi kéo xe thóc cho liên đoàn vì thấy  Việt Minh đã lén đi đường khác.

+ Hình ảnh đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới lẩn khuất, ẩn hiện trong trí óc Tràng. Hình ảnh lá cờ chính là tín hiệu cho tương lai tươi sáng.

=> Người đọc tin tưởng Tràng sẽ đi theo Việt minh, theo cách mạng.

3. Nhận xét sự mới mẻ của nhà văn Kim Lân khi viết về đề tài người nông dân trước cách mạng tháng Tám.

- Trước cách mạng, khi viết về đề tài người nông dân ta chỉ thấy họ là những kẻ gàn dở không lối thoát. Nhưng  sau cách mạng Kim Lân đã cho chúng ta thấy những vẻ đẹp đáng tân trọng của họ.

+ Họ giàu tình yêu thương, trước cái đói thê thảm, đứng giữa bờ vực của sự sống và cái chết, người nông dân  vẫn lựa chọn tình yêu thương.

+ Họ cũng có khát vọng đổi đời và có niềm tin vào sự đổi đời đó.

+ Chi tiết cuối bài đã cho thấy ánh sáng cho sự giải thoát của người nông dân.

III. Kết bài

- Khái quát lại vấn đề nghị luận.

Dàn ý 2 phân tích đoạn kết Vợ Nhặt

I. Mở bài

- Giới thiệu tác phẩm: Vợ nhặt là một trong những truyện ngắn đặc sắc của Kim Lân viết về nạn đói. Truyện có kết thúc đặc sắc, gợi nhiều liên tưởng và khắc sâu hơn cho chủ đề của tác phẩm.

II. Thân bài

– Khái quát kết thúc truyện:

+ Trong bữa cơm ngày đói, để xóa đi bầu không khí trầm lặng vì ám ảnh đói khát, người vợ nhặt đã kể chuyện đoàn người đói phá kho thóc Nhật chia cho dân đói.

+ Lắng nghe câu chuyện của vợ, hiện lên trong tâm trí Tràng lúc ấy là hình ảnh về đám người đói đi trên đê và lá cờ đỏ bay phấp phới.

– Hình ảnh đám người đói và lá cờ đó cùng với vai trò khép lại câu chuyện đã mang đến nhiều liên tưởng sâu sắc và củng cố vững chắc cho nội dung tư tưởng chủ đề của tác phẩm.

+ Hình ảnh đám người đói và lá cờ đỏ xuất hiện thoáng chốc trong tâm trí Tràng không chỉ gợi ra cảnh ngộ đói khát dữ dội, thực trạng thê thảm của người dân nghèo mà còn mang đến những tín hiệu rõ nét của cuộc cách mạng.

→ Nhà văn Kim Lân đã rất khéo léo tái hiện thực trạng xã hội đời sống lúc bấy giờ qua kết thúc truyện mang tính gợi mở.

+ Kết thúc truyện cũng đã thể hiện được tinh thần nhân đạo của nhà văn Kim Lân khi trân trọng vào sức sống mạnh mẽ của con người ngay cả khi bị đặt trên ranh giới giữa sự sống và cái chết.

III. Kết bài

- Truyện ngắn Vợ nhặt được kết thúc mở gợi nhiều liên tưởng, suy ngẫm thể hiện xu hướng vận động tích cực của cuộc sống được khắc họa và miêu tả trong câu chuyện.

Dàn ý 3 phân tích đoạn cuối Vợ Nhặt

Đề bài trong kì thi tốt nghiệp 2023: Anh/chị hãy phân tích đoạn trích trên, từ đó, nhận xét cách nhìn cuộc sống của nhà văn Kim Lân được thể hiện trong đoạn trích.

I. Mở bài:

- Kim Lân là cây bút văn xuôi tiêu biểu của nền văn học Việt Nam. Các sáng tác của ông thiên về chủ đề nông thôn và người nông dân nghèo với ngòi bút phân tích tâm lý nhân vật tài tình.

- Vợ nhặt là một trong những tác phẩm xuất sắc của Kim Lân viết trong bối cảnh nạn đói năm 1945. Tác phẩm đã ngợi ca giá trị tinh thần của con người ngay trên bờ vực cái chết.

- Giới thiệu vấn đề nghị luận của bài viết: Vẻ đẹp tâm hồn người nông dân; cách nhìn cuộc sống của nhà văn Kim Lân.

II. Thân bài:

1. Phân tích đoạn trích

a. Vị trí và bối cảnh đoạn trích.

- Vị trí: Đoạn trích được trích ở phần cuối của tác phẩm, trong bữa cơm đón nàng dâu mới.

- Khái quát bối cảnh đoạn trích: Tràng vốn là một người đàn ông xấu xí, thô kệch lại là dân xóm ngụ cư sống trong nạn đói. Trong một lần đẩy xe bò đã “nhặt” được vợ. Đoạn trích tái hiện lại phản ứng của các nhân vật trước sự việc thu thuế diễn ra sau khi Tràng nhặt vợ.

b. Đoạn trích thể hiện vẻ đẹp tâm hồn, niềm tin vào tương lai và khát vọng đổi đời đáng trân trọng của những con người đang trên bờ vực của cái chết

* Đoạn trích thể hiện niềm tin vào tương lai

- Trong bữa cơm đón nàng dâu mới, sau khi truyền cho các con niềm tin, niềm vui thông qua một loạt những hình dung tích cực về tương lai thì tiếng trống thúc thuế vang lên dồn dập, kéo bà cụ Tứ trở về với hiện thực, niềm vui của bà không thể cất cánh, niềm tin của bà không thể mở rộng; nỗi lo lắng phục sinh vẹn nguyên.

- Thế nhưng ngay sau đó, câu nói của người con dâu mới đã đưa đến thông tin mang tính chất như định hướng để mở ra lối thoát. Người vợ nhặt đã đem đến một niềm tin, niềm hi vọng cho một tương lai mới mẻ.

- Nỗi niềm của bà vơi dần đi qua lời nói của người con dâu về những điều bà chưa từng được nghe, được thấy bao giờ -> ánh sáng le lói cuối đường hầm. Bà đã nhìn thấy lối thoát cho mình, cho gia đình mình và tất cả những người dân khốn cùng như bà.

* Đoạn trích thể hiện khát khao đổi đời của nhân các nhân vật.

Khao khát đổi đời được thể hiện rõ nhất qua suy nghĩ của nhân vật Tràng sau khi nghe người vợ nhặt nói về việc phá kho thóc của Nhật.

- Tràng từ một anh chàng thô kệch, ngờ nghệch đã bắt đầu biết quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội: mạn Thái Nguyên, Bắc Giang không đóng thuế mà còn phá kho thóc Nhật chia cho người đói. Tràng nghĩ ngợi, anh nhớ lại sự kiện những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp, đằng trước là lá cờ đỏ to lắm. Hôm ấy Tràng không hiểu gì nên đã kéo xe thóc đi lối khác. Bây giờ thông qua câu chuyện của người vợ, anh biết được họ phá kho thóc để chia cho người đói. Nghĩ đến đây anh bỗng thấy hối hận.

=> Đây là tín hiệu cho một tương lai tươi sáng. Người đọc tin tưởng Tràng sẽ đi theo Việt Minh, theo cách mạng.

- Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng hiện lên trong tâm chí Tràng báo hiệu cho một sự giải phóng. Tràng sẽ hòa vào dòng người kia để giải phóng những người dân nghèo cũng như giải phóng chính mình.

c. Đánh giá:

- Nghệ thuật thể hiện vẻ đẹp tâm hồn người nông dân:

+ Thủ pháp đối lập tương phản giữa tính cách và hoàn cảnh sống.

+ Với ngôn ngữ mộc mạc mà tinh tế, Kim Lân bộc lộ tài năng xây dựng nhân vật khi họ cùng hoàn cảnh, cùng chung tâm trạng vui sướng hạnh phúc nhưng mỗi người lại có cách biểu lộ cảm xúc riêng.

+ Sự am hiểu tâm lí con người đã giúp ông có được những trang văn chân thực, cảm động.

+ Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, giọng điệu tự nhiên, không cầu kì, đậm phong thái của những con người nơi vùng quê chất phác.

=> Nhà văn Kim Lân không chỉ nói lên sự sống mỏng manh của con người trước nạn đói khủng khiếp mà quan trọng hơn là đứng trên bờ vực của sự sống và cái chết vẻ đẹp của con người vẫn luôn tỏa rạng. Trong cái khốn cùng, thiếu thốn, đói nghèo con người vẫn dành cho nhau những tình cảm chân thành và đáng trân trọng nhất: “Câu chuyện Vợ nhặt đầy bóng tối nhưng từ trong đó đã lóe lên những tia sáng ấm lòng”. (Hoài Việt)

2. Nhận xét về cách nhìn cuộc sống của nhà văn Kim Lân

- Cái nhìn của tác giả là cái nhìn sắc sảo để phơi bày hiện thực xã hội những năm trước cách mạng

- Cái nhìn tiến bộ của thế giới quan cách mạng: hiện thực cuộc sống luôn có sự vận động từ tăm tối, khốc liệt tới ánh sáng, tương lai.

- Cái nhìn giàu tình thương và nhân ái: trân trọng, nâng niu khát khao sống và khát vọng hạnh phúc của người nông dân. Thể hiện niềm tin về khả năng kì diệu của con người khi bị đẩy đến bờ vực, con người không còn là nạn nhân một chiều của hoàn cảnh mà có khả năng cải tạo hoàn cảnh, cách mạng chính là con đường sáng dẫn lối.

III. Kết luận

- Khái quát lại vấn đề.

- Giá trị nội dung, nghệ thuật.

* Mở rộng: So sánh đoạn kết của truyện ngắn Vợ nhặt với đoạn kết của Chí Phèo

- Đoạn kết Chí Phèo:

+ Ý nghĩa nội dung:

  • “Cái lò gạch cũ” vốn là nơi Chí Phèo bị bỏ rơi lúc lọt lòng, giờ đây khi Chí Phèo vừa chết lại xuất hiện trong ý nghĩ của thị Nở ở kết thúc truyện, đã gợi ra được sự quẩn quanh, bế tắc trong tấn bi kịch tha hóa và bị cự tuyệt quyền sống lương thiện của người nông dân.
  • Kết thúc truyện thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của Nam Cao: đồng cảm với nỗi thống khổ của người nông dân dưới ách thống trị tàn bạo của bọn địa chủ phong kiến, trân trọng khát vọng được sống lương thiện của họ.

+ Ý nghĩa nghệ thuật:

  • Truyện kết thúc bằng cách lặp lại hình ảnh ở phần mở đầu tạo nên kết cấu đầu cuối tương ứng gợi ra vòng tròn luẩn quẩn của thân phận Chí Phèo, giúp tô đậm chủ đề tư tưởng: cuộc đời Chí Phèo tuy kết thúc nhưng tấn bi kịch Chí Phèo sẽ vẫn còn tiếp diễn.
  • Kết thúc truyện vừa khép vừa mở dành nhiều khoảng trống cho người đọc tưởng tượng và suy ngẫm, tạo ra được dư âm sâu bền đối với sự tiếp nhận.

- Đoạn kết Vợ nhặt:

+ Ý nghĩa nội dung:

  • Hình ảnh “đám người đói và lá cờ đỏ” hiện lên trong tâm trí Tràng vừa gợi ra cảnh ngộ đói khát thê thảm vừa gợi ra những tín hiệu của cuộc cách mạng, cả hai đều là những nét chân thực trong bức tranh đời sống lúc bấy giờ.
  • Kết thúc truyện góp phần thể hiện tư tưởng nhân đạo của Kim Lân: trân trọng niềm khát vọng sống ngay bên bờ vực cái chết của người lao động nghèo; niềm tin bất diệt vào tương lai tươi sáng.

+ Ý nghĩa nghệ thuật:

  • Hình ảnh dùng để kết thúc truyện là triển vọng sáng sủa của hiện thực tăm tối, đó là tương lai đang nảy sinh trong hiện tại, vì thế nó quyết định đến âm hưởng lạc quan chung của câu chuyện.
  • Đây là kiểu kết thúc mở giúp thể hiện xu hướng vận động tích cực của cuộc sống được mô tả trong toàn bộ câu chuyện; dành khoảng trống cho người đọc suy tưởng, phán đoán.

- Sự tương đồng và khác biệt của hai đoạn kết truyện:

+ Tương đồng: Hai kết truyện cùng phản ánh hiện thực tăm tối của con người trước Cách mạng tháng Tám; cùng góp phần thể hiện tư tưởng nhân đạo của mỗi nhà văn; cùng là những kết thúc có tính mở, giàu sức gợi.

+ Khác biệt: Kết thúc truyện Chí Phèo phản ánh hiện thực luẩn quẩn, bế tắc của người nông dân lao động, được thể hiện qua kết cấu đầu cuối tương ứng hàm ý tương lai sẽ chỉ là sự lặp lại của hiện tại; kết thúc truyện Vợ nhặt phản ánh xu hướng vận động tất yếu của số phận con người, được thể hiện qua kết cấu đối lập hàm ý tương lai sẽ mở lối cho hiện tại.

TOP 10+ bài văn mẫu phân tích đoạn kết Vợ Nhặt: Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống

Dưới đây là những bài văn mẫu mà Đọc tài liệu đã tuyển chọn, giúp học sinh hiểu được ý nghĩa sâu sắc mà nhà văn Kim Lân muốn truyền đạt trong đoạn cuối tác phẩm "Vợ nhặt".

Phân tích đoạn kết Vợ Nhặt bài mẫu số 1

Nếu kết thúc truyện "Tắt đèn", chị Dậu chạy ra khỏi nhà tên quan huyện trong một đêm đen "như cái tiền đồ của chị"; nếu kết thúc truyện "Chí Phèo" là cái chết trong đau đớn của Chí và hình ảnh thị Nở nhìn nhanh xuống bụng nghĩ đến cái lò gạch cũ bỏ không như dự báo một Chí Phèo con ra đời thì Kim Lân lại tìm một hướng đi khác cho câu chuyện nhặt vợ cười ra nước mắt của anh cu Tràng. Kim Lân đã không để cuộc đời của các nhân vật chìm đắm trong bóng tối của đói nghèo và cái chết, hình ảnh Việt Minh cùng lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện cuối tác phẩm "Vợ nhặt" đã tạo nên cho truyện một kết thúc "mở, tự nhiên và sáng".

Bắt đầu viết văn và có tác phẩm đăng báo từ những năm 1941-1944, Kim Lân được coi là nhà văn thành công về đề tài nông thôn với những con người bé nhỏ và cam phận, những vẻ đẹp chân quê bình dị và những phong tục tập quán độc đáo của làng quê Bắc bộ. Từng trang viết của nhà văn sinh ra từ đồng ruộng này đều như mang trong đó mùi của rơm rạ, khói bếp, lúa đồng, mùi của cuộc sống nông thôn cơ cực, nhọc nhằn..

"Vợ nhặt" được viết lên mang cái tình của Kim Lân dành cho những người nông dân nghèo khổ, lam lũ mà chất phác, yêu đời. Nhân vật chính của truyện là anh cu Tràng - anh chàng kéo xe thuê nghèo khổ, xấu xí, lại là dân ngụ cư. Giữa những ngày đói khủng khiếp của năm Ất Dậu, hắn bỗng dưng "nhặt" được vợ chỉ qua hai lần gặp gỡ và mấy bát bánh đúc. Hắn đưa vợ về nhà trong sự ái ngại những người dân xóm ngụ cư, trong trạng thái ngạc nhiên, ngỡ ngàng của bà mẹ hắn. Với lòng nhân hậu, yêu thương, bà cụ đã đón nhận người vợ nhặt. Chi tiết kết thúc truyện là bữa cơm mừng dâu mới với âm thanh dồn dập của tiếng trống thúc thuế, với câu chuyện người vợ Tràng kể về sự nổi dậy của người dân vùng cách mạng và hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện trong óc Tràng khi nghe câu chuyện ấy.

Trước hết, đoạn kết truyện tiếp tục hoàn thiện bức tranh về nạn đói thảm khốc năm Ất Dậu. Nếu ở phần đầu, tác giả tập trung miêu tả hiện thực qua hình ảnh những người đói dật dờ đi lại như những bóng ma, những chiếc thây nằm còng queo bên đường.. thì phần cuối, giữa không khí có phần im lặng, "tủi hờn" của bữa ăn mừng dâu mới, một âm thanh dồn dập, vội vã bỗng dội lên: Âm thanh của tiếng trống thúc thuế - âm thanh gây ám ảnh kinh hoàng đối với những người dân đói khổ. Bởi sau chuỗi âm thanh ấy là biết bao thảm cảnh đau thương. Kim Lân không miêu tả trực tiếp, nhưng ta có thể hình dung thảm cảnh ấy qua hình ảnh gia đình chị Dậu trong đoạn trích "Tức nước vỡ bờ" của tiểu thuyết "Tắt đèn".

Phụ họa cùng âm thanh tiếng trống là hình ảnh đàn quạ "lượn thành từng đám bay vẩn trên nền trời như những đám mây đen." Loài vật "biểu tượng" cho sự chết chóc này đâu phải xuất hiện một lần. Âm thanh tiếng quạ "gào lên từng hồi thê thiết" mà Kim Lân miêu tả trong đoạn trước đã được chuyển hóa thành "những đám mây đen" như phủ bóng đen của cái chết lên bầu trời, lên thân phận của những con người đói khổ dưới mặt đất.

Trong khi người con dâu ngơ ngác chưa biết tiếng trống gì, thì lòng người mẹ nghèo đã chất đầy bi thương. Tiếng trống quá quen thuộc mỗi ngày ấy lại có sức "sát thương" ghê gớm: "Trống thúc thuế đất. Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ.. Bà lão ngoảnh vội ra ngoài. Bà lão không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc."

Câu nói của cụ Tứ giúp người đọc hiểu rõ hơn nguyên nhân của tình cảnh thê thảm khiến trong vòng ba tháng hơn hai triệu đồng bào ta chết đói: Thực dân Pháp thì thi hành những "luật pháp dã man", vơ vét của cải còn phát xít Nhật thì bắt nhân dân ta nhổ lúa trồng đay phục vụ cho mục đích chiến tranh. Lời than thở của cụ Tứ cũng chính là lời kết tội đanh thép của nhà văn hướng về phía bọn xâm lược bạo tàn.

Nhận thức về hiện thực khiến cụ Tứ vừa mới đây còn vui vẻ nói nói, cười cười, bàn tính toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau, giờ đây, tâm trí cụ lại như rơi vào điểm đáy. Cụ lo lắng: "Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ". Tiên cảm về cái đói, cái chết giống như bóng đen trở đi trở lại ám ảnh cụ. Hiện thực quá khốc liệt khiến cụ không thể vui trọn vẹn trong ngày đại hỷ của con. Dòng nước mắt hiếm hoi nơi kẽ mắt kèm nhèm lần nữa nhỏ xuống. "Bà lão ngoảnh vội ra ngoài. Bà lão không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc."

Nếu như theo "mô típ" của dòng truyện hiện thực trước Cách mạng, Kim Lân có thể đã kết thúc truyện ở những dòng nước mắt bi thương của người mẹ nghèo. Nếu vậy, cái kết này sẽ giống với cái kết của Chí Phèo, Một bữa no, Bước đường cùng hay Tắt đèn.. Nhưng không, Kim Lân đột ngột chuyển mạch truyện sang một hướng mới, tươi sáng, lạc quan hơn.

Câu chuyện của chị con dâu kể về mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa, mà còn phá cả kho thóc Nhật chia cho người đói là bước ngoặt đầu tiên của kết truyện. Chuyện không đóng thuế, phá kho thóc.. dù ở tận mạn ngược xa xôi, nhưng cũng đủ để mang đến một luồng sinh khí mới cho cả gia đình. Câu chuyện ấy như giống như tia sáng le lói nhen nhóm lên giữa khung cảnh "tối sầm vì đói khát".

Điều đặc biệt là câu chuyện của vợ Tràng đã khiến tâm trí Tràng xuất hiện những hình ảnh thật đẹp. Lần đầu tiên trong óc Tràng, không phải là những suy nghĩ ngờ nghệch, vô tâm, vô tư mà là hình ảnh đám người đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp, đằng trước có lá cờ đỏ to lắm. Những hình ảnh ấy chính là bước ngoặt thứ hai cho kết truyện, quyết định cái kết "mở, tự nhiên và sáng".

Những người đói kia, họ cũng như Tràng, mẹ Tràng, vợ Tràng – là nạn nhân của thảm cảnh năm đói Ất Dậu. Nhưng họ đã biết đi theo tiếng gọi của Đảng, của Cách mạng, đứng lên đấu tranh, phá kho thóc Nhật, giành lại sự sống về tay mình. Tín hiệu của một cuộc Cách mạng đã khá rõ ràng. Cho nên không phải ngẫu nhiên mà tác giả lại nhắc đến những địa danh Thái Nguyên, Bắc Giang. Đó chẳng phải là căn cứ địa của Cách mạng những năm kháng chiến chống Pháp đó sao?​

Ý đồ gửi gắm trong những dòng cuối cùng của câu chuyện trước hết tạo nên một kết thúc "mở", gợi nhiều suy ngẫm trong lòng người đọc. Truyện không "đóng khung" số phận của nhân vật theo hướng nào mà để "lửng", để người đọc mỗi người tự hình dung về số phận nhân vật theo suy nghĩ của mình. Nhà văn đã để bạn đọc đồng sáng tạo cùng tác giả. Và có lẽ, trong suy ngẫm của nhiều độc giả, một ngày kia, Tràng, mẹ Tràng, vợ Tràng sẽ được giác ngộ Cách mạng, hòa cùng đám người đói kia đấu tranh để giải phóng cho chính mình. Cuộc sống của anh và gia đình cùng những người nông dân Việt Nam sẽ sang một trang mới, ấm no hơn, hạnh phúc hơn khi cách mạng giành thắng lợi.

Thứ hai, kết thúc truyện của Kim Lân là kết thúc "tự nhiên", có cơ sở từ thực tiễn đời sống. Tại thời điểm 1945, công cuộc chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa đang ở giai đoạn nước rút. Nhiều nơi, Việt Minh đã nổi dậy phá kho thóc Nhật chia cho người nghèo. Nhân dân được Đảng giác ngộ cũng đã nhận ra bộ mặt của kẻ thù xâm lược. Họ sẽ ý thức được sứ mệnh của mình và tìm đến Cách mạng như một con đường tất yếu. Nhưng sự khéo léo của Kim Lân là không kết một cách khiên cưỡng nếu để Tràng tham gia Cách mạng ngay, mà chỉ dừng lại ở nhận thức ban đầu của Tràng về Việt Minh. Quá trình nhận thức về Việt Minh, về Cách mạng được diễn tiến từ từ. Cách kết truyện như thế là phù hợp.

Thứ ba, kết thúc truyện của Kim Lân còn là một kết thúc "sáng", đầy tính nhân văn. Trong văn học hiện thực trước Cách mạng tháng Tám, có nhiều cái kết đã để lại ám ảnh bi thương trong lòng người đọc. Như Chí Phèo phải chết trong đau đớn sau khi thức tỉnh lương tri. Như Chị Dậu cũng phải chạy thoát thân trong cái đêm đen như mực "giống như cái tiền đồ của chị" cho dù cũng có lúc vùng lên đấu tranh.. Số phận của họ đều bế tắc trong cái vòng luẩn quẩn không lối thoát. Không phải vì Nam Cao, Ngô Tất Tố không cảm thương cho nhân vật của mình, nhưng các nhà văn lúc ấy chưa nhận ra ánh sáng của Cách mạng, chưa nhìn thấy khả năng đổi đời của người nông dân. Còn Kim Lân, thời điểm ông viết truyện này là sau hòa bình lập lại. Thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám đã khiến các nhà văn như ông, (như Tô Hoài) nhận thức rõ ràng vai trò của Cách mạng và khả năng Cách mạng của người nông dân. Nên Kim Lân đã hướng họ đến ánh sáng của Đảng, của Cách mạng, mở ra cho họ một tương lai tươi sáng hơn, dù đó chỉ là "ánh sáng le lói cuối đường hầm".

Phân tích đoạn kết Vợ Nhặt bài mẫu số 2

Đoạn kết truyện Vợ Nhặt là một đoạn kết mở đầy ấn tượng, mang nhiều ý nghĩa sâu sắc. Qua đó, tác giả Kim Lân đã thể hiện niềm tin vào sức sống tiềm tàng và khát vọng hạnh phúc của người nông dân Việt Nam trong hoàn cảnh bần cùng, đói khổ trước Cách mạng tháng Tám.

Đoạn kết mở ra với hình ảnh "đám người đói" đi phá kho thóc của Nhật và "lá cờ đỏ bay phấp phới". Đây là một hình ảnh mang tính biểu tượng cao, thể hiện sự phẫn nộ và sức mạnh tiềm tàng của người dân lao động khi bị đẩy đến đường cùng. Hình ảnh "đám người đói" và "lá cờ đỏ" gợi cho Tràng nhớ lại một lần anh đã nhìn thấy đoàn người đi phá kho thóc và được nghe nói họ là Việt Minh. Đây là một chi tiết quan trọng, thể hiện sự chuyển biến trong nhận thức của Tràng. Trước đây, Tràng chỉ biết cam chịu số phận, sống mòn mỏi trong kiếp người cùng khổ. Tuy nhiên, khi chứng kiến cảnh tượng đoàn người đi phá kho thóc, anh nhận ra rằng mình không đơn độc, vẫn còn có những người cùng khổ khác đang đứng lên đấu tranh cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Sự chuyển biến trong nhận thức của Tràng được thể hiện qua hành động "anh bỗng dưng muốn chạy theo". Niềm khao khát được thoát khỏi kiếp sống nô lệ, được sống tự do, hạnh phúc đã thôi thúc Tràng muốn tham gia vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân.

Đoạn kết truyện Vợ Nhặt tuy ngắn ngủi nhưng đã thể hiện được nhiều ý nghĩa sâu sắc. Qua đó, tác giả Kim Lân đã thể hiện niềm tin vào sức sống tiềm tàng và khát vọng hạnh phúc của người nông dân Việt Nam trong hoàn cảnh bần cùng, đói khổ trước Cách mạng tháng Tám.

Phân tích đoạn kết Vợ Nhặt bài mẫu số 3

Kim Lân là nhà văn có sở trường về truyện ngắn; chuyên viết về nông thôn và đời sống của người dân nghèo với ngòi bút đôn hậu và hóm hỉnh. Vợ nhặt là truyện ngắn tiêu biểu của Kim Lân; kết thúc truyện đặc sắc, khắc sâu được chủ đề tư tưởng của tác phẩm.

Mở đầu đoạn trích là bức tranh hiện thực đầy u ám, tăm tối của nạn đói khủng khiếp năm 1945 và sự hoang mang của con người trước hiện thực đen tối ấy. Kim Lân miêu tả:

“Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã. Đàn quạ trên những cây gạo cao chót vót ngoài bãi chợ hốt hoảng bay vù lên, lượn thành từng đám bay vần trên nền trời như những đám mây đen.”

Đoạn trích mở ra là âm thanh. Ngoài định bóng đôi lên một hỏi trong nhân dân, Hội sử. Từ "bỗng" gợi ra sự hốt hoảng, ám ảnh. Âm thanh tiếng trống được miêu tả “dồn dập, vội vã", âm thanh ấy phá tan cả bình yên buổi sáng vàkhông khí đầm ấm đoàn viên của gia đình Tràng. Hình ảnh đàn quạ trong cách so sánh “lượn thành từng đám bay vẩn lên nền trời như những đám mây đen” gợi ra cảnh tượng chết chóc, đen tối, một không gian u ám, ảm đạm. Dân ta “chết như ngả rạ”, người sống “như những bóng ma", cuộc sống đang chết dần, chết mòn nhưng các thế lực thống trị vẫn không buông tha cho nhân dân.

Tiếng trống thúc thuế cùng với lời giãi bày và sự lo lắng của bà cụ Tử càng làm cho thực tại trở nên bi thảm. Phép điệp cấu trúc: “Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế” làm cho hai nỗi khổ trùng điệp hiện lên. Câu nói như một tiếng kêu than đầy bất lực của người mẹ: “Giới đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ”. Bà cụ Tứ thậm chí còn nghi ngờ cả tương lai bởi “không chắc đã sống qua được". Qua chi tiết này, nhà văn đã góp phần gián tiếp lên án, tố cáo tội ác của phát xít, thực dân, phong kiến đã dồn đẩy cả dân tộc ta vào bước đường cùng.

Chi tiết bà cụ Tứ “ngoảnh vội ra ngoài. Bà lão không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc...” là một chi tiết thể hiện vẻ đẹp nhân văn ở người mẹ. Nếu những lần trước bà khóc trước mặt con thì lần này người mẹ ấy đã quay đi giấu nước mắt của mình, bởi hôm nay là ngày vui của các con, bà không muốn cảm xúc của mình làm ảnh hưởng tới các con, không muốn con vì mình mà phải bận tâm.

Ở đoạn văn tiếp theo, người vợ nhặt mang đến thông tin mới mẻ về Việt Minh. Người vợ nhặt ngạc nhiên bởi “Ở đây vẫn còn đóng thuế cơ à?". Sự ngạc nhiên ấy có nguyên nhân từ sự hiểu biết chính trị của thị, bởi: "Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật, chia cho người đói nữa đấy". Việc liệt kê các địa danh Thái Nguyên, Bắc Giang, vừa chỉ vùng đất xa xôi, vừa mang đến thông tin cách mạng về sự vùng lên của nhân dân ở những vùng xa xôi hẻo lánh. Các từ ngữ như không chịu đóng thuế", "phá kho thóc Nhật" thể hiện sự quyết liệt trong tranh đấu, sự vùng lên của nhân dân chống lại áp bức bất công.

Thông tin mới mà ấy khiến Tràng như bừng tỉnh, anh liên kết câu chuyện của vợ và những người đi phá kho thóc Nhật, rồi chợt hỏi “Việt Minh phải không?". Bởi lúc này Tràng đang quay về trong ký ức chưa xa của mình về hình ảnh "những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm". Tràng “láng máng nghe người ta nói họ là Việt Minh... Họ đi cướp thóc đẩy". Trong hoàn cảnh lúc ấy Tràng không hiểu gì sợ quá, kéo vội xe thóc của Liên đoàn tắt cánh đồng đi lối khác. Sau khi được người vợ giác ngộ, Tràng nhận ra: "Ả ra họ đi phủ kho thóc chia cho người đòi. Tự dưng hẳn thấy ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu. " Sự ân hận, tiếc rẻ vẫn vợ của Trùng tuy còn mơ hồ nhưng cho thấy, Tràng đã hiểu ra được ý nghĩa và việc làm của Việt Minh. Việc làm của Việt Minh là phá kho thóc Nhật chia cho người đói. Anh tiếc vì mình đã không nhận ra điều ấy sớm hơn, tiếc vì mình đã không đứng trong đoàn người ấy.

Đoạn trích khép lại bằng hình ảnh lá cờ đỏ và niềm tin của Tràng vào tương lai tươi sáng. Âm thanh tiếng trống thúc thuế lần thứ hai xuất hiện, vẫn ám ảnh, đe dọa. Nhưng đối lập với âm thanh ấy là hình ảnh “đám người đói và lá cờ đỏ” hiện lên trong tâm trí Tràng. Hình ảnh ấy gợi ra những tín hiệu của cuộc cách mạng, là sự vẫy gọi mãnh liệt của tương lai. Kết thúc này là kết thúc hợp lý, bởi kết thúc ấy đã góp phần thể hiện tư tưởng nhân đạo của Kim Lân nhà văn trân trọng khát vọng sống mãnh liệt của con người lao động; là niềm tin bất diệt vào tương lai tươi sáng. Hình ảnh “lá cờ đỏ” và “đoàn người đói lặp lại hai lần ở đoạn cuối như tính vẫy gọi và dự báo của tác phẩm, rằng: Tràng sẽ xuất hiện trong đoàn người đó, dưới lá cờ đó, anh sẽ đi theo cách mạng, bởi chỉ cách mạng mới thực sự mang lại sự đổi đời cho những người nông dân.

Đoạn kết truyện Vợ Nhặt là một đoạn kết mở đầy ấn tượng, mang nhiều ý nghĩa sâu sắc. Qua đó, tác giả Kim Lân đã thể hiện niềm tin vào sức sống tiềm tàng và khát vọng hạnh phúc của người nông dân Việt Nam trong hoàn cảnh bần cùng, đói khổ trước Cách mạng tháng Tám.

Phân tích đoạn trích Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống mẫu số 4

Kim Lân, một cây bút viết truyện ngắn điêu luyện, am hiểu và gắn bó sâu sắc với đời sống nông thôn và người nông dân. Với vốn hiểu biết này, Kim Lân đã miêu tả chân thực về cuộc sống và số phận của người nông dân trong các cuộc đấu tranh của họ thông qua các sự kiện nổi bật trong tác phẩm của mình. “Vợ Nhặt” là truyện ngắn tiêu biểu của Kim Lân miêu tả sinh động nạn đói. Cái kết đặc biệt của câu chuyện tạo ra nhiều liên tưởng và đi sâu hơn vào chủ đề của tác phẩm.

Trong bữa cơm vào một ngày đói kém, người vợ nhặt đã kể lại chuyện những người đói đột nhập vào kho gạo của Nhật và phân phát gạo cho những người cần. Tràng nghe chuyện đã mường tượng ra hình ảnh đoàn người đói khổ đi trên đê với lá cờ đỏ phấp phới. Hình ảnh này cùng với phần kết của truyện đã gợi nên những liên tưởng sâu sắc và củng cố nội dung tư tưởng của tác phẩm.

Hình ảnh đám đông đói khát và lá cờ đỏ sao vàng hiện lên trong tâm trí Tràng không chỉ gợi lên cảnh đói khổ cùng cực mà còn mang đến những tín hiệu rõ ràng của một cuộc cách mạng. Chỉ bằng cách đứng lên đấu tranh chống lại sự áp bức của người nghèo, các cá nhân mới có thể bảo vệ chính mình và những người thân yêu của họ. Kim Lân đã khéo léo khắc họa hiện thực xã hội thời bấy giờ qua cái kết mở của truyện.

Kết thúc của truyện Vợ nhặt được đánh dấu bởi tinh thần nhân đạo và niềm tin vào tương lai tươi sáng của con người. Kim Lân trân trọng sức sống mạnh mẽ của con người, ngay cả khi họ đang đối diện với cái chết và thể hiện niềm tin mãnh liệt vào một tương lai đầy hy vọng khi cách mạng thành công và con người được giải phóng khỏi sự áp bức tàn nhẫn của phong kiến thực dân.

Trong hình ảnh đoàn người đói và lá cờ đỏ, ta có thể thấy tương lai đầy hy vọng của con người khi họ đứng lên bảo vệ cuộc sống của mình. Những cảm xúc và tinh thần tích cực được khắc họa và miêu tả trong câu chuyện, đem lại nhiều liên tưởng và suy ngẫm. Kết thúc mở còn gợi ra một âm hưởng lạc quan chung, tạo ra sự động lực tích cực và hy vọng cho cuộc sống. Câu chuyện này thực sự là một bức tranh tuyệt đẹp về tinh thần nhân đạo, hy vọng và sức sống của con người.

Phân tích đoạn trích Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống mẫu số 5

Xây dựng nhân vật Tràng, Kim Lân trước hết phơi bày cuộc sống khổ cực của nhân dân ta trong nạn đói 1945. Nhưng đằng sau đó còn là sự cảm thương cho số phận họ. Trân trọng, phát hiện và ngợi ca vẻ đẹp của người dân Việt Nam trong tình cảnh khốn cùng: tấm lòng nhân hậu, khát khao hạnh phúc, tin tưởng vào tương lai.

Ba mẹ con Tràng đã tìm thấy niềm vui trong sự nương tựa, cưu mang lẫn nhau mà sống. Tình vợ chồng, mẹ con sẽ là động lực giúp họ tăng sức mạnh vượt qua giai đoạn ngặt nghèo trước mắt. Tình cảm ấy rất cần nhưng chưa đủ để đảm bảo cho ba người một tương lai tốt đẹp hơn. Hiện tại, cuộc sống vẫn một màu xám xịt, đầy đe dọa và chết chóc: Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã. Đàn quạ trên những cây gạo cao chót vót ngoài bãi chợ hốt hoảng bay vù lên, lượn thành từng đám bay vẩn trên nền trời như những đám mây đen…

Cái tài của tác giả là cứ nhẹ nhàng như không mà luồn lách ngòi bút động đến tận nơi sâu thẳm của tâm hồn, bắt người ta phải cười, phải khóc, phải sống với nhân vật của mình.

Trong suốt truyện, tác giả không một lần trực tiếp nhắc đến thực dân Pháp, phát xít Nhật và bè lũ phong kiến tay sai nhưng tội ác của chúng vẫn hiển hiện, phơi bày trên từng trang viết và được gói gọn trong câu nói đầy phẫn uất của bà mẹ già: Trống thúc thuế đấy. Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ… Người con dâu nhắc chuyện trên mạn ngược, Việt Minh phát động dân chúng không đóng thuế, lại còn tổ chức phá kho thóc của Nhật chia cho người nghèo… Điều ấy gợi cho Tràng nhớ tới cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đô Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ… và tâm trí anh bị cuốn hút mãi bởi hình ảnh ấy.
Tràng chưa được giác ngộ cách mạng nên lúc chứng kiến cảnh đó anh thấy sợ. Giờ hiểu ra, anh lại ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu… Bước đầu, anh thấy rằng cần phải làm như thế vì không có cách nào khác. Tin rằng lần sau, trong đoàn người phá kho thóc của Nhật, thế nào cũng có mặt vợ chồng Tràng. Hình ảnh lá cờ đỏ bay phấp phới đem đến cho Tràng bao hi vọng vào sự đổi đời. Đó là ý nghĩa dự báo cách mạng của tác phẩm này.

Truyện Vợ nhặt tiêu biểu cho phong cách viết độc đáo của nhà văn Kim Lân. Cốt truyện đơn giản nhưng chặt chẽ. Trong truyện, người và cảnh đan xen, tương phản với nhau. Bản chất đẹp đẽ bên trong tương phản với vẻ xấu xí bên ngoài, sự sống tương phản với cái chết… Tất cả đều nhằm mục đích làm nổi bật chủ đề của truyện.

Tác giả không miêu tả kĩ hiện thực tàn khốc lúc bấy giờ mà chú trọng đến việc thể hiện vẻ đẹp tinh thần ẩn giấu trong cái bề ngoài xác xơ vì đói khát của những người nghèo khổ. Viết truyện này, tác giả bày tỏ thiện cảm sâu sắc đối với họ. Ông khẳng định sự đói khát, không tiêu diệt được bản tính tốt đẹp của con người, hiện thực tăm tối không giết chết nổi niềm tin vào cuộc sống. Trong hoàn cảnh cơ cực, đọa đày, họ vẫn nhen nhóm niềm tin, vẫn hi vọng vào sự đổi đời và một tương lai tốt đẹp.

Truyện gây ấn tượng mạnh với người đọc bởi tính chất nhân văn cao cả, bởi ngôn ngữ mộc mạc, sinh động và giàu sức gợi tả. Tấm lòng của tác giả gửi gắm trong truyện đáng quý biết chừng nào

Phân tích đoạn kết Vợ nhặt bài mẫu số 6

Mỗi truyện ngắn của Kim Lân không chỉ là một câu chuyện đơn giản, mà nó còn chứa đựng một thông điệp nhân văn sâu sắc, một bài học mà mỗi người có thể tự suy ngẫm và rút ra kinh nghiệm cho riêng mình. Những câu truyện đó sẽ luôn tồn tại trong tâm trí người đọc, và những tác phẩm nổi tiếng và bền vững qua thời gian chắc chắn là những câu chuyện hay. Trong đó, không thể không nhắc đến truyện Vợ nhặt của Kim Lân. Nhà văn tài hoa đã mô tả chân thật bối cảnh và tâm trạng của người dân nông thôn vào thời điểm đó. Kết thúc của truyện Vợ nhặt mở ra một suy nghĩ mới và đẹp, thể hiện sự nhân văn và tinh thần cao đẹp của nhà văn.

Với tài năng viết truyện ngắn của mình, Kim Lân thường viết về đời sống của người nông dân nghèo khổ. Với một ngòi bút thông minh, hóm hỉnh và hồn hậu, ông đã viết nên truyện ngắn Vợ nhặt – một tác phẩm tinh tế về nhân văn. Điều này đặc biệt rõ ràng ở kết thúc của truyện Chí Phèo của Nam Cao, khi hình ảnh cái lò gạch cũ và sự lặp lại của áp bức và bất công của chế độ phong kiến luôn xuất hiện. Trong khi đó, Kim Lân lại để lại một thông điệp khác hoàn toàn với kết thúc mở của truyện Vợ nhặt.

Nếu Nam Cao là một nhà văn thời đó chưa được ánh sáng của những tư tưởng cách mạng chiếu sáng, thì Kim Lân lại là một nhà văn đã tiếp nhận tư tưởng cách mạng và tìm ra con đường cứu rỗi cho người nông dân. Điều đó làm nổi bật Kim Lân hơn so với các nhà văn trước đây.

Tràng, một chàng trai đơn giản và thiếu hiểu biết, sống lênh đênh ở một vùng đất khác và được gọi là “người xa xôi”. Anh ta bất ngờ tìm được một người vợ và đưa cô về sống chung. Câu chuyện tập trung vào hành trình của Tràng và những tình huống khó đỡ và bất ngờ mà anh ta phải đối mặt. Nhưng qua đó, cũng bật ra vẻ đẹp của những nhân vật khác, chẳng hạn như bà cụ Tứ mẹ của Tràng và người vợ mới của anh ta, được xem là một người vợ tốt. Trong bối cảnh đó, ta cảm thấy may mắn cho Tràng khi anh ta đã có thể lấy được người vợ. Tuy nhiên, cuộc sống của anh ta không dễ dàng khi nhà cửa nghèo khó và phải nuôi thêm một miệng ăn. Tuy vậy, Kim Lân đã truyền đạt cho chúng ta một thông điệp về tình người ấm áp, rằng dù cuộc sống đầy thử thách và khó khăn, con người vẫn có sự quan tâm và chia sẻ lẫn nhau. Đó là thái độ tích cực để tìm đến hạnh phúc gia đình, và không có nơi nào có thể chôn giấu nó đi.

Kết thúc truyện, Kim Lân kể lại cho chúng ta nghe cuộc nói chuyện giữa nàng dâu mới với bà Tú. Có lẽ Thị là một người đàn bà ngoài xã hội, không rõ từ đâu đến. Cô như người bị ném ra đường nên hỏi: “Ở đây còn phải nộp thuế không?”. và chia sẻ thông tin: “Trên vùng cao Thái Nguyên, Bắc Giang, người ta còn phá kho thóc của Nhật, phát gạo cho dân đói”. Đây là tin tức quan trọng đối với sự sống và cái chết của những người bị nạn đói đe dọa. Nhờ vậy mà Tràng nghĩ đến hình ảnh “những người nghèo khổ, chết đói lũ lượt đi trên đê Sộp”. Chợt thấy hụt hẫng, tiếc nuối, xúc động. Vậy hóa ra Việt Minh giúp dân phá kho thóc của Nhật. Trong suy nghĩ của Trang, “ chúng ta cũng có thể bắt gặp hình ảnh chú Trang cùng Việt Minh đi phá kho thóc của Nhật. Một cuộc sống mới sẽ đến, niềm tin sẽ đến, và một tương lai tươi sáng đang ở phía trước. Kim Lân đã gieo vào lòng người một niềm tin và khát vọng sống như thế. chúng ta cũng có thể bắt gặp hình ảnh chú Trang cùng Việt Minh đi phá kho thóc của Nhật. Một cuộc sống mới sẽ đến, niềm tin sẽ đến, và một tương lai tươi sáng đang ở phía trước. Kim Lân đã gieo vào lòng người một niềm tin và khát vọng sống như thế.

Hình ảnh ở cuối truyện, khi “trong tâm trí Tràng còn thấy đám đói và lá cờ đỏ bay phấp phới” không chỉ mang một thông điệp mà còn khẳng định một ý nghĩa nghệ thuật đặc sắc. Một xu hướng tích cực được mở ra, dành thời gian cho độc giả chiêm nghiệm và suy đoán. Nó đã mang đến âm hưởng lạc quan yêu đời, trái tim ấm áp, ươm lên những mầm xanh hi vọng.

Ý nghĩa của chi tiết ở cuối truyện thật độc đáo và ấn tượng. Từ đó, câu chuyện mở ra một âm hưởng lạc quan và bất khả chiến bại. Qua đoạn kết này chúng ta cũng hiểu thêm về một nhà văn nhân văn, giàu lòng nhân ái như Kim Lân.

Bài mẫu số 7 Phân tích đoạn kết Vợ Nhặt: Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống

Kim Lân là nhà văn có tấm lòng gắn bó sâu sắc với làng quê, con người, đồng ruộng mà theo nhận xét của Nguyên Hồng thì ông "một lòng đi về với đất, với người với thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn". Trong những trang văn của ông, hình ảnh làng quê bình dị và những con người lam lũ, vất vả nhưng yêu nước, giàu nghị lực sống hiện lên vô cùng sống động. Vợ nhặt là truyện ngắn nổi tiếng của nhà văn Kim Lân viết về những người dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Viết về cái đói, cái nghèo và cả những mất mát về người và của thế nhưng điều Kim Lân hướng đến trong tác phẩm này không phải gieo vào lòng người đọc ám ảnh đói khát mà thắp lên ngọn lửa của hi vọng, của niềm tin bởi trong cái đói, cái chết con người ta vẫn dành cho nhau tình thương chân thành và hướng đến những điều đẹp đẽ, tốt đẹp tốt đẹp trong tương lai. Điều này được thể hiện xuyên suốt tác phẩm, đặc biệt rõ nét qua kết thúc của truyện.

Trong bữa cơm ngày đói, khi không khí bỗng trùng xuống vì miếng cháo cám "đắng chát và nghẹn bứ trong cổ", bên ngoài tiếng trống thúc thuế vang lên từng hồi, người vợ nhặt đã chủ động trò chuyện để quên đi những ám ảnh đói khát. Thị kể về câu chuyện người dân miền ngược phá kho thóc Nhật để chia cho dân đói: "Trên mạn Thái Nguyên, Bắc giang... người ta còn phá cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy". Thông tin mà thị chia sẻ thành công làm cho không khí gia đình như được giãn ra, mọi người bị thu hút vào câu chuyện, đặc biệt là anh Tràng. Nghe câu chuyện của vợ, trong đầu anh hiện lên cảnh "những người đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp" và hình ảnh "đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới". Câu chuyện khép lại trong những hình ảnh đầy gợi mở ấy. Không ai biết rằng sau những suy nghĩ ấy, anh Tràng sẽ làm gì để thay đổi cuộc sống, có hòa mình vào dòng người đói để đấu tranh bảo vệ cuộc sống bản thân, gia đình hay không nhưng chúng ta hoàn toàn có cơ sở để tin tưởng vào điều đó.

Hình ảnh đám người đói xuất hiện trong tâm trí Tràng không gợi ra những ám ảnh đói khát mà ngược lại nó đánh thức một điều gì đó thật mới mẻ bên trong Tràng. Anh đã bắt đầu bước gần hơn với con đường cách mạng, bắt đầu có những nhận thức về hành động của bản thân. Chỉ có đi theo cách mạng, đứng lên đấu tranh chống lại cái bạo tàn, áp bức mới có thể bảo vệ được hạnh phúc và sự bình yên của những người thân yêu. Truyện được kết thúc mở nên gợi nhiều suy ngẫm, liên tưởng cho người đọc. Dù không ai biết rằng tương lai gia đình của anh Tràng sẽ ra sao nhưng chúng ta có quyền tin tưởng vào một tương lai tốt đẹp cho tất cả các nhân vật. Hình ảnh đoàn người đói và lá cờ đỏ gợi liên tưởng về một tương lai tốt đẹp, tươi sáng, không còn những ám ảnh của chết chóc, đói khát.

Cách kết thúc truyện cũng thể hiện được tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn Kim Lân khi tin tưởng, trân trọng sức sống mạnh mẽ bên trong con người. Dẫu trong cảnh khốn cùng nhất, khi phải đứng giữa ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết thì con người ta cũng không tuyệt vọng, buông bỏ mà luôn hướng về những điều tươi sáng trong tương lai. Nhà văn cũng thể hiện được niềm tin vào cách mạng, tin rằng đây chính là con đường sáng có thể giúp con người giải thoát khỏi những đói nghèo, bất công, áp bức. Tư tưởng thời đại này cũng chính là một nét tiến bộ của Kim Lân so với các nhà văn trước đó. Nếu Chí Phèo chỉ còn cách tự kết liễu sinh mạng trong tuyệt vọng, đau đớn thì anh Tràng có thể đi theo cách mạng để tự thay đổi cuộc sống của chính mình. Đây là con đường sáng mà thời đại đã mở ra cho những người nông dân khốn cùng, tội nghiệp.

Cách kết thúc truyện ngắn Vợ nhặt thật độc đáo và gợi nhiều liên tưởng, chỉ qua hai hình ảnh thoáng hiện trong tâm trí anh Tràng thôi cũng đã làm cho bức tranh ngày đói trở nên tươi sáng, lạc quan. Số phận của nhân vật vẫn là một dấu hỏi lớn nhưng lại gieo vào lòng người đọc những hi vọng vào những điều tốt đẹp trong tương lai, đây là tài năng và cũng là thành công lớn nhất mà Kim Lân thể hiện được trong tác phẩm của mình.

Bài mẫu số 8 Phân tích đoạn trích Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống

Kim Lân là nhà văn có sở trường về truyện ngắn, với vốn hiểu biết và gắn bó sâu sắc với cuộc sống nông thôn, nông dân Kim Lân đã tái hiện đầy chân thực về cuộc sống và số phận của những người nông dân với những sự kiện nổi bật trong tác phẩm của mình.Vợ nhặt là một trong những truyện ngắn đặc sắc của Kim Lân viết về nạn đói. Truyện có kết thúc đặc sắc, gợi nhiều liên tưởng và khắc sâu hơn cho chủ đề của tác phẩm.

Trong bữa cơm ngày đói, để xóa đi bầu không khí trầm lặng vì ám ảnh đói khát, người vợ nhặt đã kể chuyện đoàn người đói phá kho thóc Nhật chia cho dân đói. Lắng nghe câu chuyện của vợ, hiện lên trong tâm trí Tràng lúc ấy là hình ảnh về đám người đói đi trên đê khộp và lá cờ đỏ bay phấp phới. Hình ảnh đám người đói và lá cờ đó cùng với vai trò khép lại câu chuyện đã mang đến nhiều liên tưởng sâu sắc và củng cố vững chắc cho nội dung tư tưởng chủ đề của tác phẩm.

Hình ảnh đám người đói và lá cờ đỏ xuất hiện thoáng chốc trong tâm trí Tràng không chỉ gợi ra cảnh ngộ đói khát dữ dội, thực trạng thê thảm của người dân nghèo mà còn mang đến những tín hiệu rõ nét của cuộc cách mạng. Chỉ có đứng lên đấu tranh, chống lại áp bức người dân nghèo mới có thể bảo vệ cho sự sống của bản thân và những người thân yêu. Nhà văn Kim Lân đã rất khéo léo tái hiện thực trạng xã hội đời sống lúc bấy giờ qua kết thúc truyện mang tính gợi mở.

Kết thúc truyện cũng đã thể hiện được tinh thần nhân đạo của nhà văn Kim Lân khi trân trọng vào sức sống mạnh mẽ của con người ngay cả khi bị đặt trên ranh giới giữa sự sống và cái chết. Nhà văn cũng thể hiện niềm tin mãnh liệt vào tương lai tươi sáng của con người khi cách mạng thành công, khi con người được giải phóng khỏi sự áp bức tàn nhẫn của phong kiến thực dân.

Hình ảnh đoàn người đói và lá cờ đỏ gợi liên tưởng về một tương lai đầy hy vọng của con người khi đứng lên bảo vệ cuộc sống của mình, đó là tương lai có thể diễn ra trong tương lai. Cách kết thúc truyện này còn gợi ra âm hưởng lạc quan chung cho cả câu chuyện.

Truyện ngắn Vợ nhặt được kết thúc mở gợi nhiều liên tưởng, suy ngẫm thể hiện xu hướng vận động tích cực của cuộc sống được khắc họa và miêu tả trong câu chuyện.

Bài mẫu số 9 Phân tích đoạn cuối Vợ Nhặt: Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống

Mỗi câu truyện khép lại, là mở ra một thông điệp nhân văn và là một bài học lớn mà mỗi cá nhân có thể tự đúc rút ra cho mình. Mỗi câu truyện sẽ có một quá trình sống riêng trong lòng người đọc, và truyện nào gây được tiếng vang và trụ vững với thời gian, ấy ắt hẳn là một tác phẩm hay. Ta không thể không nhắc đến điều đó khi nghĩ tới Vợ nhặt của Kim Lân. Một nhà văn tài hoa đã khắc họa lại rõ nét bối cảnh cuộc sống và bối cảnh tâm trạng của người dân lúc bấy giờ. Và hơn hết, ta ấn tượng với kết truyện của vợ nhặt, đã mở ra cho ta một suy nghĩ mới thật đẹp.

Kim Lân vốn là một nhà văn có sở trường viết truyện ngắn, chuyện ông viết chủ yếu là về người nông thôn và đời sống của những người nông dân nghèo khổ. Và đặc biệt với ngòi bút hồn hậu, thông minh và hóm hỉnh của mình. Kim Lân đã viết ra vợ nhặt, đứa con tinh thần đầy tính nhân văn đã thành công xuất sắc.

Ta còn nhớ kết thúc của truyện ngắn Chí Phèo, nếu như sau cái chết của Chí, Nam Cao đã để cho Thị Nở nhìn xuống bụng và xuất hiện hình ảnh cái lò gạch cũ, và đó chính là một quy luật của hành trình nối tiếp hành trình, một Chí Phèo bố chết đi ngay sau đó sẽ có một Chí Phèo con ra đời. Sự áp bức, lặp đi lặp lại của chế độ phong kiến hà khắc với những Bá Kiến tiếp tục nắm ngôi, những bà ba sẽ còn mãi và lại xuất hiện thêm những anh chí phèo không có lối thoát. Thì với kết thúc truyện đầy tính mở của mình, Kim Lân đã để lại một ý nghĩa, thông điệp khác hẳn với cái nhìn của Nam Cao.

Nếu như Nam Cao là nhà văn lúc bấy giờ chưa được soi sáng bởi lí tưởng cách mạng. Thì Kim Lân lại là nhà văn đã tiếp xúc với tư tưởng cách mạng và biết được lối thoát cho người nông dân. Đó cũng chính là một điểm mới của Kim Lân so với nhà văn thời trước.

Tràng, một anh chàng khờ khạo lại dở tính, là người đến sống nhờ ở một miền đất khác, gọi “sang” là người xóm ngụ cư. Anh chàng xấu xí này lại tự nhiên “vớ” được một cô vợ và đem về sống chung. Truyện là những chi tiết, tình huống hết sức bất ngờ và éo le, kể về hành trình chính của anh cu Tràng, và qua đó cũng là nổi bật lên vẻ đẹp của những nhân vật khác, như bà cụ Tứ mẹ của chàng và cô vợ mới của anh, cũng được xem là một người dâu hiền vợ thảo. Và tự nhiên ta cảm thấy Chàng thật may mắn làm sao, một chàng trai như vậy cuối cùng cũng đã lấy được vợ, tuy cuộc sống chẳng thể nào khá hơn khi nhà vừa nghèo, lại phải nuôi thêm một miệng ăn nữa. Nhưng qua đó Kim Lân đã cho ta thấy một tình người thật ấm áp làm sao, dù cuộc sống có bộn bề và những khó khăn nối tiếp khó khăn, con người ta vẫn dành cho nhau sự quan tâm sẻ chia, một thái độ tích cực tìm đến chân trời của hạnh phúc. Và không nơi đâu có thể giam hãm được nó, tiếng gọi của sự hạnh phúc gia đình.

Cuối truyện, Kim Lân đã kể cho ta nghe về cuộc nói chuyện của người con dâu với Tràng và bà cụ Tứ. Có lẽ Thị là người phụ nữ ngoài xã hội, Thị đến từ đâu ta cũng không rõ, Thị như một con người bị vứt vẩn vơ ngoài đường, thế nên thị mới hỏi: “Ở đây vẫn phải đóng thuế cơ à?” và nhờ thông tin của mình, Thị kể: “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc giang… người ta còn phá cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy” và thật đúng là một tin quan trọng trong sự sống và cái chết của cái đói đang đe dọa. Chính nhờ điều này, đã khiến Tràng thầm nhớ tới cái hình ảnh “cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp.” rồi hắn tự nhiên thấy vẩn vơ, ân hận đâu đâu. Vậy hóa ra, là Việt Minh đã giúp người dân phá kho thóc của Nhật. Trong óc Tràng “vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…” vậy đấy, thật là một kết thúc mở, khẳng định ý nghĩa và niềm tin với cuộc sống. Vậy là dường như trong cái âm u của cuộc đời, cái u tối của kiếp người, đã có một mầm hy vọng nảy nở lên thật rồi. Dường như trong tương lai ta cũng có thể nhìn thấy hình ảnh anh Cu Tràng theo Việt Minh đi phá kho thóc của Nhật. Vậy là cuộc sống mới sẽ đến, và niềm tin sẽ đến, tương lai tươi sáng đang ở trước mặt họ. Kim Lân đã gieo vào lòng người một niềm tin và khát khao sống như thế đấy.

Hình ảnh kết thúc truyện, khi “trong óc tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới” không chỉ mang một ý nghĩa nội dung mà còn khẳng định một ý nghĩa nghệ thuật độc đáo. Một xu hướng vận động tích cực được mở ra, dành thời gian để người đọc suy tưởng và phán đoán. Đã mang đến một âm hưởng lạc quan của cuộc đời, một trái tim ấm và nhen nhóm lên những mầm hy vọng tươi xanh.

Ý nghĩa của chi tiết kết thúc truyện thật độc đáo và ấn tượng. Từ đó truyện được mở ra một âm hưởng lạc quan và niềm tin tất thắng. Cảm ơn Kim Lân, và qua cách kết thúc truyện này ta còn biết rõ hơn về một nhà văn nhân đạo và tha thiết với con người là Kim Lân.

Phân tích đoạn cuối Vợ nhặt mẫu số 10

Đặc điểm của văn chương là sự sáng tạo, mỗi nhà văn có quyền chọn cho mình một con đường riêng và bản thân mỗi tác phẩm cũng có sự phong phú về các tầng nghĩa. Vì thế quá trình tiếp nhận văn học cũng là một quá trình đầy sáng tạo tùy thuộc vào vốn sống, năng lực bản thân, ý kiến, hoàn cảnh chủ quan của mỗi cá nhân. Chính vì vậy kết thúc của truyện ngắn “Vợ nhặt” là một cái kết mở, tự nhiên và sáng”.

Kim Lân là nhà văn được coi là “con đẻ của đồng ruộng”.Ông “một lòng đi về với đất, với người với thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn” (Nguyên Hồng). Kim Lân có những trang việt chân thực về đời sống làng quê với những thú vui tao nhã của người nông dân quê mình mà ông gọi đó là “thú đồng quê” hay “phong lưu đồng ruộng”.Ông cũng viết chân thực về những người nông dân quê mình chất phác, hóm hỉnh mà rất tài hoa.

Tác phẩm có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” được viết ngay sau khi cách mạng Tháng Tám thành công nhưng còn dang dở và bị mất bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc (1954), Kim Lân dựa vào một phần của cốt truyện cũ để viết tác phẩm “Vợ nhặt”. Tác phẩm được đưa vào tập “Con chó xấu xí” (Xuất bản 1962).

Vợ nhặt phản ánh chân thực cuộc sống của người dân vùng đồng bằng Bắc Bộ trong nạn đói kinh hoàng năm 1945. Nhưng trong hoàn cảnh đó người nông dân vẫn đùm bọc yêu thương, vẫn khao khát mái ấm gia đình và luôn có một niềm hi vọng vào tương lai.

Truyện viết về cuộc sống của những người dân ở xóm ngụ cư trong nạn đói mà tiêu biểu là cuộc sống của gia đình Tràng. Vì cái đói cái nghèo nên Tràng không thể có một đám cưới đàng hoàng và bữa cơm đón nàng dâu mới của nhà Tràng cũng rất thảm hại“Giữa cái mẹt rách chỉ có độc một lùm rau chuối thái rối và một đĩa muối ăn với cháo”. Trong bữa ăn họ nghe thấy tiếng trống thúc thuế, qua lời của người vợ, Tràng đã nhớ lại có lần mình gặp Việt Minh và “Trong óc Tràng bỗng hiện lên đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”,

Kết thúc ấy có cơ sở từ thực tiễn đời sống. Câu chuyện có bối cảnh là nạn đói năm 1945- một thời điểm lịch sử có thật trong đất nước ta vào những năm tháng chuẩn bị cho cuộc cách mạng và đó là những ngày tiền khởi nghĩa với phong trào phá kho thóc Nhật chia cho dân nghèo. Vậy nên trong hoàn cảnh đói khát cùng cực ấy người nông dân nhận ra kẻ thù gây đau khổ cho mình là bọn Pháp và Nhật. Thực dân Pháp thi hành những “luật pháp dã man’, vơ vét của cải còn phát xít Nhật thì bắt nhân dân ta nhổ lúa trồng đay, trồng thầu dầu rồi cùng với thiên tai, lũ lụt. Tất cả đều là căn nguyên dẫn đến thảm cảnh nạn đói năm 1945. Những người dân sống trong hoàn cảnh đó họ sẽ ý thức được mình phải đứng lên đấu tranh tìm con đường cho mình. Họ sẽ tìm đến với cách mạng như một điều tất yếu.

Sự hợp lí ở đây là họ chỉ mới bắt đầu nhận thức về cách mạng, đó mới chỉ làánh sáng le lói ở cuối đường hầm. Nhà văn không kết thúc câu chuyện ở việc Tràng đi làm cách mạng rồi kêu gọi quần chúng nhân dân cùng đứng lên đấu tranh. Nếu như vậy e rằng có phần gượng ép và ảo tưởng. Ở đây mới dừng lại ở việc qua lời người vợ mà Tràng đã nhớ lại có lần anh đã nhìn thấy đoàn người đi phá kho thóc và được nghe nói họ là Việt Minh. Quá trình nhận thức ấy được diễn tiến từ từ. Cách kết truyện như thế là phù hợp.

Đó còn là cách kết truyện mở và sáng. Truyện kết thúc nhưng đã mở ra cho người đọc nhiều suy ngẫm. Truyện không nói cụ thể rõ ràng là cuộc sống của Tràng, bà cụ Tứ, người vợ nhặt sẽ đi đến đâu, cuộc sống của họ tiếp theo sẽ như thế nào để gượng ép trói buộc suy nghĩ của bạn đọc thiên về một hướng và nhiều khi chỉ suy nghĩ theo chiều hướng ấy. Và thật khéo léo khi Kim Lân để “lửng”. Kết thúc “lửng” ấy chứa đựng bao suy nghĩ của tác giả. Phải chăng nhà văn Kim Lân đang thầm kín bày tỏ sự trân trọng với cách tiếp cận, nhận thức của độc giả đồng thời cũng hướng họ rằng nên phải suy nghĩ, chiêm nghiệm để viết tiếp câu chuyện ấy với sự phù hợp và đúng đắn nhất theo quan điểm nhận thức của mỗi người. Việc tạo ra kết thúc mở cũng khơi sâu sự tìm tòi khám phá một góc độ của cuộc sống, của xã hội thay vì chỉ là đọc trên giấy và hiểu tác phẩm một cách đơn thuần. Rõ ràng với ánh sáng “le lói ở cuối đường hầm” kia người đọc có quyền hiểu và ngẫm theo nhiều cách. Theo quan điểm của bản thân có thể suy ngẫm Tràng sẽ được theo cách mạng, theo ánh sáng của Đảng cùng với quần chúng khởi nghĩa và rồi cuộc sống của anh và gia đình cùng những người nông dân Việt Nam sẽ ấm no hơn, hạnh phúc hơn khi cách mạng giành thắng lợi.

Một điểm nữa trong cách kết truyện của Kim Lân là có kết truyện “sáng” không giống như văn học hiện thực phê phán trước cách mạng.Trước đây, nhà văn Nam Cao đã để cho nhân vật Chí Phèo cảm nhận hương vị của cuộc sống, để cho hắn cảm nhận tình yêu thương…nhưng rồi Chí Phèo lại rơi vào bi kịch bế tắc. Nhà văn Ngô Tất Tố cũng để nhân vật của mình- Chị Dậu vùng lên chống lại ách áp bức của bọn địa chủ nhưng rồi cuối cùng trước mắt chị là “trời tối đen như mực giống như cái tiền đồ của chị”…Họ đều rơi vào luẩn quẩn, bế tắc không lối thoát. Ở “Vợ nhặt”, Kim Lân đã để cho những người nông dân hướng về tương lai. Liệu tác phẩm có thể kết thúc trong cảnh “bữa cơm ngày đói” với khung cảnh trông thật thảm hại “Giữa cái mẹt rách chỉ có độc một lùm rau chuối thái rối và một đĩa muối ăn với cháo” và “không ai nói câu gì. Họ cắm đầu ăn cho xong lần. Họ tránh nhìn mặt nhau.

Một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mỗi người”. Nếu kết thúc như thế thì cái đói, cái nghèo vẫn bao trùm, cuộc sống của nhân dân vẫn rơi vào bế tắc. Nhưng Kim Lân không dừng lại ở đó. Ông đã hướng họ vào ánh sáng của tương lai, của cách mạng “Trong óc Tràng bỗng hiện lên đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”. Thật là ông đã để những con người trong hoàn cảnh khốn cùng cận kề cái chết nhưng họ không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng đến sự sống, vẫn hi vọng tin tưởng ở tương lai. Những người đói ấy vẫn khao khát về cuộc sống ấm no, đầy đủ hơn. Nhà văn đã để người dân nhận thức đúng về cách mạng khơi lên tinh thần đấu tranh.

Thực tiễn lịch sử cách mạng Tháng tám 1945 đã thắng lợi thì con người và đặc biệt là người nông dân càng có thêm động lực niềm tin vào tương lai tươi sáng ấm no. Thật là một cách kết truyện sáng mở ra cuộc sống tươi sáng cho con người.

-/-

Trên đây là những bài văn hay phân tích đoạn kết tác phẩm Vợ nhặt do Đọc tài liệu tổng hợp giúp các em có thêm tài liệu học tập. Hy vọng trọn bộ văn mẫu 12 do Đọc tài liệu tổng hợp và biên soạn sẽ giúp các em học tốt môn Ngữ Văn!

Bạn còn vấn đề gì băn khoăn?
Vui lòng cung cấp thêm thông tin để chúng tôi giúp bạn
Hủy

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM