Tài liệu gợi ý làm bài văn phân tích Vội vàng của Xuân Diệu để làm sáng tỏ ý kiến của Hoài Thanh khi nhận xét "Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới". Tài liệu bao gồm dàn ý phân tích Vội vàng kèm theo những bài văn mẫu hay do Đọc tài liệu tuyển chọn từ nhiều nguồn khác nhau giúp em có cái nhìn phong phú hơn về bài thơ cũng như về phong cách thơ Xuân Diệu.
Hướng dẫn phân tích bài thơ Vội vàng
1. Tìm hiểu đề và tìm ý bài văn phân tích Vội vàng
- Yêu cầu về nội dung: phân tích nội dung, nghệ thuật bài thơ Vội vàng để làm sáng tỏ ý kiến của Hoài Thanh.
- Phạm vi tư liệu dẫn chứng: các câu thơ, từ ngữ, chi tiết tiêu biểu trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu.
- Phương pháp lập luận chính: phân tích, chứng minh.
2. Luận điểm phân tích Vội vàng
- Luận điểm 1: Tình yêu thiên nhiên tha thiết và niềm say mê của tác giả
- Luận điểm 2: Nỗi băn khoăn trước thời gian và cuộc đời.
- Luận điểm 3: Khát vọng sống cuồng nhiệt của tác giả
3. Sơ đồ tư duy phân tích Vội vàng
Để giúp các em hình dung rõ hơn những nội dung cần có trong bài phân tích Vội vàng của Xuân Diệu, Đọc tài liệu đã tổng hợp các ý cơ bản của bài phân tích dưới dạng sơ đồ tư duy như hình bên dưới giúp các em ghi nhớ dễ dàng hơn mà không bỏ sót ý.
Ghi nhớ thật dễ dàng các ý cơ bản khi làm bài với hệ thống sơ đồ tư duy Vội vàng chi tiết theo từng dạng đề.
4. Kiến thức cơ bản về tác giả, tác phẩm Vội vàng
Một số thông tin cơ bản và mở rộng liên quan đến tác phẩm mà các em sẽ cần đến trong quá trình làm bài để bài phân tích Vội vàng của mình hay và ấn tượng hơn:
Tác giả Xuân Diệu
- Xuân Diệu (1916 - 1985) là thành viên của Tự Lực văn đoàn và cũng đã là một trong những chủ soái của phong trào "Thơ Mới", nổi tiếng với những tác phẩm văn chương đầy tinh tế và tình cảm.
- Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới, là cây bút có sức sáng tạo mãnh liệt, dồi dào, bền bỉ, có đóng góp to lớn trên nhiều lĩnh vực đối với nền văn học Việt Nam hiện đại.
- Xuân Diệu viết nhiều, có khoảng 450 bài thơ, nhưng một số lớn chưa được xuất bản.
- Các tác phẩm tiêu biểu: tập thơ Thơ thơ (1938), Gửi hương cho gió (1945), Ngọn quốc kỳ (1945), Một khối hồng (1964), Thanh ca (1982), Tuyển tập Xuân Diệu (1983), truyện ngắn Phấn thông vàng (1939),... và nhiều bút ký, tiểu luận, phê bình văn học.
Tác phẩm Vội vàng
- Xuất xứ: Bài thơ Vội vàng được rút từ trong tập Thơ thơ (1938) - tập thơ đầu tay và cũng là tập thơ khẳng định vị trí của Xuân Diệu - “Nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”.
- Ý nghĩa nhan đề: "Vội vàng" là tính từ chỉ sự nhanh chóng, gấp gáp trong một hành động nào đó. Nhan đề Vội vàng bộc lộ quan niệm sống của Xuân Diệu đề cao sự vội vàng trong cách sống, thái độ sống.
Một số nhận định về tác giả Xuân Diệu và bài thơ Vội Vàng
“Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian, ông đã không trốn tránh mà còn quyến luyến cõi đời”.
(Thế Lữ)
"Đây là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Nhưng đằng sau những tình cảm ấy, có một quan niệm nhân sinh mới chưa thấy trong thơ ca truyền thống".
(GS Nguyễn Đăng Mạnh)
"Có thể nói, nồng nàn và trẻ trung là hai phẩm chất, đồng thời cũng là hai giọng điệu chính trong thơ Xuân Diệu…Trong số đó, Vội vàng là một trong những thi phẩm thuộc loại tiêu biểu nhất cho giọng điệu nồng nàn của Xuân Diệu".
(Nguyễn Đăng Điệp)
"Xuân Diệu đã mang đến cho thơ ca dân tộc một cách nhìn mới, một bút pháp mới, một cảm xúc mới".
(Lê Tiến Dũng)
Lập dàn ý phân tích bài thơ Vội vàng
Dàn ý phân tích cơ bản
1. Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
+ Xuân Diệu (1916 - 1985) được mệnh danh là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”, là “ông hoàng của thơ tình yêu Việt Nam”.
+ "Vội vàng" là bài thơ tiêu biểu của Xuân Diệu trước cách mạng rút trong tập “Thơ Thơ” (1938).
2. Thân bài
a) Cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu
- Cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu gắn liền với mùa xuân của thiên nhiên và tuổi trẻ của con người. Đó là cảm nhận của một con người yêu cuộc sống say đắm, thiết tha đến mức phải vội vàng.
- Thời gian và mùa xuân:
+ Xuân Diệu cảm nhận về thời gian hết sức tinh tế và đầy triết lí nhân sinh. Ông viết bài thơ này khi còn rất trẻ, đó là cái tuổi của sự sống mơn mởn, của việc hưởng thụ sự sống, ít ai có thể nghĩ đến một triết lí sâu xa như ông.
+ Mỗi khắc thời gian trôi qua đối với Xuân Diệu chính là niềm lo sợ, canh cánh trong lòng.
+ Cú pháp đối lập được tác giả sử dụng để diễn tả sự trôi đi của thời gian và tuổi trẻ: đương tới / đương qua; còn non / sẽ già.
=> Sự cảm nhận về thời gian đó đã giúp tác giả rút ra kết luận về sự đồng nhất giữa mùa xuân và tuổi trẻ của chính mình cũng như của tất cả mọi người:
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
+ Mùa xuân trôi đi thì tuổi trẻ cũng phai tàn và khi xuân không còn thì đời người cũng hết.
+ Sự tàn phai của thời gian đã được Xuân Diệu cảm nhận và khái quát thành một triết lí nhân sinh.
-> Xuân Diệu chắc hẳn phải là người có ham muốn sống tột bậc mới có thể cảm nhận một cách cao sâu về thời gian như vậy.
=> Trong Xuân Diệu hẳn đã chứa chất bi kịch của nhà thơ lãng mạn trong thân phận một thi nhân mất nước lúc bấy giờ, cũng có thể Xuân Diệu quá yêu cuộc sống nồng nhiệt đến mức sợ thời gian cướp mất tuổi xuân. Có nhiều cách giải thích khác nhau, tuy nhiên dễ nhận thấy một điều là cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu bắt nguồn từ chính lòng yêu đời, yêu cuộc sống của ông.
- Thời gian và tuổi trẻ:
+ Mùa xuân chính là tuổi trẻ của đời người, tuổi trẻ của tác giả.
+ Thời gian làm mùa xuân trôi qua cũng chính là cướp đi tuổi trẻ của tác giả. Đó chính là sự lo lắng và xót xa của con người vốn rất yêu cuộc sống, yêu cái tuổi trẻ đầy sức sống của mình.
+ Những câu thơ đầy triết lí sau đây đã bộc bạch tâm trạng lo lắng đó của tác giả:
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!
+ Một quan niệm sâu sắc hiện lên qua câu thơ tưởng chừng như lời than vãn: cuộc đời làm sao có hai lần tuổi trẻ, khi thời gian trôi qua thì tuổi trẻ có còn? Một sự so sánh không hề khập khiễng để thấy rằng cuộc đời con người luôn có giới hạn, nhất là cái tuổi trẻ thật đẹp nếu so với mùa xuân của trời đất.
+ Xuân Diệu quan niệm coi tuổi trẻ là cái quý nhất của cuộc đời con người, là khoảng thời gian đẹp nhất và hạnh phúc nhất. Vậy nên, điều nhà thơ lo lắng và tiếc nuối nhất đó là tuổi trẻ trôi qua: Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.
=> Qua những cảm nhận về thời gian của tác giả, ta thấy được niềm khát khao sống, khát khao hạnh phúc của một con người vốn có nhiều khát khao. Niềm khát khao ấy thể hiện qua ước muốn níu kéo thời gian để giữ mãi tuổi thanh xuân, giữ mãi mùa xuân của đời người, để con người mãi sống trong tuổi trẻ, trong mùa xuân của cuộc đời.
b) Cảm nhận về thiên nhiên và sự sống của Xuân Diệu
- Xuân Diệu đã giãi bày cái ước muốn tưởng như ngông cuồng của mình bằng một bức tranh tràn đầy sức sống, ngồn ngộn sắc xuân, hương xuân và tình xuân.
- Có đủ ong, bướm, hoa lá, yến anh và cả ánh bình minh rực rỡ trong bức tranh thiên nhiên ấy, tất cả đều đang ở thời kì sung mãn nhất, sức sống căng đầy nhất.
+ tuần tháng mật của ong bướm
+ hoa của đồng nội xanh rì
+ lá của cành tơ phơ phất
+ khúc tình si của yến anh
+ hàng mi chớp ánh bình minh của mặt trời...
=> Tất cả hiện hữu có đôi lứa có tình như mời, như gọi, như xoắn xuýt.
- Thi sĩ đã đón chào và chiêm ngưỡng cuộc sống, thiên nhiên bằng cặp mắt xanh non của tuổi trẻ, cái nhìn vừa ngỡ ngàng, vừa đắm say ngây ngất.
- Điệp khúc "Này đây" cùng với phép liệt kê theo chiều tăng tiến, các từ láy, từ ghép và các cụm từ "tuần tháng mật", "khúc tình si" hòa vào nhịp thơ gấp gáp, khẩn trương vừa diễn tả cảm giác sung sướng, ngây ngất, vừa có gì như là sự gấp gáp, hối thúc, giục giã khiến cho ai đó dù vô tình cũng không thể làm thơ, không thể quay lưng.
- Khắc họa bức tranh thiên nhiên trong bài thơ, tác giả muốn nhấn mạnh rằng cuộc sống là thiên đường trên mặt đất, hãy tận hưởng và tận hưởng.
- Nhà thơ như say khi thốt lên: Tháng giêng ngon như một cặp môi gần. => Câu thơ có ý nghĩa bao quát cả đoạn với lối diễn đạt độc đáo mới lạ.
- Với Xuân Diệu, cuộc đời đẹp nhất là tuổi trẻ, cũng như một năm đẹp nhất là mùa xuân và mùa xuân đẹp nhất là tháng Giêng, cái đẹp nằm ở sự bắt đầu, tinh khôi, mới mẻ, hồng hào, mơn mởn...
- Nhà thơ đã vật chất hóa khái niệm thời gian bằng cặp môi gần, truyền cảm giác cho người đọc bằng các từ "ngon", "gần".
=> Câu thơ của Xuân Diệu không chỉ gợi hình thể mà còn gợi cả hương thơm và vị ngọt khiến người ta đắm say, ngây ngất.
c) Quan niệm sống mới mẻ của Xuân Diệu
- Yêu cuộc sống trần thế xung quanh và tìm thấy trong đó biết bao điều hấp dẫn, đáng sống, biết tận hưởng những gì mà cuộc sống ban tặng.
- Từ đó, càng thêm yêu mùa xuân và tuổi trẻ, những gì đẹp nhất của cuộc sống con người.
=> Quan niệm sống rất người, mang ý nghĩa tích cực và có giá trị nhân văn sâu sắc.
d) Đặc sắc nghệ thuật
- Hình ảnh tươi mới, đầy sức sống như sự sống mơn mởn; mây đưa và gió lượn; cánh bướm với tình yêu, cái hôn nhiều; non, nước, cỏ cây; mùi thơm, ánh sáng, hương sắc: xuân nồng.
- Ngôn từ với những động từ mạnh và tăng tiến như ôm, riết, say, thâu, chếnh choáng, đã đầy, no nê, cắn.
- Thủ pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác giúp cảm nhận mùa xuân, cái đẹp của thiên nhiên đất trời bằng tất cả các giác quan.
- Nhịp điệu dồn dập, hối hả, sôi nổi và cuồng nhiệt được tạo nên bởi những câu thơ dài ngắn xen kẽ.
- Cách liên tưởng, so sánh mới lạ với những hình ảnh thơ độc đáo, giàu sức gợi cảm, gợi hình.
- Hình ảnh nhân hóa, biện pháp điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc tạo ra nhịp điệu cuống quít, hối hả, rộn rã...
3. Kết bài
- Khái quát lại giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ
- Nêu cảm nhận của em về bài thơ: Bài thơ Vội vàng thể hiện niềm say mê, yêu thương cái đẹp của tác giả, đồng thời thể hiện sự hi vọng niềm tin yêu vào cuộc sống hiện tại.
Dàn ý phân tích Vội vàng chứng minh nhận định
1. Mở bài
- Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm:
+ Xuân Diệu (1916 - 1985) là một trong những nhà thơ lớn của Việt Nam, được mệnh danh là "ông hoàng thơ tình" nổi tiếng với nhiều tác phẩm đặc sắc viết về tình yêu.
+ "Vội vàng" là một trong những tác phẩm đặc sắc và nổi tiếng của Xuân Diệu, là tiếng nói con tim của một kẻ đang say mê trong tình yêu với những cung bậc cảm xúc khác nhau.
- Dẫn dắt vấn đề và trích dẫn nhận định của Hoài Thanh: "Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới".
2. Thân bài: Phân tích bài thơ Vội vàng để chứng minh nhận định
a) Giải thích ý kiến nhận định
- Xuân Diệu là nhà thơ “mới nhất” do thơ ông tiếp thu có sáng tạo luồng tư tưởng, văn học văn hóa phương Tây, nhất là văn học lãng mạn và tượng trưng của thơ ca Pháp.
- Thơ ông có phong cách nghệ thuật hiện đại rõ nét nhất trong các nhà thơ mới.
b) Phân tích bài thơ Vội vàng
- Luận điểm 1: Tình yêu thiên nhiên tha thiết và niềm say mê của tác giả
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt nữa
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
+ Điệp từ "tôi muốn" nhấn mạnh những ước muốn tưởng chừng như vô lí, viển vông của Xuân Diệu: "tắt nắng đi", "buộc gió lại" -> Ước muốn giữ lại hương sắc cho cuộc đời.
=> Xuân Diệu muốn cưỡng lại quy luật của tự nhiên, những vận động của đất trời để lưu giữ những vẻ đẹp tự nhiên của đất trời bên mình một cách trọn vẹn, mãi mãi.
+ “thiên đường trên mặt đất”: bức tranh thiên nhiên
+ “ong bướm tuần tháng mật”, “hoa của đồng nội xanh rì”, “yến anh khúc tình si”, “ánh sáng chớp hàng mi” -> Hình ảnh thơ tươi vui, trẻ trung, có đôi có cặp, tất cả như đang tràn trề ra
+ Điệp từ “này đây” bộc lộ niềm vui phơi phới, hân hoan của tác giả khi được đắm say trong khung cảnh tuyệt vời.
=> Một bức tranh thiên nhiên đầy ánh sáng mới mẻ, tinh khôi, đầy âm thanh rộn rã, đầy màu sắc, hương thơm và đầy tình tứ.
+ "Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần".
-> Trong bức tranh ấy, tất cả vạn vật dường như đều căng tràn sự sống và đanh chếnh choáng trong men say của luyến ái, của tình yêu.
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
-> Niềm vui sướng, hân hoan, vội vàng muốn tận hưởng “thiên đường trên mặt đất” của cái tôi trữ tình.
- Luận điểm 2: Nỗi băn khoăn trước thời gian và cuộc đời.
Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
+ Điệp từ “nghĩa là”
+ "đương tới / đương qua; còn non / sẽ già": cú pháp đối lập diễn tả sự trôi đi của thời gian và tuổi trẻ.
-> Quan niệm về thời gian, tuổi trẻ: thời gian, tuổi trẻ của mỗi người là một quãng thời gian hữu hạn, chật hẹp, nó sẽ trôi chảy theo nhịp tuyến tính và một đi không trở lại.
=> Xuân Diệu có một quan niệm mới mẻ về thời gian, về tuổi trẻ.
+ Điệp từ: "phải chăng"
+ Hình ảnh thơ đối lập: “lòng tôi rộng” - “lượng trời chật”, “xuân tuần hoàn” - “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”, “còn trời đất” - “chẳng còn tôi mãi”
-> Tâm trạng nuối tiếc, ngậm ngùi trước sự chảy trôi của thời gian, của tuổi trẻ.
- Luận điểm 3: Khát vọng sống cuồng nhiệt của tác giả.
+ Điệp từ “ta muốn” -> nỗi khát khao cháy bỏng, muốn sống, muốn yêu, muốn đi ngược với tự nhiên và tạo hóa để đoạt lấy tuổi trẻ.
+ “ôm” - “riết” - “say” - “thâu” - “cắn” -> động từ mạnh theo cấp độ tăng dần.
-> Diễn tả một cách trọn vẹn và sâu sắc lời giục giã sống vội vàng, sống sôi nổi và luôn trân quý thời gian, tuổi trẻ của của tác giả.
=> Biểu hiện của một cái tôi khát khao sống, khát khao tận hưởng những vẻ đẹp giữa chốn trần gian.
+ "Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi"
=> Khát khao đã không còn là khát khao nữa mà là muốn chiếm đoạt, muốn giữ lấy cho riêng mình mùa xuân của tuổi trẻ.
c) Chứng minh nhận định:
- Về nội dung tư tưởng:
- Thơ ông là tiếng nói cá nhân tự ý thức. Cái tôi trong thơ ông rất cô đơn, luôn ám ảnh bởi thời gian trôi chảy nên khao khát giao cảm với đời. Một trong những cách giao cảm với đời đó là tình yêu, nên đặc sản của thơ Xuân Diệu là tình yêu, bởi tình yêu là một nhịp cầu giao cảm tuyệt vời nhất. Và một cách giao cảm khác đó là cái tôi của ông tương ứng, vang hưởng cùng với sự tương ứng, vang hưởng với mọi hiện tượng sự vật trong trời đất và con người trong cuộc sống.
- Tình yêu theo quan niệm của Xuân Diệu là sự giao hòa, giao cảm giữa thể xác và linh hồn của hai cá thể. Vì thế vũ trụ trong thơ ông là vũ trụ xuân và tình. Thơ ông không lơ lửng ở trên không mà đặt nền móng rất vững, rất sâu trên mảnh đất trần gian.
- Trong thơ, ông cũng thể hiện tư tưởng nhân sinh mới mẻ, tạo một bước phát triển hơn về tư tưởng nhân văn trong văn học dân tộc. Tư tưởng đó là: Ý nghĩa và giá trị một đời người không ở chỗ sống dài hay sống ngắn mà ở chất lượng sống mà chất lượng sống cao nhất là tuổi trẻ và tình yêu là phẩm chất, năng lượng của tuổi trẻ.
- Về nghệ thuật:
Với Xuân Diệu, làm thơ là thả một chiếc lá thơ vào dòng thời gian để bất tử hóa chính mình, vì thơ là năng lực siêu việt thời gian. Thơ là sản xuất cá thể với cảm xúc mới nên “ý văn xô đẩy, khuôn khổ câu văn phải lung lay” (Hoài Thanh).
- Thiên nhiên trong thơ ông bao giờ cũng được cảm nhận bằng ánh mắt phong tình ái ân. Thiên nhiên được tái tạo bằng bút pháp mĩ nhân hóa.
- Ông hoạt động cả 5 giác quan để khám phá và miêu tả sự vật bằng tất cả những biến thái tinh vi nhất.
- Cách đặt câu, dùng câu trong thơ ông rất mới, rất Tây.
3. Kết bài
- Khẳng định giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ.
- Khẳng định sự đúng đắn của nhận định, bày tỏ cảm xúc cá nhân.
TOP 15+ bài văn hay phân tích bài thơ Vội vàng - Xuân Diệu
Phân tích Vội vàng mẫu số 1
“Sống toàn tâm, toàn chí, sống toàn hồn
Sống toàn thân và thức nhọn giác quan“
Thời gian như dòng chảy không ngừng nghỉ. Thứ mà chúng ta đang có cũng là thứ mà chúng ta đang mất, trong hiện tại đã có quá khứ và hé mở tương lai. Nuối tiếc thời gian tuổi trẻ cũng chính là quý trọng thời gian của cuộc đời. Sự nuối tiếc đó khởi nguồn từ tình yêu cuộc sống cuồng nhiệt, là niềm khao khát được sống, được cảm nhận những gì tinh túy nhất trên đời để trân trọng. Trần gian rất đẹp, tôi muốn giữ lấy nó nhưng quy luật của thời gian của tạo hóa không để cho tuổi trẻ vĩnh hằng vậy nên làm sao tôi có thể cưỡng lại được quy luật của tự nhiên. Và đến với “Vội vàng“ - Xuân Diệu ta bắt gặp ngay một quan niệm nhân sinh - vũ trụ mới mẻ của tác giả nói riêng và cũng là của cả một phong trào thơ văn trước cách mạng nói chung.
Là nhà thơ lãng mạn, Xuân Diệu có nhiều hoài bão, ước mơ, lại là một nhà thơ luôn yêu đời, ham sống đến cuồng nhiệt. Nhưng trong cuộc đời cũ trước cách mạng tháng Tám, những điều đó thật khó đạt được đối với một thế hệ thi nhân mất nước như Xuân Diệu. Ông luôn có cảm giác lo sợ, thấy cuộc đời ngắn ngủi, tuổi xuân và tuổi trẻ vô tình lướt qua như một cơn gió nên phải “vội vàng“ để tận hưởng cuộc đời ấy.
“Vội vàng’’ một cách cuống quýt, gấp gáp nhưng không hề trong vô thức, nó hoàn toàn nằm trong tiềm thức của tác giả. Ở một nơi nào đó nếu bạn muốn mình giàu có, hãy tính tất cả những điều bạn đang có mà tiền bạc cũng chẳng thể mua được. Và một trong những điều đó chính là thời gian . Ở bài thơ cũng vậy, tác giả luôn muốn thời gian dừng lại ở những khoảnh khắc đắm say, tươi đẹp nhất để có thể đằm mình vào cảm nhận thêm chút nữa. Xuân Diệu yêu đời và ham sống, ông ý thức rất rõ về sự tồn tại có giới hạn của đời người trước thời gian “một đi không trở lại” nên ông muốn để thời gian trôi chảy, tuổi trẻ cứ tàn phai theo tháng năm. Trước Cách mạng, Xuân Diệu đã hơn một lần tâm sự: “Tôi sợ mất sự sống của tôi, tôi không muốn nó rớt chảy trôi theo dòng ngày tháng” (Lời đưa duyên - 1945).
Mở đầu bài thơ, thi sĩ muốn tắt nắng buộc gió,… mà lí do của hành động ấy là để cho hương sắc của cuộc đời đừng nhạt phai, đừng chảy trôi theo dòng ngày tháng:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại,
Cho hương đừng bay đi”
Bằng sự độc đáo, sắc riêng của Xuân Diệu đã được thể hiện ngay từ bốn câu đầu với thể thơ ngũ ngôn. Thể thơ ấy phải chăng quá phù hợp với việc thể hiện cảm xúc vồ vập của tác giả bởi những câu thơ ngắn giàu nhịp điệu. Điệp ngữ “tôi muốn” được nhắc lại hai lần cùng với đó là động từ mạnh ”tắt, buộc” đã thể hiện rõ khát vọng của nhà thơ. Phải là người yêu thiên nhiên, yêu tất cả những điều đơn sơ mà bình dị thì mới có thể đằm mình vào sắc vàng của nắng, hương sắc ngọt ngào và ý vị cho đời. Đó là khát vọng chiếm đoạt quyền năng của tạo hóa để buộc hương hoa thắm tươi mãi bên đời, bên người. Ngông cuồng hơn là Xuân Diệu muốn vũ trụ ngừng quay, thời gian ngừng trôi để thi nhân không ngừng tận hưởng những phút giây tuổi trẻ của đời mình bởi vì đơn giản tuổi trẻ chẳng chờ ai. Cứ nhẹ nhàng nhưng lại mãnh liệt, cứ phiêu đến si mê, ngây ngất trước bức tranh rực xuân tình, xuân sắc với cuộc sống ngọt ngào dậy men tình của con người. Đó là cuộc sống trần gian quanh ta với những điều đáng yêu đến vô cùng mà con người ta vội vàng bước qua trong sự vô tình còn tác giả thì không, ông thả hồn mình trang trải khắp muôn nơi gieo rắc lên những trái ngọt hoa thơm vào lòng độc giả những điều tưởng như biết nhưng rồi hóa hư không. Ông ngông cuồng nhưng cái ngông của vạn sự đẹp đẽ trên đời.
Nếu như thời ấy Chế Lan Viên than khóc cho một đế chế “điêu tàn” trong quá khứ, còn với cuộc đời thực tại ông chỉ thấy toàn là sự khổ đau:
“Tôi có chờ đâu có đợi đâu
Đem xuân chi đến gợi thêm sầu
Với tôi tất cả như vô nghĩa
Tất cả không ngoài nỗi khổ đau”
Còn Vũ Đình Liên nuối tiếc cái đẹp xưa, những vàng son của một thời quá vãng thì bằng cảm quan thẩm mĩ tích cực và độc đáo của Xuân Diệu luôn tìm thấy cái đẹp và hạnh phúc ngay giữa cuộc đời trần thế. Trước cuộc đời, thơ Xuân Diệu luôn là “một nguồn sống rạo rực chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này”. Viết về cuộc đời về sự sống, thơ ông thường có những xúc cảm rất đặc biệt. Sự vồ vập, sung sướng trước một thế giới tươi non, đầy mật ngọt hoa thơm nhiều tình ái, ánh sáng và âm nhạc… tất cả đều cuốn hút, say mê.
Với tâm hồn khát sống, khát yêu, tận hiến, tận hưởng Xuân Diệu đã khám phá ra vẻ đẹp xuân tươi phơi phới, đầy tình tứ:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
Đó là một bức tranh thiên nhiên mùa xuân bằng một hồn thơ có “Cặp mắt non xanh biếc rờn”. Cảnh vật đang vào độ thanh tân, diễm lệ. Cảnh vật hiện lên đều có đôi có cặp: “Ong bướm - tuần tháng mật”, “Hoa đồng nội xanh rì”, “lá cành tơ”, “yến anh - khúc tình si”. “Này, đây” là những từ có chức năng định vị một không gian gần, chỉ một địa điểm, điều hiển hiện ngay trước mắt chúng ta. Hai từ ấy lại được Xuân Diệu kết hợp theo lối song trùng khiến cho yếu tố đứng sau nó được nhấn mạnh thêm. Bằng phương thức đảo ngữ và lặp đi lặp lại trong dòng thơ tạo thành một điệp khúc xôn xao, náo nức trong tâm hồn nhà thơ. Màu hoa trở nên ngát hương, ong bướm tình tứ ngọt ngào, cây cối đâm chồi nảy lộc. Điểm vào cảnh ấy là tiếng chim yến anh làm say đắm lòng người. Có những khi khát khao của tác giả lại càng trở nên cháy bỏng, tác giả muốn được như thế và hơn thế:
“Tôi kẻ đưa răng bấu mặt trời
Kẻ đựng trái tim trìu máu đất
Hai tay chín móng bám vào đời”
Xuân Diệu đã kết lại bức tranh mùa xuân bằng câu thơ đầy sức gợi tình: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần rất “ngon”, “ngọt” của những cặp đôi vào lễ tình nhân. Bởi thế mà có lẽ mùa xuân là mùa đẹp nhất trong năm, tuổi trẻ là tuổi đẹp nhất đời người. Ở đây, trong sự so sánh giữa thiên và con người, tác giả đã mang đến cho độc giả một quan niệm nghệ thuật về con người rất mới mẻ: “con người là vẻ đẹp chuẩn mực của xã hội, tinh khôi và tràn đầy nhựa sống”.
Rót vào trang văn những giọt mật thật quyến rũ, Xuân Diệu đã đưa người đọc vào từng chặng đường của hạnh phúc, vòng tay của thi nhân đang dang ra quấn quýt, níu giữ cuộc đời. Cất lên tiếng lòng giục giã hãy sống nhanh, sống gấp, sống trọn từng phút giây để tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình, “Vội vàng” đã mang tấm lòng trần gian đến một tình yêu dạt dào nhựa sống, say đắm cảnh trời, say đắm thiên nhiên, sống vội vàng, cuống quýt…
Phân tích Vội vàng mẫu số 2
Xuân Diệu là một nhà thơ lớn, một cây đại cổ thụ của văn học Việt Nam hiện đại. Ông là nhà thơ của mùa xuân, của tình yêu với giọng thơ sôi nổi, say đắm, yêu đời thắm thiết và luôn khao khát tình yêu, khát khao giao cảm. Và có thể nói, “Vội vàng” in trong tập Thơ thơ là một trong số những bài thơ xuất sắc, tiêu biểu nhất cho phong cách thơ Xuân Diệu trước cách mạng tháng Tám năm 1945.
Mở đầu bài thơ, tác giả Xuân Diệu đã thể hiện một khát vọng sống kì lạ, thậm chí là ngông nghênh:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
Chắc hẳn, khi đọc những vần thơ này, mỗi chúng ta sẽ không khỏi ngạc nhiên trước cái ước muốn, khát khao của Xuân Diệu. Bởi lẽ tắt nắng, buộc gió là điều không thể, bởi nắng và gió là những cái thuộc về tự nhiên, không nằm trong tầm kiểm soát của con người, đó là việc làm tưởng như vô ích, phi lí. Nhưng với Xuân Diệu, nó chẳng vô nghĩa chút nào, ông còn nhấn mạnh cái ước muốn ấy nữa là đằng khác bởi với ông, “tắt nắng”, “buộc gió” là để giữ lại hương sắc của cuộc đời trần thế, để “màu đừng nhạt mất”, “hương đừng bay đi”. Như vậy, bốn khổ thơ mở đầu bài thơ đã diễn tả cái ước muốn cháy bỏng, luôn thường trực trong thi sĩ.
Và để rồi, chín câu thơ tiếp theo, nhà thơ đã đi vào miêu tả bức tranh thiên nhiên - “thiên đường trên mặt đất” như một cách để lí giải cái mong muốn “tắt nắng”, “buộc gió” của mình.
Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si.
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi;
Mỗi sáng sớm, thần vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Dường như, chỉ với sáu câu thơ, tác giả đã vẽ nên một thiên đường ngay trên mặt đất. Với việc sử dụng hàng loạt các hình ảnh tràn đầy tươi trẻ, có đôi có cặp, tất cả như đang tràn trề ra “ong bướm tuần tháng mật”, “hoa của đồng nội xanh rì”, “yến anh khúc tình si”, “ánh sáng chớp hàng mi” cùng hàng loạt biện pháp tu từ nhân hóa, điệp từ “này đây” và đặc biệt là phép so sánh độc đáo, đậm chất Xuân Diệu “tháng giêng ngon như một cặp môi gần” tác giả đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên đầy ánh sáng mới mẻ, tinh khôi, đầy âm thanh rộn rã, đầy màu sắc, hương thơm và đầy tình tứ. Dường như, trong bức tranh ấy, tất cả vạn vật đều căng tràn sự sống và đang chếnh choáng trong men say của luyến ái, của tình yêu. Và dường như, cái tôi Xuân Diệu không thể kiềm chế được niềm vui sướng, hân hoan, vội vàng muốn tận hưởng tất cả của mình mà phải thốt lên rằng:
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
Nếu như trong mười ba câu thơ đầu, tác giả Xuân Diệu thể hiện niềm khao khát, tình yêu tha thiết với thiên nhiên, cuộc sống thì trong mười sáu câu thơ tiếp theo, tác giả thể hiện nỗi băn khoăn, day dứt về sự hữu hạn của đời người và sự chảy trôi một đi không trở lại của thời gian.
Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu đến nữa không phải rằng gặp lại.
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt…
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…
Có thể nói, trong mười sáu câu thơ tác giả đã sử dụng triệt để biện pháp tu từ điệp ngữ. Đó là điệp ngữ “nghĩa là” từ đó thành kiểu câu giải thích để đi sâu cắt nghĩa, lí giải, tìm ra chân lí mang tính khẳng định đầy chiêm nghiệm, để rồi, từ đó nêu lên một quan niệm hết sức mới mẻ về tuổi trẻ, về thời gian. Với Xuân Diệu, thời gian, tuổi trẻ của mỗi người là một quãng thời gian hữu hạn, chật hẹp, nó sẽ trôi chảy theo nhịp tuyến tính và một đi không trở lại. Đó là một quan niệm hết sức mới mẻ của Xuân Diệu. Thêm vào đó việc sử dụng điệp từ “phải chăng” cùng cách sử dụng hình ảnh đối lập “lòng tôi rộng” - “lượng trời chật”, “xuân tuần hoàn” - “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”, “còn trời đất” - “chẳng còn tôi mãi” đã diễn tả một cách sâu sắc tâm trạng tiếc nuối, ngậm ngùi trước sự chảy trôi của thời gian, của tuổi trẻ.
Thiên nhiên trên mặt đất thật đẹp thật tình tứ nhưng tuổi trẻ của con người có hạn, một đi không trở lại, bởi vậy nên con người phải sống vội vàng để tận hưởng hết thảy những vẻ đẹp ấy. Và bởi vậy, mười câu thơ kết thúc bài thơ là lời giục giã sống vội vàng.
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
Việc sử dụng điệp từ “ta muốn” trong hàng loạt các câu thơ cùng với việc sử dụng các động từ mạnh theo cấp độ tăng dần “ôm” - “riết” - “say” - “thâu” - “cắn” đã diễn tả một cách trọn vẹn và sâu sắc lời giục giã sống vội vàng, sống sôi nổi và luôn trân quý thời gian, tuổi trẻ của của tác giả. Và xét đến cùng, lời giục giã ấy chính là biểu hiện của một cái tôi khát khao sống, khát khao tận hưởng những vẻ đẹp giữa chốn trần gian.
Tóm lại, bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu đã thể hiện một quan niệm hết sức mới mẻ, độc đáo về tuổi trẻ, về thời gian. Bài thơ với một hình thức nghệ thuật rất điêu luyện: sự kết hợp hài hòa giữa mạch trữ tình và mặt triết lí, cùng việc sử dụng thành công các biện pháp tu từ đã cất lên lời giục giã sống mãnh liệt, sôi nổi và luôn biết trân quý từng giây phút trong cuộc đời mình.
>>> Có thể tìm hiểu thêm về quan niệm sống vội vàng của Xuân Diệu qua bài thơ Vội vàng để có thêm tư liệu cho bài viết của mình.
Phân tích Vội vàng mẫu số 3
Thơ, bao giờ cũng là sự phơi trải đến tột cùng, triệt để của tấm lòng người thi sĩ. Tâm hồn của người làm thơ chưa bao giờ là một mặt hồ phẳng lặng êm ru. Là thi sĩ, nghĩa là anh phải đem hết lòng mình trải lên giấy, là vật ngã chính mình ra trang thơ, phải để những xúc cảm trong mình không ngừng sục sôi và khát khao được giao cảm với những nỗi lòng khác, những cuộc đời khác. Chẳng thoát khỏi những lí lẽ ấy, hồn thơ Xuân Diệu cũng là một hồn thơ da diết được tỏ bày. Những khát khao, nỗi niềm trong quan niệm sống về thời gian và tuổi trẻ ấy đã được Xuân Diệu gói ghém, bộc bạch trong “Vội vàng”.
Động thái bộc lộ đầy đủ nhất thần thái của Xuân Diệu có lẽ là vội vàng. Hoài Thanh đã viết trong “Thi nhân Việt Nam”: “Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, cuống quýt”. Bởi vậy, đặt cho bài thơ rất đặc trưng của mình cái tựa đề “Vội vàng”, hẳn đó phải là một cách tự bạch, tự họa của Xuân Diệu, nó cho thấy thi sĩ rất hiểu mình. Cái điệu sống vội vàng, cuống quýt ấy bắt nguồn sâu xa từ ý thức của nhà thơ về thời gian, về sự ngắn ngủi của kiếp người, về cái chết như là kết cục không thể tránh khỏi mai hậu nên sống là phải tận hưởng và tận hiến. Sống hết mình, sống đã đầy, phải chớp lấy từng khoảnh khắc, phải chạy đua với thời gian. Bài thơ này được viết từ cảm niệm triết học ấy.
Mở đầu bài thơ là một khổ ngũ ngôn thể hiện một ước muốn kì lạ của thi sĩ. Ấy là ước muốn quay ngược quy luật tự nhiên - một ước muốn bất khả thi:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
Điệp ngữ “tôi” muốn nhấn mạnh sự da diết ước muốn, cũng là cách tô đậm cái “tôi” chủ quan, cái “tôi” ước muốn luôn xuất hiện trong văn học lãng mạn nói chung, trong thơ Xuân Diệu nói riêng. Các động từ “tắt”, “buộc” với sắc thái tiêu cực khiến các ước muốn có vẻ như phũ phàng; khi đặt trong hai cụm từ “tắt nắng”, “buộc gió” càng gợi lên sự phi lý, kì lạ đến trái tự nhiên. Muốn “tắt nắng”, muốn “buộc gió” thật là những ham muốn kì dị, chỉ có ở thi sĩ. Nhưng làm sao cưỡng được quy luật, làm sao có thể vĩnh viễn hóa được những thứ vốn ngắn ngủi, mong manh ấy? Song, các phó từ “cho”, “đừng” lặp lại trong câu thơ 2 và 4 đã bộc lộ sắc thái van nài, khẩn khoản thật tha thiết trong khát khao của Xuân Diệu: muốn “tắt nắng” là để nắng đừng làm phai nhạt cái sắc màu của cỏ cây hoa lá, muốn “buộc gió” để giữ cho hương đời không bị thổi bay. Cái ham muốn lạ lùng kia đã hé mở cho chúng ta một lòng yêu bồng bột vô bờ với cái thế giới thắm sắc đượm hương này. Khao khát nâng niu, gìn giữ hương sắc cuộc đời, khao khát của một trái tim yêu đời mãnh liệt được miêu tả thật tài hoa trong 7 câu thơ tiếp sau đó.
Hãy xem cách diễn tả vồ vập về một thiên nhiên ở thì xuân sắc, một thiên nhiên rạo rực xuân tình:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si,
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi;
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Từ "của" ngay đầu đoạn thơ đã xác định mối quan hệ ngữ pháp gắn kết giữa hai đoạn thơ. Tất cả những “sắc”, những “hương” tinh túy nhất mà nhà thơ muốn giữ gìn trong khổ trước chính là những ong, những bướm, những lá, những hoa được nhắc đến ở khổ sau. Điệp ngữ “này đây” lặp lại trong cả khổ thơ tạo ra một ngữ điệu liệt kê vừa bày tỏ niềm hân hoan sung sướng của thi nhân, vừa thể hiện sự giàu có, thừa thãi, phong phú của hương sắc cuộc đời. “Này đây” vừa là sự hiện hữu trước mắt trong không gian, vừa là khẳng định sự tồn tại ở quãng thời gian hiện tại - vẻ đẹp cuộc đời đang hiện hữu ngay trước mắt, trong tầm tay, giữa cuộc đời thực, trong khoảnh khắc của hiện tại.
Thế giới này được Xuân Diệu cảm nhận theo một cách riêng. Nó bày ra như một thiên đường trên mặt đất, như một bữa tiệc lớn của trần gian. Được cảm nhận bằng cả sự tinh vi nhất của một hồn yêu đầy ham muốn, nên sự sống cũng hiện ra như một thế giới đầy xuân tình. Cái thiên đường đầy sắc hương đó hiện diện trong “vội vàng” như một mảnh vườn tình ái, vạn vật đang lúc lên hương, vừa như một mâm tiệc với một thực đơn quyến rũ, lại vừa như một người tình đầy khêu gợi. Xuân Diệu cũng hưởng thụ theo một cách riêng. Ấy là hưởng thụ thiên nhiên như hưởng thụ ái tình. Yêu thiên nhiên mà thực chất là tình tự với thiên nhiên.
Hương sắc cuộc đời đã hiện lên hấp dẫn, sống động, gợi tình, tươi tắn trong những định ngữ nghệ thuật đặc sắc. Trước hết, nó hiện ra trong “tuần tháng mật” của bướm ong. “Tuần tháng mật” không chỉ là mật ngọt của thiên nhiên, hoa trái, nó còn gợi những liên tưởng ngọt ngào đến khoảng thời gian nồng nàn, ngây ngất yêu thương, tuần trăng mật của tình yêu đôi lứa. Sau đó là “hoa của đồng nội xanh rì”, là “lá của cành tơ phơ phất” - nếu tính từ “xanh rì” làm hiện lên một không gian mênh mông của những cánh đồng xanh trên đó nổi bật hình ảnh những cánh hoa tươi thắm thì trong câu thơ sau, sự kết hợp tài hoa giữa từ láy, phép láy vần trong những âm tiết mang thanh bằng “cành tơ phơ phất” lại gợi tả những lá cành mơn mởn, non tơ nhưng cũng thật mềm mại, mong manh, yếu đuối trong gió xuân, những hình ảnh khiến ta vừa mê đắm vừa e ấp, nâng niu.
Vẻ đẹp của cuộc đời được cảm nhận không chỉ bằng thị giác mà còn hiện ra qua thính giác. Tiếng chim hót qua niềm yêu của thi nhân cũng không chỉ là những âm thanh véo von, ríu rít mà còn là “khúc tình sử” đắm đuối lòng người, ca vang bởi “yến anh”, biểu tượng cho hạnh phúc lứa đôi. Hình ảnh ẩn dụ về “ánh sáng chớp hàng mi” là một cách biểu hiện quen thuộc trong thơ Xuân Diệu, ông thường miêu tả ánh bình minh của thiên nhiên theo dáng vẻ con người (“lá liễu dài như một nét mi...”). Dường như sau cái chớp mắt duyên dáng của hàng mi thiếu nữ, ánh sáng tỏa ra muôn nơi, chan chứa khắp thế gian. Ấy là ánh sáng của bình minh, của ngày mới khi “thần Vui gõ cửa” - tình yêu đời, yêu người mãnh liệt đã đem đến niềm vui sống cho nhà thơ khi thức dậy mỗi ngày. Hình ảnh ẩn dụ đã thể hiện tinh tế cảm giác hồi hộp, bồn chồn đón đợi của lòng người cùng sự gấp gáp, hối thúc của cuộc đời bên ngoài, cảm giác của một con người yêu say đắm tới mức không chịu để lỡ dù chỉ một ngày, một khoảnh khắc của bình minh, của ngày mới.
Có lẽ trước Xuân Diệu, trong thơ Việt Nam chưa có cảm giác “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Nó là cảm giác của ái ân tình tự. Cảm giác ấy đã làm cho người ta thấy tháng giêng mơn mởn tơ non đầy một sức sống thanh tân kia sao mà quyến rũ - tháng giêng mang trong nó sức quyến rũ không thể cưỡng lại được của một người tình rạo rực, trinh nguyên. Câu thơ ngắt nhịp 3/5 khiến trọng tâm rơi vào chữ “ngon” nhấn mạnh cảm giác thưởng thức bằng vị giác. Phép ẩn dụ cảm giác đã khiến tháng giêng - một phạm trù thời gian vốn vô hình, trừu tượng bỗng trở nên cụ thể trong sự tận hưởng say sưa của thi nhân lãng mạn. Tháng giêng là hình ảnh hoán dụ cho mùa xuân, so sánh mùa xuân với “một cặp môi gần” là suy nghĩ vô cùng táo bạo, tràn đầy nhục cảm; tính từ “gần” nhấn mạnh cảm giác kề cận, chào mời thật cám dỗ. Tất cả đều như thể trong tầm tay.
Với những so sánh, nhân hóa, phép ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, những phép điệp tinh tế trong cả âm sắc và từ vựng, những từ ngữ hình ảnh giàu sức biểu cảm, đoạn thơ đã vẽ nên hình ảnh cuộc đời tràn đầy hương thơm, màu sắc, âm thanh và niềm vui sống đầy quyến rũ. Cuộc sống qua ánh mắt say đắm của thi nhân như đang lên hương lên mật, đang cựa quậy sinh sôi, đang phô bày hương sắc. Đó là thiên đường ngay trên mặt đất, trong hiện tại, là bữa tiệc trần gian ngay nơi đây chứ không phải một cõi xa xăm nào khác. Và đó chính là nguyên nhân cho niềm yêu đời mê đắm của thi nhân.
Mở đầu đoạn 2 là một câu thơ của những cảm xúc gần như tương phản:
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa.
Nhịp 3/5 và dấu chấm giữa dòng như một nốt lặng đột ngột thể hiện trạng thái sững sờ, hẫng hụt của nhà thơ khi bất chợt nhận ra những tương phản trớ trêu của cuộc sống. Nhà thơ yêu đời vì cuộc đời quá đẹp đẽ, niềm yêu đời khiến nhà thơ sung sướng, nhưng cũng chính vì niềm yêu ấy mà ông “vội vàng” bởi nỗi “hoài xuân”. Niềm sung sướng khi được hưởng thụ những hương sắc của cuộc đời chưa trọn vẹn thì dòng thơ đã đứt lặng giữa chừng bởi nỗi lo âu cuộc đời ngắn ngủi. Với nỗi ám ảnh của một người quá yêu đời, luôn sợ thiếu thời gian cho tình yêu, Xuân Diệu “không chờ nắng hạ mới hoài xuân”, ông lo lắng nhớ nhung, tiếc nuối ngay khi mùa xuân vẫn còn trong độ đã đầy của chính nó.
Hai mảng thơ đầu kế tiếp nhau ở đoạn 1 đã được liên kết bằng cái lôgic luận lí ngầm của nó. Thi sĩ muốn “tắt nắng”, “buộc gió” chính vì muốn giữ mãi hương sắc cho một trần thế đẹp đến vô thực. Hương sắc là cái sinh khí của nó, là vẻ đẹp, là nhan sắc của nó. Tất cả chỉ rực rỡ trong độ xuân thì. Mà xuân lại vô cùng ngắn ngủi. Và thế là mảng thơ thứ ba của phần luận giải đã hình thành để nói về cái ngắn ngủi đến tàn nhẫn của “xuân thì trong sự sống” và cái “xuân thì của con người”. Cái thế giới này lộng lẫy nhất, “ngon” nhất là ở độ xuân; còn con người cũng chỉ hưởng thụ được cái ngon kia khi còn trẻ. Có lẽ cũng lần đầu tiên, thơ ca Việt Nam có được quan niệm này:
Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già
Cấu trúc lặp lại được sử dụng với những điệp từ, điệp cú pháp trong kiểu câu định nghĩa đã tăng thêm ấn tượng cho sự khẳng định còn những từ ngữ “tới” - “qua”, “non” - “già” lại tạo nên những cặp phạm trù tương phản diễn tả sự trôi chảy. Câu trên là sự tiếc nuối khi cảm nhận bước đi của thời gian; câu dưới là sự lo lắng cho cái phai tàn, héo úa, thậm chí chưa hề hiện hữu trong không gian. Đến đây, mùa xuân không chỉ còn là một hoán dụ cho dòng thời gian mà đã thêm nét nghĩa ẩn dụ cho tuổi trẻ của mỗi con người. Mùa xuân là thời gian đẹp nhất của thiên nhiên, tuổi trẻ là khoảnh khắc đẹp nhất của đời người. Nhưng mùa xuân của đất trời thì tuần hoàn vĩnh viễn còn mùa xuân của đời người “chẳng hai lần thắm lại”, đó là “xuân bất tái lai”.
Con người trung đại lấy sinh mệnh vũ trụ để đo đếm thời gian nên hình như họ yên trí với quan niệm thời gian tuần hoàn, với cái chu kì 4 mùa xuân hạ thu đông, cũng như cái chu kì ba vạn sáu nghìn ngày của kiếp người. Hết một vòng, thời gian lại quay về điểm xuất phát ban đầu. Vậy nên họ không sợ tuổi già và cái chết mà sống ung dung, thanh thản và tự tại. Nhưng con người hiện đại lại lấy sinh mệnh cá thể làm thước đo thời gian. Nên họ sống với quan niệm thời gian tuyến tính. Thời gian như một dòng chảy vô thủy vô chung mà mỗi một khoảnh khắc qua đi là mất đi vĩnh viễn. Cho nên Xuân Diệu đã nồng nhiệt phủ định:
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!
Không chỉ dùng sinh mệnh cá thể, Xuân Diệu còn đo đếm thời gian bằng cái quãng ngắn ngủi nhất của sinh mệnh cá thể: tuổi trẻ. Tuổi trẻ đã một đi không trở lại thì làm chỉ có sự tuần hoàn. Với Xuân Diệu, trái tim yêu đời mãnh liệt không thể chấp nhận tuổi già, vì thế, thời gian sống của ông nhất định phải gắn với tuổi trẻ, với mùa xuân nên thi nhân ngậm ngùi khi nhận ra “xuân hết” đồng nghĩa với “tôi cũng mất”. Sự đối lập giữa “lòng tôi rộng” và “lượng trời cứ chật”, giữa “tuổi trẻ chẳng hai lần” và “xuân tuần hoàn”, giữa “chẳng còn tôi” và “còn trời đất” như cho thấy nhà thơ oán trách, hờn dỗi quy luật nghiệt ngã của thời gian. Đây còn là niềm khao khát được sống trong tuổi trẻ và nỗi xót xa trước sự ngắn ngủi, hữu hạn của đời người.
Trong cái mênh mông của đất trời, cái vô tận của thời gian, sự có mặt của con người quá ư ngắn ngủi hữu hạn. Nghĩ về tính hạn chế của kiếp người, Xuân Diệu đã đem đến một nỗi ngậm ngùi thật mới mẻ:
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời
Không chỉ quan niệm mà ngay cả cảm giác cũng hết sức mới lạ. Xuân Diệu đã đem đến một cảm nhận đầy tính “lạ hóa” về thời gian và không gian:
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt...
Là người đã tiếp thu ở mức nhuần nguyễn phép “tương giao” của lối thơ tượng trưng, Xuân Diệu đã phát huy triệt để sự tương giao về cảm giác để cảm nhận và mô tả thế giới, trước hết là thời gian và không gian. Có những câu thơ mà cảm giác được liên tục chuyển qua các kênh khác nhau. Thời gian được cảm nhận bằng khứu giác: “Mùi tháng năm” - thời gian của Xuân Diệu được làm bằng hương - chẳng thế mà thi sĩ cứ muốn “buộc gió lại” - hương bay đi là thời gian trôi mất, là phai lạt phôi pha! Một chữ “rớm” cho thấy khứu giác đã chuyển thành thị giác. Nó nhắc ta nhớ đến hình ảnh giọt lệ. Chữ “vị” ngay sau đó, lại cho thấy cảm giác thơ đã chuyển qua vị giác. Và đây là một thứ hoàn toàn phi vật chất: “vị chia phôi”! Thì ra chữ “rớm” và chữ “vị” đều từ một hình ảnh ẩn hiện trong cả câu thơ là giọt lệ chia phôi đó. Giọt lệ thường long lanh trên khóe mắt người trong giờ phút chia li. Giọt lệ thành hiện thân, thành biểu tượng cho nỗi sầu li biệt.
Vì sao thời gian lại mang hương vị - hình thể của xa cách? Ấy là những cảm giác chân thực hay chỉ là trò diễn của ngôn ngữ theo kịch bản của phép “tương giao”? Thực ra cái tinh tế của Xuân Diệu là ở chỗ này. Thi sĩ cảm thấy thật hiển hiện mỗi khoảnh khắc đang lìa bỏ hiện tại để trở thành quá khứ thật sự là một cuộc ra đi vĩnh viễn. Trên mỗi thời khắc đều đang có một cuộc ra đi như thế, thời gian đang chia tay với con người, chia tay với không gian và chia tay với cả chính thời gian. Tựa như một phần của mỗi cá thể đang vĩnh viễn ra đi. Từng phần đời đang chia lìa với cá thể. Cho nên thi sĩ nghe thấy một lời than luôn âm vang khắp núi sông này, một lời than triền miên bất tận. Không gian đang tiễn biệt thời gian! Và thời gian trôi đi sẽ khiến cho nhan sắc thiên nhiên diệu kì này bước vào độ tàn phai. Một sự tàn phai không tài nào tránh khỏi! Hình ảnh cuộc đời tràn đầy xuân sắc ở đoạn đầu đã bị thế chỗ bởi những chia phôi buồn thảm ở đoạn 2:
Cơn gió xinh thì thầm trong gió biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Đoạn thơ với kết cấu trùng điệp, giọng điệu gấp gáp đã thể hiện những quan niệm mới mẻ của Xuân Diệu về thời gian và tuổi trẻ, đưa ra những triết lí nhân sinh tích cực, mạnh mẽ của một trái tim tha thiết yêu đời. Những quan niệm, triết lí cùng cách cảm nhận về thời gian, tuổi trẻ ấy đã góp phần khẳng định giá trị cái tôi cá nhân của con người trong thời đại mới - những con người không chấp nhận cách sống vô nghĩa, mờ nhạt trong quỹ thời gian hữu hạn của đời mình.
Như vậy đấy, không thể buộc gió, không thể tắt nắng, không thể nắm giữ được thời gian thì chỉ còn một cách thực tế nhất, khả thi nhất là chạy đua với thời gian, là tranh thủ sống từng phút một. Đoạn thơ cuối đã đúc kết cả xúc cảm và giải pháp của nhà thơ khi thể hiện tuyên ngôn sống của mình:
Chẳng bao giờ! Ôi chẳng bao giờ nữa...
Mau đi thôi! mùa chưa ngả chiều hôm
Điệp ngữ “chẳng bao giờ” khiến câu trên là một lời than tiếc nuối, tựa như tiếng nức nở, nghẹn ngào vì nỗi một đi không trở lại của mùa xuân, vì sự chia phôi của thời gian với tuổi trẻ, với mỗi khoảnh khắc quý giá không thể lấy lại trong cuộc đời. Ngay sau đó là một giải pháp: “mau đi thôi”. Cấu trúc cầu khiến mang sắc thái giục giã, cuống quít rất quen thuộc của Xuân Diệu đã chỉ ra cách để thi nhân tận hưởng cao nhất cuộc sống - đó là sống nhiệt tình, sôi nổi say mê, sống hết mình với đời, với người, sống vội vàng, gấp gáp khi còn ở trong mùa xuân, trong tuổi trẻ.
Đến đây, phần luận giải của tuyên ngôn “vội vàng” đã đủ đầy luận lí. Phần cuối của bài thơ là lúc tuyên ngôn, triết lí sống ấy được hiện ra thành hành động, được khích lệ, giục giã. Bài thơ kết thúc bằng những cảm xúc mãnh liệt, bằng những ham muốn mỗi lúc mỗi cuồng nhiệt, vồ vập. Đó là cả một cuộc tình tự với thiên nhiên, ái ân cùng sự sống. Chỉ có diễn tả như thế, Xuân Diệu mới phô diễn được cái lòng ham sống, khát sống trào cuộn của mình:
Ta muốn ôm:
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn viết mây đưa và gió lượn;
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu;
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi.
Dễ thấy, thi sĩ có dụng ý chọn cách xưng hô cho từng phần. Trên, xưng “tôi” - cái tôi cá nhân, bộc lộ ý kiến chủ quan của một cá nhân đơn lẻ - nay đã chuyển thành đại từ “ta” như thể hiện những tuyên bố lớn lao, mạnh mẽ của con người khi đối diện với cuộc sống. Và nếu phải chọn một đoạn thơ trong đó cái giọng sôi nổi, bồng bột của Xuân Diệu thể hiện đầy đủ nhất thì đó phải là đoạn thơ này. Ta có thể nghe thấy giọng nói, nghe thấy cả nhịp đập của con tim Xuân Diệu trong từng lời thơ. Nó hiện ra trong những làn sóng ngôn từ đan chéo nhau, giao thoa, song song, thành những đợt sóng vỗ mãi vào tâm hồn người đọc. Câu thơ “Ta muốn ôm” chỉ có 3 chữ, lại được đặt ở vị trí đặc biệt: chính giữa hàng thơ, là hoàn toàn mang dụng ý. Xuân Diệu muốn tạo ra hình ảnh một cái tôi đầy khao khát, đang đứng giữa trần gian, dang rộng vòng tay để ôm cho hết, cho khắp, gom cho nhiều nữa, nhiều nữa, mọi cảnh sắc mơn mởn của trần thế vào lòng ham muốn vô biên của nó. Tư thế lớn lao và tâm thế ham muốn ấy đã xác định hình tượng chủ thể trữ tình và cảm hứng chủ đạo của đoạn thơ và cả bài thơ, đó là cái tôi ham sống, ham hưởng thụ và mơ ước được hưởng thụ triệt để.
Nhà thơ bày ra trước mắt một bức tranh đời tuyệt diệu. Trong bức tranh ấy, cảnh vật phong phú, đa dạng khi biến ảo vô hình như mây và gió, khi hữu hình, tươi tắn như cây cỏ, khi mênh mang như non nước, khi xinh xắn như bướm hoa... Tất cả đều tràn đầy hương thơm và ánh sáng để làm nên xuân hồng đầy thanh sắc. Chúng vừa như trong tầm tay, lại xa với tầm với, khiến thi sĩ vừa như có thể, vừa như không có khả năng, cảm giác ấy khiến người ta càng thêm ham hố, cuống quít, cả hữu hạn lẫn vô biên, khát thèm tận hưởng. Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác đã khiến sự sống vốn trừu tượng đã hiện ra “mơn mởn”, non tơ như một cây đời tràn đầy nhựa sống, và sự sống vốn vô biên, vô hạn như được thu vào vòng tay ôm của nhà thơ. Cũng như thế, mây và gió vốn là những ảo thể, vô thể, biến đổi linh diệu và luôn vụt thoát khỏi tầm tay, ánh mắt con người, nay trở nên hữu hình, cụ thể và thật gợi cảm, tình tứ trong hình ảnh “mây đưa”, gió lượn”.
Cái điệp ngữ “ta muốn” được lặp đi lặp lại với mật độ thật dày và cũng thật đích đáng, nhất là mỗi lần điệp lại liền đi với một động thái nồng nàn: “ôm” - “riết” - “say” - “thâu” - “cắn”. Có thể nói, câu thơ “Và non nước, và cây, và cỏ rạng” là không thể có đối với thi pháp trung đại vốn coi trọng những chữ đúc. Thậm chí, đối với người xưa, đó sẽ là một câu thơ vụng. Vậy mà, đó lại là một sáng tạo của nhà thơ hiện đại Xuân Diệu. Những chữ “và” hiện diện cần cho sự thể hiện nguyên trạng cái giọng nói, cái khẩu khí của thi sĩ. Nó thể hiện đậm nét sắc thái riêng của cái tôi Xuân Diệu. Nghĩa là thể hiện một cách trực tiếp, tươi sống cái tham lam đang trào lên mãnh liệt trong lồng ngực yêu đời của thi sĩ!
Câu thơ:
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
cũng tràn đầy những làn sóng ngôn từ như vậy. Từ “cho” điệp lại với nhịp độ tăng tiến, nhấn mạnh các động thái hưởng thụ thỏa thuê được miêu tả bằng từ láy: “chếnh choáng” - “đã đầy” - “no nê”. Sóng cứ càng lúc càng trào dâng, cao hơn, vỗ mạnh hơn, đẩy cảm xúc lên tột đỉnh:
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
Ta thấy Xuân Diệu như một con ong hút nhụy đã no nê đang lảo đảo bay đi, lại thấy thi sĩ như một tình lang chếnh choáng trong cuộc tình với men say và nhục cảm. Đó là cách Xuân Diệu yêu thiết tha, và đắm mình trong mùa xuân của nhà thơ, một tình yêu tràn đầy khát khao và cuồng nhiệt.
Đoạn thơ toàn bộ là nỗi khát khao chiếm lĩnh và tận hưởng cuộc sống đã dậy lên từ đáy lòng của một con người yêu đời da diết như Xuân Diệu. Để vượt qua giới hạn của thời gian, nhà thơ đã phải vội vàng. Đó là sự vội vàng có ý thức, có hiểu biết và mang tính tích cực.
“Vội vàng” của Xuân Diệu không chỉ đặc sắc về nội dung mà còn mãn nhãn về cả nghệ thuật. Thông qua những phép điệp tạo âm hưởng thơ dồn dập, phấn khích, những ẩn dụ chuyển đổi cảm giác quá đỗi tài hoa, những hình tượng ngôn từ chứa chan cảm xúc, qua mạch thơ chính luận - trữ tình vừa đắm say vừa chặt chẽ, nhà thơ đã thể hiện những xúc cảm và suy ngẫm mới mẻ, thuyết phục về triết lí sống chưa từng có: triết lí sống vội vàng - một triết lí sống tích cực, mạnh mẽ, bộc lộ rõ nhất không chỉ niềm yêu cuộc sống mà còn là ý thức sâu sắc về giá trị sự sống mỗi cá nhân trong cuộc đời. Cũng như giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh từng viết về Xuân Diệu: “Đây là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Nhưng đằng sau những tình cảm ấy, có một quan niệm nhân sinh mới mẻ chưa từng thấy trong thơ ca truyền thống”.
>>> Phân tích đoạn thơ cuối bài thơ Vội vàng
Phân tích Vội vàng mẫu số 4
Xuân Diệu là một cái tên quen thuộc được biết đến với những bài thơ về mùa xuân, tuổi trẻ (trước cách mạng tháng Tám) hay những bài thơ về Tổ Quốc, về nhân dân, về Đảng, về Bác Hồ, về hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, về sự nghiệp xây dựng đất nước (sau cách mạng tháng Tám). Nổi bật trong những bài thơ viết về mùa xuân, tuổi trẻ của Xuân Diệu là bài Vội vàng. Bài thơ là lời giục giã sống mãnh liệt, sống hết mình, quý trọng từng giây, từng phút của cuộc đời mình, nhất là những tháng năm của tuổi trẻ.
Xuân Diệu yêu thiên nhiên, yêu cái đẹp đến mãnh liệt đến cường tráng nhưng bên trong những vần thơ của ông vẫn gây cho người đọc một cảm giác chênh vênh, hụt hẫng. Bởi tình yêu luôn gắn với nỗi đau, niềm vui song song với nỗi buồn, bởi niềm vui đó rồi cũng phải hết, không thể tồn tại vĩnh hằng được. “Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian” (Thế Lữ). Bài thơ Vội vàng là tiếng nói con tim của một kẻ đang say mê trong tình yêu với những cung bậc cảm xúc khác nhau.
Bài Vội vàng có hình ảnh của một thiên đường trên mặt đất: Xuân Diệu phát hiện và khẳng định dứt khoát mùa xuân và mọi cảnh đẹp quanh ta là cả một thế giới thần tiên. Ở bốn câu đầu, hình ảnh cái tôi lãng mạn bộc lộ rất độc đáo:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.”
Muốn “tắt nắng”, muốn “buộc gió”, thật là những ham muốn kỳ dị, chỉ có ở thi sĩ. Nhưng làm sao cưỡng được quy luật, làm sao có thể vĩnh viễn hóa được những thứ vốn ngắn ngủi mong manh ấy? Những khát khao “phi lí” ấy lại tạo nên một cái tôi cực kỳ ấn tượng và lôi cuốn. Tác giả không dùng đại từ “ta” mà lại dùng “tôi” như để khẳng định mình, khẳng định khát khao cháy bỏng “đoạt” lấy thiên nhiên đất trời.
Xuân Diệu muốn cưỡng lại quy luật của tự nhiên, những vận động của đất trời. Đó là tiếng nói của cái tôi đầy kiêu hãnh với khát vọng mãnh liệt lạ lùng, cho thấy tầm vóc của con người muốn vươn lên để có thể ngang tầm với tạo hóa. Thiên đường - mùa xuân ấy mang bao nhiêu vẻ đẹp: sức sống của vạn vật đều rộn ràng tươi thắm, nảy nở rất trẻ trung.
Tình yêu cuộc sống này tràn ngập trong huyết mạch của nhà thơ và nhà thơ nhận thấy cuộc sống nơi mình đang sống như một thiên đường:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì,
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi sáng sớm thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.”
Đó là một bức tranh mùa xuân đầy ánh sáng, mới mẻ, tinh khôi, đầy âm thanh tình tứ. Mùa xuân là mùa của cây cối đâm trồi, nảy lộc, mùa của sự sinh sôi và hạnh phúc tràn đầy. Khu vườn xuân trong bài thơ cũng “vội vàng” dâng tỏa sắc hương, trao mật ngọt. Ong bướm rộn ràng bởi những đóa hoa xuân khoe sắc thắm nổi bật giữa đồng nội xanh rì.
Cành tơ phơ phất đang vươn những chồi búp nõn nà trong bức tranh xuân. Ánh sáng bình minh tỏa mà hồng đào, bừng hé. Chim yến, chim oanh đang rộn ràng hát những bản tình ca mùa xuân. Điệp ngữ: “Này đây” lặp bốn lần là tiếng reo vui đầy kinh ngạc của tác giả vì liên tiếp phát hiện ra những vẻ đẹp kì lạ của cuộc sống. “Tháng giêng” là khởi đầu của một năm, khởi đầu của mùa xuân - mùa xuân tươi non mơn mởn là biểu tượng vẻ đẹp cuộc sống.
Hình ảnh “cặp môi gần” gợi làn môi tươi hồng của thiếu nữ đang hé mở đợi chờ. Khác với các nhà thơ khác thường lấy thiên nhiên là chuẩn cho mọi vẻ đẹp thì Xuân Diệu lại lấy con người giữa mùa xuân, tuổi trẻ, tình yêu làm chuẩn mực. Vì thế nên tháng Giêng như tràn trề nhựa sống, mơn mởn da thịt bởi xuân hồng.
Thế giới này được Xuân Diệu cảm nhận bằng cả sự tinh vi nhất của một hồn yêu đầy ham muốn, nên sự sống cũng hiện ra như một thế giới đầy xuân tình. Sở dĩ Xuân Diệu có những mong muốn và khao khát như thế bởi tác giả là một thi sĩ có hồn thơ nhạy cảm đặc biệt trước bước đi của thời gian. Và Xuân Diệu khẳng định:
“Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.”
Khác với những quan niệm cũ cho rằng “xuân vẫn tuần hoàn” thì đối với Xuân Diệu:
“Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.”
Tương ứng với mùa xuân là con người, là tôi. Thời gian là thước đo tuổi trẻ. Thời gian sẽ một đi không trở lại, vì vậy tuổi trẻ cũng như thế. Làm chi có sự tuần hoàn cơ chứ! Trong cái mênh mông của đất trời, cái vô tận của thời gian, sự có mặt của con người thật là ngắn ngủi, hữu hạn.
“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt…”
Cái tinh tế của Xuân Diệu thể hiện ở chỗ: cảm nhận được sự phai tàn khi vạn vật còn đang ở độ mơn mởn. Thi sĩ thấy như ngọn gió lướt qua tất cả. Lúc tạo vật đang ở thời tươi cũng là lúc phải đối diện với sự phai tàn sắp sửa. Thời gian như có mùi, có vị chia phôi chất chứa cả đất trời, sông núi đều cất lên âm thanh của sự chia ly, tiễn biệt. Vạn vật đang than thở, ngậm ngùi, đưa tiễn phần đời của chính nó. Tất cả khiến nhà thơ cảm thấy hụt hẫng, tiếc nuối. Không thể buộc gió, không thể tắt nắng, cũng không thể cầm giữ được thời gian, thì chỉ có cách thực tế nhất là chạy đua với thời gian, là phải tranh thủ sống: “Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…”
Nếu như ở hai khổ thơ đầu, Xuân Diệu nói về tình yêu thiết tha với thiên đường nơi trần thế của mình hay ở khổ thơ thứ ba tác giả đưa ra một quan niệm mới mẻ về thời gian: mùa xuân đi là mùa xuân không quay trở lại, lấy con người giữa tuổi trẻ làm chuẩn cho mọi vẻ đẹp thì ở khổ thơ thứ tư lại là lời giục giã sống vội vàng, cuống quýt của tác giả.
Mở đầu khổ thơ, Xuân Diệu viết: “Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm!”. Đây là lời giục giã sống vội vàng, sống sao cho có ý nghĩa khi còn trẻ bởi thời gian sẽ trôi qua rất nhanh. Và ở đây, Xuân Diệu đã gợi ra một cách sống, một quan niệm sống tích cực hơn: sống hết mình từng giây, sống tận hiến và tận hưởng cuộc sống bằng các giác quan, sống hết mình ở thời tươi đẹp nhất.
Ở đoạn thơ cuối, tác giả đã sử dụng một loạt động từ tăng tiến để thể hiện cảm xúc mãnh liệt của mình:
“Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều”.
Nếu như ở phần đầu bài thơ, tác giả xưng “tôi” để bộc bạch, giãi bày tâm trạng thì ở khổ thơ cuối, tác giả lại xưng “ta” để tự mình đối diện với cuộc sống trên trần gian. Tất cả đều thể hiện sự gấp gáp, cuống quýt, vồ vập. Xuân Diệu muốn ôm giữ lấy những vẻ đẹp non tươi của cuộc sống đang diễn ra: sự sống bắt đầu mơn mởn, mây đưa, gió lượn,… để nó khỏi trôi đi nhưng dù ôm chặt mà vẫn không thể giữ được trọn vẹn. Trái tim yêu của Xuân Diệu như muốn rộng ra chứa hết cả vũ trụ. Tất cả đều thúc đẩy một quan niệm sống hối hả, vồ vập, cuống quýt.
Vội vàng thể hiện một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Biết quý trọng thời gian, biết quý trọng tuổi trẻ, biết sống cũng là để yêu; tình yêu lứa đôi, tình yêu tạo vật. Và bài thơ là nhịp đập gấp gáp trước “thanh sắc trần gian” một ngày xuân của một trái tim chưa bao giờ chán sống.
Phân tích bài thơ Vội vàng mẫu số 5
Trong cuốn Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh viết: "Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này - Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình". Thơ Xuân Diệu bộc lộ hồn thơ trẻ trung, nồng nàn và tình yêu cuộc sống đến độ đam mê ấy thể hiện rất rõ trong bài thơ Vội vàng. Bài thơ cũng thể hiện quan niệm nhân sinh của Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám.
Về cấu tứ bài thơ: Bài thơ là một phép biện chứng tâm hồn: Xuân Diệu rất yêu cuộc sống nhất là tuổi trẻ nhưng nhà thơ cũng rất sợ mất nó, nghĩ đến điều đó không tránh khỏi tiếc nuối buồn bã, để không hoang phí cái đẹp một cách vô ích nên cuối cùng nhà thơ chạy đua với thời gian, vội vàng hưởng mọi vẻ đẹp mà đời đã ban cho. Đó là lý lẽ của thái độ sống "vội vàng". Bài thơ thể hiện cái tôi trữ tình tràn đầy cảm xúc với những trạng thái phức tạp, yêu mãnh liệt nhưng sau đó lại dỗi hờn, buồn chán tuyệt vọng, rồi bừng dậy một tình yêu sôi nổi để tận hưởng hết vẻ đẹp của cuộc đời.
Bài thơ chủ yếu nói đến mối quan hệ giữa thời gian với cái đẹp của cuộc sống và đời người - nhất là tuổi trẻ. Vì thời gian mà dẫn đến một lối sống, thái độ sống. Ý thức về sự chảy trôi của thời gian nên tác giả có khát vọng rất nghệ sĩ là muốn níu giữ thời gian:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất,
Tôi muốn buộc gió
Cho hương đừng bay đi.
Trong thơ Xuân Diệu, cơn gió và dòng nước trôi thường là biểu tượng của thời gian. Ở bài thơ này nắng và gió là hình ảnh cụ thể của thiên nhiên và là biểu tượng của thời gian. Hương và màu là hình ảnh cụ thể nhưng cũng là biểu tượng cho mùa xuân - cái đẹp.
Tác giả đã dùng những động từ mạnh: tắt (nắng), buộc (gió) để thể hiện ý muốn đoạt quyền của tạo hóa, muốn giữ lại màu và hương của mùa xuân. Muốn cưỡng lại quy luật của tự nhiên để giữ mãi cái đẹp của cuộc sống là một khát vọng rất nghệ sĩ - thể hiện tình yêu cuộc sống mãnh liệt, bất chấp mọi quy luật. Câu thơ ngắn, giọng thơ mạnh cũng góp phần thể hiện thái độ vội vã, tâm hồn trẻ trung, đầy sức sống của tác giả.
Tác giả muốn đoạt quyền tạo hóa để giữ lấy mãi mùa xuân vì mùa xuân đẹp quá:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Cách miêu tả mùa xuân của Xuân Diệu rất mới. Câu thơ thứ nhất và thứ tư có cú pháp mới, đảo trật tự thành phần câu nhằm tô đậm hương vị, âm thanh để thấy được trong mùa xuân: thời gian là mật ngọt, không gian là âm nhạc. Tác giả không chỉ chú ý đến cảnh sắc, âm thanh mà tập trung diễn tả mức độ, mật độ dày và đậm của hình ảnh, chi tiết. Nhà thơ còn cảm nhận bằng nhiều giác quan: tuần tháng mật, xanh rì, cành tơ, khúc tình si… để từ đó làm nổi bật vẻ đẹp mùa xuân vừa tươi tốt, nồng nàn, tràn trề sinh lực vừa duyên dáng, hân hoan. Vẻ đẹp của mùa xuân còn được cảm nhận qua cảm giác thích thú:
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi sáng sớm, thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
Ánh nắng xuân tươi đã làm vui con mắt, làm thích cái nhìn. Lối so sánh mới lạ, táo bạo: tia nắng bình minh được xem như hàng mi mắt của người thiếu nữ, bình minh vừa thức dậy và vài cái chớp mắt là ánh sáng tinh khôi tràn về muôn nơi và đến gõ cửa mọi nhà! Ở bài thơ khác nhà thơ so sánh ngược lại:
Tà áo mới cũng say mùi gió nước
Rặng mi dài xao động ánh dương vui.
(Xuân đầu)
Và chỉ đến Xuân Diệu, mùa xuân mới được cảm nhận tinh tế ở góc độ ánh sáng tươi vui. Nói tóm lại, mùa xuân có vẻ đẹp hồng hào, tươi tắn, nồng nàn như đôi môi quyến rũ của người con gái mà tác giả khao khát muốn tận hưởng. Khác với thi pháp cổ điển và đưa ra quan điểm thẩm mĩ mới, Xuân Diệu cho rằng cái đẹp của con người mới tuyệt vời, chuẩn mực cho mọi vẻ đẹp của tạo hóa. Thủ pháp nghệ thuật nổi bật trong đoạn thơ là điệp ngữ "này đây" dồn dập, nó liệt kê hàng loạt vẻ đẹp của mùa xuân và nói lên sự phong phú như bất tận của mùa xuân, thiên nhiên như dọn cỗ bàn đầy ắp với những thức ngon sẵn có cho con người. Tác giả đã nhận và muốn tận hưởng hết vẻ đẹp mà tạo hóa đã ban cho, không nên để nó qua rồi lại nuối tiếc:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
Đây chính là tư tưởng cốt yếu của bài thơ: tranh thủ thời gian, tận hưởng hết vẻ đẹp cuộc sống nên dẫn đến thái độ sống vội vàng. Nhạc điệu chung của đoạn thơ là sôi nổi, si mê. Tác giả đã cảm thức được bước đi quyết liệt của thời gian:
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Cách cảm nhận thời gian tịnh tiến, thơ ca xưa nay đã nói nhiều: "Đông qua xuân đã tới liền / Hè về rực rỡ, êm đềm thu sang", nhưng (với tiết tấu thơ nhanh) chỉ có Xuân Diệu mới thấy được trong cái đẹp đã chớm vị tàn phai, cùng một lúc nhà thơ vừa thấy xuân đến mà cũng thấy xuân đi. Điệp ngữ "nghĩa là" như nhấn mạnh, rồi day đi day lại cái quy luật phũ phàng: Thời gian trôi đi quá nhanh, cái đẹp rồi sẽ không còn nữa, tuổi trẻ sẽ đi qua. Tác giả tiếc cho cái đẹp - cái hữu hạn của đời người nên giọng thơ trở nên hờn dỗi:
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,...
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Nỗi niềm luyến tiếc mùa xuân - tuổi trẻ, là tiếc sự sống. Đó là biểu hiện của lòng yêu đời ham sống, ý thức giá trị của sự sống. Tiếc mùa xuân ngay giữa mùa xuân, tiếc tuổi trẻ đang khi còn trẻ tuổi là sự trỗi dậy của ý thức về cái đẹp vô giá của cuộc sống nên cần phải tranh thủ thời gian, sống như thế nào cho có ý nghĩa, xứng đáng với đời người. Đó là một quan niệm nhân sinh. Thời gian vô tri, lạnh lùng đã âm thầm tàn phá không thương tiếc cái đẹp. Khi cái đẹp tàn phai thì tự nhiên đối kháng với con người: lòng tôi rộng nhưng trời chật, còn trời đất nhưng chẳng còn tôi và thiên nhiên cũng mất đi cái vui tự nhiên của nó:
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt...
Con gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Mùa xuân, tuổi trẻ đều chảy trôi theo thời gian, theo nhịp tuần hoàn của vũ trụ. Tác giả bất lực trước sự ra đi của cái đẹp, mùa xuân và thấy đời người hữu hạn nên câu thơ chùng xuống buồn não nuột:
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa.
Thế nhưng tác giả không buông xuôi theo sự sắp đặt của tạo hóa mà vùng lên tranh thủ chạy đua với thời gian, dẫn đến thái độ sống đặc biệt:
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
Cụm từ "Ta muốn ôm" đứng riêng thành dòng thơ như để nhấn mạnh, khẳng định niềm khát khao mãnh liệt, vừa dựng lên hình ảnh một con người đang dang rộng đôi tay muốn ôm trọn mọi vẻ đẹp vào lòng để tận hưởng no nê. Nhờ tình yêu cuộc sống cuồng nhiệt, tác giả đã tranh thủ lấy được vẻ đẹp của mùa xuân khi thời gian chưa tàn phá. Cái đẹp vẫn còn sự tươi mới nồng nàn đầy sinh khí: sự sống... mơn mởn...
Giọng thơ gấp gáp, sôi nổi, kết hợp với điệp ngữ "Ta muốn" diễn tả niềm khao khát ráo riết, cuống quýt, vội vàng, muốn được sống no nê, đủ đầy. Những động từ mạnh: "ôm, riết, thâu, cắn" diễn tả hoạt động nhanh, mạnh, thiên về cảm giác. Tác giả như muốn vồ vập, ngấu nghiến để tận hưởng no nê vẻ đẹp của cuộc sống, thể hiện tình yêu cuộc sống cuồng nhiệt tột cùng. Tác giả đã mở rộng mọi giác quan để tận hưởng và sống hết mình cho mùa xuân, tuổi trẻ:
Sống toàn tâm toàn trí, sống toàn hồn
Sống toàn thân và thức mọi giác quan.
Bài thơ Vội vàng thể hiện ý thức về giá trị của cuộc sống, nhất là mùa xuân - tuổi trẻ từ đó tác giả bộc lộ tình yêu đắm đuối, cuồng nhiệt, say mê cuộc sống và tuổi trẻ - một cái đẹp có thực nơi trần thế, không phải nơi hoang tưởng xa lạ nào trong các thuyết giáo. Bài thơ đem đến một nhân sinh quan tích cực phải biết sống đủ đầy, sống có ý nghĩa, biết tận hưởng những vẻ đẹp mà cuộc sống ban tặng, đừng để cuộc đời, nhất là tuổi trẻ trôi qua một cách hoang phí vô ích.
Phân tích Vội vàng khổ 1 ngắn nhất (13 câu thơ đầu) mẫu số 6
Mỗi nhà thơ đến với văn đàn đều mang một dấu ấn riêng, mang một cặp mắt mới để lưu dấu trong lòng bạn đọc, nếu đôi mắt thơ của Huy Cận mang nét buồn không gian, thì đôi mắt thơ Xuân Diệu lại là cặp mắt xanh non biếc rờn để bao luyến cảnh sắc nhân gian, để đem trái tim và bầu máu nóng của mình mang đến sức sống cho nhân thế. Khổ thơ đầu bài thơ Vội vàng đã mang đậm nét hồn ấy.
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.”
Tưởng như hồn thơ dạt dào và tươi trẻ của Xuân Diệu đã biến câu thơ thành những dòng nhựa sống chảy tràn từng câu chữ, nhưng không chỉ vậy, Xuân Diệu còn muốn đoạt quyền của tạo hóa để biến trần gian thành một bữa tiệc thắm sắc đượm hương. Ước muốn mãnh liệt này xuất phát từ cái tôi yêu trần thế nồng nàn tha thiết, muốn mang cả bầu thơ túi rượu để được nâng chén cùng thiên nhiên. Với Xuân Diệu, nếu nhân gian chỉ là một bức tranh với những gam màu nhạt nhòa và những hương sắc nhạt phai thì đó không còn là thế giới mà thi nhân hằng ao ước, hằng ham muốn đem bầu máu nóng và tình yêu của mình để hiến dâng cho nó nữa.
Nếu như ở những dòng thơ mở đầu, là lời tỏ bày mãnh liệt ham muốn được tắt nắng buộc gió để lưu giữ thanh sắc trần gian thì đến những dòng thơ tiếp theo, Xuân Diệu không chỉ vẽ ra một bức tranh thiên nhiên như một mâm tiệc mùa xuân khổng lồ, mà còn đưa đến cho người đọc cách cảm nhận mới mẻ về cuộc sống:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của ong bướm này đây khúc tình si.
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi sáng sớm thần Vui hằng gõ cửa
Tháng Giêng ngon như một cặp môi hồng
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ đã hoài xuân”.
Có thể thấy dưới “cặp mắt xanh non và biếc rờn”, vườn trần gian trong thơ Xuân Diệu không chỉ đơn thuần là sự góp nhặt của những cảnh vật đơn sơ, nhạt vị, mà mỗi ngọn cây lá cỏ, mỗi lời ca điệu hồn đều như uống phải ánh mắt si tình của thi nhân nên cũng lên hương đầy mặn nồng, biến vườn trần thành một vườn xuân. Nào là “tuần tháng mật, hoa đồng nội xanh rì, cành tơ phơ phất, khúc tình si…” tất cả đan bện, hòa quyện gắn kết để bức tranh của Xuân Diệu dậy sắc, lên hương.
Bức tranh xuân vừa mang màu tươi mới, trẻ trung, lại vừa có những thanh âm đầy trong trẻo, ngọt ngào. Đặc biệt là so sánh táo bạo về tháng Giêng như một cặp môi gần là một cách tân táo bạo và đầy mới mẻ của thi nhân. Lấy cái hữu hình để so sánh với cái vô hình, lấy cái gợi về cảm giác để gợi về thời gian, nhất là lấy ái ân, tình tự để gọi về mùa xuân. Hóa ra trong mắt chàng thi sĩ bao luyến nhân gian bằng tình yêu ấy, tất cả cảnh vật nơi nơi đều là tình yêu, đều là những gì yêu kiều duyên dáng, đều mang mật ngọt của tình tự.
Có một điều làm nên nét riêng này ở Xuân Diệu đó là, trước Xuân Diệu các nhà thơ thường chỉ thấy cuộc đời này mang đầy tính chất buồn thảm thê lương. Bà Huyện Thanh Quan ví nó như “cuộc hí trường” biết mấy đau thương, còn Nguyễn Du gọi nó là những “cuộc bể dâu”. Gần Xuân Diệu hơn, Thế Lữ chán ghét thực tại tầm thường mà tìm về với chốn thiên thai hạ giới, để say sưa trong lời ca điệu nhạc, trong chốn bồng lai.
Nhưng Xuân Diệu ở ngay trong đoạn thơ này, với những dòng cảm xúc nóng hổi bao luyến nhân gian, rồi phác họa chúng lên tràng viết, đã cho ta thấy cuộc đời vẫn lộng lẫy, tươi vui, và đáng sống, và nó như một bữa tiệc trần gian để con người say sưa trong men say của tình tự. Cho nên Hoài Thanh với đánh giá rằng: “Xuân Diệu đã đốt cảnh bồng lai và xua ai nấy về hạ giới”.
Qua phân tích 13 câu thơ đầu Vội vàng, ta nhận thấy Xuân Diệu tưởng như chỉ là một chàng thi sĩ nhạy cảm tinh tế, đem theo hồn thơ của mình để mang phấn thông của tình yêu đến muôn nơi, để cùng nhau say sưa trong bầu thơ của thi nhân, để con người nhận ra rằng cuộc đời này đáng sống, hãy biết cách trân trọng cuộc sống trần thế.
Phân tích Vội vàng khổ 2 mẫu số 7
Thơ Mới là thời kì giải phóng cái tôi, để quan niệm phi ngã trong văn chương trung đại không còn là chiếc cũi giam chật hẹp gò ép người nghệ sĩ, ở thời kì này người nghệ sĩ như cánh chim được tự do tung bay, tháo túi sổ lồng. Trong số ấy thì Xuân Diệu với bộ y phục tối tân của mình đã trở thành đại biểu tiêu biểu nhất, là nhà thơ Mới nhất trong các nhà thơ Mới. Và “Vội vàng” chính là một trong những bài thơ đặc sắc nhất về phong cách nghệ thuật của Xuân Diệu, một hồn thơ thiết tha rạo rực băn khoăn như Hoài Thanh đã nhận xét. Đặc biệt khổ thơ thứ hai từ “Của ong bướm... hoài xuân” đã bộc lộ những quan niệm thẩm mĩ và nhân sinh mới mẻ của Xuân Diệu về cuộc đời.
Nếu ở khổ thơ thứ nhất, Xuân Diệu ước ao thâu nhận, tắt nắng, buộc gió, muốn đoạt quyền năng tối thượng của tạo hóa thì đến khổ thơ thứ hai này, nhà thơ đã lí giải cho người đọc lí do vì sao ông tiếc nuối khi muốn tắt nắng, buộc gió:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa
Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới ngoài xuân.”
Bức tranh thiên nhiên, cảnh vật mùa xuân thật tươi đẹp, ngọt ngào xuân sắc, rạo rực xuân tình. Bức tranh mùa xuân hiện lên trong sáng, tràn đầy sức sống, thanh tân, trẻ trung, ngập tràn ánh sáng niềm vui, có sắc màu sức sống mơn mởn, non tơ thanh khiết của những hoa đồng nội xanh rì, của cành tơ phơ phất. Không chỉ vậy, âm thanh trong bức tranh thiên nhiên đang xuân ấy còn rộn ràng, ríu rít trong tiếng chim hót vui tươi. Ngọt ngào trong vị ngọt của “ong bướm này đây tuần tháng mật”, ngào ngạt hương của mây trời, cỏ cây hoa lá.
Tất cả những nét vẽ của Xuân Diệu đã tạo nên vườn xuân đắm say, quyến rũ được nhìn bằng cặp mắt xanh non và rờn biếc của chàng trai trẻ như lần đầu tiên đến thế giới này. Và đây mới chính là cái tôi Xuân Diệu, một cái tôi tha thiết, rạo rực ái ân, rạo rực những yêu thương mãnh liệt, mật ngọt của tình yêu tuổi trẻ, vậy nên chỉ có Xuân Diệu mới có những so sánh đặc sắc và đầy tính nhục thể như vậy:
“Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần.
Này đây ánh sáng chớp hàng mi.”
Nếu trước đây trong thơ ca trung đại lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho vẻ đẹp của con người thì đến thơ Mới Xuân Diệu một lần nữa minh chứng cho ta thấy điều ngược lại, thiên nhiên, cảnh vật cũng được so sánh với con người, những dáng vẻ và những nét đẹp của con người “hàng mi”, rồi những so sánh rất gợi tính nhục thể “cặp môi gần” rất gợi cảm giác của tình yêu. Vì thế, bức tranh xuân không chỉ có hương thơm và màu sắc mà còn chất đầy bầu máu yêu thương khát khao của Xuân Diệu, ngập tràn xuân sắc, rạo rực xuân tình, cái đẹp của cuộc đời được hình tượng qua tuổi trẻ và tình yêu.
Để qua đấy nhà thơ bộc lộ những quan niệm mới mẻ của về cái đẹp: cái đẹp phải thấm hương đượm sắc, ngọt trong vị, đậm trong hương. Nét mới của cái tôi thơ Mới chính là ở đó. Quay trở lại một chặng đường dài thơ ca về trước, thì ta thấy rằng các nhà thơ trung đại thường quan niệm cuộc đời như một cuộc bể dâu, một giấc mộng kê thôi hay “Trải qua bao cuộc bể dâu - Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”, đó chính cuộc đời là cuộc bể dâu.
Còn cũng cùng là trong thời kì thơ Mới, nếu Thế Lữ tìm cái đẹp ở trên thiên thai với “Tiếng sáo thiên thai” nếu như Huy Cận tìm đến với cái đẹp ở xa trong không gian, cái đẹp của cổ điển; Chế Lan Viên tìm cái đẹp ở xưa trong thời gian mà giờ chỉ còn là một đống điêu tàn đổ nát thì Xuân Diệu - chàng thi sĩ của xuân và tình của chúng ta, lại tìm cái đẹp ở ngay mảnh đất hiện tại này, ngay trần gian tươi đẹp, ngập tràn xuân sắc, rạo rực xuân tình, cái đẹp thắm hương, đượm sắc.
Như vậy, “với Thế Lữ thi nhân ta còn nuôi một giấc mộng rất xưa, giấc mộng lên tiên thì Xuân Diệu đốt cảnh bồng lai và xua ai nấy về hạ giới”. Với khổ hai này, “Xuân Diệu đã xây lầu thơ trên đất của một tấm lòng trần” ân ái, đa tình vậy nên ông mới khám phá ra được một thiên đường của vườn đời - vườn xuân ngay giữa thực tại này đó ư?
Nhưng một khổ thơ hay, không ngoại lệ, cái để làm quen là nhan sắc ”hình thức nghệ thuật” với bộ y phục tối tân của mình, Xuân Diệu đã làm mãn nhãn người đọc. Thể thơ tự do đan xen những câu văn dài hơi sung sức như chính tấm lòng nồng nàn yêu đời mãnh liệt của Xuân Diệu. Cách điệp cấu trúc “Này đây... của...” cũng chính là sự khẳng định nồng nhiệt và hăng say vẻ đẹp của mùa xuân trên mảnh đất thực tại, hay chính là muốn đề cao quyền riêng tư tính cá thể hóa cao độ, rất đúng với thời kì cái tôi được giải phóng trong thơ Mới.
Ngôn ngữ giàu sức gợi, những từ láy đầy sức biểu cảm đã góp phần làm nên thành công của đoạn thơ. Những hình ảnh thơ trẻ trung, tươi mới, táo bạo “ong bướm, tuần tháng mật, hoa đồng nội xanh rì, cành tơ phơ phất, khúc tình si, thần Vui” đã góp phần cho thấy lòng yêu đời và ham sống bồng bột của Xuân Diệu.
Với tấm lòng yêu đời, yêu sống mãnh liệt Xuân Diệu đã vẽ nên một bức tranh mùa xuân tươi đẹp, ngọt ngào, quyến rũ và thanh tân trẻ trung bởi cặp mắt “xanh non và rờn biếc”. Đồng thời thấy được tài năng của nhà thơ với bộ y phục tối tân của mình đã làm say đắm tâm hồn bao trái tim độc giả về mùa xuân, về tình yêu.
Phân tích Vội vàng khổ 3 (khổ cuối) mẫu số 8
Xuân Diệu được mệnh danh là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới. Thơ của ông mang màu sắc tươi mới, tràn trề sức sống và một khát khao mãnh liệt được tận hưởng cuộc đời với những gì đẹp nhất, tươi tắn nhất. Tình yêu thiên nhiên, yêu cái đẹp và yêu cuộc đời của Xuân Diệu được thể hiện sâu sắc và rõ ràng nhất trong bài thơ “Vội vàng” và đặc biệt là ở khổ ba của tác phẩm.
“Vội vàng” là một bài thơ nổi tiếng, gắn liền với tên tuổi của ông hoàng thơ tình Xuân Diệu. Ngôn ngữ thơ giản dị, tươi mới với những hình ảnh gần gũi và thân quen trong cuộc sống của con người. Bài thơ không chỉ vẽ nên một bức tranh mùa xuân xinh đẹp, căng tràn sức sống mà còn thể hiện một quan niệm nhân sinh mới mẻ về cách sống, cách cảm nhận cuộc đời. Chính vì tình yêu mãnh liệt với thiên nhiên và sự nhận biết rằng thời gian trôi qua không bao giờ trở lại nên nhà thơ đã có một thái độ sống nhanh hơn, vội vàng hơn để không bỏ lỡ bất kì một khoảnh khắc tươi đẹp nào. Và khổ thơ thứ ba của bài thơ là những vần thơ sinh động nhất thể hiện khát khao được sống, được hòa mình vào thiên nhiên.
Với Xuân Diệu, đẹp đẽ và đáng sống nhất chính là tuổi trẻ cùng tình yêu và đam mê rực cháy. Tuổi trẻ là quãng thời gian con người tràn trề sức sống nhất. Ở đó, ta có những cảm xúc yêu đương rực lửa, những ước mơ và hoài bão cao xa. Ai cũng muốn sống, muốn cống hiến hết mình khi còn trẻ nhưng quy luật của thiên nhiên, của dòng thời gian lại một đi không trở lại. Tuổi trẻ đẹp là vậy nhưng nó cũng chỉ có giới hạn nhất định.
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm
Hiểu được quy luật ấy, nhà thơ đã chọn cho mình lối sống vội vàng hơn, gấp gáp hơn để không bỏ lỡ một phút giây nào của tuổi trẻ. Nhà thơ như thúc giục, hối hả chạy theo bước đi lặng lẽ nhưng vô tình của thời gian. “Mau đi thôi” vì chẳng có lí do gì và cũng chẳng thể nào mà cuộc sống có thể đợi chờ một ai. Chúng ta phải nhanh chóng, khẩn trương hơn khi mùa xuân đang trôi qua một cách gấp gáp. Dấu chấm than đặt giữa câu như nhấn mạnh cảm xúc hối hả đang trào lên trong lòng người thi sĩ.
Tuổi trẻ vẫn chưa hết nhưng chắc chắn rồi nó sẽ biến mất. Ngay khi còn có thể, khi mọi thứ vẫn chưa trôi vào những dấu chấm cuối cùng thì ta phải bắt kịp nhịp chảy. Phải nhanh chóng và khẩn trương hơn nếu ta không muốn hối hận và những gì đã qua. Đây là quan niệm sống mới mẻ, thể hiện khát khao mãnh liệt của con người muốn tận hưởng hết mình vẻ đẹp vô tận của thiên nhiên và những cảm xúc thăng hoa của tuổi trẻ. Nhà thơ muốn sống, muốn chiến thắng và vượt lên trên dòng chảy của thời gian.
Bao cảm xúc dồn nén, bao khát khao cháy bỏng cùng với tình yêu nồng nhiệt đã đẩy mạnh những ham muốn tột cùng của người thi sĩ.
Ta muốn ôm
Cả sự sống đang bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi
Cụm từ “ta muốn” được Xuân Diệu nhắc đến nhiều lần như làm cho nhịp thơ nhanh hơn, dồn dập hơn. Nó thể hiện một cách mãnh liệt nhất khao khát của nhà thơ muốn được ôm trọn vẻ đẹp của thiên nhiên, của đất trời. Nhà thơ không còn xưng “tôi” để nói lên ước muốn của chính mình mà dùng “ta” nhằm chỉ đó là khát khao cháy bỏng của tất cả mọi người, những ai đang trào dâng khát khao sống mãnh liệt của tuổi trẻ. Nhà thơ muốn ôm, muốn riết tất cả những gì đẹp đẽ nhất của đất trời. Đến đây sự vội vàng sống như được đẩy cao hơn, gấp gáp hơn.
Xuân Diệu muốn ôm trọn tất cả, muốn tận hưởng trọn vẹn vẻ đẹp vô tận của thiên nhiên một cách no nê, đã đầy. Niềm khát khao ấy như mạnh mẽ hơn, cháy bỏng hơn trước những cảnh vật quyến rũ nhất của đất trời. Đó là những áng mây nhẹ nhàng đang bồng bềnh trôi trên bầu trời, là làn gió thanh mát đem theo hương thơm ngạt ngào của thiên nhiên, là những cánh bướm chập chờn cùng tình yêu rực lửa... Tất cả những vẻ đẹp ấy như thôi thúc nhà thơ phải sống gấp gáp hơn nữa. Động từ “cắn” ở câu thơ cuối như là điểm nhấn ấn tượng nhất của bài thơ.
Nhà thơ không chỉ dùng xúc giác, thị giác hay khứu giác để tận hưởng đất trời nữa mà ông muốn dùng hành động thô bạo hơn, mạnh mẽ hơn. Xuân Diệu muốn cắn, muốn chiếm hữu một cách tối đa nhất vẻ đẹp của mùa xuân. Nhà thơ muốn nhai, muốn ngấu nghiếm và nuốt trọn hương sắc của đất trời vào trong mình, không muốn nó bay đi và biến mất. Cắn như một hành động thể hiện tình yêu và khát khao chiếm hữu của chủ thể để từ đó ta hiểu được tình yêu của Xuân Diệu đối với thiên nhiên, với mùa xuân và tuổi trẻ lớn lao biết nhường nào.
Như vậy, phân tích khổ cuối bài thơ Vội vàng chỉ với vài câu thơ ngắn ngủi đã nêu ra một quan niệm nhân sinh mới mẻ. Đó là thái độ sống tích cực, khát khao được tận hưởng vẻ đẹp tuyệt vời của cuộc sống. Chúng ta hãy sống gắn bó với thiên nhiên, hòa cùng thiên nhiên và sống bằng chính tình yêu và tuổi trẻ của bản thân mình.
Bài văn phân tích Vội vàng mẫu số 10
Xuân Diệu từng được mệnh danh là “ông hoàng của thơ tình”. Đúng vậy, ông viết nhiều thơ và nổi tiếng nhiều với những bài thơ tình, nhưng có lẽ đến với Vội vàng, bài thơ viết vào năm 1938, in trong tập Thơ Thơ, chúng ta có thể nhận thấy vì sao chẳng cần đến những bài thơ tình thì ông vẫn là một nhà thơ nổi tiếng, một nhà thơ lớn của dân tộc. Bởi tiếng thơ trong Vội vàng là tiếng đời, bộc lộ nhiều rung cảm và những triết lí sâu sắc. Trong đó thi phẩm cũng đã mang đến một quan niệm sống vô cùng ý nghĩa - sống vội vàng.
Nhan đề của bài thơ đã bộc lộ ngay quan niệm sống vội vàng của Xuân Diệu. Đó là một tính từ chỉ sự nhanh chóng, gấp gáp trong một hành động nào đó. Ở đây Xuân Diệu lại đề cao sự vội vàng trong cách sống, thái độ sống. Chẳng lẽ sống vội vàng là phải sống nhanh, sống gấp gáp vậy ư? Không những thế, cả bài thơ tác giả còn giục giã mọi người hãy sống không chờ đợi, sống hết mình, sống căng tràn từng phút, từng giây, sống đến trọn vẹn của “sống” để chống lại quy luật trôi chảy khắc nghiệt của thời gian.
Ngay mở đầu bài thơ, ông đã vội vàng qua hai ước muốn đầy táo bạo: tắt nắng, buộc gió. Đây là sự phi lí, hoang đường. Nào ai can thiệp được vào quy luật của tạo hóa, nhưng quan niệm sống vội vàng của Xuân Diệu lại khẳng định điều đó là có lí. Bởi nếu không ngưng đọng thời gian thì mọi thứ màu sắc, hương vị của cuộc sống sẽ theo nắng, theo gió mà phai nhạt, mà bay đi mất. Con người chẳng thể níu giữ, khóa chặt bên mình. Vậy chỉ còn cách phải sống vội vàng thì mới thỏa được lòng khao khát, mới đắm mình mà tận hưởng, mới không bỏ lỡ một chút nào hương sắc của cuộc đời. Quan niệm sống vội vàng thể hiện ngay qua khát vọng ngạo nghễ, khác thường mà yêu đời mãnh liệt như thế.
Thế nhưng nhà thơ cũng chẳng nói suông, ước muốn của ông hoàn toàn có căn cứ, vì cuộc đời này tươi đẹp và vô cùng đáng sống, nên càng phải vội vàng:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật…
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
Đoạn thơ vang lên với những niềm reo vui, thích thú. Ông như một một “hướng dẫn viên” đưa người đọc đi khám thính vẻ đẹp của trần thế này. Thi sĩ sung sướng lắm vì đắm chìm trong cảnh sắc tươi non, viên mãn của mùa xuân: ong bướm tuần tháng mật, hoa đồng nội xanh rì, lá cành tơ phơ phất, yến anh khúc tình si, ánh sáng chớp hàng mi, mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa, tháng giêng ngon như một cặp môi gần. Cái hay và ý nghĩa của nhà thơ là để mọi người thưởng thức vẻ đẹp ấy không phải ở chốn bồng lai tiên cảnh, mà ở ngay xung quanh mình. Bởi vậy, Xuân Diệu quan niệm sống vội vàng là yêu thiên nhiên, cuộc sống, nhưng là những gì gần gũi nhất, thân thuộc nhất và trong những khoảnh khắc căng tràn sức sống, tràn ngập xuân tình nhất. Nhưng ông chợt nhận ra, dù là ngay quanh mình đi nữa thì chúng chẳng ở mãi bên mình, nhà thơ dẫu yêu, dẫu ham đến đâu thì rồi nó cũng vụt mất. Bởi vậy, lời thơ say mê, tha thiết nhưng bỗng chùng xuống, vì phải vội vàng một nửa. Vừa tận hưởng vừa vội vàng chính là những gì Xuân Diệu quan niệm. Đó cũng chính là cuộc chạy đua với thời gian để hưởng trọn hương sắc cuộc đời.
Cách sống của Xuân Diệu đúng là không chờ đợi. Ông vội vàng đến mức mà ở ngay mùa xuân ông đã thấy nhớ nó, chứ không chờ tới mùa hạ mới nhớ mùa xuân. Yêu thương, nhớ nhung tất thảy những gì đang tồn tại trở thành phương châm sống của thi sĩ. Với ông điều này có căn cứ.
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua…
Chẳng bao giờ! Ôi chẳng bao giờ nữa!
Xuân Diệu chẳng những quá ám ảnh về thời gian mà ông còn nhạy cảm đến lạ lùng về sự trôi chảy của nó. Hầu hết chúng ta cho rằng, mọi thứ đang đến là đến, chứ ít suy nghĩ rằng nó đang dần trôi qua. Nhưng Xuân Diệu thì khác, ông cảm nhận thấy rõ từng bước đi của thời gian. Nên xuân tới là xuân đang qua, non tức là sẽ già, thậm chí còn đến mức sẽ hết… Tại sao nhà thơ lại quá nhạy cảm như vậy? Sự nghiệt ngã ấy bấy lâu nay ai cũng biết, nhưng nhận ra nó để biết rằng nó đang lấy hết đi những gì của cuộc sống này chỉ có Xuân Diệu. Đoạn thơ mang giọng điệu tranh biện rất say sưa. Ông đang minh chứng rằng cuộc sống này đẹp nhưng không bao giờ ở lại, mỗi phút giây trôi qua là sẽ mất đi. Những thứ nhìn thấy tưởng chừng như sẽ tồn tại lâu, nhưng thực chất đang mất mát, hao mòn dần. Cho nên nếu không sống vội vàng thì chỉ còn lại là những gì tiếc nuối, xót xa.
Nhà thơ đưa cả thêm những hình ảnh nhân hóa về sự mất mát, chia lìa bởi thời gian: tháng năm rớm vị chia phôi, núi sông than thầm tiễn biệt, gió xinh hơn dỗi vì phải bay đi, chim đứt tiếng reo thi vì độ phai tàn sắp sửa… để minh chứng cho điều ấy. Đó mới là vạn vật, trời đất, còn nếu là con người thì hỡi ôi, chắc hẳn phải nhiều ngậm ngùi, chua chát lắm. Nên nhà thơ muốn chúng ta hãy sống vội vàng đi để chạy đua với thời gian, để về sau chúng ta không còn phải thốt lên những lời đầy tiếc nuối: Chẳng bao giờ! Ôi chẳng bao giờ nữa! Và rồi có phải chứng kiến những gì chia lìa, đứt gãy ấy cũng không còn là điều tiếc nuối, xót xa. Quan niệm sống vội vàng trong cái nhìn về thời gian như thế của Xuân Diệu chính là thông điệp sống phải biết trân trọng từng phút, từng giây để không bao giờ phải hối tiếc.
Không những chỉ ra cuộc sống này tươi đẹp rất đáng sống vội vàng, thời gian trôi chảy rất nghiệt ngã, vô tình nên càng phải sống vội vàng, nhà thơ còn giục giã và mách chúng ta cách để sống vội vàng.
Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm…
- Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi
Lời giục giã đầy hối hả, khẩn thiết. Trong bài thơ có tên Giục giã ông cũng viết:
Mau với chứ! Vội vàng lên với chứ
Em em ơi, tình non sắp già rồi.
Chẳng phải đây là lần đầu tiên Xuân Diệu khiến người ta cuống quýt thế, mà sống vội vàng là phải vậy. Hãy sống nhanh lên, gấp gáp lên khi mùa chưa ngả chiều hôm, khi cuộc đời chưa vào lúc bóng xế, lúc mình còn tuổi trẻ. Bởi vậy đừng ngại ngần, hãy ôm, hãy riết, hãy say, hãy thâu, hãy cắn để những khoảnh khắc tuyệt diệu của sự sống mới bắt đầu mơn mởn, mây đưa và gió lượn, cánh bướm với tình yêu, cái hôn nhiều, non nước, cỏ cây và xuân hồng được ta hưởng trọn. Thậm chí phải được ngây ngất, chếnh choáng, đã đầy, no nê mới thực sự vội vàng. Bao nhiêu bút lực của sự nhiệt huyết, sôi trào, Xuân Diệu dồn hết vào đoạn thơ cuối. Lời thơ căng tràn cảm xúc, khiến ai đọc cũng như mở lòng ra, cũng chẳng thể ngồi yên mà sống một cách vô nghĩa. Ý nghĩa nhân sinh cao đẹp trong cách sống vội vàng là sống đúng thời điểm. Khi còn tuổi trẻ, khi trong những khoảnh khắc đẹp đẽ của cuộc sống, đó là lúc ta nên sống hết mình. Không phải cứ nhanh, cứ gấp là vội vàng được mà phải sống sao cho đáng trong từng khoảnh khắc mình bỏ ra.
Xuân Diệu viết bài thơ này khi ông mới 22 tuổi nhưng những lời tranh biện và giàu tính triết lý trong bài thơ không hề non nớt. Để có được một quan niệm sống vội vàng giàu ý nghĩa tích cực như thế phải được bắt nguồn từ một thái độ sống nghiêm túc, một tình yêu với cuộc sống mãnh liệt. Bài thơ Vội vàng và quan niệm sống của nhà thơ thực sự đã trở thành một bài học giá trị với nhiều thế hệ trẻ sau này.
Phân tích Vội vàng bài số 11
Xuân Diệu được coi là nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới. Ông là nhà thơ trữ tình lãng mạn, luôn khát khao giao cảm với đời đến cuống quýt, cuồng nhiệt. Bài thơ Vội vàng tập trung cao nhất cái khát vọng mãnh liệt ấy. Xuân Diệu đặt khát vọng giao cảm giữa tuổi trẻ và xuân tình, qua đó bộc lộ một xúc cảm triết học, một quan niệm nhân sinh mới mẻ, hiện đại.
Xuân Diệu yêu thiên nhiên, yêu cái đẹp đến mãnh liệt đến cường tráng nhưng bên trong những vần thơ của ông vẫn gây cho người đọc một cảm giác chênh vênh, hụt hẫng. Bởi tình yêu luôn gắn với nỗi đau, niềm vui song song với nỗi buồn, bởi niềm vui đó rồi cũng phải hết, không thể tồn tại vĩnh hằng được. Bằng cái nhìn mổ xẻ, ta cũng thấy lòng khát sống, ham đời trong Vội vàng bị chẻ đôi thành hai tầng bậc: Một cách cảm thụ thế giới mang tính bi kịch và một cách ứng xử trước thế giới mang tính tích cực.
Nhà thơ cảm thấy yêu cuộc sống này lắm, muốn níu giữ nhưng nhìn lại, tác giả lại nhận thấy một bi kịch sự sống. Trong sự cảm thụ thế giới của Xuân Diệu, cuộc sống được phát hiện ở tính bi kịch. Bi kịch này là sự giằng xé giữa tình yêu và nỗi đau, giữa cảm xúc và nhận thức.
Tình yêu cuộc sống này tràn ngập trong huyết mạch của nhà thơ, nhà thơ nhận thấy cuộc sống nơi mình đang sống như một thiên đường. Có một câu hỏi lớn từng thôi thúc loài người tìm lời giải đáp: Vẻ đẹp cuộc sống ở đâu? Đạo Thiên Chúa tìm vẻ đẹp ở thiên đường cao cả. Đạo Phật tìm vẻ đẹp ở cõi niết bàn bình an. Còn Xuân Diệu, thiên đường nằm ngay trên mặt đất:
Cửa ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
Cuộc sống thật tươi đẹp, thật đáng sống biết bao khi mỗi buổi sáng thần Vui hằng gõ cửa. Điệp ngữ: “Này đây” lặp bốn lần là tiếng reo vui đầy kinh ngạc của tác giả vì liên tiếp phát hiện ra những vẻ đẹp kì lạ của cuộc sống. Sau mỗi tiếng reo vui, cuộc sống hiện ra, giản dị mà đắm say: cái đắm say tình tứ của ong bướm, yến anh; cái đắm say bát ngát sắc xanh của đồng nội; cái đắm say non tơ của cành lá… Từ những hình ảnh cụ thể, tiếng reo vọt trào lên một cảm xúc tổng hợp và lạ lùng trước thiên nhiên:
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
Đây được coi là câu thơ có một không hai trong thơ ca Việt Nam, tác giả đã dùng cái vật nhìn thấy để so sánh với cái vô hạn của thời gian. Câu thơ đặc sắc lấp lánh ba vẻ đẹp độc đáo. “Tháng giêng” là khởi đầu của một năm, khởi đầu của mùa xuân - mùa xuân tươi non mơn mởn là biểu tượng vẻ đẹp cuộc sống. Hình ảnh “cặp môi gần” gợi làn môi tươi hồng của thiếu nữ đang hé mở đợi chờ. Phép so sánh đã hội tụ mùa xuân với tuổi trẻ thành vẻ đẹp tổng hợp của cuộc sống.
Quan niệm thẩm mỹ mới mẻ của Xuân Diệu đã đưa cặp môi thiếu nữ vào trung tâm vũ trụ, con người thành chuẩn mực vẻ đẹp của thiên nhiên. Một Xuân Diệu táo bạo, mới lạ nữa xuất hiện trong từ “ngon” đầy cảm giác nhục thể, tình yêu cuộc sống được huy động cả linh hồn lẫn thể xác. Vẻ đẹp của khổ thơ thật trẻ, thật nồng. Thơ Xuân Diệu không bao giờ bình yên vì tình yêu luôn vấp phải nỗi đau. Mạch thơ vui đang dào dạt chảy bỗng vấp phải một dấu chấm cắt giữa câu thơ:
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa.
Cuộc sống tươi đẹp, ý nghĩa bao nhiêu thì nhà thơ lại cảm thấy mình rơi vào tấn bi kịch bấy nhiêu. Bi kịch cuộc sống dồn tụ trong câu thơ. Bi kịch xuất phát từ một phát hiện triết học về thời gian:
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Đây là quan niệm chưa từng có trong cái nhìn truyền thống. Thời gian trung đại vốn được quan niệm là thời gian tuần hoàn, thời gian lặp lại tuần tự (Tháng chạp là tháng trồng khoai - tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà). Nhịp thời gian muôn đời không đổi tạo nên thế quân bình nội tâm khiến con người ung dung, bình tĩnh đến chậm chạp. Thời gian hiện đại khác hẳn, là thời gian tuyến tính (một đi không trở lại), nên thời gian tự hủy diệt trong lẽ tồn vong ngắn ngủi, gấp gáp.
Nhận thức ấy được Xuân Diệu thể hiện bằng những cặp từ tới - qua, non - già… cuộc sống vận động phát triển trong quá trình vừa khẳng định vừa phủ định, cái phủ định nằm ngay trong cái đang khẳng định. Đây là những nghiền ngẫm triết học tinh tế và có chiều sâu, thỏa mãn phần nào nhu cầu trí tuệ của người đọc (nhất là người đọc trẻ tuổi ham hiểu biết thơ Xuân Diệu).
Chỗ bất cập của Xuân Diệu là thi sĩ quá nghiêng về cái “qua”, cái “già” (tức là cái phủ định) nên quan niệm sống của Xuân Diệu có phần thiếu bình tĩnh, ổn định mà hơi ngả về phía “vội vàng” đến hốt hoảng, cuống quít, tạo nên hơi thở gấp gáp rất riêng trong thơ Xuân Diệu.
Vì vậy, bi kịch trong nhận thức tràn vào tâm hồn, Xuân Diệu nhìn đâu cũng thấy mất mát, cũng thấy chia li:
Mùi tháng năm đang rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt.
Nỗi đau thấm cả vào cơn gió, tiếng chim, nhưng đau nhất là tuổi trẻ nhạy cảm đang khát sống:
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi.
Nhìn tổng thể, nỗi đau vừa tương phản với tình yêu để tạo thành bi kịch, vừa là kết quả của tình yêu. Bởi vì, nếu không biết yêu cuộc sống thiết tha, sâu sắc đến thế, làm sao biết xót đau khi hiểu rằng thời gian luôn chảy trôi, không có gì bền vững, nhất là sự hữu hạn của mùa xuân, tuổi trẻ, kiếp người. Cho nên, vội vàng là nỗi đau lớn của một tình yêu lớn.
Bốn câu thơ ở khổ 1 là một khát vọng chống lại quy luật tự nhiên: “Tôi muốn tắt nắng đi - Cho màu đừng nhạt mất - Tôi muốn buộc gió lại - Cho hương đừng bay đi”. Đây là khổ thơ duy nhất Xuân Diệu dùng thể ngũ ngôn để tạo một giọng điệu gọn, chắc, thể hiện ý chí mạnh mẽ muốn chặn đứng bước chân thời gian. Nhưng ý chí chủ quan sao thắng được quy luật khách quan. Vì thế, hơi thở mạnh mà bên trong vẫn hẫng hụt, bất lực…
Nhưng Xuân Diệu đâu có chịu bó tay, phải tìm một cách khác: hãy tận hưởng cuộc sống. Đó là nội dung chủ yếu của đoạn kết:
“Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn,
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!"
. Hệ thống từ: ôm, riết, say, thâu, cắn là một trường cảm xúc ngày một dâng trào, bộc lộ một khát vọng sống mãnh liệt và cường tráng. Trái tim yêu của Xuân Diệu như muốn căng ra chứa hết vũ trụ. Câu kết bài thơ đẹp rực rỡ. Cuộc sống mơn mởn, tròn căng hấp dẫn như trái xuân hồng. Thi sĩ ước vọng được “cắn” vào quả đời ấy để tận hưởng một cách nhục cảm, hết mình mọi hương vị cuộc sống. Chỉ có Xuân Diệu mới tạo ra kiểu cảm xúc táo bạo, mới lạ mà tinh khiết như thế.
Nhờ trí tưởng tượng táo bạo, mới mẻ, của Xuân Diệu mà nhiều người trong chúng ta muốn trở lại tuổi trẻ của mình, để sống hết mình với thiên nhiên tươi đẹp, với chốn thiên đường hiện hữu ngay trên mặt đất này. Không chỉ ca ngợi cảnh đẹp nhà thơ muốn đưa ra một lời khuyên cho thế hệ trẻ đừng để tuổi trẻ của mình trôi đi một cách phí hoài, hãy sống để có ích cho bản thân và cho xã hội, sống để được hưởng trọn vẹn vẻ đẹp của cuộc đời.
Sống vội vàng không có nghĩa là sống gấp, sống ích kỉ trong hưởng thụ. “Vội vàng” thể hiện một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Biết quý trọng thời gian, biết quý trọng tuổi trẻ, biết sống cũng là để yêu; tình yêu lứa đôi, tình yêu tạo vật. Tình cảm ấy đã thể hiện một quan niệm nhân sinh mới mẻ, cấp tiến.
Bảy thập kỉ sau bài thơ “Vội vàng” ra đời, nhiều câu thơ của Xuân Diệu vẫn còn làm cho không ít người ngỡ ngàng! Xuân Diệu đã sống “Vội vàng” như vậy. Với hơn 50 tác phẩm, hơn 400 bài thơ tình, ông đã góp phần làm giàu đẹp cho nền thi ca Việt Nam hiện đại.
Nhà thơ Xuân Diệu đã đi vào thế giới vĩnh hằng những tao nhân mặc khách, nhưng ta vẫn cảm thấy ông đang hiện diện giữa cuộc đời và hát ca:
“Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
“Mau với chứ! Vội vàng lên với chứ!
Em, em ơi! Tình non sắp già rồi…”
Phân tích bài thơ Vội vàng cho ta thấy một cảm quan nghệ thuật rất đẹp, rất nhân văn, một giọng thơ sôi nổi, dâng trào và lôi cuốn, hấp dẫn. Có chất xúc giác trong thơ. Có cách dùng từ rất bạo, cách cấu trúc câu thơ, đoạn thơ rất tài hoa. “Vội vàng” tiêu biểu nhất cho “Thơ mới”, thơ lãng mạn 1932 - 1941.
Phân tích Vội vàng bài số 12
“Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”
(Giục giã – Xuân Diệu)
Xuân Diệu là một trong những cây đại thụ lớn của nền thi ca Việt Nam, ông còn được mệnh danh là “ông hoàng” của những bài thơ tình cháy bỏng, nồng nàn. Ngay trong lời thơ hay đời thực thì Xuân Diệu lúc nào cũng thể hiện được cái khát khao mãnh liệt với tình yêu, với cuộc đời. Không giống như những nhà thơ mới cùng thời, Xuân Diệu đã sớm khẳng định được cái tôi riêng biệt trong chất sống sôi nổi, cuồng say của mình.
Vội vàng là một sáng tác rất tiêu biểu, nói lên tiếng của một trái tim đang khát khao, cuồng si với lẽ sống cuộc đời. Bài thơ cũng chứa đựng cả nỗi trăn trở, khắc khoải, lo âu của Xuân Diệu trước sự trôi nhanh vội vã của thời gian.
Xuân Diệu có bút danh là Trảo Nha, ông sinh ra ở quê mẹ Bình Định, nhưng lớn lên ở Quy Nhơn. Ông là thành viên của nhóm Tự lực văn đoàn cũng là cây bút mở đầu cho phong trào Thơ mới ở nước ta lúc bấy giờ. Các tác phẩm nổi bật trong giai đoạn này có: Thơ Thơ (1938), Gửi hương cho gió (1945). Tham gia vào phong trào Cách mạng những năm 1944, Xuân Diệu trở thành một cây bút xuất sắc chuyên viết về đề tài ca ngợi cách mạng, giọng thơ ông hùng tráng, giàu chất chính luận, và giàu nét tự sự trữ tình. Vội vàng là bài thơ được trích từ tập Thơ Thơ (1938), được lấy cảm hứng từ một tâm hồn yêu cuộc sống thiết tha và những khám phá mới mẻ về triết lý nhân sinh của cuộc đời.
Mở đầu bài thơ tác giả đưa người đọc đến những cảm xúc vui tươi, yêu đời trước vẻ đẹp của mùa xuân mơn mởn. Vẻ đẹp đất trời hiện lên như một bức tranh nhiều màu sắc với những hình ảnh thiên nhiên thơ mộng, đẹp đẽ đến nao lòng. Trước mắt nhà thơ, cuộc sống đang diễn ra thật sôi động và tràn đầy nhựa sống:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi sáng sớm, thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
Có lẽ vì quá say mê trong niềm hạnh phúc tột cùng mà tác giả đã nảy ra trong đầu một ý nghĩ thật táo bạo “tắt nắng”, “buộc gió”, nắng và gió là những sự vật vô hình ta có thể cảm nhận bằng mắt nhưng tay ta lại chẳng thể chạm được. Nghệ thuật điệp từ “tôi muốn” kết hợp cùng các động từ mạnh đã cho người đọc thấy được niềm đam mê mãnh liệt và khát khao nắm giữ, chinh phục tạo hóa của nhà thơ. Khổ thơ ngũ ngôn mở đầu cho tác phẩm vừa cô đọng ý nghĩa nhưng cũng không kém phần cảm xúc.
Khung cảnh thiên nhiên rực rỡ sắc màu được Xuân Diệu miêu tả bằng những câu thơ bay bổng, rất sinh động. Khung cảnh non nước hiện lên trong thơ đẹp lung linh như một “thiên đường trên mặt đất”. Hình ảnh “ong bướm”, “hoa của đồng nội”, “lá của cành tơ”, “yến anh”,… qua con mắt của người nghệ sĩ tài hoa đã hiện lên thật đáng yêu, thật say đắm lòng người. Cuộc sống như bữa tiệc đang chào đón cùng những hương vị ngọt ngào, lãng mạn của “tuần tháng mật”, hương thơm trong lành của “đồng nội xanh rì”, âm thanh lôi cuốn trầm bổng như “khúc tình si”. Tình yêu lứa đôi hiện hữu khiến cho cuộc sống lại càng ấm áp, yêu đời và hạnh phúc ngập tràn khắp mọi nơi.
Điệp cấu trúc “này đây” của Xuân Diệu được sử dụng thật tài tình và đầy khéo léo như lời mời gọi, phô bày hết những tinh hoa,tuyệt mỹ của cuộc sống. Những khi sáng sớm, “thần Vui hằng gõ cửa” ta lại chào đón một ngày mới trong niềm hân hoan, rạng rỡ. Hình ảnh so sánh đầy sáng tạo và rất gợi cảm “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”, tháng giêng tháng của mùa xuân tràn đầy sức sống được so sánh như “một cặp môi gần”, đó là bờ môi căng mọng tuyệt đẹp của người con gái đang độ xuân thì.
Có thể nói cái nhìn của Xuân Diệu rất mới mẻ và độc đáo, ông đã lấy chuẩn mực cái đẹp của con người để miêu tả cảnh sắc của thiên nhiên. Đây quả là một câu thơ đặc sắc và có giá trị nghệ thuật vô cùng to lớn. Quá sung sướng với niềm khát khao của mình, tác giả đã vội vàng chạy theo nhịp sống hối hả, ông chẳng thể chờ “nắng hạ” bởi vì tâm hồn ông lúc nào cũng như đang là mùa xuân chói sáng.
Yêu cuộc sống tha thiết nhưng Xuân Diệu lại tận hưởng một cách vội vàng và bám riết, ông không giấu nổi cảm xúc lo âu, khắc khoải trong lòng. Cuộc đời là vô hạn nhưng đời người lại quá ngắn ngủi, những suy nghĩ trăn trở cứ hiện lên trong tâm hồn tác giả: Làm sao có thể níu kéo được thanh xuân? Làm sao có thể tận hưởng trọn vẹn cuộc đời?
“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt...
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa...”
Tác giả vui sướng xen lẫn nỗi lo lắng, hoài nghi. Ông sợ hãi tuổi trẻ sẽ qua đi nhanh như thời gian vô tình. “Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua” câu thơ nghe tưởng như vô lý nhưng lại là quan điểm nhân sinh khéo léo được tác giả lồng ghép vào thơ, mỗi mùa “xuân” tới mang theo bao niềm tin, hy vọng nhưng cũng là nỗi buồn hiu quạnh của con người nhưng “xuân” cũng mang đi tuổi thanh xuân của ta.
Đâu đó từng có câu hát vang vọng: “Mỗi mùa xuân sang mẹ tôi già đi một tuổi”, lòng người thì bao la nhưng không thắng nổi quy luật tạo hoá, mùa xuân thì cứ đi rồi tới, chỉ có con người là già đi theo thời gian. Những câu thơ có chút giọng hờn trách của nhà thơ: “Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn/Nếu tuổi trẻ chằng hai lần thắm lại”, thời gian thì dài bất tận mà đời người lại chỉ là phù du, rồi ai cũng trở về với cát bụi.
Mối quan hệ đối kháng giữa thiên nhiên vĩnh hằng và con người bé nhỏ, Xuân Diệu sớm đã nhận ra được quy luật tất yếu ấy, ông đau khổ, tuyệt vọng và ôm trong mình mộng ước được sống mãi với cuộc đời. Nghệ thuật điệp từ “xuân”, phép đối xứng “rộng”, “chật” tạo cho mạch thêm thêm dồn dập, gấp gáp, tăng sức biểu cảm lôi cuốn người đọc. Những từ ngữ: “Tiếc, chia phôi, tiễn biệt, đứt, phai tàn”,… kết hợp với những dấu chấm than, dấu hỏi, các cặp vần gieo liên tiếp, tạo nên cả một khoảng trời buồn bã, ảm đạm, đau khổ và đầy nuối tiếc.
Đoạn thơ cuối là khát khao sống cháy bỏng, mong muốn được giao cảm với cuộc đời. Nhịp sống vội vàng, dồn dập được Xuân Diệu tái hiện bằng những câu thơ mang xúc cảm dạt dào và đầy cuồng nhiệt:
“Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
Lời thúc giục vội vã “Mau đi thôi!”, cùng đại từ nhân xưng “ta” được điệp lại nhiều lần bộc lộ cái tôi mạnh mẽ của nhà thơ. Hàng loạt những hình ảnh thơ mộng, trữ tình “sự sống mơn mởn”, “mây đưa và gió lượn”, “cánh bướm với tình yêu”,… kết hợp với những động từ mạnh “ôm”, “riết”, “thâu” tạo nên giọng thơ say đắm, tận hưởng hương vị tình yêu nồng cháy. Câu thơ “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi” đầy táo bạo, mới lạ, động từ “cắn” khiến ta liên tưởng mùa xuân thật quyến rũ, gợi cho ta cảm giác muốn chiếm giữ lấy cái đẹp, cái tinh túy ấy của thiên nhiên.
Xuân Diệu nhận ra không thể thay đổi quy luật tạo hóa, những câu thơ cuối bài như lời khuyên của tác giả với độc giả: Mỗi người chỉ có một lần để sống vậy nên hãy sống cuộc đời ý nghĩa, cháy hết mình với đam mê, khát khao của bản thân để không phải nuối tiếc về sau.
Xuân Diệu là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”, hồn thơ ông mang đậm tính nhân văn, giọng thơ linh hoạt, ngôn từ sáng tạo, độc đáo, cách diễn đạt lôi cuốn, hấp dẫn người đọc. Bài thơ Vội vàng chứa đựng cả bầu trời tâm tư, cảm xúc của nhà thơ, thể hiện được nỗi niềm khát khao hoà nhập với cuộc đời của Xuân Diệu. Tác phẩm đã góp phần to lớn đưa tên tuổi ông vụt sáng trên bầu trời thi ca Việt Nam.
Phân tích bài Vội vàng mẫu số 13
Liệu rằng ai cũng dám thể hiện cái tôi của mình, khát khao được sống mãnh liệt trong tình yêu, đem nó vào thơ ca thì chỉ có thể là Xuân Diệu, nhà thơ nổi tiếng trong các nhà thơ mới.
Như Hoài Thanh đã nhận xét “Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. Ông đã đem đến cho thơ ca đương thời một luồng gió mới với quan điểm sống mới mẻ đầy sáng tạo, về tình yêu, về sắc xuân, về tuổi trẻ. Xuân Diệu lo sợ ám ảnh về thời gian.
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
Ông đã xưng “Tôi” thay cho “Ta và ta”. Trong lối viết thơ cũ, luôn bị gò bó về câu chữ, người viết không được xưng danh hay chỉ “Tôi”. Thơ ông thể hiện nỗi khát khao được sống, tham lam tranh giành tuổi trẻ với thời gian. Vì thời gian qua mau nên ông nghĩ hãy sống hết mình với tuổi trẻ. Xuân Diệu đã sáng tác ra bài thơ Vội vàng để thể hiện khát vọng của mình.
“Thà một chút huy hoàng rồi vụt tắt
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”
Từng câu, từng chữ của Xuân Diệu thể hiện rõ niềm khát khao với cuộc sống; yêu đời và ham muốn cuồng nhiệt. “Hỡi Xuân Hồng ta muốn cắn vào ngươi”. Thơ ông luôn có những từ ngữ sáng tạo, giọng điệu say mê, sôi nổi thể hiện rõ mạch cảm xúc ngôn từ, hình ảnh thơ.
“Ta đắm say cùng Xuân Diệu”
Thơ ca của ông luôn đằm thắm, ru người đọc bằng giọng đầy thắm thía, khiến người đọc như đắm chìm sâu vào từng câu từng chữ.
“Ta muốn ôm cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn…”
“Ta muốn” điệp từ lặp lại liên tục thể hiện niềm khát khao với cuộc sống luôn thay đổi, chạy đua từng ngày, thời gian như quá tham lam nên cứ trôi nhanh trôi mãi không ngừng, không chờ đợi bất kỳ một ai, muốn trân trọng cuộc sống này.
“Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”
Thời gian có thể tuần hoàn nhưng tuổi trẻ thì chẳng thể nào trở lại vì vậy chúng ta đừng ngại ngùng, đừng sợ sệt, hãy sống với niềm yêu thích, hãy sống tất cả và làm những điều mình mong muốn.
“Anh bảo em xích lại thêm chút nữa
Như thế vẫn còn là xa lắm”
Ông luôn bày tỏ thể hiện rõ tình yêu của mình khao khát được hòa nhập với người mình yêu, khao khát đắm say với tình yêu mãnh liệt.
Thơ ca đương đại luôn tuân thủ nhiều niêm luật, nội dung và hình thức bị gò bó, phải nói về đất nước, lòng yêu quê hương đất nước… theo một lối quy cũ, không phá cách. Nhưng Xuân Diệu đã đem lại cho thơ đương đại một cái nhìn nhận mới về câu từ, so với các nhà thơ mới khác, thể hiện rõ quan niệm sống, tình yêu khát khao với cuộc đời này. “Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong tình trường cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng cùng với Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn rồi trở về hồn ta cùng Huy Cận.”
Xuân Diệu đã thể hiện rõ phong cách của riêng mình, một phong cách lạ, độc đáo nhưng trữ tình, đặc biệt khác hẳn so với những nhà thơ mới khác, ông chính là nỗi ám ảnh về thời gian của thơ ca đương đại. Ông là niềm tự hào, sự cháy bỏng sống hết mình mà chúng ta cần học hỏi. Hãy cứ yêu và sống hết với cuộc đời mình, để mai này không phải luyến tiếc, hối hận vì ngày hôm qua chúng ta chưa làm được.
Phân tích bài Vội vàng mẫu số 14
Thời đại thơ Mới là một nhánh rẽ đầy ngoạn mục, táo bạo của nền thơ ca Việt Nam. Khi ấy, thơ văn khoác lên cho mình một chiếc áo được cách tân đầy mới mẻ, là mảnh đất vô cùng màu mỡ đã vun trồng biết bao hồn thơ độc đáo như: Tản Đà, Thế Lữ, Hàn Mạc Tử hay Xuân Diệu. Nếu Tản Đà được biết đến là người “đã dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc dạo chơi tân kì đương sắp sửa” thì Xuân Diệu lại là người đã đưa những khúc nhạc ấy đến một vị trí xứng tầm trong lòng độc giả. Bài thơ “Vội vàng” - một thi phẩm tiêu biểu cho một phong cách thơ được cách tân rất mới mẻ về cả nội dung và hình thức của Xuân Diệu, bài thơ thể hiện quan niệm sống, niềm ham sống, khao khát sống và tận hưởng đến vô biên của thi nhân:
“Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”
Mở đầu bài thơ là bốn câu thơ có lẽ mang nét độc đáo nhất trong bài, thể hiện mãnh liệt và táo bạo của thi nhân:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.”
Chỉ riêng bốn câu thơ ấy mang thể ngũ ngôn, đây là thể thơ phù hợp cho việc diễn tả cảm xúc đặc biệt của Xuân Diệu. Câu thơ ngắn kết hợp với nhịp điệu gấp gáp, dồn dập tựa như những cơn sóng đang trào dâng dữ dội trong lòng nhà thơ. Điệp ngữ “Tôi muốn” được nhắc lại hai lần, đều đứng ở đầu câu qua đó thể hiện khát vọng cháy bỏng của thi sĩ cùng với sự chủ động, kiêu hãnh về khát vọng của mình. Sau điệp từ là những động từ có tính mệnh lệnh cùng những hình ảnh thuộc về tự nhiên và biểu tượng cho cái đẹp: “tắt nắng”, “buộc gió”. Ta đều biết rằng nắng và gió
luôn tuân theo quy luật của tự nhiên khiến con người không thế chế ngữ được. Vậy mà ở đây, Xuân Diệu có khát vọng hướng tới cái không thể, khát vọng chiếm đoạt quyền của tạo hóa để níu giữ vẻ đẹp đất trời. Ông sợ gió cuốn đi hương thơm ngào ngạt, sợ nắng làm nhạt mất màu xuân sắc. Ước muốn níu giữ thời gian, chặn vòng quy luật của vũ trụ, đảo ngược quy luật thiên nhiên là một điều phi lý bởi ngay nhà thơ Xuân Quỳnh vẫn luôn tin vào quy luật của tạo hóa:
“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”
Nhưng đối với Xuân Diệu, ông muốn chiếm đoạt quyền năng của tạo hóa để giữ cho vẻ đẹp trần gian mãi mãi mang sắc xuân. Dù có là ước muốn viển vông và phi lí đi chăng nữa thì nó vẫn có cái đáng yêu của một tâm hồn lãng mạn, luôn thiết tha yêu đời, yêu cuộc sống. Dường như với ông, cuộc sống là cả một hạnh phúc lớn lao, kì diệu, sống là để tận hưởng và tận hiến.
Với tâm hồn cao cả của một thi sĩ, Xuân Diệu đã khám phá ra vẻ đẹp phơi phới đầy tình tứ ở những cảnh vật thiên nhiên nhiên quen thuộc quanh ta:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa quả của động nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
Nhà thơ Thế Lữ đã từng nói: “Xuân Diệu say đắm với tình yêu và hăng hái với mùa xuân, thả mình bơi trong ánh nắng, rung động với bướm chim, chất đầy trong tim mấy trời thanh sắc” cũng bởi vậy mà ông đã cảm nhận về mùa xuân bằng tất cả sự tinh tế nhất của tâm hồn. Thiên đường trên mặt đất vừa như một mảnh vườn tình ái vạn vật đang lúc lên hương, vừa như một mâm tiệc với thực đơn quyến rũ. Nếu như những nhà thơ lãng mạn chỉ muốn sống một cuộc sống nơi thoát khỏi nơi trần thế, trốn khỏi cõi hư vô hão huyền, bồng lai tiên cảnh như Chế Lan Viên hay Thế
Lữ từng viết:
“Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh
Một vì sao trơ trọi cuối trời xa!
Ðể nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh
Những ưu phiền, đau khổ với buồn lo!”
(Những sợi tơ lòng – Chế Lan Viên)
“Trời cao xanh ngắt. Ô kìa
Hai con hạc trắng bay về Bồng Lai”
(Tiếng sáo Thiên Thai – Thế Lữ)
thì Xuân Diệu đã “Đốt cảnh bồng lai và xua ai nấy về hạ giới”. Lầu thơ của ông được xây dựng trên mặt đất bằng một tấm lòng trần gian. Bức tranh hội tụ đầy đủ hương thơm, ánh sáng, màu sắc, âm thanh. Cảnh vật hiện lên đều có đôi, có cặp: “ong bướm” - “tuần trăng mật”, “hoa” - “đồng nội xanh rì”, “lá” - “cành tơ phơ phất”, “yến anh” - “khúc tình si”.
Xuân Diệu đã dựng lên một bức tranh thiên nhiên với những vẻ đẹp rất cụ thể, chúng được liệt kê bằng hàng loạt tình tứ đậm nhạt khác nhau cùng cách ngắt nhịp đầy linh hoạt, biến hóa. Nếu các thi nhân xưa thường chỉ sử dụng thị giác để cảm nhận vẻ đẹp của ngoại giới thì các nhà thơ mới trong đó có Xuân Diệu lại huy động tất cả những giác quan để cảm nhận cảnh vật đất trời lúc sang xuân. Có lẽ do ảnh hưởng từ thơ ca Phương Tây, Xuân Diệu đã sáng tạo ra những hình ảnh mới lạ in đậm phong cách nhà thơ.
Trong cảnh ấy có hình ảnh “tuần tháng mật” của loài ong bướm, chúng say mê trong mùa hoa tựa như con người đang chìm đắm trong niềm hạnh phúc ban đầu. Ở đây có hình ảnh “hoa của đồng nội”, “lá của cành tơ” gợi sức sống mới trẻ trung, phơi phới, hứa hẹn một mùa trái chín. Nếu như thi ca Trung Đại xưa luôn lấy thiên nhiên làm tiêu chuẩn cho vẻ đẹp con người thì nay lầu son gác tía của thi pháp Trung Đại đã bị phá vỡ, chao đảo nói như nhà thơ Lưu Trọng Lư: “Các cụ ta ưa cái màu đỏ choét, ta lại ưa những màu xanh nhạt… cái cụ bâng khuâng vì tiếng trùng đêm khuya, ta lại nao nao vì tiếng gà đúng ngọ.
Nhìn một cô gái xinh xắn, ngây thơ, các cụ coi như đã làm một điều tội lỗi, ta tì ta cho là mát mẻ như đứng trước một cánh đồng xanh mướt. Cái ái tình của các cụ thì chỉ là sự hôn nhân, nhưng đối với ta thì trăm hình muôn trạng: cái tình say đắm, cái tình thoảng qua, cái tình gần gũi, cái tình xa xôi... cái tình trong giây phút, cái tình ngàn thu…” Và Xuân Diệu là một trong những nhà thơ đã phá vỡ tính quy phạm ấy qua hình ảnh “ánh sáng chớp hàng mi”.
Những tia nắng xuân bừng sáng tựa như cặp mắt của thiếu nữ đang chớp dưới hàng mi dày thật quyến rũ. Chính ánh sáng ấy đã tưới lên cảnh vật nguồn nhựa sống mang đến cho bức tranh thiên nhiên năng lượng tràn trề, thế mới hiểu những khao khát của Xuân Diệu hoàn toàn đúng đắn. Đặc biệt, qua điệp từ “này đây” được nhắc lại đến 5 lần khiến những câu thơ giống như một chuỗi tiếng reo vui của tác giả khi phát hiện ra thiên đường trên mặt đất. Giống như Pautopxki từng nói: “Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của người dẫn đường đến xứ sở cái đẹp”.
Xuân Diệu cũng vậy, với sự say mê và thích thú, ông đã biến thành một hướng dẫn viên du lịch đắm chìm trong những lời giới thiệu để chào mời mọi người đến tận hưởng nơi đây. Bằng giọng thơ mượt mà, êm dịu như một cánh hồng nhung, thiên đường trên mặt đất của Xuân Diệu không phải là thế giới xa xăm, lạ lẫm mà là những điều thân quen ở quanh ta khi mùa xuân đến. Vẻ đẹp ấy được nhìn qua cặp mắt “non xanh, biếc rờn” và được sàng lọc qua tình yêu của người nghệ sĩ mang tình yêu thiên nhiên, cuộc sống đến cháy bỏng. Được xem là: “Nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh) nên Xuân Diệu đã kết lại bức tranh mùa xuân bằng hai câu thơ đầy gợi cảm:
“Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
Thiên đường trên mặt đất thắm sắc, ngát hương và tràn đầy ánh sáng nay được Xuân Diệu khép lại bằng lối văn vô cùng độc đáo và gợi cảm. Tháng giêng thanh tân, diễm lệ, tràn đầy ánh sáng, màu sắc, hương thơm đã trở thành “cặp môi gần” của người tình. Chỉ với một chữ “ngon” chuyển đổi cảm giác cho ta thấy tình yêu đời, yêu cuộc sống đến cuồng si của thi sĩ. Ông bị ảnh hưởng rất rõ rệt trường phái thơ tượng trưng Pháp, trong một bài thơ khác ông cũng đã vẫn dụng sự tương giao của các giác quan:
“Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò”
Tâm trạng của nhân vật trữ tình được thể hiện rất rõ qua hai câu thơ:
“Tôi sung sướng. Nhưng tôi vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”
Dấu chấm giữa câu thơ “Tôi sung sướng. Nhưng tôi vội vàng một nửa” như ngắt làm đôi và cũng như phân tách nhà thơ thành hai nửa: nửa sung sướng và nửa vội vàng. Tâm trạng sung sướng là niềm hạnh phúc, lạc quan, tươi vui đón nhận cuộc sống bằng tình cảm trìu mến, thiết tha, gắn bó. Còn vội vàng là tâm trạng tiếc nuối, buồn đau bởi nhà thơ sợ tuổi trẻ qua đi. Xuân Diệu luôn là con người như thế đấy! Trong lúc vui ngất ngây thì tình yêu thi sĩ đã phải thổn thức bởi những điều tiếc nuối. Cũng bởi vì vậy, mặc dù đang sống trong mùa xuân nhưng thi nhân đã cảm thấy
tiếc nuối mùa xuân: “Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”.
Đây là tâm trạng hoài cổ mà ta thường bắt gặp trong thơ của các thi nhân xưa. Nhưng ở đây, sự hoài cổ của Xuân Diệu thật lạ và ám ảnh, nhà thơ không chỉ tiếc nuối những cái dĩ vãng đã qua mà còn tiếc nuối ngay cả những cái đang hiện hữu. Mùa xuân chưa qua mà Xuân Diệu đã cảm thấy tiếc nhớ, đây quả là một trái tim quá nhạy cảm với những chuyển biến của thời gian cũng là một tâm hồn đa sầu, đa cảm. Bằng ngôn ngữ rất đỗi Phương Tây nhưng cũng chẳng kém phần gần gũi, thân thuộc, Xuân Diệu đã mang đến cho người đọc một giọng thơ lạ, một cách cảm nhận về mùa xuân thật nồng nàn, tha thiết.
Không chỉ dừng lại ở việc thể hiện tình yêu tha thiết của mình đối với cuộc sống nơi thiên đường hạ giới mà thi nhân còn thể hiện nỗi băn khoăn về sự ngắn ngủi của kiếp người và sự qua nhanh của thời gian qua 17 câu tiếp theo. Trước tiên đó là quan niệm hết sức độc đáo:
“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”
Từ trước đến nay thời gian luôn vận động theo đúng quy luật của tạo hóa và cũng có nhiều cách quan niệm về nó như: “thời gian thấm thoát thoi đưa”’ “thời gian như bóng câu vút qua cửa sổ”, “thời gian như nước chảy qua cầu”’… ngay cả Xuân Diệu cũng vậy, ông đã sử dụng nghệ thuật điệp từ, từ nhiều nghĩa và từ mang sắc thái tương phản để diễn tả sự trôi qua của thời gian, sự tàn phai của tạo vật. Người ta mừng vì mùa xuân tới thì Xuân Diệu trong niềm vui chào đón mùa xuân thoáng qua có một chút xót xa vì nó tới cũng là lúc tuổi xuân dần trôi qua mau. Xuân Diệu đã đối lập mùa xuân của đất trời với tuổi xuân của con người.
Nếu như mùa xuân của đất trời qua đi rồi lại trở về theo đúng vòng tuần hoàn của nó. Còn tuổi xuân của con người thì một đi không trở lại. Ngỡ như Xuân Diệu đưa ra điều phi lí nhưng thực ra hoàn toàn biện chứng và trong cái biện chứng ấy lại chứa đầy cảm xúc. Xuân Diệu từng viết: “Trong gặp gỡ đã có mầm li biệt” để rồi đến bài thơ “Vội vàng” thì triết lí nhân sinh gắn liền với cảm thức về thời gian một lần nữa được nhấn mạnh. Chính vì cảm nhận được tuổi xuân của con người một đi không trở lại nên thi nhân thấy tiếc nuối, buồn đau:
“Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài tuổi trẻ của nhân gian”
Vẫn là những từ ngữ mang màu sắc tương phản, Xuân Diệu đã đi từ mùa xuân của thiên nhiên để mở ra mùa xuân của con người. Với giọng điệu như hờn giận, u hoài, Xuân Diệu đã đối lập cái vô hạn của đất trời với cái hữu hạn của đời người. Đất trời thì còn mãi nhưng tuổi xuân con người thì không, dường như thiên nhiên đã trở thành lực lượng đối kháng với con người. Và rồi Xuân Diệu còn say sưa tranh luận với quan niệm cũ về thời gian:
“Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”
Xuân Diệu đã tạo nên thế đối lập giữa cá nhân nhỏ bé với sức mạnh vô thường của tạo hóa, thi nhân như nhận ra sự bất lực của mình khi muốn chiến thắng thời gian. Bởi vì dẫu vũ trụ là vĩnh viễn, dẫu thời gian có thể tuần hoàn nhưng tuổi trẻ của con người “chẳng hai lần thắm lại”. Nhận ra cái yếu hạn trong sức mạnh của con người, Xuân Diệu như thở dài ở những câu thơ chất chứa nỗi buồn về sự bất lực trước quy luật tự nhiên, ý thức được điều đó, nhà thơ lại càng trân trọng tuổi xuân hơn và đây cũng là tiếng nói tiêu biểu của một tâm hồn tha thiết yêu đời, yêu cuộc sống.
Nguyễn Du từng viết:
“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Xuân Diệu ý thức được đời người quá ngắn ngủi nên ông đã nhìn bức tranh thiên nhiên mất tươi vui:
“Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa”
Trời đất là vĩnh hằng, đời người là hữu hạn, hình dung về một thế giới chẳng còn tôi khiến thi nhân đau đớn, tiếc nuối khiến ông cảm thấy “Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi”. Ở đây, cuộc chia phôi như làm rớm máu cả thời gian, nó không diễn ra ở một không gian cụ thể hay nhỏ bé mà diễn ra ở không gian rộng lớn “Khắp sông núi”. Dường như chỗ nào cũng ủ ê những tiếng nỉ non, than vãn. Một ngọn gió mùa xuân nhỏ bé, duyên dáng đang vương vít với những cành cây chẳng muốn rời xa. Gió và cây đang thì thào lời tiễn biệt và gió như giận hờn vì sớm phải chia tay. Tiếng chim đang hót rộn ràng bỗng đứt giữa chừng bởi lo sợ độ phai tàn của cuộc thi sắp đến. Nghệ thuật nhân hóa kết hợp với những câu hỏi tu từ liên tiếp như khẳng định thêm nỗi buồn của cảnh vật thiên nhiên khi xuân tàn và đó cũng là tâm trạng bâng khuâng, tiếc nuối đến ngẩn ngơ của thi sĩ Xuân Diệu. Cách cảm nhận thời gian của thi nhân là cách cảm nhận đầy tính mất mát, có được điều đó là do tác giả ý thức được cái tôi cá nhân một cách sâu sắc, ý thức về sự có ý nghĩa của mỗi cá nhân trên đời và cũng do ông luôn nâng niu, trân trọng từ giây phút của cuộc đời nhất là những năm tháng tuổi trẻ:
“Chẳng bao giờ, ôi! chẳng bao giờ nữa
Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm”
Với nhịp thơ dồn dập, gấp gáp, cách ngắt nhịp biến hóa, ý thơ như hóa lời giục giã với mọi
người: hãy mau lên, vội vàng lên để tận hưởng những giây phút tuổi xuân, để sống có ý nghĩa
khi chưa mãn chiều xế bóng. Nỗi lo âu của nhà thơ về vòng quay của tạo hóa chợt bừng lên
thành tiếng thôi thúc, gấp gáp: “mau đi thôi”. Tiếng gọi mãnh liệt ấy từ lâu đã vang vọng suốt
những trang thơ của Xuân Diệu:
“Mau với chứ vội vàng lên với chứ
Em em ơi tình non sắp già rồi”
hay:
“Gấp đi em anh rất sợ ngày mai
Đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn”
Xưa kia nhà thơ Nguyễn Trãi từng viết trong chùm thơ “Tiếc cánh”:
“Xuân xanh chưa dễ hai lần lại
Thấy cảnh càng thêm tiếc thiếu niên”
Những vần thơ ấy càng giúp người đọc thấy được ý thức về thời gian và tuổi xuân của thi sĩ Xuân Diệu. Nhận ra rằng chẳng thể sống mãi với thời gian vậy cớ gì ta không ngại, không tận hưởng cuộc sống bằng cả trái tim nồng cháy trước khi ta già nua cơ chứ?
“Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
...
- Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi !!
Ba từ “Ta muốn ôm” được tách riêng biệt làm nổi bật hình ảnh nhân vật trữ tình đầy kiêu hãnh. Ông như muốn đứng trên cao, dang rộng vòng tay để cảm nhận, để ôm trọn trái đất này. Ta bỗng nhớ tới cái tôi “ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ:
“Vũ trụ nội mạc phi phận sự”
(Với mọi việc trong trời đất này không việc gì không phải của ta)
Còn với Xuân Diệu, cái tôi của ông cũng thật kiêu hãnh, nếu đoạn mở đầu là điệp ngữ “tôi muốn” thì đến đây đã trở thành “ta muốn” nghe thật tự tin làm sao! Bởi vậy mà Viên Mai từng nói rằng: “Làm người thì không có cái tôi… nhưng làm thơ thì không thể không có cái tôi”. Trong thơ của mình, Xuân Diệu luôn khẳng định cái tôi cá nhân, có lúc ông bộc bạch một cách chân thành:
“Tôi chỉ muốn là một cây kim bé nhỏ”
Mà vạn vật là muôn đá nam châm”
có lúc ông khẳng định mình là người đứng đầu duy nhất:
“Ta là một là riêng là thứ nhất”
Như vậy trong thơ Xuân Diệu luôn thể hiện được cái tôi cá nhân tự tin và đầy kiêu hãnh. Ba từ “Tôi muốn ôm” như một nốt nhấn để rồi từ đó âm thanh của khát vọng tuôn trào, dào dạt tràn qua cả ngôn từ. Giữa những câu thơ dài đột ngột xen vào một câu thơ ngắn như thắt ngang giữa bài làm ta liên tưởng đến vòng tay đang níu giữ, quấn quít “cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn”. “Mơn mởn” là từ láy gợi cảm và giàu ý nghĩa gợi cảm giác cây cối, sự vật đang ở độ non mướt, tươi tốt, đầy sức sống. Lần theo bước chân vội vàng ta bước vào một thế giới đầy ắp những hình ảnh sinh động, đẹp đẽ:
“Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hồn nhiều”
Phép điệp cấu trúc “Ta muốn” đã khiến đoạn thơ trở nên dồn dập, gấp gáp tựa như những cơn sóng ào ạt nối tiếp nhau, như hơi thở gấp gáp của thi nhân đã diễn tả khát khao đến hàm hở cuồng nhiệt. Sau mỗi lần điệp lại đi liền với một động từ mạnh được sắp xếp theo trật tự tăng tiến: “riết”, “say”, “thâu”; cùng với đó là những hình ảnh nồng nàn, khỏe khoắn: “mây đưa và gió lượn”, “cánh buồm với tình yêu”.
Thiên nhiên rực rỡ sắc màu say nồng và đầy quyến rũ lại tràn ngập trong hồn thơ Xuân Diệu. Những hình ảnh ấy làm đoạn thơ đầy sinh khí và làm sống lại không khí tươi vui của toàn bài thơ. Trời xuân thì non tơ, tình xuân thì nồng nàn khiến nhà thơ trở nên “tham lam”, dường như lúc nào cũng muốn khát khao thêm: “Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi”
Sự kết hợp giữa những từ “no nê”, “đã đầy” và điệp từ “và” đã thể hiện cảm xúc ham muốn đến tột cùng trong tâm hồn thi sĩ. Ở đây không chỉ là sự tận hưởng tinh thần mà còn là tận hưởng theo kiểu vật chất không có điểm dừng. Với ông, cuộc sống trần thế như bày ra cả một bàn tiệc đầy những hình ảnh non tơ và đầy hương sắc vì vậy Xuân Diệu đã khát khao đến tột cùng đúng như phong cách Xuân Diệu - một cái tôi không bao giờ chấp nhận sự lưng chừng, lỡ cỡ.
Với những khát khao ấy, nhà thơ đã nhìn mùa xuân giống như con người và thốt lên một tiếng kêu thể hiện niềm yêu đời, khát khao chưa từng có trong thơ ca Việt Nam:
“Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”
“Hỡi” là tiếng gọi tha thiết vang lên cuối bài làm mạch cảm xúc của nhà thơ như vang lên không dứt. Ông khát khao tận hưởng mùa xuân, một mùa “xuân hồng” chứ không phải là “xuân xanh” như trong thơ Nguyễn Bính:
“Mùa xuân là cả một mùa xanh”
Xuân hồng là đôi má nồng nàn của thiếu nữ. Với Xuân Diệu con người mới là chuẩn mực của cái đẹp nên mùa xuân cũng giống như người thiếu nữ căng tràn sự sống. Nhà thơ muốn cắn vào nó cho thỏa mãn đam mê. Với cách sử dụng từ ngữ táo bạn, Xuân Diệu đã thể hiện một ham muốn không có giới hạn. Đứng trước sự hấp dẫn của mùa xuân dường như thi sĩ không nén nổi lòng yêu thiên nhiên đã đi đến một cử chỉ táo bạo nhưng cũng thật đáng yêu. Ta nhớ tới những câu thơ của Anh Thơ trong bài “Hôn con”:
“Mặt trăng của mẹ
Mẹ nâng trên tay
Mặt trăng tươi thế
Mẹ cắn vào đây”
Còn Xuân Diệu, ông từng định nghĩa mình là: “kẻ đưa răng bấu mặt trời”, một thi sĩ từng “ngoạm sự sống làm êm đói khát” đã thể hiện tình yêu cuồng nhiệt, si mê cuộc sống đúng như Hoài Thanh đã từng nhận xét: “Xuân Diệu là nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này, khi vui cũng như khi buồn người đều nồng nàn tha thiết”
Nếu như Huy Cận, Chế Lan Viên hay Hàn Mạc Tử đều cùng nhau thoát li hiện thực, tìm về một cõi xa xăm nào đấy để ôm ấp những nỗi sầu u oải, mơ hồ thì “Thơ Xuân Diệu là một nguồn sống dào dạt chưa từng thấy... Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết”. (Hoài Thanh) Cũng là nỗi buồn nhưng nỗi buồn ấy, ngọt ngào, hồ hởi và háo hức, đó là sự tiếc nuối trước dòng chảy không ngừng của thời gian, là sự cô đơn giữa dòng đời của cái Tôi nhỏ bé đã tạo nên một hồn “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”.
“Chưa bao người ta thấy xuất hiện cùng một lúc một hồn thơ rộng lớn như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng trúng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên,... và tha thiết, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu” (Thi nhân Việt Nam). Chẳng lẽ tự nhiên mà Hoài Thanh lại ưu ái Xuân Diệu đến vậy, chỉ có thể là do những cống hiến to lớn của ông dành cho thi đàn văn học Việt Nam đặc biệt là qua thi phẩm “Vội vàng”.
Bài thơ là lời giục giã hãy sống mãnh liệt, sống hết mình, hãy quý trọng từng giây từng phút của cuộc đời mình nhất là những năm tháng tuổi trẻ. Tư tưởng ấy được thể hiện qua bàn tay nghệ thuật điêu luyện, là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa mạch cảm xúc và mạch lí luận, giọng điệu say mê, sôi nổi nhưng sáng tạo độc đáo về ngôn từ và hình ảnh. Cũng bởi lẽ thế “Vội vàng” dù đã được sáng tác những năm 30 của thế kỉ trước nhưng vẫn vang vọng, đọng lại trong lòng hậu thế những vần thơ tựa như mật ngọt đầy tinh túy khiến ta phải ghi nhớ mãi cái tên Xuân Diệu - ông hoàng thơ tình trong làng thi ca Việt!
Phân tích bài Vội vàng mẫu số 15
Tuổi trẻ là khoảng thời gian đẹp nhất của đời người. Thật vậy, thanh xuân như mây trời và một khi đã trôi đi thì không bao giờ có thể trở lại. Có lẽ cũng vì hiểu được quy luật đắng cay ấy mà con người trở nên trân trọng thực tại, họ chọn cách sống vội để chạy đua với thời gian, sống trọn từng phút giây mà không bỏ lỡ. Và đó cũng là nội dung chủ đề được Xuân Diệu gửi gắm trong tác phẩm "Vội vàng".
Mới ngay từ nhan đề thôi chúng ta cũng có thể hiểu được phần nào chân lí sống của Xuân Diệu. Đó là sống hết mình để tận hưởng vẻ đẹp của trời đất, sống mà không trần trừ để phí quá nhiều thời gian. Thế nhưng, vội vàng cũng không có nghĩa là sống hời hợt bỏ qua nhiều thứ, sống là phải biết hưởng thụ và biết yêu thương.
Và cái khao khát sống ấy cũng rực cháy ngay từ những câu mở đầu tác phẩm:
"Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi."
Khao khát vượt qua cả giới hạn của một con người. Đó là khao khát tắt nắng, buộc gió. Chỉ vì muốn giữ lại màu sắc và mùi hương mà con người nhỏ bé kia lại dám mơ ước thay đổi cả vũ trụ, thay đổi cả quy luật của tự nhiên để tận hưởng trọn vẹn vẻ đẹp của đất trời. Thế nhưng đó lại là những mơ ước không tưởng mà chẳng con người nào có thể làm được, không ai có thể tắt nắng đi và buộc gió lại vì chúng là vô hình, cũng như thứ thanh xuân vô hình mà người nghệ sĩ đang cố gắng chạy đua với thời gian.
Rồi với những câu thơ tiếp theo, ông đã vẽ lên cả một thiên đường ngập tràn âm thanh và màu sắc:
"Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi sáng sớm, thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần"
Đó chẳng phải là trần gian với chút cỏ cây hoa lá mà dường như với con người tràn ngập nhiệt huyết tuổi trẻ nó lại trở nên thật tuyệt diệu làm sao. Đây là cuộc sống nơi thiên đường rực rỡ màu sắc và ánh sáng, là nơi mà thần tiên thường hay du ngoạn đến. Không gian trong bức tranh ngập tràn màu sắc, đó là màu xanh của cỏ cây, màu xanh của sự sống đang ở độ căng tràn nhất. Và ở trong không gian thơ mộng ấy lại được náo nhiệt, vui tươi hơn nhờ khúc hát mời gọi của các loài chim, âm thanh, ánh sáng, màu sắc, tất cả ngọn nguồn của sự sống đều tụ tập về một nơi để phô diễn ra cái vẻ đẹp của thiên đường trên nhân gian và rồi, khi người nghệ sĩ đa cảm ấy bắt gặp được mỹ cảnh lộng lẫy thì trong lòng lại nao nức, bồn chồn muốn sống hết mình để tận hưởng được vẻ đẹp của trần gian. Khát khao được tận hưởng cũng được bộc lộ qua điệp từ "này đây", nó như một lời mời gọi không thể chối từ dành cho kẻ si tình trót để quên trái tim khi ghé qua nhân thế. Và chưa dừng lại ở đó, khu vườn nhân gian vẫn còn những điều cuốn hút hơn đang chờ đợi du khách mỗi sáng, niềm vui sẽ đến với mọi người.
Mùa xuân là mùa đẹp nhất của một năm, đó là khoảng thời gian trăm hoa khoe sắc, là khi mầm non bật tung khỏi lớp vỏ sần sùi của cành cây để dâng lên đất trời hơi thở của sự sống. Mùa xuân không còn cái lạnh giá, không còn cái vẻ lạnh lẽo và u ám của những ngày đông giá lạnh. Vào thời điểm khởi đầu của một năm cũng là khi sự sống được bắt đầu, có chút se se lạnh cùng chút mưa phùn thoang thoảng hương cỏ cây khiến người ta muốn thả hồn mình vào để ngắm nhìn, để thưởng thức. Thật vậy mùa xuân là mùa của sự sống và cái căng mọng, tràn trề của sự sống ấy được người nghệ sĩ cảm nhận là "cặp môi gần". Có thể đó là đôi bờ môi căng mọng thơm mướt và tràn đầy sự sống của người con gái đôi mươi, đó là tình yêu, là hy vọng và là thứ mà không ai có thể chối từ.
Đôi môi của sự sống ấy khiến cho người du khách thêm yêu và trân trọng cuộc đời, trân trọng thanh xuân của mình. Còn trẻ là còn tất cả, khi ấy ta có thể tự tay làm bất cứ điều gì, còn trẻ là còn nhiệt huyết và đam mê, tuổi trẻ chúng ta không ngại khó ngại khổ, không bị giới hạn bởi tuổi tác và sức khỏe, chỉ khi trẻ chúng ta mới theo đuổi được đam mê và mơ ước của mình. Nhưng càng hiểu giá trị của tuổi trẻ thì người nghệ sĩ càng vội vã sống, ông không muốn bỏ lỡ một giây phút nào của cuộc đời con người đầy ngắn ngủi và không biết trước được chuyện gì sẽ xảy ra vào ngày mai ấy.
Người ta thường nói càng trân trọng càng sợ mất, khi con người ta nhận ra được nhiều điều hơn cũng là lúc họ thay đổi cách sống:
"Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt...
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa..."
Cuộc sống là không ngừng mất đi, thật vậy chẳng có gì có thể nói trước trong cuộc sống. Có lẽ hiểu được quy luật của cuộc đời ngắn ngủi ấy nên người nghệ sĩ vừa mừng vừa lo, ông vui sướng vì được cảm nhận và được thưởng thức vẻ đẹp của đất trời thế nhưng sau cùng thì con người rồi cũng sẽ có một lúc nào đó già đi và không thể tự làm được những điều mình muốn hoặc chẳng may người ta mắc một căn bệnh quái ác nào đó cướp đi tính mạng mà chẳng hề hay biết. Đó là những kết cục buồn và đáng tiếc nhất của một đời người, không ai được chọn nơi mình sinh ra nhưng ta có thể chọn cách sống cho bản thân mình và rồi ông chọn cho mình cách sống vội vã, sống như thể ngày mai không còn được sống để ôm trọn vẻ đẹp của đất trời. Ông chạy đua cùng với thời gian, sống nhưng vẫn còn bâng khuâng lo lắng cho tuổi trẻ ngắn ngủi của mình.
Trời đất là vô hạn còn đời người chỉ thoáng chốc ngắn ngủi, mỗi mùa xuân đến cũng là khi con người thêm một tuổi và điều đó cũng đồng nghĩa với việc giảm đi một năm tuổi trẻ, vậy nên mặc dù vui sướng tận hưởng thời khắc xuân xanh căng tràn của cuộc đời nhưng ông cũng không ngừng lo lắng. Ông lại hoài niệm về cuộc đời, về những thứ mà có thể mình sẽ không thưởng thức hết được, nỗi buồn của người nghệ sĩ thấm vào cảnh vật khiến chúng man mác một nỗi buồn chia phôi. Là cơn gió xinh vô tư bay nhảy trên không trung nay cũng biết buồn vì không được tiếp tục ở lại, vì nó phải đi đến một nơi xa nào đó. Là chú chim đang cất tiếng ca nay không hót nữa vì có lẽ loài vật cũng cảm nhận được sự thay đổi của thời gian, cũng biết được thời khắc đang trôi đi không trở lại của đất trời.
"Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!"
Càng trân trọng, càng không muốn để mất thì con người ta lại càng trở nên vội vã. Dường như lúc ấy cả lí trí và con tim đều lên tiếng mách bảo người nghệ phải phải sống hết mình, chỉ có như thế khi mọi thứ qua đi mới không còn gì hối tiếc. Vậy là cái khát khao ấy lại bùng lên dữ dội, nó khiến người nghệ sĩ chìm ngập trong khát vọng của chính mình, sống quên mình với tình yêu và khát vọng. thưởng thức trọn vẹn cho đến khi no nê đã đầy cảnh sắc của nhân gian. Nhưng khát khao của con người có bao giờ dừng lại, và rồi đỉnh điểm của khát vọng ấy là "cắn" vào mùa xuân đang tràn ngập sự sống. Xuân Hồng muốn cảm nhận vị ngọt của đất trời, muốn níu giữ để không có gì có thể trôi đi được, để ông còn được sống mãi với thanh xuân của đời mình.
Khép lại tác phẩm Vội vàng ta chợt thấy một tâm hồn đầy nhiệt huyết và đam mê, đó là một người nghệ sĩ nhưng thấm nhuần triết lí nhân sinh, cũng vì thế mà ông quyết tâm sống hết mình để thưởng thức vẻ đẹp của cuộc sống. Sống để yêu thương và say trong hương vị cuộc sống. Đó cách sống mà người nghệ sĩ chọn để tận hưởng hết thanh xuân của đời mình, và đó cũng là tư tưởng đúng đắn mà thanh niên chúng ta ngày nay phải học tập để sống sao cho ý nghĩa, sống để hòa nhập và cống hiến, cháy hết với đam mê của mình.
Phân tích Vội vàng bài văn mẫu số 16
Nổi bật trong những bài thơ viết về tuổi trẻ, về mùa xuân của nhà thơ Xuân Diệu đó là bài Vội vàng. Bài thơ là một lời giục giã hãy sống mãnh liệt, sống hết mình, trân quý từng phút giây từng giây của cuộc đời, nhất là những tháng năm của tuổi trẻ.
Trong bài thơ Vội Vàng, Xuân Diệu đã phát hiện và khẳng định một cách dứt khoát mùa xuân và mọi cảnh đẹp xung quanh ta là cả một thế giới thần tiên, thơ mộng. Bốn câu thơ đầu đó là hình ảnh cái tôi lãng mạn bộc lộ vô cùng độc đáo:
“Tôi muốn tắt nắng đi
… bay đi.”
Muốn “tắt nắng”, muốn “buộc gió” là những ham muốn được cho là kỳ dị, chỉ có ở người thi sĩ. Nhưng làm sao cưỡng lại được quy luật đó, làm sao có thể vĩnh viễn hóa được những thứ vốn mong manh ấy? Những khát khao có phần “phi lí” ấy thế nhưng lại tạo nên một cái tôi rất ấn tượng và lôi cuốn. Nhà thơ đã không sử dụng đại từ “ta” mà lại dùng “tôi” như một sự khẳng định khát khao cháy bỏng “đoạt” chiếm lấy thiên nhiên đất trời.
Tình yêu cuộc sống tràn ngập trong huyết mạch của nhà thơ và chính Xuân Diệu đã nhận thấy cuộc sống nơi mình đang sống như một thiên đường:
“Của ong bướm này …
… một cặp môi gần.”
Đó là một bức tranh mùa xuân đầy sự mới mẻ, tinh khôi, đầy ánh sáng và âm thanh tình tứ. Khu vườn xuân trong bài thơ của Xuân Diệu cũng “vội vàng” toả sắc hương, trao mật ngọt; ong bướm rộn ràng bởi những đóa hoa khoe sắc thắm nổi bật lên giữa đồng nội xanh rì.
Cành tơ phơ phất đang vươn những chồi búp nõn nà trong bức tranh xuân; chim yến, chim oanh rộn ràng hát những bản tình ca mùa xuân; ánh sáng bình minh tỏa màu hồng đào, bừng hé. Điệp ngữ: “Này đây” lặp bốn lần là tiếng reo vui đầy kinh ngạc của người thi sĩ vì liên tiếp phát hiện ra những vẻ đẹp lạ kỳ của cuộc sống.
Hình ảnh “cặp môi gần” gợi lên làn môi tươi hồng của một thiếu nữ; khác với các nhà thơ khác thường lấy thiên nhiên là điểm chuẩn cho mọi vẻ đẹp thì nhà thơ Xuân Diệu lại lấy tuổi trẻ, tình yêu, con người giữa mùa xuân làm chuẩn mực. Thế giới này được nhà thơ Xuân Diệu cảm nhận bằng cả sự tinh tường nhất của một tâm hồn hồn yêu đầy khát vọng về cuộc sống. Sở dĩ nhà thơ có những mong muốn và khao khát như thế là bởi sự nhạy cảm đặc biệt trước những bước đi của thời gian. Và Xuân Diệu khẳng định:
“Xuân đương tới…
…nghĩa là tôi cũng mất.”
Khác so với những quan niệm xưa cũ cho rằng “xuân vẫn tuần hoàn” thì đối với nhà thơ Xuân Diệu:
“Nói làm chi…
…tiếc cả đất trời.”
Tương ứng với mùa xuân là con người, là tôi; thời gian là thước đo tuổi trẻ; nó sẽ một đi không trở lại. Như vậy thì làm sao có sự tuần hoàn cơ chứ! Trong cái vô tận của thời gian, trong sự mênh mông của đất trời thì sự có mặt của con người thật là ngắn, thật hữu hạn.
“Mùi tháng năm
…tiễn biệt…”
Cái tinh tế của nhà thơ Xuân Diệu được thể hiện ở chỗ: cảm nhận được sự phai tàn khi vạn vật còn đang ở độ mơn mởn; thi sĩ đã thấy như ngọn gió lướt qua tất cả. Lúc tạo vật đang ở thời điểm nở rộ nhất thì cũng là lúc phải đối diện với sự sớm sắp phai tàn. Thời gian như có mùi, có vị; sông núi đều cất lên âm thanh của sự chia ly, tiễn biệt; vạn vật đang than thở,…. Tất cả đã khiến tâm hồn nhà thơ cảm thấy có chút hụt hẫng, tiếc nuối. Nếu không thể tắt nắng, buộc gió, cũng không thể cầm giữ được thời gian; như vậy chỉ có cách thực tế nhất là chạy đua cùng thời gian, phải tranh thủ sống: “Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…”
Mở đầu khổ thơ, Xuân Diệu đã viết: “Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm!”. Đây là lời giục giã sống vội vàng, sống để tuổi trẻ không bị thời gian làm trở nên vô nghĩa. Ở đây, nhà thơ đã gợi ra quan niệm sống tích cực hơn: sống hết mình từng giây, sống tận hiến từng phút. Ở đoạn thơ cuối, Xuân Diệu đã sử dụng một loạt các động từ tăng tiến để thể hiện một cảm xúc mãnh liệt của mình:
“Ta muốn ôm…
… một cái hôn nhiều”.
Ở khổ thơ cuối, tác giả lại xưng “ta” để tự bản thân đối diện với sự sống trên trần gian và tất cả đều thể hiện lên sự gấp gáp, cuống quýt, vồ vập. Nhà thơ Xuân Diệu muốn ôm giữ những vẻ đẹp tươi non của cuộc sống đang diễn ra: sự sống bắt đầu một cách mơn mởn, mây đưa, gió lượn để nó khỏi trôi đi. Tuy dù ôm chặt nhưng vẫn không thể giữ được trọn vẹn.
Bài thơ Vội Vàng thể hiện một tâm hồn yêu đời, yêu cái sống đến cuồng nhiệt; biết quý trọng thời gian, tuổi trẻ, biết sống cũng là để yêu; tình yêu lứa đôi và tình yêu tạo vật. Bài thơ chính là nhịp đập gấp gáp trước “thanh sắc trần gian” một ngày xuân của một trái tim chưa bao giờ chán sống.
Phân tích Vội vàng bài văn mẫu số 17
Xuân Diệu là “ông hoàng thơ tình” khát yêu, thèm yêu, muốn được yêu đến say mê và cuồng nhiệt. Người đọc vẫn bắt gặp những vần thơ với nhịp điệu tha thiết, vội vàng, gấp gáp như một nỗi sợ thời gian trôi, sợ tình yêu đi mất và sợ tuổi trẻ trôi qua. Bài thơ Vội vàng là tiếng nói con tim của một kẻ đang say mê trong tình yêu với những cung bậc cảm xúc khác nhau.
Ngay từ đầu bài thơ, cái “tôi” Xuân Diệu được bộc lộ rất rõ ràng và đầy mãnh liệt:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt nữa
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
Những khát khao “phi lí” ấy lại tạo nên một cái tôi cực kỳ ấn tượng và lôi cuốn. Tác giả không dùng đại từ “ta” mà lại dùng “tôi” như để khẳng định mình, khẳng định khát khao cháy bỏng “đoạt” lấy thiên nhiên đất trời. Xuân Diệu muốn cưỡng lại quy luật của tự nhiên, những vận động của đất trời. Bởi ông hiểu rằng, sắc thắm nào rồi cũng nhạt, hương nồng nào rồi cũng phai. Xuân Diệu không muốn những vẻ đẹp tự nhiên của đất trời mất đi. Ông muốn lưu giữ nó bên mình để được thưởng thức một cách trọn vẹn, mãi mãi. Thực sự đọc những vần thơ đầy nhiệt huyết của tuổi trẻ và tình yêu như thế này, người đọc dường như cũng đang say và đang khát khao cùng tác giả.
Mạch cảm xúc được chuyển tiếp sang một bức tranh tình yêu tràn đầy màu sắc:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi sáng sớm thần vui hằng gõ cửa
Với ngôn từ trau chuốt, mượt mà, Xuân Diệu dường như đang thổi hồn vào từng câu, từng chữ của đoạn thơ khiến nó trở nên sinh động và hấp dẫn. Bức tranh thiên nhiên tươi vui, đầy màu sắc đang tràn ra qua từng câu thơ. Điệp từ “này đây” bộc lộ niềm vui tơi phơi phới, hân hoan của tác giả khi được đắm say trong khung cảnh tuyệt vời như thế này. Lòng tràn đầy rạo rực và tin yêu. Có lẽ mùa xuân trong thơ Xuân Diệu có sự phá cách khá độc đáo khi tác giả nhìn mùa xuân là “tuần tháng mật” ngào ngào và mê đắm. Mùa xuân đẹp là thế, thiên nhiên rạo rực như vậy nhưng bỗng nhiên Xuân Diệu chuyển đổi cảm xúc và giọng thơ như nhanh và vội hơn:
Xuân đang đến nghĩa là xuân sẽ qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Đến đây, người đọc nhận ra một ý niệm thời gian rất thi vị của Xuân Diệu và đồng nghĩa với việc chính bản thân ông đang lo lắng khi thời gian trôi đi. Ông bắt đầu sợ, cuống cuồng vì mùa xuân, tuổi trẻ và tình yêu rồi cũng qua đi. Ý niệm về thời gian đối với Xuân Diệu là một chiều, một đi không trở lại. Chính sự khắc nghiệt này mới khiến nhà thơ thấy mình thật bé nhỏ:
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Câu thơ này dường như càng khắc nghiệt hơn vì tác giả tự “vận” mình vào mùa xuân. Bởi rằng với ông đời người đẹp nhất là tuổi trẻ, khi mùa xuân tuổi trẻ qua đi thì coi như hết.
Lòng tôi rộng mà lượng trời cứ chật
Không cho dài tuổi trẻ của nhân gian
Con người vẫn luôn khát khao sống, khát khao yêu nồng cháy nhưng thời gian có hạn. Vạn vật chuyển biến, tuổi trẻ cứ vơi cạn đi theo năm tháng. Tác giả nuối tiếc, tiếc vì không được sống thêm không được nhiệt huyết hơn nữa. Có lẽ Xuân Diệu là một nhà thơ có cái nhìn chân thực và đầy mới mẻ về tuổi trẻ của con người.
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Đến đây dường như người đọc càng nhận ra triết lý về thời gian sâu sắc. Mùa xuân rồi sẽ trở lại, đất trời lại rạo rực và đẹp đẽ như thế nhưng tuổi trẻ của con người lại vĩnh viễn trôi qua không trở lại. Đây là điều tàn nhẫn nhất mà Xuân Diệu không muốn đối mặt.
Sang khổ thơ tiếp theo, giọng thơ trở nên gấp gáp, vội vàng, hay chính tác giả đang quá gấp, quá vội, quá sợ thời gian trôi đi:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Nỗi mong muốn, khát khao của tác giả được đẩy đến đỉnh điểm khi trời đất chuyển giao từng ngày và tuổi trẻ cạn vơi dần. Điệp từ “ta muốn” đã “bật” lên nỗi khát khao cháy bóng, muốn sống, muốn yêu, muốn đi ngược với tự nhiên và tạo hóa để đoạt lấy tuổi trẻ. Và nỗi khát khao ấy đã dồn nén ở câu thơ cuối:
- Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi!
Khát khao đã không còn là khát khao nữa mà là muốn chiếm đoạt, muốn giữ lấy cho riêng mình mùa xuân của tuổi trẻ.
Thật vậy bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu với cách dùng từ ngữ trau chuốt, hình ảnh mượt mà cùng giọng thơ gấp gáp, vội vàng đã hình thái ý niệm thời gian sâu sắc đối với người đọc. Tuổi trẻ và tình yêu là những thứ mà chúng ta cần phải gìn giữ, chứ không phải để nó trôi qua vô nghĩa.
-/-
Trên đây là gợi ý các bước làm cũng như TOP 17 bài văn mẫu hay phân tích bài thơ Vội vàng để làm sáng tỏ ý kiến Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới mà Đọc tài liệu đã tổng hợp và biên soạn gửi đến các em. Chúc các em học tốt môn Văn khi tham khảo Văn mẫu 11 tại Doctailieu.com.