Phân tích các bài ca dao than thân Thân em

Xuất bản: 21/08/2018 - Cập nhật: 01/11/2019 - Tác giả:

Tuyển chọn những bài văn mẫu phân tích các bài ca dao than thân bắt đầu bằng từ Thân em... hay nhất dành cho các em học sinh lớp 7 tham khảo.

Muốn viết được một bài văn phân tích các bài ca dao than thân Thân em thật hay và độc đáo, các em không nên bỏ qua dàn ý chi tiết và bài văn mẫu do Đọc tài liệu tổng hợp trong bài viết này.

Đề bài:

Em hãy sưu tầm một số bài ca dao mở đầu bằng cụm từ "Thân em...". Những bài ca dao ấy thường nói về ai, về điều gì và thường giống nhau như thế nào về nghệ thuật?

Một số bài văn hay phân tích các bài ca dao bắt đầu bằng Thân em

Bài số 1:

Ca dao - dân ca phản ánh sinh động đời sống tinh thần phong phú của nhân dân lao động. Họ đã gửi gắm vào đó tiếng nói tâm tình chân thành tha thiết, với đủ mọi cung bậc buồn vui. Nhiều câu ca dao về hình thức và nội dung có những nét giống nhau nhưng mỗi câu lại mang một vẻ đẹp riêng, phù hợp với từng hoàn cảnh và tâm trạng khác nhau. Ví dụ một loạt câu mở đầu bằng cụm từ Thân em mà nội dung cùng đề cập đến phẩm chất tốt đẹp, cao quý và số phậm hẩm hiu, bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến ngày xưa.

-  Thân em như củ ấu gai,
Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen.
Ai ơi nếm thử mà xem!
Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi.

-  Thân em như tấm lụa đào, 
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?
Em ngồi cành trúc, em tựa cành mai,
Đông đào tây liễu, biết ai bạn cùng?

-  Thân em như hạt mưa rào,
Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa.
Thân em như hạt mưa sa,
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.

-  Thân em như giếng giữa đàng,
Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân.

-  Thân em như đóa hoa rơi,
Phải chăng chàng thật là người yêu hoa?!

-  Thân em như con hạc đầu đình,
Muốn bay không cất nổi mình mà bay!

Ngậm ngùi, buồn thương, xót xa, cay đắng là cảm xúc chung bao trùm lên những câu ca ấy, khiến nó giống như tiếng thở dài than thân trách phận; tiếng khóc thầm tủi hờn, uất ức của người phụ nữ trước tình cảnh ngang trái, bất công. Trong xã hội phong kiến, họ bị tước đoạt quyền tự do, quyền được sống hạnh phúc và buộc phải phó mặc cuộc đời mình cho sự may rủi ngẫu nhiên của số phận. Cho dù bên trong cái hình thức xấu xí, đen đủi như củ ấu gai là phẩm chất tốt đẹp vừa ngọt vừa bùi nhưng chắc gì người đời đã nhận ra?! Cho dẫu đẹp đẽ như tấm lụa đào đi chăng nữa thì vẻ đẹp ấy chưa chắc là cơ sở bảo đảm cho hạnh phúc. Giống như những hạt mưa từ trời cao rơi xuống, số phận của mỗi người con gái một khác. May rủi cuộc đời có thể đưa họ đến những cảnh ngộ trái ngược trong cuộc sống. Có người được trân trọng, có người bị ngược đãi, cũng như nước cùng một giếng mà người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân. Giống như con hạc đầu đình, người phụ nữ bị trói chặt vào số phận hẩm hiu, dẫu có muốn thay đổi cũng chỉ là ao ước mà thôi.

Sáu câu ca dao với những cách so sánh khác nhau nhưng cùng nói lên một thực trạng: quyền sống của người phụ nữ xưa kia, mà trước hết là quyền tự do hoàn toàn bị phủ nhận. Đó chính là nguồn gốc của mọi đau khổ, ngang trái mà họ phải chịu đựng trong suốt cuộc đời.

Sáu câu ca dao là sáu tiếng than thân ngậm ngùi, chua xót. Bởi xét cho cùng, dẫu có tấm lụa đào nào được vào tay khách quý, có hạt mưa sa nào được vào chốn đài các, có nước giếng nào được đêm rửa mặt, thì cũng là nhờ may mắn mà sự may mắn thì thật hiếm hoi. Trong bao nhiêu tấm lụa đào, bao nhiêu hạt mưa sa, bao nhiêu nước giếng mới có được một số phận sáng tươi? Cho nên đau khổ vẫn là tình trạng chung phổ biến nhất của người phụ nữ.

Những câu ca dao trên chính là tiếng than thân cất lên từ cuộc đời như thế. Than vãn mà không oán trách, bởi vì biết oán trách ai? Rốt cuộc, đành cho rằng đó là định mệnh. Cho hay muôn sự tại trời, không thể nào thay đổi được.

Cả sáu câu ca dao hầu như cùng một khuôn mẫu về nội dung, về kết cấu. Mở đâu bằng thân em, tiếp theo là sự vật được đem so sánh. Còn những câu dưới là mượn tính chất của sự vật ấy để chỉ thân phận người phụ nữ. Tuy nhiên, trên cơ sở giống nhau về ý nghĩa, mỗi câu ca dao lại khác nhau ở hình ảnh được đem ra so sánh và chính cái đó đã tạo nên sắc thái của từng câu.

Ta sẽ lần lượt phân tích từng câu để thấy cái hay, cái đẹp trong ý nghĩa và hình thức biểu hiện.

Thân em như củ ấu gai,

Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen.

Ai ơi nếm thử mà xem!

Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi.

Người phụ nữ ngày xưa bị ràng buộc bởi lễ giáo khắt khe cùng những hủ tục, định kiến nặng nề của xã hội trọng nam khinh nữ. Quan niệm nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô: (Một con trai cũng là có, mười con gái cũng là không). Nữ nhân ngoại tộc: (Con gái là người ngoài họ tộc). Hay: Khôn ngoan cũng thể đàn bà, Dẫu rằng vụng dại cũng là đàn ông... đã đẩy người phụ nữ vào vị trí thứ yếu trong gia đình và xã hội.

Quan niệm sai lệch ấy ảnh hưởng không ít tới cách suy nghĩ của chị em phụ nữ, tạo ra trong họ một mặc cảm tự ti, tiêu cực. Người phụ nữ nông dân vất vả, lam lũ quanh năm thì so sánh:

Thân em như củ ấu gai,

Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen.

Cái củ ấu gai góc, xấu xí ấy sống dưới bùn sâu, chẳng mấy ai để ý tới, dẫu rằng bên trong nó vừa trắng. vừa ngọt, vừa bùi.

Thân em như tấm lụa đào, 

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?

Em ngồi cành trúc, em tựa cành mai,

Đông đào tây liễu, biết ai bạn cùng?

Người phụ nữ xưa tự nhận thức và đánh giá đúng đắn về phẩm chất tốt đẹp của mình và khẳng định điều đó qua ẩn dụ so sánh đầy tính nghệ thuật: Thân em như tấm lụa đào...

Tấm lụa đào đẹp từ chất liệu, dáng vẻ đến màu sắc bởi được dệt nên từ loại tơ tằm tốt nhất. Lụa nhẹ, mềm và rất mát, mặc vào thì người đẹp hẳn lên. Lụa màu hoa đào vừa đẹp vừa quý nhưng khi đem bán thì cũng phải bày ra giữa chốn "trăm người bán, vạn người mua", đủ loại người sang kẻ hèn, người thanh kẻ tục, không biết sẽ vào tay ai? Lụa tuy đẹp thật nhưng đã chắc gì có người biết đánh giá đúng giá trị của nó! Hình ảnh tấm lụa đào gợi lên vẻ thanh xuân mơn mởn, tràn đầy sức sống của một cô gái đương thì, nhưng hình ảnh tấm lụa đào phất phơ giữa chợ lại có một cái gì đó thật trớ trêu, tội nghiệp. Nỗi băn khoăn, lo lắng là rất thực. Quả là hoàn cảnh khách quan chi phối rất nhiều, có khi quyết định số phận của cả một đời người.

Thân em như hạt mưa rào,

Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa.

Thân em như hạt mưa sa,

Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.

Hình ảnh hạt mưa sa lại gợi lên một sắc thái tình cảm khác. Người phụ nữ cảm thấy thân phận mình quá ư nhỏ bé. Có bao nhiêu hạt mưa từ trời cao rơi xuống trong một cơn mưa?! Mọi hạt mưa đều trong trẻo, mát lành như nhau nhưng chỗ rơi xuống – tức số phận của từng hạt mưa lại không giống nhau. Sự rủi may của hoàn cảnh không thể nào đoán định trước được. Nó có thể dẫn đến những điều trái ngược hoàn toàn trong cảnh ngộ. Giữa muôn ngàn hạt mưa, một số hạt đã may mắn hơn, không rơi xuống giếng, không vào vườn hoa, không mất hút vào luống cày mà lại rơi vào chốn lầu son gác tía (đài các). Bài ca dao này quả là một bức tranh sinh động về thân phận bấp bênh của người phụ nữ xưa kia.

Nếu không may rơi vào hoàn cảnh trớ trêu, họ chỉ có một cách lựa chọn là cúi đầu chấp nhận. Dân gian đã ví: Thân con gái mười hai bến nước, trong nhờ, đục chịu, bởi vì người phụ nữ đã bị bao điều đè nén, ràng buộc, bị tước đoạt quyền tự do, quyền làm chủ bản thân. Quy định tam tòng: Tại gia tòng phụ, Xuất giá tòng phu, Phu tử tòng tử không cho họ được sống theo ý mình mà hoàn toàn phụ thuộc vào người khác. Dẫu biết là vô lí, bất công cũng vẫn phải nhẫn nhục, cam chịu.

Thân em như giếng giữa đàng,

Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân... 

Câu này lấy hình ảnh so sánh là cái giếng giữa đàng vốn rất quen thuộc với làng xóm ngày xưa. Vì là giữa đàng nên có nhiều người qua lại và tất nhiên có người khôn (người tốt, người có con mắt tinh đời...), có người phàm (kẻ tầm thường, bần tiện...). Cách sử dụng nước giếng hoàn toàn do mục đích, thái độ của từng người. Rửa mặt với rửa chân là hai hình ảnh tương phản thật sinh động và ý vị.

Thân em như đóa hoa rơi,

Phải chăng chàng thật là người yêu hoa?!

Đây là hình ảnh so sánh độc đáo và tinh tế, thể hiện mặc cảm về thân phận bất hạnh, về sự dở dang trong hôn nhân. Thân em không phải đóa hoa xinh tươi còn ở trên cành mà đóa hoa héo úa, tàn phàn đã rụng rơi dưới đất. Trong hoàn cảnh đáng buồn ấy, người phụ nữ chỉ biết bám víu vào một hi vọng mong manh: Phải chăng chàng thật là người yêu hoa?!

Thân em như con hạc đầu đình,

Muốn bay không cất nổi mình mà bay.

Tác giả dân gian đã chọn lựa được một hình ảnh so sánh có khả năng gợi cảm và liên tưởng rất cao. Con hạc đầu đình là một vật dụng để thờ, thường được làm bằng gỗ hay bằng đồng, được đặt ở nơi đền, miếu, đình, chùa... Nhìn những con hạc ấy rồi ngẫm đến thân phận của mình, người phụ nữ thấy có những nét tương đồng. Con hạc kia dẫu có muốn bay thì cũng không thể cất nổi mình mà bay. Trong suốt cuộc đời, người phụ nữ phải cắn răng chịu đựng bao đau thương, tủi nhục. Nếu có thở than thì tiếng thở than của họ cũng không thể thấu tới trời xanh. Cái vòng luẩn quẩn, nghiệt ngã của số phận trói buộc họ, khó bề thoát khỏi. Dù họ có muốn vùng dậy để cắt đứt, phá bỏ những xiềng xích vô hình ấy thì cũng không dễ dàng gì. Câu ca dao chứa đựng niềm khát khao cháy bỏng và một nỗi bất bình sâu sắc.

Những bài ca dao trên là tiếng nói than thân trách phận của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến hà khắc xưa kia. Nhân vật không phải là một cá nhân cụ thể mà là trăm ngàn phụ nữ cùng chung cảnh ngộ, cuộc đời giống như chuỗi bi kịch kéo dài. Với họ, hạnh phúc chỉ là một cái gì đó rất mơ hồ, khó hình dung và càng khó mà đạt được.

Những câu ca dao bày tỏ tâm tình tha thiết, chân thành như trên có sức lay động lòng người rất lớn. Ai cũng có thể cảm nhận được từ đấy một chút cảnh ngộ, một chút tâm sự của mình. Vậy chúng ta nên cắt nghĩa như thế nào cho hợp lí về sự song song tồn tại của những câu ca dao vừa giống nhau, vừa khác nhau đó?

Trước hết, ca dao được sáng tác bởi nhiều người khác nhau, ở những thời kì khác nhau, trên những vùng đất khác nhau. Gặp cảnh ngộ đắng cay, người nông dân xưa hay liên hệ số phận mình với một hình ảnh tương tự nào đó, thế là một câu ca dao ra đời. Câu ca dao ấy vừa chất chứa tâm tư, vừa mang dấu ấn thực tế cuộc sống của người sáng tác.

Không hẹn mà nên, cái chung của số phận người phụ nữ đã làm cho những câu ca dao gặp nhau ở cùng một nội dung ý nghĩa.

Mặt khác, ngay cả khi trong tâm trí có sẵn một câu ca dao cũ, nhưng trong cảnh ngộ cụ thể, người làm thơ dân gian vẫn muốn nói lên một điều gì đó cho riêng mình. Cho nên mới lần lượt xuất hiện những câu ca dao nội dung gần giống nhau mà hình thức thì khác đi đôi chút. Đó không đơn giản chỉ là sự lặp lại mà là phát triển và bổ sung thêm cho cái đã có thêm đa dạng, phong phú.

Tuy nghệ thuật có nhiều chỗ giống nhau như ở cách mở đầu, cách ví von, so sánh, ẩn dụ và giống nhau ở cảm xúc chung nhưng mỗi câu ca dao vẫn lấp lánh một vẻ đẹp riêng. Điều đáng nói là chỉ sau vài lần ngâm nga thưởng thức, người đọc sẽ không thể nào quên bởi cái hay, cái đẹp của nó đã thấm vào máu thịt tự lúc nào chẳng rõ.

Chỉ xét riêng sáu câu ca dao có chung cách mở đầu bằng Thân em, chúng ta cũng thấy được ca dao đúng là sản phẩm của tài năng và tâm hồn phong phú của nhân dân lao động. Những câu ca dao ấy giúp ta hiểu được nỗi cay đắng ngậm ngùi mà người phụ nữ Việt Nam ngày xưa đã phải trải qua và thêm thông cảm, đồng tình với khát vọng cất mình mà bay của họ.

Bài số 2:

Trong ca dao Việt Nam có một điều rất lạ: nhiều câu ca dao hoàn toàn không khác nhau về nội dung, ý nghĩa, nhưng lại cùng tồn tại và mỗi câu đều đem lại niềm hứng thú riêng cho người thưởng thức. Chẳng hạn có rất nhiều câu bắt đầu bằng "Thân em" cùng nói lên số phận đắng cay của người phụ nữ ngày xưa:

- Thân em như tấm lụa đào,

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.

- Thân em như hạt mưa sa,

Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.

- Thân em như giếng giữa đàng,

Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân.

- Thân em như con hạc đầu đình,

Muốn bay không cất nổi mình mà bay.

Cái chung của những câu ca dao này là gì? Tất cả đều nói lên tình cảnh cay đắng của người phụ nữ, bị tước đoạt quyền tự do, quyền quyết định hanh phúc của mình, hoàn toàn phó mặc cho ngẫu nhiên của số phận. Cho dẫu phẩm chất đẹp đẽ, cao quý như tấm lụa đào, phẩm chất ấy không là cái đảm bảo cho hạnh phúc. Cho dẫu hoàn toàn giống nhau về giá trị, như những hạt mưa từ trời cao sa xuống, số phận của những người con gái cũng chưa chắc giống nhau; sự may rủi của đời có thể đưa đến những khác biệt, thậm chí những số phận tương phản. Sự may rủi có thể đưa đến những cảnh ngộ, hoặc được trân trọng hoặc bị bạc đãi, như cùng là nước giếng, mà cũng có thể được dùng cho người rửa mặt, hoặc bị đưa cho người rửa chân. Như con hạc đầu đình, người phụ nữ bị trói chặt vào số phận, dẫu có ao ước đổi thay, họ không sao có thể quyết định được.

Cả bốn câu ca dao, với những sự so sánh khác nhau, cùng cho ta biết một thực trạng của chế độ phong kiến: quyền sống của người phụ nữ, mà trước hết là quyền tự do quyết định đời mình, hoàn toàn bị phủ nhận. Đó chính là nguồn gốc của mọi đau khổ, mọi cảnh ngang trái mà người phụ nữ phải chịu đựng trong cả đời người dằng dặc. Cả bốn câu ca dao là bốn tiếng than dài, làm nên một chuỗi tiếng than buồn bã, đau đớn. Mở đầu bằng "Thân em", những người phụ nữ ngày xưa đã hiểu được nỗi khổ của mình, nỗi khổ riêng và nỗi khổ chung của mọi người phụ nữ. Bởi xét cho cùng, dẫu cho có tấm lụa đào nào được rơi vào tay khách quý, có hạt mưa sa nào được vào nơi đài các, có nước giếng nào được đem rửa mặt, thì cũng nhờ vào may mắn mà có, nên thực ra nó cũng bấp bênh. Huống chi trong bao nhiêu tấm lụa đào, bao nhiêu hạt mưa sa, bao nhiêu nước giếng, mới có được một số phận sáng tươi. Cho nên đau khổ vẫn là cái chung. Những câu ca dao trên chính là tiếng than đã cất lên từ hàng triệu cuộc đời trong nghìn năm của chế độ phong kiến. Than vãn mà không oán trách, bởi vì không biết oán trách ai, người phụ nữ ngày xưa chỉ biết đó là thân em, cái số phận đã dành cho mình, không thể cắt nghĩa được. Cả bốn câu ca dao hầu như được đúc ra từ một khuôn: ngoài cái giống nhau về nội dung, cả bốn câu đều giống nhau về kết cấu. Mỗi câu là một so sánh nghệ thuật. Bắt đầu bằng "Thân em" rồi tiếp theo là một sự vật so sánh ở nữa câu trên, để chỉ thân phận của người phụ nữ. Tuy nhiên, những câu ca dao ấy không hoàn toàn giống nhau. Nếu hoàn toàn giống nhau, chúng đã không tồn tại. Trên cơ sở giống nhau về ý nghĩa, mỗi câu ca dao lại khác nhau về hình ảnh so sánh. Và đó chính là điều tạo nên sắc thái riêng hứng thú riêng. Hình ảnh "tấm lụa đào" gợi nên một ý niệm đẹp, đẹp từ chất liệu, dáng vẻ đến màu sắc "Người đẹp nhờ lụa", bởi đó là thứ vải mặc được dệt từ loại tơ tằm tốt nhất, bóng sáng, mềm dịu, mặc vào thì mát mẻ, làm đẹp con người lên. Đã lụa lại lụa màu hoa đào nữa thì đẹp quá. Quý thế nhưng khi đem bán thì phải bày lụa ra giữa chợ, để nó "phất phơ giữa chợ", giữa chốn "trăm người bán, vạn người mua", có đủ thứ người sang kẻ hèn, người thanh kẻ tục. Lụa đẹp nhưng đã chắc gì có người biết đúng giá trị của nó, thật là tội nghiệp cho tấm lụa! Hình ảnh "hạt mưa sa" lại gợi lên một sắc thái khác. Đố ai đếm được có bao nhiêu hạt mưa từ trời rơi xuống trong một cơn mưa! Mọi hạt đều trong trẻo như nhau, ngọt mát như nhau, nhỏ bé như nhau, không có hạt mưa nào hơn hạt mưa nào. Thế nhưng giữa cơn mưa đầy trời ấy, chỗ "rơi xuống", số phận cuối cùng của các hạt mưa đã không giống nhau. Giữa triệu triệu hạt mưa rơi xuống đất, một số ít hạt mưa may mắn hơn, không rơi xuống bùn lầy, không rơi mất hút vào luống đất vừa cày xới, lại rơi ngay vào chôn lầu son gác tía. Thật là một bức tranh sinh động. Câu thứ ba lấy hình ảnh so sánh là "giếng nước giữa đàng", một hình ảnh vốn quen thuộc với làng xóm ngày xưa. Vì là giữa đàng nên có bao nhiêu người qua lại. Giữa những người qua lại tất nhiên có người khôn (người có lòng, có con mắt tinh đời...), kẻ phàm (kẻ tầm thường, bần tiện...). Thái độ cùa người sử dụng nước giếng giữa đàng không phải do nước giếng mà do phẩm chất của người dùng nước. Hai hình ảnh "rửa mặt" với "rửa chân" thật là sinh động và thú vị. Câu ca dao thứ tư dùng hình ảnh so sánh mới thật sắc sảo: "Con hạc đầu đình" vốn không phải là một sinh vật mà là một vật dụng để thờ, bằng gỗ hay bằng đồng. Con hạc ấy không thể bay được. Như nhìn vào thân phận của mình, người phụ nữ xưa đã gán cho nó cái ý "muốn bay" để rồi từ đó nhận ra "không cất nổi mình mà bay". Sự tương phản giữa ý muốn chủ quan với thực tế khách quan đến là mạnh mẽ. Từ câu ca dao như bật lên niềm khát khao và một nỗi bất bình, bức bối đến nghẹt thở. Ta cắt nghĩa như thế nào về sự cùng tồn tại của những câu ca dao vừa giống nhau vừa khác nhau đó? Trước hết, ca dao là những tác phẩm đã được sáng tạo ra bởi nhiều người khác nhau, ở những thời kì khác nhau, trên những vùng đất khác nhau. Gặp cảnh ngộ đắng cay, với cách nói cụ thể có hình ảnh, người nông dân xưa liên kết số phận mình với một hình ảnh trùng hợp có trước mắt, thế là câu ca dao ra đời. Câu ca dao ấy vừa mang tâm tư của người sáng tác vừa mang luôn dấu ấn của thực tế mà người sáng tác đang đối diện. Không hẹn mà nên, cái chung của số phận đã làm cho những câu ca dao vốn không hề biết nhau lại gặp nhau ở một nội dung chung. Mặt khác, cả khi trong tâm trí đã có sẵn một câu ca dao cũ của người khác, thì gặp cảnh ngộ của mình, dẫu giống mà vẫn có nét khác với nhiều người đi trước đã nói. Đó không phải là sự lập lại mà chỉ là việc bổ sung cho cái đã có thêm đa dạng.

Chỉ xét riêng bốn câu ca dao "Thân em", ta cũng thấy được ca dao thật là thú vị, đúng là sản phẩm của tài năng và tâm hồn phong phú của quần chúng nhân dân. Những câu ca dao ấy giúp ta hiểu được những nỗi cay đắng dày đặc mà người phụ nữ Việt Nam ngày xưa đã phải trải qua và đồng tình với khát vọng "cất nổi mình mà bay" của họ.

Bài số 3:

Ca dao diễn tả đời sống tư tưởng, tình cảm muôn màu muôn vẻ của người lao động. Sống dưới xã hội cũ, người lao động Việt Nam chịu nhiều nỗi đắng cay, tủi cực. Vì vậy xuất hiện không ít những bài ca dao than thân. Trong những bài thuộc loại này, có một số bài được mở đầu bằng từ Thân em, một lối diễn đạt công thức mang đậm sắc thái dân gian.

Những bài ca dao mở đầu bằng từ Thân em, trước hết, đều là lời than thân của người phụ nữ. Than vì sự cực khổ trong lao động:

Thân em tội nghiệp vì đâu,

Ngày ngày em chổng phao câu lên trời.

Than cho số kiếp của một kẻ lẽ mọn:

Thân em làm lẽ chẳng hề,

Có như chính thất mà lê giữa giường.

Hay vì một nỗi oan uổng:

Thân em như giấy lụa tờ

Chớ nghi mà tội, chớ ngờ mà oan.

Nhưng phổ biến nhất trong những lời than thân đó là lời than vì duyên phận bị phụ thuộc, không được chủ động trong tình yêu:

Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai ?

Xin được dẫn ra đây 5 bài ca dao khác thuộc loại này để thấy được những nét chung và riêng so với bài ca dao vừa nêu ở trên:

- Thân em như hạt mưa rào
Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa
Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.

- Thân em như miếng cau khô
Kẻ thanh tham mỏng, người thô tham dày.

- Thân em như giếng giữa đàng
Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân.

- Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu?

- Thân em như quả xoài trên cây
Gió đông gió tây, gió nam gió bắc
Nó ánh lúc la lúc lắc trên cành
Một mai rụng xuống biết vào tay ai ?

Tất cả các bài ca dao đều bắt đầu bằng từ Thân em diễn tả thân phận, cuộc đời bị phụ thuộc, không được quyền quyết định, chịu cảnh hôn nhân không có tình yêu. Từ đó, gợi cho người nghe sự chia sẻ và đồng cảm sâu sắc. Đó là lời chung của người phụ nữ về thân phận nhỏ bé, yếu ớt, đắng cay, tội nghiệp của họ dưới chế độ xưa.

Sau từ Thân em là từ như dùng để so sánh và đối tượng đem ra so sánh: tấm lụa đào, hạt mưa, miếng cau khô, giếng giữa đàng, quả bần trôi trên sông, quả xoài trên cây. Các vật đem ra so sánh đều là những vật gần gũi, quen thuộc và có những nét tương đồng độc đáo với thân phận của người con gái trong xã hội cũ. Cách đem các sự vật ấy ra so sánh khiến cho đối tượng được so sánh (người phụ nữ) hiện lên một cách rõ ràng, đồng thời cũng làm nổi bật được thân phận không ra gì của họ. Miếng cau khô, hạt mưa rơi, quả xoài... vốn có giá trị gì nhiều lắm đâu, thậm chí nó chỉ là đồ bỏ đi: quả bần trôi trên sông. Trong các vật nêu trên, nếu quả bần trôi trên sông kém giá trị hơn cả, tội nghiệp hơn cả thì tấm lụa đào không chỉ có giá trị hơn mà còn gợi được vẻ đẹp duyên dáng, tươi mát. Như vậy, ở bài ca dao Thân em như tấm lụa đào... người con gái không chỉ than thân mà còn ý thức được sắc đẹp, tuổi xuân và giá trị của mình. Chính vì vậy, nỗi đau thân phận của nhân vật trữ tình trong bài ca dao đã được nhân lên. Đã đau lại càng đau hơn !

Trong các vật được đem ra so sánh, các vật giếng, trái bần, quả xoài đều có thêm các định ngữ lâm thời (tức là những định ngữ không chỉ bản chất của sự vật): giếng - giữa đàng, trái bần - trôi, quả xoài - trên cây. Việc dùng thêm các định ngữ này phần nào đã làm nổi bật được thân phận không ra gì của người phụ nữ dưới chế độ cũ.

Ở các câu thơ đầu tiên, tác giả dân gian chủ yếu đưa ra các sự vật để so sánh, còn câu tiếp theo là những câu miêu tả bổ sung, khắc hoạ rõ nét thân phận, cuộc đời bị phụ thuộc, không được quyền quyết định, phải chịu cảnh hôn nhân không có tình yêu, may nhờ rủi chịu. Tuy nhiên, những bài ca dao kết thức bằng các câu hỏi:

- Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai ?

- Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu ?

- Một mai rụng xuống biết vào tay ai ?

Làm cho lời than thêm não nuột. Đó là tiếng kêu đầy ai oán, khắc sâu vào lòng người nghe một nỗi đau thân phận.

Bài số 4:

Ca dao là tiếng tơ lòng muôn điệu, trải dài với những cung bậc cảm xúc, tâm tư và tình cảm của người lao động bình dân. Lắng đọng và trữ tình là những câu hát than thân thường mở đầu bằng mô típ “thân em”. Qua đó, phản ánh một cách sâu sắc số phận của người phụ nữ đầy bi kịch, oan trái trong xã hội phong kiến mục nát, suy tàn – tạo cho độc giả sự đồng cảm, chia sẻ và trân trọng! Mảng ca dao mở đầu bằng “thân em” trở thành mô típ để nói về thân phận, cuộc đời người phụ nữ trong xã hội xưa. Đó thường là số phận bi kịch và đắng cay được gửi gắm vào trong ca dao bằng giọng điệu buồn tẻ, chua xót và ngậm ngùi. Cách nói giản dị, khiêm nhường song hàm súc nhiều ý nghĩa. Người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa trở thành chủ thể trữ tình của câu hát than thân trách phận. Bởi lẽ, chế độ phong kiến mục nát với luật lệ hà khắc đã chà đạp lên quyền sống, mưu cầu hạnh phúc của con người đặc biệt là người phụ nữ. Cuộc sống lao động cực nhọc, vất vả mưu sinh và lệ thuộc vào hoàn cảnh đã đẩy người phụ nữ vào vòng xoay của bi kịch, khổ đau khó cất lên tiếng nói giãi bày:

“Thân em như trái bần trôi

Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu.”

Hình ảnh “trái bần trôi” lênh đênh trên mặt nước bị “gió dập sóng dồi” phải chăng là cuộc đời, số phận của người phụ nữ xưa. Họ như những cánh hoa bé nhỏ, mong manh trôi dạt nơi bến bờ vô định, bị cuốn vào bi kịch của khổ đau, oan trái bởi thế lực đen tối. Không chỉ thế, những ràng buộc hữu hình hay vô hình lại hoành hành, khiến người phụ nữ không thể vươn lên:

“Thân em như con cá rô thia

Vào trong mắc cạn, ra ngoài mắc câu.”

Hình ảnh con cá rô đang vùng vẫy không lối thoát như chính sự bế tắt, tuyệt vọng của người phụ nữ. Họ không có quyền quyết định hạnh phúc cho bản thân, bị rào cản của xã hội, gia đình ngăn cấm, phải tùy vào “trong nhờ đục chịu”. Hơn thế, ngay trong xã hội xưa, người phụ nữ không tìm thấy tiếng nói chung, sự bất bình đẵng giữa nam giới và nữ giới đã gieo bao khổ đau, bất hạnh. Điều này, không chỉ thể hiện trong câu hát than thân:

“Thân lòn cúi vợ tôi chồng chúa

Đạo phu thê như đũa nên đôi

Dầu cho lúc đứng khi ngồi

Chồng làm chúa cả, thiếp thời gia nô.”

Số phận, cuộc đời của người phụ nữ là chuỗi ngày bi kịch, đắng cay đến tủi thẹn. Song, vượt lên trên hết người phụ nữ xưa vẫn vẹn toàn đức hạnh, phẩm giá; họ tự hào khẳng định về vẻ đẹp của bản thân. Nét đẹp đáng quý ấy như một đóa sen tỏa hương thơm ngát giữa chốn bùn nhơ của xã hội điêu tàn:

“Thân em như cây quế tiên non

Trăm năm khô rụi vỏ còn dính cây”

Hay:

“Thân em như củ ấu gai

Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen

Ai ơi nếm thử mà xem

Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi.”

Vẻ đẹp phẩm chất của người phụ nữ được khẳng định mạnh mẽ, đó là đức hạnh, tấm lòng trong trắng, thuần khiết đáng trân trọng! Song, âm điệu của câu ca vang vọng nỗi ngậm ngùi, chua xót về cuộc đời, xã hội với những thế lực đen tối. Không chỉ đừng lại ở các câu ca dao về “Thân em” mà nỗi lòng về sự bất bình trong xã hội đã cho ra đời những câu ca:

“Thân em như hạt gạo lắc trên sàng

Thân anh như hạt lúa lép giữa đàn gà bươi.”

Sự đề cao vai trò, vị trí của “thân em” hơn “thân anh” không chỉ là nỗi lòng mà còn là niềm khát khao về cuộc sống bình quyền. Nơi đó, người phụ nữ tìm được tiếng nói, vị thế và hạnh phúc đích thực. Thiên chức người phụ nữ đâu chỉ "lấy nước, sinh con, giữ lửa” mà còn là sự vươn xa hơn, khẳng định tầm vóc của bản thân đã góp phần làm nên cuộc sống tốt đẹp.

Các câu hát than thân, trách phận thường sử dụng thể thơ lục bát hay lục bát biến thể đầy hàm súc, mang đậm tính dân tộc, thuần Việt. Từ ngữ bình dị, gắn liền với các hình ảnh so sánh gần gũi, giàu ý nghĩa ở nông thôn như chính sự mộc mạc, chân thành của hầu hết các câu ca dao.

Những câu hát than thân mở đầu bằng mô típ “thân em” dẫu khép lại nhưng khi đọc xong vẫn vang vọng trong trái tim người đọc. Bên cạnh sự trân trọng, ngưỡng mộ về phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ còn là niềm thương cảm cho cuộc đời bất hạnh, đầy oan trái của họ trong xã hội phong kiến xưa. Lời ca than thân không chỉ là tiếng lòng mà còn thể hiện sự phản kháng, đấu tranh cho quyền lợi người phụ nữ. Xã hội phong kiến mục nát, bất công sẽ sụp đổ, thay vào đó sẽ là xã hội mới, bình đẳng, tôn trọng quyền lợi và khát vọng của con người. Nơi ấy người phụ nữ sẽ tìm được hạnh phúc đích thực cho bản thân mình.

-/-

Hi vọng qua việc tham khảo những mẫu bài phân tích hay cùng những gợi ý cho dàn bài chi tiết trên đây, các em có thể tự viết được một bài phân tích ca dao than thân Thân em hoàn chỉnh với vốn từ ngữ phong phú, văn phong trôi chảy. Chúc các bạn học tốt !

      Tham khảo thêm tuyển tập những bài văn hay lớp 7 tại kho tài liệu Văn mẫu lớp 7 nhằm giúp bạn tự rèn luyện kỹ năng tập làm văn.

Bạn còn vấn đề gì băn khoăn?
Vui lòng cung cấp thêm thông tin để chúng tôi giúp bạn
Hủy

TẢI VỀ

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM