Phân tích đoạn đầu của bài thơ Đất Nước

Xuất bản: 30/05/2023 - Tác giả:

Phân tích đoạn đầu của bài thơ Đất Nước (Nguyễn Khoa Điềm), TOP 3 bài văn mẫu hay phân tích nội dung, nghệ thuật của đoạn đầu bài thơ Đất Nước

Với mong muốn giúp các em viết được một bài văn phân tích đoạn đầu của bài thơ Đất Nước (Nguyễn Khoa Điềm) hay và sâu sắc, Đọc Tài Liệu đã tổng hợp gửi tới các em một số bài văn mẫu kèm theo dàn ý chi tiết triển khai bài văn. Cùng tham khảo ngay nhé!

Dàn ý phân tích đoạn đầu của bài thơ Đất Nước

1. Mở bài

- Giới thiệu sơ lược về tác giả Nguyễn Khoa Điềm và bài thơ Đất nước

- Cảm nhận chung về đoạn đầu bài thơ Đất nước.

2. Thân bài

- Nguồn gốc của Đất Nước

+ Câu thơ đầu tiên chính là câu trả lời cho câu hỏi ấy: “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi” Đất Nước là những thứ thân thuộc, gần gũi, gắn bó với mỗi con người, ở trong mỗi con người từ khi phôi thai. Thể hiện tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân”

+ Tác giả cảm nhận đất nước bằng chiều sâu văn hóa - lịch sử và cuộc sống đời thường của mỗi con người qua cụm từ “ngày xửa ngày xưa” à gợi những bài học về đạo lý làm người qua các câu chuyện cổ tích thấm đượm nghĩa tình.

- Quá trình hình thành Đất Nước

+ Bắt đầu với những phong tục ăn trầu gợi về hình ảnh người bà thân thuộc, gợi câu chuyện về sự tích trầu cau, đã nhắn nhủ nghĩa tình anh em sâu đậm, tình cảm vợ chồng nhân nghĩa thủy chung của những người yêu đất nước.

+ Hình ảnh “cây tre” cũng còn gợi lên hình ảnh của con người Việt Nam, cần cù, siêng năng, chịu thương và chịu khó. “Lớn lên” nghĩa là nói quá trình trưởng thành của Đất Nước, khi nói lớn lên trong chiến tranh nghĩa là nói truyền thống chống giặc kiên cường, rất bền bỉ.

+ Tập quán bới tóc sau đầu cũng để chú tâm làm việc, với câu gợi câu ca dao bình trị dạt dào thương nhớ. Nhắc nhở về tình cảm vợ chồng sắt son và rất sâu nặng qua hình ảnh: “gừng cay”, “muối mặn”.

+ Tái hiện nền văn hóa nước ta chỉ bằng một trong những câu thơ đơn sơ nhưng đầy dụng ý: “Hạt gạo cũng phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”. Nghệ thuật liệt kê, cùng đã cách ngắt nhịp liên tục thể hiện truyền thống lao động cần cù, với cách ăn cách ở trong sinh hoạt.

+ Nguyễn Khoa Điềm đã thâu tóm tất cả bằng một tư tưởng duy nhất: “Đất Nước có từ ngày đó…”. Dấu “…” cuối câu cũng chính là biện pháp tu từ im lặng, lời dẫu hết những ý vẫn còn, vẫn nung nấu và sục sôi.

=> Sự hình thành của đất nước gắn liền với văn hóa, lối sống và phong tục tập quán của người Việt Nam, đặc biệt gắn liền với đời sống gia đình. Những yếu tố làm nên đất nước cũng đã đóng góp vào sự hình thành linh hồn dân tộc. Vì vậy, sự hiện diện của Đất Nước vừa thiêng liêng, tôn kính lại vừa gần gũi, thân thuộc.

=> Giọng thơ trữ tình chính luận, khi căng, khi chùng, khi tha thiết, khi lại cuồn cuộn nỗi niềm

3. Kết bài

- Cảm nhận về đoạn thơ đầu Đất nước: Đoạn thơ không chỉ trữ tình mà đầy sức chiến đấu, thể hiện được tinh thần chủ đạo của bài thơ thông qua các chất liệu văn hóa, văn học dân gian “Đất Nước của nhân dân”.

Top 3 bài văn hay phân tích vẻ đẹp của hình tượng đất nước trong bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm

Vẻ đẹp của hình tượng đất nước trong bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm mẫu số 1:

Đề tài đất nước là một trong những đề tài muôn thuở gắn với thành công của nhiều nhà văn trong các thời kỳ, đặc biệt là thời kỳ kháng chiến. Chúng ta không thể quên hình ảnh đất nước hóa thân trong "mảnh hồn quê Kinh Bắc", nơi mà đất nước đã chịu đựng giày xéo dưới chân giặc ngoại xâm trong thơ của Hoàng Cầm, hoặc hình ảnh một đất nước nhỏ bé, gắn liền với nỗi đau thương mà anh hùng, bất khuất "Rũ bùn đứng dậy sáng lòa" như trong thơ của Nguyễn Đình Thi.

Khi đọc và phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm, chúng ta khám phá thêm những khía cạnh mới về đất nước qua ca dao và thần thoại. Đoạn trích Đất nước nằm trong chương Năm của bản trường ca Mặt đường khát vọng. Bài thơ với hình tượng trung tâm là đất nước, mang đến cho độc giả những tư tưởng mới mẻ, độc đáo trong việc giải thích nguồn gốc và bản chất của đất nước, đặc biệt là trong chín câu thơ đầu bài.

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nới lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…

Trong thơ ca, đất nước là nguồn cảm hứng vô tận, hình tượng đất nước luôn giữ một vị trí vô cùng đặc biệt, được coi là tinh túy đẹp đẽ nhất trong thơ văn. Như Macxen Prust đã nói: "Một cuộc thám hiểm không phải là ở chỗ cần một vùng đất mới mà ở chỗ cần một đôi mắt mới". Vì vậy, với mỗi góc nhìn khác nhau, đất nước lại mang một vẻ đẹp và hình dáng khác nhau, hiện lên với muôn hình vạn trạng trong con mắt của nhà thơ. Nếu các nhà thơ cùng thời chọn điểm nhìn và cảm hứng về đất nước từ lịch sử đã trải qua qua các triều đại như:

Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng
Hay những hình ảnh vô cùng mỹ lệ, đẹp đẽ:
Đẹp vô cùng tổ quốc ta ơi
Rừng cọ đồi chè đồng xanh ngào ngạt
Nắng sông Lô hò ô tiếng hát
Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca

Thì Nguyễn Khoa Điềm đã lựa chọn một góc nhìn rất mới, đơn giản và thân quen cho bản thân, qua đó hình ảnh đất nước cũng trở nên tươi đẹp không kém. Với cấu trúc tổng phân hợp mang đậm phong cách chính luận, tác giả đã thể hiện những suy nghĩ cùng những cảm xúc mãnh liệt về đất nước và trách nhiệm của mỗi người đối với quê hương và tổ quốc. Ngay từ đầu bài thơ, Nguyễn Khoa Điềm đã dẫn dắt chúng ta vào câu chuyện về sự hình thành của Đất nước và những điều quen thuộc, gần gũi nhất mà Đất nước đã có.

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Câu thơ mở đầu một cách rất tự nhiên như một lời kể, nhà thơ mượn kí ức tuổi thơ để mô tả sự tồn tại của Đất nước trong nhận thức và tình cảm của con người. Theo tác giả, "Đất Nước đã có từ rất lâu, từ khi "ta" cất tiếng khóc chào đời, lớn lên thì Đất Nước đã có và cùng tồn tại với "ta". "Ta" ở đây có thể là anh, chị, những người sống hay đã mất, quá khứ hay tương lai, là cái chung của người dân tộc. Năm chữ "Đất Nước đã có rồi" vang lên như một lời khẳng định đầy tự hào về sự trường tồn của đất nước qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước mà Nguyễn Trãi đã từng đề cập đến.

Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Đến hai câu tiếp theo, Nguyễn Khoa Điềm diễn tả cụ thể sự hình thành của Đất nước:
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Về việc tìm kiếm cội nguồn của đất nước, khó có thể xác định một cách rõ ràng và minh bạch về sự khởi thủy của những hình tượng này. Đối với Nguyễn Khoa Điềm, đất nước cũng được hình thành từ những nét sống giản dị nhất của người mẹ và người bà. Khi gặp trạng từ thời gian "ngày xưa", người đọc dễ dàng tưởng tượng về những kỷ niệm tuổi thơ cùng với những nhân vật như ông bụt, bà tiên, cô Tấm, Thánh Gióng... Từ những câu chuyện đó, hình ảnh của đất nước hiện lên thật đẹp đẽ và thơ mộng. Hình ảnh "miếng trầu bà ăn" gợi cho người đọc về những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, gắn liền với vẻ đẹp của phụ nữ Việt xưa. Từ những nét đẹp đó, tác giả lý giải về sự "bắt đầu" của đất nước.

Trong các nghi lễ, "miếng trầu quả cau" biểu tượng cho tấm lòng thành của con cháu gửi đến các bậc cha ông. "Miếng trầu" còn biểu thị phẩm chất chung thuỷ trong cốt cách người Việt Nam xưa và nay. Ngoài ra, hình ảnh "miếng trầu" còn gợi lên huyền sử về tình yêu "miếng trầu nên dâu nhà người". Từ "lớn lên" chỉ sự trưởng thành của đất nước qua quá trình đấu tranh khiến dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Đối với Nguyễn Khoa Điềm và bất kì nhà thơ nào khác, đất nước không phải là một khái niệm trừu tượng, mà đất nước có hình dáng, có linh hồn và trong con mắt nghệ thuật nó mang một vẻ đẹp ngất ngây. Hình ảnh "trồng tre mà đánh giặc" gợi lên truyền thuyết về một cậu bé chỉ ba tuổi đã biết nói và đảm nhận trách nhiệm với quê hương, tổ quốc đó là Thánh Gióng. Thánh Gióng còn là một biểu tượng của sự kiên cường và sức mạnh trong cuộc chiến chống lại điều ác trong cốt cách của con người Việt Nam.

Hình tượng đó đã được nhà thơ Tố Hữu đưa vào thơ của mình:

Ta thuở xưa như thần Phù Đổng
Vụt đứng lên đánh đuổi giặc Ân
Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt
Chí căm thù ta rèn thép thành roi
Lửa chiến đấu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cướp nước hại nòi.

Hình ảnh cây tre đại diện cho cốt cách ngay thẳng không chịu  bất khuất của con người Việt Nam:

Tre xanh xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh
Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên luỹ nên thành tre ơi.

Nguyễn Khoa Điềm đã đặt hình tượng cây tre và Thánh Gióng vào cùng một khung cảnh. Điều đó biểu thị sự đồng hiện trong cốt cách, một phẩm chất của người Việt Nam như thật thà, kiên định và lòng trung thành, yêu hòa bình nhưng trong chiến đấu thì vô cùng kiên cường.

Đến bốn câu thơ tiếp theo, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm ca ngợi những truyền thống, vẻ đẹp thuần phong mỹ tục của chính con người Việt:

Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn.

Hình tượng người mẹ và người phụ nữ với búi tóc sau đầu phải chăng đã làm sáng tỏ sự kín đáo, tinh tế và chân chất trong phong cách ăn mặc của người Việt Nam. Nét đẹp của những người phụ nữ ấy gợi cho chúng ta nhớ đến những câu thơ:

Tóc ngang lưng vừa chừng em búi
Để chi dài bối rối lòng anh

Vẻ đẹp của con người Việt còn nằm ở phẩm chất cốt cách thuỷ chung. Thành ngữ "gừng cay muối mặn" được tác giả vận dụng một cách độc đáo và nhẹ nhàng mà thấm đẫm với câu thơ. Gừng dĩ nhiên phải cay, muối đương nhiên phải mặn, đó là nguyên lý tự nhiên của tạo hóa, cũng như tình cảm vợ chồng luôn tràn đầy và không bị lay chuyển. Nó gợi lên ân tình thủy chung giữa con người với con người như câu ca dao: "Gừng càng già càng cay, muối càng lâu càng mặn". Khi hai người ở bên nhau lâu hơn, tình cảm sẽ càng trở nên đậm đà. Ý nghĩa của câu thơ được lấy từ chính câu ca dao này.

Tay bưng đĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau

“Cái kèo, cái cột thành tên” gợi lên cho ta nhớ đến tục làm nhà cổ của người Việt xưa. Ngôi nhà là nơi mọi người trong gia đình đoàn tụ, mang đến những sự ấm áp, hạnh phúc. Có lẽ bởi vậy mà tục đặt tên cho con là “kèo”, là “cột” ra đời, khi vừa giản dị lại gần gũi và cũng tránh được sự dòm ngó của ma quỷ theo quan niệm xưa.

Không những vậy, khi con người Việt Nam còn mang trong mình phẩm chất cần cù, chăm chỉ. Thành ngữ “một nắng hai sương” chỉ những sự chịu thương chịu khó của ông cha ta trong lao động. Các động từ “xay”, “giã” và “dần”, “sàng” là các công đoạn làm ra hạt gạo, qua đó tác giả Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắc người đọc cần phải biết trân trọng những hạt cơm ta đã ăn hằng ngày vì đó là mồ hôi công sức của những người nông dân:

Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần

Câu thơ cuối cùng chính là một lời khẳng định của Nguyễn Khoa Điềm về cội nguồn của Đất nước:

Đất Nước có từ ngày đó…

“Ngày đó” là cái ngày mà ta có truyền thống, đã có văn hóa. Vậy nên, muốn yêu nước thì trước hết ta phải yêu văn hóa, với truyền thống của dân tộc mình. Thật đáng trân quý, nâng niu biết bao lời thơ dung dị, sự nhẹ nhàng mà chân thành, đằm thắm của Nguyễn Khoa Điềm.

Thành công của đoạn thơ trên là nhờ vào việc vận dụng đặc sắc, khéo léo các thi liệu dân gian, cùng những phong tục, truyền thống, thành ngữ, điệp từ và cách viết hoa chữ Đất nước để thể hiện sự thành kính, thiêng liêng. Tất cả đã làm nên một đoạn thơ đậm chất với nền văn hóa người Việt và sự thành kính đối với đất nước. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị và cả những lời thơ nhẹ nhàng, thủ thỉ tâm tình nhưng vẫn mang đậm hồn thơ triết lý.

Đoạn trích trên đã thể hiện những suy tư và cảm xúc mạnh mẽ của tác giả về quê hương và đất nước. Nguyễn Khoa Điềm đã nêu rõ trách nhiệm của mỗi người đối với quê hương, tổ quốc, điều này cũng được Pautopxki đề cập: "Niềm vui của nhà thơ chân chính là niềm vui của người mở đường đến cái đẹp". Có lẽ tác giả đã tìm thấy con đường riêng của mình khi tiếp cận với đất nước, và từ đó đất nước hiện lên một cách bình dị, thân quen và tuyệt đẹp biết bao. Đọc đoạn trích, chúng ta khám phá một vẻ đẹp mới của đất nước mà qua đó tinh thần yêu đất nước, yêu tổ quốc và trách nhiệm của chúng ta không chỉ là việc học hành, mà còn là việc gìn giữ truyền thống, bảo vệ đất nước và đóng góp để xây dựng một đất nước giàu đẹp hơn.

Vẻ đẹp của hình tượng đất nước trong bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm mẫu số 2:

Cảm hứng về đất nước, về tầm vóc đáng tự hào của nó là một cảm hứng vốn quen thuộc cùa thơ ca hiện đại giai đoạn từ 1945 đến 1975. Bất cứ ai cũng nhận ra rằng từ sau Cách mạng tháng Tám, dân tộc, tổ quốc đã thực sự lớn mạnh của Thánh Gióng. Đó chính là hiện thực, là tiền đề thẩm mĩ cất cánh cho những dòng cảm xúc đáng trân trọng về vóc dáng của con người Việt Nam, đất nước Việt Nam. Là một nhà thơ trẻ, trưởng thành trong thời kì chống Mĩ cứu nước, nặng tình với non sông, người trí thức Nguyễn Khoa Điềm cũng góp riêng một tiếng nói của mình để khẳng định sự lớn dậy ấy.  Với 9 câu thơ mở đầu bài thơ "Đất nước" trích trường ca "Mặt đường khát vọng", Nguyễn Khoa Điềm đã có những cảm nhận mới mẻ về đất nước.

Điểm rất mới của Nguyễn Khoa Điềm là đề cập đến một đề tài rất khái quát, nếu không muốn nói là trừu tượng, đề tài đất nước, nhưng những hình ảnh thơ, chất liệu cụ để dựng nên tầm vóc đó lại rất cụ thể, gần gũi. Để nói lên sự hiện hữu cùa đất nước này ở chiều sâu của thời gian, chiều rộng của không gian, trong đoạn mở đầu, ông đã tập trung sử dụng rất nhiều hình ảnh hết sức cụ thể, gần gũi đầy thân thương nhưng lại có sức liên tưởng mãnh liệt và tính khái quát cao. Đặc biệt, ông nối kết để tạo nên mạch thơ nói về sự hiện hữu của đất nước bằng điệp từ có. Điệp từ này đã nối kết những hình ảnh tưởng chẳng liên quan gì với nhau thành một khối không thể tách rời, khẳng định sự hiện hữu vừa có tính truyền thống vừa đầy ân tình sâu nặng của đất nước như một nét riêng không thể hòa lẫn. Ta hãy nghe nhà thơ bộc lộ suy nghĩ của mình.

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng
Đất nước có từ ngày đó...

Đọc đoạn thơ, ta không thế không chú ý đến những hình ảnh thơ đầy sức tưởng tưởng của tác giả về sự hiện hữu của đất nước. Mỗi hình ảnh lại gợi một sự hiện hữu nhằm khẳng định nét riêng không trộn lẫn của đất nước này. "Ngày xửa ngày xưa" một ngôn ngữ mở đầu cho những câu chuyện cổ tích; hình ảnh người bà - nhà thơ muốn nói rằng đất nước này đã tồn tại từ lâu đời, tồn tại từ thuở "Mang gươm đi giữ nước – Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long", cái thuở Nam quốc sơn hà. Từ đó, đất nước lớn lên với những phong tục, cốt cách của một dân tộc đậm tình, đậm nghĩa nhưng cũng sẵn sàng xả thân khi Tổ quốc lâm nguy. Thân thương gần gũi biết bao khi đất nước hiện hữu vừa thật nhỏ nhoi, lại vừa thật tình cảm nơi miếng trầu bây giờ bà ăn. Ở đây, sức liên tưởng thật sáng tạo, đầy ắp những nét đẹp về  phong tục, tập quán, bản sắc quê hương:

Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Ở đó, có những bàn tay, những trái tim, những con người cần cù chịu thương chịu khó, lam lũ cần cù, một nắng hai sương. Đặc biệt ở đó, có sự tồn tụ hiện hữu có khi phải được đánh đổi bằng máu xương, mồ hôi, nước mắt của cả  một dân tộc luôn cần phải rũ bùn đứng dậy tự khẳng định mình.

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng
Đất nước có từ ngày đó...

Cũng trong đoạn thơ này, ngoài hình ảnh là việc sử dụng những từ xưng hô tạo một quan hệ tình cảm đầy máu thịt của cộng đồng người Việt. Dường như với cách gọi này, tất cả như quây quần, hội tụ, đoàn kết, châu tuần chung một dòng máu, một huyết thống Rồng - Tiên. Đó là từ mẹ, từ cha, từ bà, dân mình quá đỗi ngọt ngào trong những cách xưng hô đằm thắm, mang dẩy bản sắc Việt Nam ấy. Chúng tạo nên một phong vị, một sức gợi đầy thẩm mĩ về Đất Nước, con người Việt Nam, thân ái, thủy chung, giàu truyền thống, giàu tình nghĩa, đạo lí làm người. Ở đoạn hai, tác giả lại ngẫm nghĩ, chiêm nghiệm về những điều đã tạo nên đất nước, hướng người đọc đến những định nghĩa rất riêng rất chung về đất nước.

Có thể khẳng định rằng, sức mạnh của đoạn thơ là do có rất nhiều hình ảnh, phong phú, đa dạng. Tất cả lại được diễn tả với một giọng thơ hết sức tự nhiên, không ồn ào của hình thức thơ - văn xuôi, thơ tự do khiến cho hiệu quả thẩm mĩ càng lớn. Điều đáng nói là từ những hình ảnh đó, với sức suy tưởng lo lắng của một trí thức trẻ khả năng gợi mở, vang ngân, liên tưởng của thơ càng lớn. Nó đủ sức để khái quát một cách đầy đủ tầm vóc, thế đứng, dáng đứng của một Đất Nước trong chiều hướng ấy thật trầm lắng, đáng tự hào về chiều sâu lịch sứ, chiều dài và chiều sâu của thời đại. Đó là một khối thống nhất của quá khứ, hiện tại, tương lai. Một vẻ đẹp nói như Tố Hữu:

Ta đứng dây mắt nhìn bốn hướng
Trông lại nghìn xưa trông tới mai sau
Trông Bắc trông Nam trông cả địa cầu.

Vậy là Đất Nước có từ khi mẹ thường kể chuyện cổ tích cho con nghe, khi dân ta biết trồng tre đánh giặc, biết tròng ra hạt lúa, củ khoai, biết ăn trầu, búi tóc, biết sống yêu thương, thủy chung. Lịch sử Đất Nước thật giản dị, gần gũi mà xa xôi, linh thiêng biết mấy. Đoạn trích Đất Nước của trường ca Mặt đường khát vọng xứng đáng là một khúc ca sử thi, hoành tráng đầy chất thơ về quê hương, đất nước và con người Việt Nam.

Vẻ đẹp của hình tượng đất nước trong bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm mẫu số 3:

Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ tại Việt Nam trong những năm tháng chống Mỹ cứu nước. Ông đã đóng góp rất nhiều tác phẩm đặc sắc cho nền văn học nước nhà, trong đó phải kể đến bài thơ “Đất Nước” trích phần đầu chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng”. Tác phẩm nói lên nhiều sự hiện hữu của Đất Nước ở chiều sâu không gian cũng như chiều rộng của thời gian. Đặc biệt ở đoạn đầu bài thơ Đất Nước, tác giả đã cho độc giả thấy được sự thiêng liêng nhưng rất đỗi bình dị của Đất Nước, thể hiện quan điểm nguồn cội một cách đặc sắc.

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa …” mẹ thường hay kể.”

Câu thơ mở đầu chính là lời khẳng định Đất Nước đã có từ rất lâu, tồn tại như một điều hiển nhiên với chiều sâu cội nguồn và sự hình thành phát triển suốt bốn ngàn năm văn hiến. Đất Nước hiện lên vô cùng thân quen và gần gũi trong những câu chuyện “ngày xửa ngày xưa”, gợi nhớ lại những kỷ niệm của mỗi người. Bởi trong những câu chuyện mẹ kẻ là những bài học đạo lý dạy ta cách làm người, biết phân biệt thiện ác, sống phải biết ơn, thủy chung son sắc… Tác giả sử dụng những ngôn từ tự nhiên, giản dị, không tráng lệ hoa mỹ nhưng vấn gây ấn tượng với người đọc.

Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận Đất Nước gắn liền với bản sắc văn hóa, phong tục tập quán lâu đời của dân tộc:

“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”

“Miếng trầu bà ăn” chính là miếng trầu tình nghĩa về tình cảm vợ chồng, tình cảm anh em gắn bó trong câu chuyện cổ tích “Sự tích trầu cau”. Cũng từ đó, “miếng trầu” tượng trưng cho sự thủy chung son sắc, hình ảnh không thể thiếu trong những lễ cưới truyền thống của Việt Nam.

“Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”

Những năm tháng TCN, từ thời Bà Trưng – Bà Triệu Đất Nước ta đã mạnh mẽ đứng lên khởi nghĩa chống giặc ngoại xâm. Hay hình ảnh Thánh Gióng nhổ lũy tre để đánh giặc. Cây tre cũng chính là biểu tượng của người nông dân Việt Nam, hiền lành chăm chỉ nhưng cũng rất kiên cường bất khuất.

“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”

Vẻ đẹp giản dị của người phụ nữ Việt Nam, mộc mạc, giản dị lại nữ tính thuần hậu rất riêng với mái tóc được búi ra sau đầu. Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được tác giả đặt một cách khéo léo để thể hiện ân tình của con người, sự chung thủy của người vợ người chồng.

“Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”

Câu thơ gợi nhắc cho người độc về phong tục làm nhà cổ của người Việt Nam ngày xưa. Những chiếc kèo cột giằng giữa nhau để giúp cho ngôi nhà thêm bền chặt, vững chãi. Ngôi nhà là tổ ấm của mọi gia đình, nơi để các thành viên được đoàn tụ bên nhau.

Và cả truyền thống lao động siêng năng, chăm chỉ, chịu thương chịu khó của dân tộc. Câu thành ngữ “một nắng hai sương” gợi lên sự cần cù của cha ông ta trong những ngày tháng khó khăn. Hạt gạo làm ra là biết bao mồ hôi công sức dầm mưa dãi nắng, xay giã giần sàng mới có được thành quả.

Và sau tất cả, Nguyễn Khoa Điềm đã chốt lại “Đất Nước có từ ngày đó…”, ta không biết và tác giả cũng không biết Đất Nước có từ khi nào. Chỉ biết rằng đó là ngày mẹ kể những câu chuyện cổ tích, khi dân ta biết trồng tre đánh giặc, khi con người biết tạo ra lương thực, khi có các phong tục búi tóc ăn trầu, khi con người biết yêu thương nhau, chung thủy sắt son cùng nhau….

Đất Nước đối với tác giả Nguyễn Khoa Điềm là những điều giản dị, mộc mạc và gần gũi. Đoạn thơ mang vẻ đẹp độc đáo và thiêng liêng về cuộc nguồn của dân tộc. Qua đó nhắc nhở chúng ta hãy luôn trân trọng, gìn giữ và phát triển những nét đẹp trong văn hóa, truyền thống của người Việt Nam.

-/-

Trên đây là nội dung chi tiết một số mẫu bài văn phân tích vẻ đẹp của hình tượng đất nước trong bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm - Văn mẫu 12 do Doctailieu tổng hợp và biên soạn chi tiết hi vọng sẽ giúp các em có thêm nguồn tài liệu tham khảo hữu ích để có một bài văn cảm nhận hay và sâu sắc.

Bạn còn vấn đề gì băn khoăn?
Vui lòng cung cấp thêm thông tin để chúng tôi giúp bạn
Hủy

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM