Phân tích Tự tình 1 của Hồ Xuân Hương

Xuất bản: 11/09/2018 - Cập nhật: 29/07/2024 - Tác giả:

Phân tích bài thơ Tự tình 1, sưu tầm và tuyển chọn những bài văn mẫu hay phân tích nội dung, nghệ thuật của bài thơ Tự tình (bài I) của nữ sĩ Hồ Xuân Hương.

Bắt tay vào phân tích Tự tình I của Hồ Xuân Hương, các em sẽ được khám phá thế giới nội tâm đầy giông bão của một người phụ nữ tài hoa nhưng lại chịu nhiều bất hạnh trong xã hội phong kiến. Bài thơ là tiếng lòng khao khát yêu thương và hạnh phúc, đồng thời thể hiện sự phản kháng mạnh mẽ trước số phận. Bài viết này sẽ cung cấp cho các em những hướng dẫn chi tiết để phân tích bài thơ này một cách sâu sắc và toàn diện nhất, từ đó khám phá vẻ đẹp độc đáo trong phong cách nghệ thuật của Hồ Xuân Hương.

Tác giả Hồ Xuân Hương và chùm thơ Tự tình

1. Hồ Xuân Hương

- Hồ Xuân Hương (1772 - 1822) sống ở giai đoạn cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX.

- Sinh ra trong một gia đình phong kiến suy tàn và do hoàn cảnh sống nên bà tiếp cận được với cuộc sống của những người lao động nghèo.

- Là người phụ nữ xinh đẹp, giỏi giang nhưng hai cuộc hôn nhân của bà đều đi vào lầm lỡ, cuộc đời vô cùng sóng gió.

- Thơ của bà xoay quanh chủ đề người phụ nữ trong thời phong kiến, không chỉ phê phán những định kiến xã hội lúc bấy giờ mà còn thể hiện sự đồng cảm với những số phận bất hạnh, ca ngợi vẻ đẹp người phụ nữ.

- Với kho tàng hơn 150 tác phẩm để lại cho đời, bà được mệnh danh là Bà chúa thơ Nôm.

- Các tác phẩm tiêu biểu: Độ Hoa Phong, Hải ốc trù (thơ chữ Hán), Bánh trôi nước, Bỡn bà lang khóc chồng, Tự tình (I, II, III)(thơ chữ Nôm)...

2. Chùm thơ Tự tình (I, II, III)

- Tự tình (I, II, III) là chùm ba bài thơ của Hồ Xuân Hương, bộc lộ những nỗi niềm sầu tủi, cay đắng trong cuộc đời của chính bà (Tự tình là tự bộc lộ tâm tư, tình cảm một cách trực tiếp). Trong đó:

+ Tự tình I là tiếng than thân trách phận cho nỗi buồn cô đơn, vở bi kịch tình yêu với niềm khao khát hạnh phúc của người phụ nữ, ca ngợi bản lĩnh, sức sống mãnh liệt không chịu khuất phục trước số phận hẩm hiu, nghiệt ngã.

Tự tình II khắc họa hình ảnh người phụ nữ trong xã hội phong kiến còn chịu nhiều bất hạnh, cay đắng nhưng không bao giờ thôi khao khát hạnh phúc gia đình, hôn nhân viên mãn, đến khả năng làm chủ vận mệnh của chính mình. Bài thơ là nỗi đau của riêng nhà thơ hay cũng là nỗi đau đáu, bẽ bàng của một lớp phụ nữ bị chèn ép, bị chế độ phong kiến làm cho dang dở, lẻ loi.

+ Tự tình III thể hiện thái độ phẫn uất của Hồ Xuân Hương về cuộc đời éo le, muốn vươn lên chống chọi nhưng sau cùng thì vẫn phải cam chịu, phó mặc cho cuộc đời, thể hiện khao khát mãnh liệt được sống, được hạnh phúc của người phụ nữ trong xã hội xưa.

Nội dung bài thơ Tự tình I

Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom
Oán hận trông ra khắp mọi chòm.
Mõ thảm không khua mà cũng cốc
Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om
Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ,
Sau giận vì duyên để mõm mòm.
Tài tử văn nhân ai đó tá?
Thân này đâu đã chịu già tom

Bài thơ được viết ra nhằm thể hiện tâm trạng của nhà thơ trước những kiếp nữ nhi bị số phận đẩy vào chốn bi kịch.

- Hai câu đề: tâm trạng cô đơn, oán hận của chủ thể trữ tình.

- Hai câu thực: nỗi thảm sầu về bi kịch cô đơn với mức độ được tăng lên.

- Hai câu luận: nỗi lòng về duyên phận bạc bẽo được bộc lộ một cách trực tiếp.

- Hai câu kết: thái độ thách thức, phản kháng trước bi kịch cuộc đời.

Dàn ý phân tích Tự tình 1

1. Mở bài

- Giới thiệu về tác giả Hồ Xuân Hương: cuộc đời và sự nghiệp sáng tác.

- Giới thiệu bài thơ "Tự tình I" - một trong ba bài thơ "Tự tình" nổi tiếng, thể hiện tâm trạng và khát vọng của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

2. Thân bài

a) Tâm trạng cô đơn, oán hận của chủ thể trữ tình (hai câu đề)

- Từ "văng vẳng" gợi cho ta về một thứ thanh âm được vọng lại từ một nơi xa xôi, dường như phải lắng tai mới nghe được.

- "Trên bom" ở đây cố thể hiểu là ở phía sau một con thuyền nơi người dân chài thường nuôi gà nhốt trong bu. (Hình ảnh con thuyền liên hệ: Tự tình III)

-> Nghệ thuật lấy động tả tĩnh: mượn tiếng gà gáy nơi xa xa để làm nổi bật thêm sự yên ắng, tĩnh mịch của đêm khuya nơi làng quê.

- "Trông ra khắp mọi chòm" - nhìn ra khắp mọi nơi, khắp mọi không gian -> nhìn ra khắp nơi đâu đâu cũng chỉ thấy oán hận.

=> Màn đêm mù mịt, u tối đang bủa vây người phụ nữ trong nỗi cô đơn, oán hận. “Tiếng gà văng vẳng” tàn canh làm thức dậy nỗi đau đớn xót xa đến nỗi âm thanh lan tỏa đến đâu thì “oán hận” tràn ra ngùn ngụt đến đó. Đây không còn là nỗi “oán hận” của một cá nhân mà là nỗi oán hờn của những kiếp hồng nhan bất hạnh trong xã hội bấy giờ.

b) Nỗi thảm sầu về bi kịch cô đơn với mức độ được tăng lên (hai câu thực)

- Hình ảnh Mõ - chuông; cốc - om: hai hình ảnh đối xứng với nhau khiến cho nỗi cô đơn buồn tủi càng kéo dài hơn. Mõ không khua mà cũng có tiếng kêu, chuông không đánh mà cũng vẫn om.

- Những âm thanh ấy vẫn luôn ám ảnh trong tâm trí người nữ sĩ, càng thêm da diết, u buồn, rầu rĩ khi kết hợp cùng những tính từ: "thảm", "sầu" -> Sự kết hợp từ ngữ lạ lùng mà độc đáo, ấn tượng.

-> Một hòa âm thảm sầu của ngoại cảnh và lòng người đã tấu lên trong buổi tàn canh thật mạnh mẽ với những thanh trắc (tiếng, hận, thảm, cớ…) với những động từ (gáy, khua, đánh).

=> Hai câu thơ chính là tiếng thở dài ngao ngán, buồn tủi về cuộc đời của bà, về con đường tình duyên trắc trở.

c) Nỗi lòng về duyên phận bạc bẽo được bộc lộ một cách trực tiếp (hai câu luận)

- Nghệ thuật đối: "Trước nghe" đối với "sau giận"; "tiếng" hô ứng với "duyên"; "rầu rĩ" là tâm trạng đối với "mòm mõm" là trạng thái.

- "Trước nghe": tiếng vào lời ra của thiên hạ/ tiếng gà văng vẳng gáy/ tiếng "chuông sầu", "mõ thảm" đang "cốc", đang "om" trong lòng mình? Dù là gì thì âm thanh đó được miêu tả là khiến lòng người thêm rầu rĩ, buồn tủi.

- "Sau giận": thể hiện sự oan ức, trách móc, than thở với số phận lênh đênh, tình duyên bẽ bàng.

- "Mõm mòm": nghĩa là quá chín, chín đến nẫu đi. Duyên "mõm mòm" là duyên phận hẩm hiu, quá lứa lỡ thì. Tình duyên giờ được ví như trái cây, không còn "má hây hây gió" (Xuân Diệu) mà đã chín "mõm mòm".

=> Một tiếng thở dài, than thân trách phận: bà khao khát hạnh phúc, nhưng dường như hạnh phúc không đến với bà, bà tự biết mình đã qua tuổi xuân thì phơi phới, duyên đã quá nẫu.

d) Thái độ thách thức, phản kháng trước bi kịch cuộc đời (hai câu kết)

- Nữ sĩ hướng đến “tài tử văn nhân” (hướng đến chứ không phải là hướng lên vì thật khó có tài tử văn nhân nào trên Hồ Xuân Hương) là hướng đến những gì tốt đẹp của chính tâm hồn nữ sĩ. Xuân Hương chỉ đồng cảm với các bậc “tài tử văn nhân”, các bậc tao nhân mặc khách chứ không phải vì chín “mõm mòm” mà rụng vào tay bất cứ kẻ nào.

- "già tom": nghĩa là rất già, già hẳn, khô quắt đi.

- "đâu đã chịu": sự thách đố, cho thấy sự biến chuyển về suy nghĩ, vượt lên nghịch cảnh, sự bướng bỉnh trong tính cách.

-> Nữ sĩ như vẫn còn tin vào tài năng của mình có thể làm xoay chuyển được duyên phận, vẫn hy vọng tìm được bạn đời trăm năm trong đám tài tử văn nhân.

=> Bản lĩnh cứng cỏi của Hồ Xuân Hương trước cuộc đời, một người phụ nữ tuy tình duyên lận đận nhưng chưa bao giờ ngưng khát vọng, ngưng tìm hạnh phúc.

3. Kết bài

- Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ:

+ Nội dung: Nỗi lòng của người phụ nữ tài hoa, khát khao hạnh phúc nhưng bất hạnh trong tình duyên.

+ Nghệ thuật: Thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, ngôn ngữ táo bạo, hình ảnh giàu sức gợi, nghệ thuật gieo vần vô cùng tài tình hiểm hóc

- Liên hệ và đánh giá: Tiếng nói của Hồ Xuân Hương là tiếng nói chung của người phụ nữ trong xã hội cũ, có giá trị nhân văn sâu sắc.

TOP 3 bài văn hay phân tích Tự tình I được tuyển chọn qua các kì thi

Phân tích Tự tình 1 bài số 1:

Hồ Xuân Hương có ba bài thơ Tự tình. Những bài thơ Tự tình của Hồ Xuân Hương thuộc dòng thơ trữ tình thuần khiết, cũng dữ dội nhưng không có yếu tố trào lộng, dục và tục. Sau những hành vi bỡn cợt, châm biếm, sau những tiếng cười phá phách, nữ sĩ đa tình này lại trở về với cõi lòng tịch mịch của chính mình. Ngay cả trong những dòng tâm tư sầu thảm, oán hờn này, chúng ta cũng nhận ra tài hoa và bản lĩnh của một người đàn bà tuyệt vời. Tự tình I là một trong những bài thơ đặc sắc của bà nằm trong chùm thơ Tự tình tiêu biểu cho tiếng nói thương cảm với số phận người phụ nữ.

Mở đầu bài thơ là một âm thanh xao xác:

“Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom

Oán hận trông xa khắp mọi chòm”

Tác giả lựa âm “om” (khổ vận) thật là độc đáo. Âm “om” tượng hình, âm thanh phát ra trong một cái vòm (Vòm trời thì dưới mắt Xuân Hương cũng là một cái vòm thôi) luẩn quẩn không thoát ra được, thật hợp với tâm trạng ấm ức, tấm tức của nhân vật trữ tình. Cái không gian nghệ thuật ở đây cũng thật là đặc biệt và tiềm ẩn không ít bí mật. Nữ sĩ đang ở đâu mà nghe “tiếng gà văng vẳng gáy trên bom”? “Trên bom” là ở đâu? Nhiều nhà nghiên cứu có nói là từ “bom” không hiểu rõ. “Văn học 11” (Ban KHXH) chú giải là “phía sau một con thuyền nơi người dân chài thường nuôi gà nhốt trong bu”. Như vậy là ở đây có một con thuyền trong đêm tối, cũng có thể lắm vì trong nhiều bài thơ viết về thân phận của nữ sĩ thường có hình ảnh con thuyền, ngay trong bài Tự tình (III) cũng có con thuyền:

“Chiếc bánh buồn về phận nổi nênh

Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh”

Thân phận của Xuân Hương như con thuyền lênh đênh trong bóng tối. “Tiếng gà văng vẳng” tàn canh làm thức dậy nỗi đau đớn xót xa đến nỗi âm thanh lan tỏa đến đâu thì “oán hận” tràn ra ngùn ngụt đến đó. Đây không còn là nỗi “oán hận” của một cá nhân mà là nỗi oán hờn của những kiếp hồng nhan bất hạnh trong xã hội bấy giờ.

Tiếng gà đã thức dậy nỗi đau của kiếp hồng nhan, rồi nỗi đau, nỗi thảm sầu nhiễm vào từng âm thanh của buổi tàn canh bất kể tiếng kim hay tiếng mộc:

“Mõ thảm không khua mà cũng cốc

Chuông chùa chẳng đánh cớ sao om”

Sự kết hợp từ ngữ của Xuân Hương biến hóa lạ lùng, mõ thì mõ thảm, chuông thì chuông sầu. tác giả đã nội tâm hóa âm thanh của ngoại cảnh, khiến cho người nghe tưởng đấy là tiếng lòng của nữ sĩ. Chính tiếng gà đã thức dậy nỗi đau thương khắc khoải, chính tiếng gà tàn canh đã làm giật mình kẻ hồng nhan, làm khua lên nỗi thảm thành âm thanh khô khốc: “cốc”, đã đánh lên tiếng sầu não ruột, tối tăm: “om”. Một hòa âm thảm sầu của ngoại cảnh và lòng người đã tấu lên trong buổi tàn canh. Nhưng lắng nghe thật kĩ, ta nhận ra hòa âm thảm sầu ấy dội lên thật mạnh mẽ với những thanh trắc (tiếng, hận, thảm, cớ…) với những động từ (gáy, khua, đánh) thành ra hòa âm thảm sầu bi mà không lụy, nỗi buồn của một sức sóng mãnh liệt. Tiếng lòng ấy như có sự cựa quậy cưỡng lại sự phũ phàng của người đời, sự nghiệt ngã của duyên kiếp.

Chuyển sang hai câu luận, tác giả trực tiếp bộc lộ nỗi lòng của mình:

“Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ

Sau giận vì duyên dể mõm mòm”

Không đặc sắc như hai câu thực, nhưng hai câu luận cũng bộc lộ được tâm trạng thật của nữ sĩ, một nỗi buồn tàn duyên rất con người, rất đàn bà. Chữ nghĩa hình tượng cũng tài hoa. Cái trừu tượng (duyên) đã trở thành cái cụ thể (để mõm mòm). Trong cái khó (khổ vận) của vần, Hồ Xuân Hương vẫn khám phá được hình tượng xác đáng, đầy cảm xúc. Nói về sự “toan về già”, về sự “hết duyên” có gì hay hơn hình ảnh “mõm mòm” như trái chín rục, chín úng. Mà quả thật, đường tình duyên, hôn nhân của Hồ Xuân Hương cũng quá hẩm hiu. Lấy chồng muộn mà cả hai đời chồng đều làm lẽ và sớm trở thành góa bụa.

Nhưng Xuân Hương vẫn không chịu “hạ mình”, vẫn hướng đến những “đối tượng” mà nữ sĩ có thể đồng cảm được, kêu gọi, thách thức:

“Tài tử văn nhân ai đó tá

Thân này đâu đã chịu già tom”

Tứ thơ chuyển thật bất ngờ. Mà cũng chỉ có Xuân Hương mới đủ sức mạnh tinh thần để gượng dậy trong nỗi buồn tê tái như thế. Nữ sĩ hướng đến “tài tử văn nhân” (hướng đến chứ không phải là hướng lên vì thật khó có tài tử văn nhân nào trên Hồ Xuân Hương) là hướng đến những gì tốt đẹp của chính tâm hồn nữ sĩ. Xuân Hương chỉ đồng cảm với các bậc “tài tử văn nhân”, các bậc tao nhân mặc khách chứ không phải vì chín “mõm mòm” mà rụng vào tay bất cứ kẻ nào. Có một nỗi khát vọng trong lời kêu gọi vô vọng đó. Nữ sĩ kêu lên một tiếng càng làm tăng lên vẻ tịch mịch của cõi lòng như tiếng gà buổi tàn canh càng tăng thêm vẻ vắng lặng của không gian. Nhưng rồi Hồ Xuân Hương vẫn lộ ra bản lĩnh của mình, bản lĩnh của một người phụ nữ ý thức sâu sắc về cá nhân, về quyền sống, sẵn sàng thách đố lại với duyên phận.

“Thân này đâu đã chịu già tom”

Vần om là một vần tối. Với Hồ Xuân Hương, bóng tối không ngoài sự cô độc, hẩm hiu, góa bụa, già nua. Xuân Hương đã cưỡng lại bằng một tinh thần mãnh liệt. Tưởng chừng đằng sau vần om (tom) đầy bóng tối đó là một nụ cười, trẻ trung, tinh nghịch, thách đố lại với định mệnh oan nghiệt.

Ba bài thơ “Tự tình” của Hồ Xuân Hương đều hay, mỗi bài hay một vẻ. Bài Tự tình (I), trong khuôn khổ chật hẹp của thơ Đường, lại gieo vần hóc hiểm vậy mà nữ sĩ họ Hồ vẫn hồn nhiên bộc bạch tình cảm chân thành, nồng nhiệt. Lời thơ Nôm thuần Việt, không điển cố, ngoại cảnh và nội tâm hòa quyện trong hình ảnh và nhạc điệu. Ấn tượng sâu đậm của Tự tình (I) là bài thơ đã thể hiện được bản lĩnh của Hồ Xuân Hương, một người phụ nữ tài hoa có sức sống mãnh liệt không chịu khuất phục trước số phận hẩm hiu, nghiệt ngã. Giá trị nhân văn của bài thơ thật là cao cả!

Phân tích Tự tình 1 bài số 2:

Thi sĩ Xuân Diệu vinh danh nữ sĩ Hồ Xuân Hương là "Bà chúa thơ Nôm". Nữ sĩ để lại khoảng 50 bài thơ Nôm theo thể thất ngôn tứ tuyệt hoặc thất ngôn bát cú Đường luật.

Chùm thơ "Tự tình" gồm có 3 bài, đây là bài thứ nhất:

"Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom...

...Tài tử văn nhân ai đó tá?

Thân này đâu đã chịu già tom!"

Mở đầu bài thơ, hai câu đề gợi ra một không gian bao la, mờ mịt từ bom thuyền ở nơi dòng sông đến khắp mọi chòm xóm, thôn làng. Người phụ nữ thao thức suốt những canh dài. Tiếng gà gáy "văng vẳng" trên bom thuyền từ xa đưa tới. Đêm dài chuyển canh, mịt mùng vắng lặng mới nghe thấy tiếng gà gáy "văng vẳng" như thế. Nghệ thuật lấy động (tiếng gà gáy) để diễn tả cái tĩnh lặng vắng vẻ của đêm dài nơi làng quê đã góp phần làm nổi bật tâm trạng "oán hận" của người phụ nữ thao thức suốt những canh trường. Nàng ngồi dậy, lắng tai nghe tiếng gà gáy sang canh, rồi "trông ra" màn đêm mịt mùng. Màn đêm như bủa vây người phụ nữ trong nỗi buồn cô đơn, oán hận:

"Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom,

Oán hận trông xa khắp mọi chèm".

Hai câu 3, 4 trong phần thực, tác giả tạo ra hai hình ảnh "mõ thảm" và "chuông sầu" đối nhau, hô ứng nhau, cực tả nỗi đau khổ, sầu tủi của riêng mình đang sống trong cảnh ngộ quá lứa 15 thì, trắc trở trong tình duyên. Vần thơ đầy ám ảnh. Phủ định để khẳng định tiếng "cốc" của "mổ thảm", tiếng "om" của "chuông sầu". Nữ sĩ đã và đang trải qua những đêm dài thao thức và cô đơn, đau cho nỗi đau của đời mình cô đơn như "mõ thảm", chẳng ai khua "mà cũng cốc"; tủi cho nỗi tủi của riêng mình lẻ bóng chăn đơn như "chuông sầu" chẳng đánh "cớ sao om". Nỗi oán hận, đau buồn sầu tủi như thấm vào đáy dạ, tê tái xót xa, như đang toả rộng trong không gian "khắp mọi chòm", như kéo dài theo thời gian của những đêm dài. "Om" là tiếng tượng thanh, tiếng chuông sầu, cũng là gợi tả nỗi thảm sầu tê tái, đau đớn đến cực độ. Câu hỏi tu từ đã làm cho giọng thơ thảm thiết, xoáy sâu vào lòng người như một lời than, như một tiếng thở dài tự thương mình trong nỗi buồn ngao ngán:

"Mớ thảm không khua mà cũng cốc y,

Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om?"

Có biết thời con gái, Hồ Xuân Hương đã có những vần thơ tươi xinh, phơi phới như "Thân em vừa trắng lại vừa tròn" (Bánh trôi nước), "Hai hàng chân ngọc duỗi song song" (Đánh đu),... ta mới thấy hết nỗi thảm sầu về bi kịch cô đơn của nữ sĩ được diễn tả tê tái trong hai câu trong phần thực này.

Lời than tự tình trong cô đơn được khơi sâu trong phần luận, để mà "rầu rĩ' thêm, giận hờn thêm cho duyên phận hẩm hiu:

"Trước nghe" đối với "sau giận", "tiếng" hô ứng với "duyên"; "rầu rĩ" là tâm trạng đối với "mõm mòm" là trạng thái. "Trước nghe nhưng tiếng...", là những tiếng gì? - Tiếng của miệng thế gian? Hay tiếng gà văng vẳng gáy, tiếng "chuông sầu", tiếng "mõ thảm" đang "cốc", đang "om" trong lòng mình? Giữa canh khuya thao thức, càng nghe càng thêm "rầu rĩ", buồn tủi. Giữa lúc tàn canh thao thức, càng nghe càng "giận", càng hờn về tình duyên bẽ bàng. Tình duyên của mình được ví với trái cây, không còn "má hây hây gió" (Xuân Diệu) nữa mà đã chín "mõm mòm", nghĩa là quá chín, đã nẫu đi! Duyên "mõm mòm" là duyên phận hẩm hiu, quá lứa lỡ thì! Trong câu thơ như có nhiều lệ, nhiều tiếng thở dài, vừa than thân trách phận, vừa buồn tủi về con đường tình duyên. Tiếng thơ tự tình của Hồ Xuân Hương là lời than tự thương mình, đồng thời thương cho những người đàn bà cùng cảnh ngộ đã luống tuổi mà vẫn cô đơn lẻ bóng: "Giật mình mình lại thương mình xót xa" (Truyện Kiều).

Phần kết xuất hiện một tứ thơ rất lạ. Như một sự thách đố với số phận, với duyên số. Nữ sĩ vẫn "bướng bỉnh" trước bi kịch cô đơn của mình khi "duyên để mõm mòm" rồi:

"Tài tử văn nhân ai đó tá?

Thân này đâu đã chịu già tom!"

Vừa nghi vấn, vừa cảm thán, hai câu kết đầy nghịch lí. Nữ sĩ như vẫn còn tin vào tài năng của mình có thể làm xoay chuyển được duyên phận, vẫn hi vọng tìm được bạn đời trăm năm trong đám tài tử văn nhân. Câu 6 nữ sĩ viết: "Sau giận vì duyên để mõm mòm", câu 8 bà lại viết: "Thân này đâu đã chịu già tom!". "Già tom" nghĩa là rất già, già hẳn, khô quắt đi! Đó là một cách "nói cứng" thể hiện một thái độ "bướng bỉnh", một bản lĩnh cứng cỏi trước ngang trái cuộc đời. Đọc chùm thơ "Tự tình" cũng như tìm hiểu cuộc đời của nữ sĩ, về mặt tình duyên, ta thấy hạnh phúc tình yêu chưa một lần mỉm cười với Xuân Hương. Bài thơ "Cảm cựu kiêm trình cần chánh học sĩ Nguyễn Hầu" (Nhớ người cũ, viết gửi Cần chánh học sĩ Nguyễn Du - tước hầu) như một bóng quang âm soi tỏ một "mảnh tình riêng" của "Bà chúa thơ Nôm", giúp ta cảm nhận bài thơ "Tự tình" này:

"Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung,

Mượn ai tới đấy gửi cho cùng.

Chữ tình chốc đã ba năm vẹn,

Giấc mộng rồi ra nửa khắc không.

Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập,

Phấn son cùng tủi phận long đong.

Biết còn mảy chút sương sều mấy,

Lâu nguyệt năm canh chiếc bóng chong".

Bài thơ "Tự tình" gieo vần "om", năm vần thơ, vần nào cũng hóc hiểm, tài tình: "bom - chòm - om - mòm - tom". Những vần thơ hóc hiểm ấy, một mặt thể hiện bút pháp điêu luyện, mặt khác đã tạo nên nhạc điệu, âm điệu như thắt, như nén lại cái "oán", cái "hận", cái "ngang bướng" của một tâm trạng - một cá tính rất Xuân Hương. Duyên số và hạnh phúc tình yêu của người phụ nữ là nội dung đầy ám ảnh đối với mỗi chúng ta khi đọc bài thơ "Tự tình" này của Xuân Hương. "Tự tình" là tiếng than thân trách phận cho nỗi buồn cô đơn, về bi kịch tình yêu, là niềm khao khát hạnh phúc của người phụ nữ. Vì lẽ đó, "Tự tình" mang giá trị nhân bản sâu sắc.

>> Xem thêmPhân tích hình ảnh người phụ nữ trong Tự tình 2

Phân tích Tự tình 1 bài số 3
:

Thật không thể sai một chút nào khi sĩ Xuân Diệu đã vinh danh nữ sĩ Hồ Xuân Hương chính là "Bà chúa thơ Nôm”. Và trong những sáng tác “nhớ mặt đặt tên” của nữ sĩ thì thật sự cũng có rất nhiều sáng tác như “Bánh trôi nước” và bộ trong ba bài thơ “Tự tình” đặc sắc của Hồ Xuân Hương. Dường như bài thơ đầu tiên trong chùm bài thơ “Tự tình” cũng như đã có được cho mình một dấu ấn riêng trong lòng độc giả. Mở đầu với những câu thơ như:

"Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom…

…Tài tử văn nhân ai đó tá?

Thân này đâu đã chịu già tom!"

Dễ dàng có thể nhận thấy được cũng chính với hai câu đề gợi ra một không gian bao la, đồng thời đây cũng như đã mở ra được một không gian như cũng thật là mờ mịt. Dễ nhận thấy được rằng, cũng chính từ bom thuyền ở nơi dòng sông đến khắp mọi chòm xóm, cho đến thôn làng. Ta dường như cũng có thể thấy được chính những người phụ nữ thao thức suốt những canh dài. Thế rồi ta như cũng đã thấy được có những tiếng gà gáy "văng vẳng" trên bom thuyền từ xa đưa tới. Thế rồi ta như thấy được trong những đêm dài chuyển canh, mịt mùng vắng lặng mới nghe thấy tiếng gà gáy lại như cũng thật "văng vẳng" như thế. Hồ Xuân Hương thật tài tình khi cũng đã sử dụng thành công những nghệ thuật lấy động (tiếng gà gáy). Ta dường như cũng sẽ để diễn tả cái tĩnh lặng vắng vẻ của đêm dài nơi làng quê dường như cũng đã góp phần làm nổi bật tâm trạng "oán hận" chính cho thân phận của người phụ nữ cứ trằn trọc và như thao thức suốt những canh trường. Người phụ nữ này dường như cũng đã ngồi dậy, đồng thời cũng như lại lắng tai nghe tiếng gà gáy sang canh. Ta dường như cũng đã thấy được rằng, thế rồi "trông ra" màn đêm mịt mùng. Có thể nhận thấy được chính màn đêm như bủa vây người phụ nữ trong nỗi buồn cô đơn, oán hận biết bao nhiêu:

"Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom,

Oán hận trông xa khắp mọi chèm ".

Đặc biệt, ta như thấy được chính trong hai câu 3, 4 trong phần thực, tác giả tạo ra hai hình ảnh "mõ thảm" và đó cũng có cả "chuông sầu" đối nhau. Người đọc dường như cũng sẽ thấy được những sự hô ứng nhau, thế rồi ta dường như cũng đã thấy được những nỗi cực tả nỗi đau khổ, và như cũng thật là sầu tủi của riêng mình đang sống trong cảnh ngộ quá lứa lỡ thì. Thực sự người con gái này như cũng đã gặp những trắc trở trong tình duyên. Ta như thấy được đó cũng như đã chất chứa biết bao nhiêu những vần thơ đầy ám ảnh. Nữ sĩ như thật tài tình khi luôn luôn phủ định để khẳng định đó chính là những tiếng "cốc" của "mõ thảm", tiếng "om" của "chuông sầu". Nhân vật trữ tình như cũng đã thao thức biết bao đêm trường và luôn luôn buồn tủi cho số phận của mình như cũng thật là cô đơn biết bao nhiêu. Thế rồi trong sự cô đơn đó như được làm nổi bật lên đó chính là những tiếng “mõ thảm” kia chẳng ai khua cả mà cũng cốc. Thực sự tất cả những điều này dường như cũng đã nói lên những hồi chuông như cũng thật là xót xa biết bao nhiêu. Đặc biệt nó như cắt cứa, như cũng xoáy sâu thêm vào lòng người như chính nỗi buồn tê tái đến ngao ngán.

"Mõ thảm không khua mà cũng cốc,

Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om?"

Ai đã yêu mến thơ Hồ Xuân Hương thì cũng đã được đọc những những vần thơ tươi xinh, phơi phới biết bao nhiêu khi thời con gái đó chính là "Thân em vừa trắng lại vừa tròn" (Bánh trôi nước). Thế rồi có những câu thơ đầy hình ảnh đẹp, căng tràn nhựa sống như "Hai hàng chân ngọc duỗi song song" (Đánh đu),… và chính những điều này ta dường như cũng đã mới thấy hết nỗi thảm sầu về bi kịch cô đơn của nữ sĩ dường như cũng đã được diễn tả tê tái trong hai câu trong phần thực này.

Thực sự ta như thấy được chính những lời than tự tình trong cô đơn được khơi sâu trong phần luận, hay ở phần để mà "rầu rĩ" thêm, giận hờn thêm cho duyên phận hẩm hiu biết bao nhiêu.

Những câu "Trước nghe" đối với "sau giận", "tiếng" cũng đã thật là khéo léo hô ứng với "duyên". Thế rồi không chỉ dừng lại ở đó ta như thấy được chính sự "rầu rĩ" là tâm trạng đối với "mõm mòm" là trạng thái. Và vẫn còn đó ta dường như cũng đã nghe thấy được những câu như "Trước nghe nhưng tiếng..." dường như cũng đã là những tiếng gì? - Tiếng của miệng thế gian? Hay cũng có thể tiếng gà văng vẳng gáy, thế rồi ta như thấy được lại có những tiếng "chuông sầu", tiếng "mõ thảm" đang "cốc". Tất cả dường như cũng đang "om" trong lòng mình? Thế rồi giờ đây ta như thấy được chính giữa canh khuya thao thức, càng nghe càng thêm "rầu rĩ", buồn tủi. Đặc biệt hơn ta như thấy được những lúc tàn canh thao thức, càng nghe càng "giận", và đồng thời ta như thấy được rằng khi chúng ta dường như lại càng cảm thấy được tâm trạng trữ tình cứ càng hờn về tình duyên bẽ bàng. Trong câu thơ như chất chứa những giọt lệ và ta dường như cũng thấy được ở đó luôn luôn là một trái tim luôn luôn khao khát yêu.

Độc giả có thể thấy được rằng, chính với những kết xuất hiện một tứ thơ rất lạ. Điều này dường như cũng chính là một sự thách đố với số phận, với duyên số. Thế rồi ta như thấy được nữ sĩ dường như vẫn cứ "bướng bỉnh" trước bi kịch cô đơn của mình khi "duyên để mõm mòm" rồi bật ra những câu thơ như thật tếu táo và cũng đầy thách thức:

"Tài tử văn nhân ai đó tá?

Thân này đâu đã chịu già tom!"

Với những vần thơ như đầy sự nghi vấn đồng thời nó dường như cũng đầy sự cảm thán biết bao nhiêu nghịch lý trong này. Thực sự thì nữ thi sĩ dường như cũng vẫn còn như đang tin vào tài năng của chính bản thân mình và tin vào việc bà cũng có thể làm xoay chuyển được duyên phận.

Quả thực ta như thấy được chính bài thơ "Tự tình" khi đã được gieo vần "om", năm vần thơ của nữ sĩ người đọc cũng có thể thấy được rằng, chính những vần thơ nào mà nữ sĩ viết ra dường như đều mang được những sự đầy hóc hiểm bằng chính những bút pháp thật điêu luyện xong cũng chất chứa biết bao những nỗi niềm. “Tự tình” chính là nỗi khao khát làm sao để có thể nói lên được những tiếng than thân trách phận về những bi kịch của sự cô đơn nên đã nhận được sự đồng điệu của tất cả mọi người đặc biệt là đối với người phụ nữ cùng hoàn cảnh. “Tự tình” như một bài thơ thủ thỉ tâm tình về chính thân phận hẩm hiu của những người phụ nữ với nhau.

-/-

Trên đây là một số gợi ý và #3 bài văn mẫu phân tích Tự tình I của Hồ Xuân Hương do Đọc Tài Liệu sưu tầm và tổng hợp. Các em có thể đọc và tham khảo những ý văn hay để áp dụng vào bài văn của mình một cách phù hợp và sáng tạo. Chúc các em làm bài tốt và đạt kết quả cao!

Bạn còn vấn đề gì băn khoăn?
Vui lòng cung cấp thêm thông tin để chúng tôi giúp bạn
Hủy

TẢI VỀ

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM