Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương

Xuất bản: 08/04/2024 - Tác giả:

Hướng dẫn phân tích bài thơ Viếng lăng Bác, tuyển chọn những bài văn hay phân tích nội dung bài Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương.

Tài liệu hướng dẫn phân tích Viếng lăng Bác của Viễn Phương được tổng hợp và biên soạn bởi Đọc Tài Liệu gồm gợi ý làm bài chi tiết theo từng bước phân tích đề, lập dàn ý, xây dựng sơ đồ tư duy kèm theo một số bài văn hay nhất làm mẫu cho các em tham khảo.

Phan tich bai tho Vieng lang Bac cua Vien Phuong

Đề bài: Phân tích bài thơ "Viếng lăng Bác" của Viễn Phương.

Hướng dẫn phân tích Viếng lăng Bác

1. Phân tích yêu cầu đề bài

- Yêu cầu về nội dung bài văn: phân tích nội dung, nghệ thuật của bài thơ Viếng lăng Bác (Viễn Phương).

- Phạm vi tư liệu, dẫn chứng: các từ ngữ, chi tiết, câu thơ, hình ảnh,... tiêu biểu có trong bài thơ Viếng lăng Bác.

- Phương pháp lập luận chính: Phân tích.

2. Luận điểm bài phân tích Viếng lăng Bác

Luận điểm 1: Phân tích cảm xúc của tác giả khi đứng trước lăng Bác.

- Luận điểm 2: Phân tích cảm xúc của tác giả trước cảnh đoàn người vào lăng viếng Bác.

Luận điểm 3: Phân tích cảm xúc khi tác giả vào lăng viếng Bác.

Luận điểm 4: Tâm trạng lưu luyến và ước nguyện của tác giả khi rời xa lăng Bác.

3. Sơ đồ tư duy phân tích Viếng lăng Bác

So do tu duy phan tich bai tho Vieng lang Bac cua Vien Phuong

Chi tiết sơ đồ tư duy phân tích bài thơ Viếng lăng Bác

4. Nhận định về Viễn Phương và bài thơ Viếng lăng Bác

Các em học sinh có thể sử dụng những nhận định của các tác giả khác về Viễn Phương và bài thơ Viếng lăng bác để làm phần mở bài hoặc liên hệ mở rộng trong bài văn phân tích Viếng lăng Bác của mình.

   Thơ Viễn Phương dễ nhớ, giàu cảm xúc, nhưng không bị lụy, cường điệu nỗi đau...Thơ ông lung linh hình bóng người phụ nữ miền Nam và Mẹ, ấn tượng nhiều mặt về người mẹ rất đậm đà, thắm thiết. Anh viết rất nhiều bài thơ về Mẹ. Người mẹ dưới gầm cầu, những người phụ nữ trong các đề lao, người nữ chiến sĩ hy sinh trong ngọn lửa, những nữ học sinh Sài Gòn - Chợ Lớn "xuống đường" trong những ngày "bão tố đô thành", người vợ chiến đấu trong nội thành, chồng ở chiến khu, người mẹ đào hầm nuôi giấu cán bộ, bà mẹ đưa đường các anh bộ đội - bà mẹ ấy nói những lời rất thật, như dặn dò, như lời thề quyết tử: "Ðể má cầm đuốc đi trước, gặp giặc má chúc ngọn đuốc xuống, các con ở sau biết mà tránh. Nếu chúng bắn má chết, tức là chúng báo động các con" (Lời má Sáu).

   ...Thơ Viễn Phương nền nã, thì thầm, man mác, bâng khuâng, day dứt, không gút mắt, cầu kỳ, kênh kiệu, khoa ngôn. Hình ảnh nào trong đời sống anh cũng tìm thấy chất thơ. Không đợi đến Tiếng tù và trong sương đêm, Hoa lục bình trôi man mác tím, bông lau bát ngát nắng chiều hay Chòm xanh điên điển nhuộm vàng mặt nước... Một mái lá khô hanh trong rừng vắng anh cũng đưa vào đấy cái thực, cái hư, rất thơ mà thực, rất thực mà thơ.

(Nhà văn Mai Văn Tạo)

"Bốn khổ thơ, khổ nào cũng đầy ắp ẩn dụ, những ẩn dụ đẹp và trang nhã, thể hiện sự thăng hoa của tình cảm cao cả, nâng cao tâm hồn con người. Viếng lăng Bác của Viễn Phương là một đóng góp quý báu vào kho tàng thi ca viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại kính yêu của dân tộc"

(Giáo sư Trần Đình Sử)

Chi tiết dàn ý phân tích bài thơ Viếng lăng Bác

1. Mở bài

- Giới thiệu đôi nét về tác giả Viễn Phương:

+ Viễn Phương (1928 - 2005) là một nhà thơ tiêu biểu của miền Nam, một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam thời kỳ chống Mỹ cứu nước.

- Giới thiệu khái quát về bài thơ Viếng lăng BácBài thơ Viếng lăng Bác in trong tập thơ “Như mây mùa xuân” (1978) là một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của Viễn Phương.

2. Thân bài phân tích Viếng lăng Bác

a) Hoàn cảnh sáng tác bài thơ

- Bài thơ được viết vào tháng 4 năm 1976, một năm sau ngày giải phóng miền Nam, đất nước vừa được thống nhất. Đó cũng là khi lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa được khánh thành, đáp ứng nguyện vọng tha thiết của nhân dân cả nước là được đến viếng lăng Bác. Tác giả là một người con của miền Nam, suốt ba mươi năm hoạt động và chiến đấu ở chiến trường Nam Bộ xa xôi. Cũng như đồng bào và chiến sĩ miền Nam, nhà thơ mong mỏi được ra thăm Bác và chỉ đến lúc này, khi đất nước đã thống nhất, ông mới có thể thực hiện được ước nguyện ấy. Tình cảm đối với Bác trở thành nguồn cảm hứng để ông sáng tác bài thơ này.

b) Phân tích nội dung bài thơ Viếng lăng Bác

* Luận điểm 1: Cảm xúc của tác giả khi đứng trước lăng Bác

- Tình cảm chân thành giản dị, chân thành của tác giả Viễn Phương cũng chính là tấm lòng đau đau thương nhớ Bác của người con miền Nam nói chung:

“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”

+ Cách xưng hô “Con - Bác” rất gần gũi, thân thiết, ấm áp tình thân mật, diễn tả tâm trạng của người con ra thăm cha sau nhiều năm mong mỏi.

+ Cách nói giảm nói tránh, cùng việc sử dụng từ “thăm” để giảm nhẹ nỗi đau mất mát, cũng là cách nói thân tình diễn tả tâm trạng mong mỏi của tác giả.

=> Câu thơ gợi ra tâm trạng xúc động của một người từ chiến trường miền Nam bao nhiêu năm mong mỏi bây giờ được ra lăng viếng Bác.

- Hình ảnh hàng tre là hình ảnh ẩn dụ đa nghĩa:

"Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát"

+ Với tính chất tượng trưng, hình ảnh hàng tre gợi lên những liên tưởng thân thuộc của hình ảnh làng quê, đất nước đã thành biểu tượng của dân tộc.

+ Cây tre tượng trưng cho khí chất, tâm hồn, sự thẳng thắn, kiên trung, kiên cường bất khuất và sức sống bất diệt của dân tộc Việt Nam.

+ Từ “Ôi” cảm thán, biểu thị niềm xúc động tự hào về phẩm chất ngay thẳng, mạnh mẽ của dân tộc ta.

* Luận điểm 2: Cảm xúc của tác giả khi nhìn dòng người vào lăng viếng Bác

- Ở khổ thơ thứ hai tác giả tạo ra được cặp hình ảnh thực và ẩn dụ sóng đôi:

+ "Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng": Mặt trời tự nhiên, là nguồn sáng cho trái đất.

+ "Mặt trời trong lăng rất đỏ": hình ảnh ẩn dụ, đây chính là mặt trời soi sáng cho dân tộc Việt Nam sưởi ấm tim người dân Việt Nam, mang lại nguồn sống, ánh sáng hạnh phúc, ấm no cho dân tộc.

- Hình ảnh dòng người đi trong thương nhớ, đây là hình ảnh thực diễn tả nỗi xúc động bồi hồi trong lòng tiếc thương kính cẩn của người dân khi vào lăng.

- Hình ảnh thể hiện sự kết tinh đẹp đẽ “kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”:

+ Hình ảnh ẩn dụ "tràng hoa" thể hiện sự tôn kính thiêng liêng, sự ngưỡng mộ chân thành của nhân dân và của nhà thơ đối với Bác.

+ Bảy mươi chín mùa xuân: là hình ảnh hoán dụ chỉ số tuổi của Bác, cuộc đời Bác tận hiến cho sự phát triển của đất nước dân tộc.

=> Đoàn người vào viếng Bác là hình ảnh thực, đây còn là hình ảnh ẩn dụ đẹp đẽ, sáng tạo của nhà thơ: cuộc đời của dân tộc ta nở hoa dưới ánh sáng cách mạng của Bác.

* Luận điểm 3: Cảm xúc khi vào trong lăng viếng Bác

- Niềm biết ơn thành kính dần chuyển sang sự xúc động nghẹn ngào khi tác giả nhìn thấy Bác:

Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

+ Ánh sáng dịu nhẹ trong lăng gợi lên sự liên tưởng thú vị: “vầng trăng sáng dịu hiền”

+ Những vần thơ của Bác luôn gắn chặt với ánh trăng, hình ảnh “vầng trăng” gợi lên niềm xúc động và khiến ta nghĩ tới tâm hồn thanh cao của Bác.

-> Ở Người là sự hòa quyện giữa sự vĩ đại thanh cao với sự giản dị gần gũi

- Nhà thơ xúc động, đau xót trước sự ra đi mãi mãi của Người

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim

+ Dù Người ra đi, nhưng sự ra đi đó hóa thân vào thiên nhiên, vào dáng hình xứ sở, giống như Tố Hữu có viết “Bác sống như trời đất của ta”

+ Nỗi lòng “nghe nhói ở trong tim” của tác giả chính là sự quặn thắt tê tái trong đáy sâu tâm hồn khi đứng trước di hài của Người, đó chính là sự rung cảm chân thành của nhà thơ.

-> Trời xanh... mãi mãi... nghe nhói: Thấy sự mâu thuẫn giữa tình cảm lý trí, đó chính là nỗi tiếc thương vô hạn, lời thơ nghẹn ngào diễn tả sự mất mát, sự nhớ thương không gì bù đắp được trong lòng tác giả.

=> Cuộc đời của Bác như mặt trời, giấc ngủ của Bác như vầng trăng. Bác trở nên bất tử, hòa nhập với trời xanh. Tác giả sử dụng những hình ảnh kỹ vĩ: Vầng trăng, trời xanh nối tiếp nhau làm nỗi bật sự cao cả, vĩ đại của Người.

* Luận điểm 4: Cảm xúc khi rời lăng Bác và ước nguyện chân thành của tác giả

- Cuộc chia li lưu luyến bịn rịn, thấm đẫm nước mắt của tác giả

+ Mai về miền Nam thương trào nước mắt: như một lời giã từ đặc biệt, lời nói diễn tả tình cảm sâu lắng, giản dị, chân thành, xúc động của tác giả.

+ Cảm xúc “dâng trào” nỗi luyến tiếc, bịn rịn, không muốn xa rời

- Ước nguyện chân thành của nhà thơ

+ Muốn được hóa thân thành “chim”, cây tre”, “đóa hoa” để được ở gần bên Bác

-> Điệp từ “muốn làm” diễn tả trực tiếp và gián tiếp tâm trạng lưu luyến của nhà thơ.

+ Đặc biệt tác giả "muốn làm cây tre" trung hiếu, thẳng thắn, bất khuất, đó cũng là sự tự hứa sống có trách nhiệm với sự nghiệp của Người.

=> Hình ảnh cây tre kết thúc bài thơ như một cách kết thúc khéo léo, hình ảnh cây tre trung hiếu được nhân hóa mang phẩm chất trung hiếu như con người.

>>> Xem chi tiết dàn ý phân tích bài thơ Viếng lăng Bác

3. Kết bài phân tích Viếng lăng Bác

- Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ

+ Nội dung: Thể hiện niềm xúc động, thành kính, và nỗi đau xót của nhà thơ trước sự ra đi của Bác, ước nguyện là được ở mãi bên Bác, dâng lên Bác tất cả lòng tôn kính và biết ơn…

+ Đặc sắc nghệ thuật: Sử dụng hình ảnh kỳ vĩ, lớn lao; nghệ thuật nhân hóa, ẩn dụ, tượng trưng thể hiện tình cảm mến thương đối với Bác Hồ; âm hưởng khỏe khoắn, hào hùng, lạc quan; giọng điệu trang trọng và tha thiết, ngôn ngữ bình dị, hàm súc.

- Nêu cảm nghĩ của em về bài thơ.

 // Vậy là Đọc Tài Liệu vừa cùng các em xây dựng được hệ thống dàn ý chi tiết phân tích bài Viếng lăng Bác của Viễn Phương. Trước khi triển khai thành bài văn hoàn chỉnh, các em có thể đọc tham khảo một số bài văn mẫu mà chúng tôi tổng hợp được bên dưới để nắm chắc cách làm cũng như mở rộng vốn từ ngữ cho bài viết của mình.

TOP 15 bài văn hay tuyển chọn phân tích bài thơ Viếng lăng Bác

Cùng Đọc Tài Liệu tham khảo ngay những bài văn phân tích Viếng lăng Bác hay và giàu cảm xúc để có thêm vốn từ ngữ dồi dào cho bài văn sắp viết nhé!

Bài phân tích Viếng lăng Bác của học sinh giỏi mẫu số 1

“Bác Hồ” - tiếng gọi sao mà thân thương đến thế! Người là một nguồn cảm hứng bất tận trong thơ ca Việt Nam, thơ về Người rất nhiều nhưng mỗi bài thơ lại dẫn ta đến những vùng đất khác nhau. Thật vậy, nếu “Sáng tháng Năm” của Tố Hữu là tình cảm tha thiết, sôi nổi của nhà thơ với Bác khi ở chiến khu, hay “Đêm nay Bác không ngủ” của nhà thơ Minh Huệ là niềm xúc động của ông trước tình thương bao la của nguồn sáng dân tộc với mọi người,... Trong khi đó "Viếng lăng Bác” của Viễn Phương lại là bài ca chân thành, cảm động của nhà thơ đối với Người, và có lẽ đây chính là một trong những bài thơ hay nhất viết về Người!

Viễn Phương là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng giải phóng miền Nam trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước của dân tộc. Bài thơ ”Viếng lăng Bác” được in trong tập "Như mây mùa xuân” (1978), bài thơ ra đời khi cuộc kháng chiến chống Mĩ thắng lợi, đất nước được thống nhất và lăng Chủ tịch cũng vừa được khánh thành năm 1976.

Bài thơ mở đầu thật tự nhiên, như một lời kể chuyện mà chứa chan trong đó là biết bao xúc cảm của nhà thơ:

“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”

Giọng điệu câu thơ thật nhẹ nhàng, thiết tha mà sâu lắng, với việc sử dụng cách xưng hô thân thiết “con” - “Bác” nghe thật thân thiết, gắn bó như người một nhà - nơi mà họ cùng nhau vượt qua khó khăn, thử thách, cùng nhau trao nhau những yêu thương đầm ấm, cũng như có nhà thơ từng viết:

“Người là cha, là bác, là anh

Quả tim lớn bọc trong dòng máu đỏ”

Bác đã mất... Nhưng không, trong lòng Viễn Phương cũng như hàng triệu người con đất Việt khác, Bác mãi sống trong lòng chúng ta! Tác giả đã dùng từ “thăm”, một cách nói giảm nói tránh đầy tinh tế như muốn nhấn mạnh rằng Bác vẫn còn sống và đây chỉ là một chuyến thăm từ miền Nam. Chuyến thăm từ miền đất đau thương, quật cường trong bao năm gian khó kháng chiến chống Mĩ, nơi mà Bác đã gửi gắm biết bao yêu thương, niềm tin và hi vọng cũng là nói gửi gắm yêu thương của hàng vạn người dân nơi đây đến Bác “Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà/ Miền Nam mong Bác nỗi mong cha”.

“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”

Chẳng phải tự nhiên mà Viễn Phương nhắc tới những hàng tre, ta đều biết rằng tre là loài cây dẻo dai, bất chấp mọi khó khăn của thiên nhiên mà chúng vẫn kiên cường chính vì vậy nó đã thành biểu tượng cao đẹp nhất của người dân Việt Nam ta. Hình ảnh tre đã có trong “Cây tre Việt Nam” của Nguyễn Duy hay “Tre Việt Nam” của Thép Mới đều mạnh mẽ như vậy và tre của Viễn Phương cũng không ngoại lệ: "Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”. Thán từ “Ôi!” như để bộc lộ cảm xúc, một cảm xúc mãnh liệt, tha thiết khi nhìn thấy lại hàng tre bất khuất muôn thuở trong kháng chiến ngày nào của dân tộc khi mà "Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín”. Tre của Viễn Phương còn ẩn dụ cho những người lính canh tận tụy canh giữ chốn thiêng liêng, bảo vệ giấc ngủ của Người.

Khổ thơ tiếp theo chính là cảm xúc của Viễn Phương khi hòa vào dòng người thăm lăng Bác.

“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”

Mặt trời chính là nguồn sáng bất tận của vũ trụ, nó không thể thiếu trên trái đất này được. Bác cũng vậy, Bác cũng không thể thiếu trong con đường cứu nước trường kì của dân tộc. Nếu ánh sáng của mặt trời soi sáng đường đi, giúp sinh vật phát triển, lớn lên còn mặt trời trong lăng kia đã soi sáng cho cách mạng Việt Nam, soi sáng cho tâm can lòng người, chính mặt trời ấy đã cứu biết bao sinh mệnh trước chiến tranh đau thương, và ánh dương ấy dẫn ta đến niềm vui, hạnh phúc...

Bác được Viễn Phương ngợi ca như mặt trời - thứ ánh sáng bật diệt của thế gian, phải chăng nhà thơ đang gửi gắm một niềm tin về sự trường tồn mãi mãi của Người đối với đất nước. Với nghệ thuật nhân hóa "Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ” đó như một đòn bẩy ngợi ca Bác, ngay cả mặt trời vĩ đại của vụ trụ cũng phải ngước nhìn sự sáng bừng vĩ đại trong lăng kia. Mặt trời “rất đỏ” đã gợi cho ta đến trái tim nhiệt huyết của Bác, một trái tim nhiệt huyết với cách mạng, với nhân dân, với đất nước,...

“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.”

“Ngày ngày” được lặp lại hai lần như thể hiện sự nối tiếp thời gian, tạo một nhịp điệu chậm rãi và rất lắng sâu của dòng người đi thăm lăng Bác. Và rồi Viễn Phương đã khéo léo sử dụng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, dường như những con người ấy đi "trong thương nhớ” và đó là niềm thương nhớ khôn nguôi đối với Người, để rồi họ "kết tràng hoa” gửi tặng đến Bác, đó là những tràng hoa đẹp nhất, thơm nhất, lung linh nhất để tỏ lòng biết ơn:

“Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”

Ở đây “bảy mươi chín mùa xuân” không những chỉ tuổi của Bác mà tác giả còn nhấn mạnh một điều rằng trong bảy mươi chín mùa xuân ấy Bác đã không ngừng cống hiến hết mình để mang tới biết bao mùa xuân ấm êm hạnh phúc cho muôn dân và giờ đây dòng người kia muốn tỏ lòng biết ơn tới Bác bằng những bông hoa tươi thắm nhất.

Đến khổ thơ tiếp, cảm xúc của nhà thơ thật mãnh liệt biết bao khi thấy Người, nhìn thấy bị cha già kính yêu của dân tộc:

“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”

Tác giả lại một lần nữa sử dụng nghệ thuật nói giảm nói tránh, chẳng là Bác chỉ mệt quá chỉ ngủ chút thôi? Cả cuộc đời Bác có lẽ chẳng có nổi một giấc ngủ yên bởi vì Bác lo cho nước nhà, cho Tổ quốc và Bác "chỉ biết quên mình cho tất cả”. Câu thơ như khẳng định lại Bác mãi sống trong lòng nhân dân Việt Nam, cũng như Tố Hữu đã từng viết:

“Suốt cuộc đời Bác có ngủ yên đâu

Nay Bác ngủ chúng con canh giấc ngủ”

Chúng ta đều biết rằng, trong thơ của Bác trăng đã thành tri kỉ và cũng đã từng có người nói rằng: "thơ của Bác đầy trăng”. Từ chiến khu Việt Bắc "Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa” rồi đến lúc bàn việc quân "Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền” hay là cả khi trong tù "Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ / Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”. Và giờ đây khi đã nhắm mắt, trăng vẫn luôn theo Bác, vẫn luôn là người bạn tri kỉ của Người.

“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim”

Viễn Phương lại một lần nữa cho ta thấy cách sử dụng ngôn từ khéo léo của mình qua cách nói "Vẫn biết - Mà sao” khiến người đọc đau nhói vô cùng khi mà không thể phủ nhận một quy luật của tạo hóa đó là có sinh có tử. “Trời xanh” - biểu tượng vĩnh hằng của thiên nhiên, vũ trụ và đó cũng là ẩn dụ cho Bác. Người vẫn còn sống với non sông, dân tộc, còn mãi trong tim mỗi người dân Việt Nam cũng như nhà thơ Tố Hữu đã từng viết:

“Bác còn đó lớn mênh mông

Trời xanh biển rộng ruộng đồng nước non”

Dù lí trí vẫn tin là thế nhưng hàng triệu con đất Việt vẫn không nguôi đau xót, tiếc thương trước sự ra đi của Người. Nỗi đau mà quặn thắt, tê tái tận đáy sâu tâm hồn như hàng nghìn mũi kim đâm vào trái tim thổn thức của nhân dân ta, và rồi chính sự ra đi của Bác cũng khiến thiên nhiên nhỏ lệ tiếc thương:

“Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa

“Đời tuôn nước mắt trời tuôn mưa”

Phân tích khổ cuối bài thơ Viếng lăng Bác, đến bên Bác để khóc, người con miền Nam đã vô cùng xót đau, thương tiếc cứ trào dâng rồi vỡ òa trong lời nguyện ước của nhà thơ trước lúc ra về:

"Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này..."

Bao tình yêu thương, nỗi nhớ giờ lại càng đau hơn bởi ông sắp phải xa Bác, xa người cha kính yêu.... Và rồi trong giây phút nghẹn ngào ấy, tác giả có những ước nguyện hóa thân rất đỗi bình dị và khiêm nhường. Ông chỉ muốn hóa thân thành con chim nhỏ bé để hót những âm thanh thật trong trẻo cho Người nghe mỗi ngày và ông cũng chỉ muốn hóa thành đóa hoa, gửi những hương thơm bát ngát quanh lăng. Và một lần nữa hàng tre lại xuất hiện ở cuối bài thơ tạo kết cấu đầu cuối tương ứng trọn vẹn. Nếu như đầu bài cây tre xuất hiện với hình tượng, phẩm chất rất Việt Nam của nó "Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng” thì ở đây hàng tre lại được nhà thơ nhấn mạnh phẩm chất ”trung hiếu”. Đó như một điều khắc cốt ghi tâm những gì Bác đã nói ”Trung với nước, hiếu với dân”. Cả khổ thơ Viễn Phương đã dùng nghệ thuật ẩn chủ ngữ, đó chính là để khẳng định một điều rằng ước nguyện trên không chỉ của riêng ông mà còn biết bao người con Việt Nam khác nữa. Họ luôn thực hiện những lời Bác dạy: quyết tâm theo lí tưởng, đi theo sự nghiệp cách mạng đúng đắn của Người.

Với giọng điệu trầm lắng, trang trọng, tha thiết, nhiều hình ảnh ẩn dụ đẹp và gợi cảm, ngôn ngữ bình dị mà cô đúc, bài thơ như chạm đến trái tim người đọc, để lại trong họ niềm xúc động sâu xa trong một nỗi buồn man mác: Ôm cả non sông một kiếp người, Bác đã đi rồi sao Bác ơi!

Phân tích Viếng lăng Bác bài văn mẫu số 2

Nhắc đến nhà thơ Viễn Phương là nhắc đến một thi sĩ với hồn thơ nhẹ nhàng, man mác, bâng khuâng với những tứ thơ lay động lòng người bởi sự tinh tế trong cách diễn đạt cảm xúc, hình ảnh thơ giản dị mà sâu sắc. Viếng lăng Bác là một bài thơ như thế, bằng tình cảm chân thành bình dị của một người con miền Nam, Viễn Phương đã viết nên những vần thơ thiết tha bày tỏ niềm thành kính và nỗi xúc động khi được ra thăm lăng Bác.

Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Lời xưng hô thân mật, gần gũi, như tình cảm của một đứa con thân yêu dành cho người cha đáng kính. Sau bao khát khao mong ước, hôm nay người con ấy có cơ hội được viếng lăng Bác, nỗi xúc động, nghẹn ngào thốt lên thành tiếng như thỏa lòng mong mỏi gặp Bác bấy lâu. Nơi miền Nam xa xôi, người con ấy mang cả trái tim của hàng triệu đồng bào miền Nam đang dõi theo Người, ấm áp biết bao. Đứng trước lăng là hàng tre xanh bát ngát trong sương mai buổi sớm, hàng tre ấy vẫn hiên ngang, đứng bên Người, chở che cho Người.

Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng

Từ cảm xúc khi đứng trước lăng, tác giả bồi hồi nghĩ về con dân đất Việt, những con người Việt Nam anh dũng, kiên trung, cây tre là biểu tượng là hồn cốt của dân tộc Việt. Người Việt Nam vẫn luôn sáng ngời bởi sự gắn bó bền chặt, ý chí kiên cường, dẫu bão táp mưa sa, dẫu đất cằn sỏi đá vẫn hiên ngang, ngay thẳng, thủy chung. Hàng tre xanh xanh ấy là sức sống bền bỉ, sự trường tồn của đất nước, dân tộc. Theo dòng người, vào viếng lăng Bác, tác giả lại càng thương nhớ xúc động hơn bao giờ hết.

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ

Nếu ánh mặt trời của thiên nhiên ngày ngày vẫn miệt mài "đi" bên Bác, vẫn dõi theo người, ánh mặt trời ấy mang sự sống, mang nguồn ánh sáng rực rỡ cho muôn loài trên thế gian, thì Bác cũng như ánh mặt trời ấy, diệu kì và đẹp đẽ biết bao. Bác mang nguồn sáng của cách mạng soi rọi con đường giải phóng của dân tộc, là ánh sáng ấm áp trong mỗi trái tim chúng con. Đó là một hình ảnh rất đẹp, rất thơ, chứa chan niềm tôn kính của nhà thơ tới Bác Hồ - vị cha già kính yêu của dân tộc.

Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân

Bác vẫn ở đấy thôi, chúng con từ khắp mọi miền đến bên Người. Ngày ngày những dòng người vào thăm Bác trong niềm xúc động, nhớ thương khôn nguôi. Niềm yêu thương ấy kết thành những tràng hoa đẹp nhất, rực rỡ nhất dâng lên Người. Cuộc đời dân tộc nở hoa dưới nhân cách và công lao vĩ đại của Người. Bác đã hiến trọn bảy mươi chín mùa xuân đẹp đẽ nhất cho dân tộc cho cách mạng, Bác đã làm nên mùa xuân mới cho đất nước, cho muôn dân.

Càng vào trong lăng, nỗi nghẹn ngào lại càng khó tả, càng mãnh liệt khôn nguôi khi bắt gặp hình ảnh Người:

Bác nằm trong lăng giấc ngủ bình yên

...

Mà sao nghe nhói ở trong tim

Bác đang yên nghỉ giấc ngủ ngàn thu giữa một vầng trăng hiền dịu, ánh trăng như Bác vậy, luôn ấm áp và dịu dàng, là kẻ tri âm tri kỷ với Người. Ánh trăng sáng trong ấy như nhân cách vĩ đại của Người, cao đẹp, gần gũi mà thân thương. Dẫu biết rằng Bác như bầu trời xanh kia vậy, luôn mãi mãi trường tồn, khắc sâu trong trái tim của muôn người, nhưng thực tại cũng khiến tác giả không khỏi đau lòng được. Không buồn sao được, không thổn thức, tiếc thương sao được khi bầu trời xanh của dân tộc đã ra đi mãi mãi. Tiếng thơ cất lên sao mà nhói lòng, mà thổn thức đến vậy. Càng bên Bác, tình cảm lại càng dạt dào, càng bứt rứt, quyến luyến chẳng muốn rời xa.

Từng phút giây thiêng liêng được bên Người là khoảnh khắc quý báu và đáng trân trọng nhất, khi nghĩ đến việc phải xa Người lại không thể ngăn được những dòng nước mắt nuối tiếc, bịn rịn:

Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này

Ước nguyện giản dị nhưng chất chứa tình cảm lớn lao của người con gửi đến Người. Từ "muốn làm" lặp đi lặp lại như diễn tả nỗi khát khao khôn nguôi được ở lại với Người, được bên Người thật lâu. Ước được là con chim cất cao tiếng hót giữa bầu trời thanh bình, là đóa hoa tỏa hương ngào ngạt, là cây tre trung hiếu canh giữ giấc ngủ bình yên cho Người. Mong ước ấy đâu chỉ riêng của Viễn Phương mà còn là tiếng lòng, là khát khao, ước nguyện của tất cả mọi người còn trên đất nước này gửi đến Bác.

"Bác Hồ - Người là niềm tin thiết tha nhất trong lòng dân và trong trái tim nhân loại", hình ảnh Bác luôn mãi sắt son và trường tồn theo thời gian. Bài thơ thật đẹp, thật đáng quý, đáng yêu bởi những cảm xúc tự tận đáy lòng được viết ra của tác giả. Không cầu kỳ, hoa mỹ, không lộng lẫy, phô trương. “Viếng lăng Bác” kết tinh những tình cảm lớn trong một trái tim bình dị đã chạm đến cảm xúc người đọc một cách tự nhiên như thế.

Phân tích Viếng lăng Bác bài văn mẫu số 3

Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng viết những dòng thơ xúc động:

“Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước 

Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà

Ăn một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ quốc

Chẳng yên lòng khi ngắm một nhành hoa.” 

Những vần thơ rưng rưng cảm xúc tự hào cùng những suy tưởng sâu sắc về hành trình ra đi tìm đường cứu nước của Bác Hồ. Đó là một hành trình dài với biết bao gian khổ, thử thách mà Người đã trải qua với mục đích thiêng liêng, cao cả: “Tìm hình của Nước”. Và để rồi với tất cả những gì Bác để lại cho dân tộc Việt Nam trong bảy mươi chín năm cuộc đời ấy đã ghi một dấu ấn không thể nào phai nơi con tim mỗi người dân Việt Nam. Nhà thơ Viễn Phương, trong một lần từ miền Nam được ra thăm lăng Bác, nhớ về những điều vĩ đại Bác đã làm cho Tổ quốc, cho nhân dân cũng đã vô cùng xúc động, ông đã lựa chọn trang thơ trở thành nơi trải cảm xúc của chính mình, tiếng lòng bật lên thành tiếng thơ “Viếng lăng Bác”.

Nhà thơ Viễn Phương quê ở An Giang, là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam thời chống Mĩ. Thơ ông thường nhỏ nhẹ, giàu tình cảm và chất thơ mộng ngay trong những hoàn cảnh chiến đấu ác liệt nhất. Vào năm 1976, sau ngày đất nước thống nhất, lăng Chủ tịch Hồ Chí minh cũng vừa khánh thành, Viễn Phương ra thăm miền Bắc, vào lăng viếng Người. Những tình cảm đối với Bác Hồ kính yêu đã trở thành nguồn cảm hứng chính để nhà thơ sáng tác thi phẩm “Viếng lăng Bác”.

Trước tiên, những vần thơ bình dị, thiết tha đều đặn, từ tốn vang lên như chất chứa cả một niềm mong mỏi, chân thành của nhà thơ Viễn Phương khi đến lăng Bác:

“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.”

Trong dòng thơ đầu tiên cất lên, cụm từ “ở miền Nam” như thông báo cho Bác biết rằng người con ấy đến từ một nơi rất xa xôi - miền Nam - mảnh đất anh hùng suốt mấy chục năm trời chiến đấu gian khổ chỉ mong có ngày giành được độc lập, thống nhất, mảnh đất mà Bác vẫn luôn đau đáu một nỗi nhớ một niềm mong. Động từ “thăm” cũng như một sự nói giảm nói tránh hay mặt khác còn là sự đấu tranh, đối lập giữa lí trí và thể xác. Dù nhà thơ không muốn tin Bác đã mất rồi nhưng sự thật hiện tại vẫn là thế. Cách xưng hô của tác giả trong câu thơ đầu tiên này càng khiến cho ta xúc động. Đó là cách xưng hô “Con” - “Bác” rất gần gũi, thân thương của người dân Nam Bộ. Dường như nó đã xóa tan đi mọi khoảng cách giữa một vị lãnh tụ vĩ đại và một công dân. Bởi vì trong thâm tâm mọi người, Bác là người thân trong gia đình, là vị lãnh tụ vĩ đại nhưng thân tình và giản dị biết bao:

“Nơi đây sống một người tóc bạc 

Người không con mà có triệu con 

Nhân dân ta gọi Người là Bác 

Cả đời Người là của nước non”

Tiếp đến lăng Bác, hình ảnh đầu tiên tác giả Viễn Phương bắt gặp sau làn sương sớm mai là hàng tre xanh bát ngát, thấp thoáng bóng dáng quen thuộc của làng quê: “Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát”. Thật giản dị xiết bao khi che chở và canh giữ cho giấc ngủ ngàn thu của vị Cha già dân tộc lại chính là những gì gần gũi và thân thuộc nhất. Phải chăng chính điều đó đã khiến trái tim của người con miền Nam lần đầu đến viếng lăng Bác phải xúc động nghẹn ngào. Khổ thơ đầu tiên này tác giả Viễn Phương đã dùng đến ba câu thơ để tập trung khắc họa hình ảnh hàng tre - một hình ảnh không chỉ tả thực không gian bên ngoài lăng Bác mà còn ẩn chứa bao ý nghĩa sâu xa. Từ cảm thán “Ôi” biểu thị bao niềm xúc động tự hào của tác giả. Và, cái “bát ngát”, “xanh xanh” trải khắp không gian kia còn là cái “bát ngát”, mênh mông của cảm xúc con người. “Hàng tre xanh xanh” mộc mạc nhưng “bão táp mưa sa đứng thẳng hàng” đã nhấn mạnh sức sống bền bỉ của tre xanh hay cũng chính là của dân tộc Việt Nam dù trải qua bao khó khăn gian khổ trong hai cuộc kháng chiến trường kì. Bằng nghệ thuật ẩn dụ tinh tế, nhà thơ Viễn Phương đã gợi lên tinh thần đoàn kết, kiên cường, bền bỉ của dân tộc Việt Nam luôn sẵn sàng bên Bác thực hiện lí tưởng cao cả qua hình ảnh hàng tre. Hàng tre nơi lăng Bác, hàng tre trong thơ Viễn Phương thân thuộc mà thiêng liêng đến thế!

Từ những hàng tre thẳng hàng ngày ngày canh giấc ngủ cho Bác, nhà thơ khắc họa những hình ảnh nơi lăng Bác và cùng với đó là cảm xúc tiếc thương dâng trào khi cùng dòng người vào lăng viếng Bác:

“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ 

Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”

Theo vòng quay tuần hoàn của tạo hóa, ngày ngày có một mặt trời đi qua trên lăng, chợt ngỡ ngàng cúi mình chiêm ngưỡng những ánh sáng chói lọi, rực rỡ, đỏ một màu chứa chan tình thương của một mặt trời bình yên, thanh thản trong lăng kia tỏa ra. Với nghệ thuật ẩn dụ đặc sắc, cách xây dựng hình ảnh sóng đôi thật tự nhiên, Viễn Phương đã khéo léo ví Bác như một mặt trời rạng rỡ, đỏ rực. Một ngày qua, ông được chiêm ngưỡng hai ánh mặt trời tỏa sáng ngời ngời, rực rỡ cả một không gian, chứa chan dòng chảy thành kính vô tận của hàng vạn con người: Mặt trời vũ trụ - Mặt trời chân lí. Mặt trời của vũ trụ ngày ngày chiếu sáng, sưởi ấm cho thế gian, để hoa nở rộ, để trái chín cành, để người người hớn hở làm việc, để chim trỗi cất lên những khúc nhạc tươi vui. Thế nhưng luồng ánh sáng rực rỡ vĩnh viễn của vũ trụ cũng im lặng thao thức trước một mặt trời của chân lý cao cả - Bác Hồ. Bác xuất hiện như vầng thái dương dần nhô lên giữa rặng núi xa xăm, xua tan đi bóng đêm mù mịt tăm tối bao trùm, quét sạch hơi đông lạnh lẽo, đớn đau, bẻ gãy đi mọi cùm gông, xiềng xích. Dưới hơi ấm của chân lý bừng chói rực rỡ, những đời nô lệ câm lặng lại ngào ngạt nở hoa, để mỗi kiếp người lại hăm hở, sung sướng được trọn vẹn làm người. Trái tim Bác như vẫn luôn “rất đỏ” một tình yêu mênh mông, vô tận. Bóng hình Bác lồng lộng được chắp cánh bát ngát bay lên đã che chở, dẫn dắt cho cả dân tộc vượt qua tăm tối đêm trường để đến với một nền tự do huy hoàng, rạng rỡ:

“Bác ơi, tim Bác mênh mông thế 

Ôm cả non sông, mọi kiếp người!”

Để rồi giờ đây, tại chốn Người yên nghỉ, ngày ngày là dòng người đi trong thương nhớ. Qua những vần thơ của Viễn Phương, điệp từ “ngày ngày” tiếp tục vang lên nhằm thể hiện sự tiếp nối thời gian liên tục, tạo nhịp điệu chậm rãi, sâu lắng cho đoạn thơ:

“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ 

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân” 

Đây là một hình ảnh tả thực diễn tả dòng người đi trong nỗi xúc động, bồi hồi trong lòng tiếc thương kính cẩn. Nhưng bên cạnh đó, đây cũng là một hình ảnh ẩn dụ đẹp, một sự sáng tạo của nhà thơ. Cuộc đời của mỗi chúng ta đã nở hoa dưới ánh sáng của Bác. Những bông hoa tươi thắm đó đang dâng lên Người những gì đẹp nhất. Đó cũng là sự tri ân của dân tộc đối với Bác. Biên độ câu thơ của Viễn Phương đến đây được kéo dài thành chín chữ đầy sâu lắng, như một sự ngân dài của tấm lòng thành kính, tiếc thương. “Bảy mươi chín mùa xuân” là hình ảnh hoán dụ mang ý nghĩa tượng trưng cho bảy mươi chín năm cuộc đời của Bác. Con người bảy mươi chín mùa xuân ấy đã sống một cuộc đời đẹp như những mùa xuân, đã làm nên bao mùa xuân đẹp cho đất nước, cho dân tộc. Đúng như những vần thơ mà Tố Hữu đã ngợi ca tấm lòng vĩ đại của Bác dành cho đất nước, dành cho nhân dân:

“Bác để tình thương cho chúng con 

Một đời thanh bạch, chẳng vàng son 

Mong manh áo vải hồn muôn trượng 

Hơn tượng đồng phơi những lối mòn.”

Niềm biết ơn thành kính trong lòng tác giả và dòng người vào lăng viếng Bác đã chuyển sang niềm xúc động nghẹn ngào khi đứng trước thi hài Bác:

“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim!”

Trong đoạn thơ, tác giả đã sử dụng nghệ thuật nói giảm nói tránh về sự ra đi của Người. Giấc ngủ mà tác giả nhắc đến ấy cũng khiến ta bồi hồi suy ngẫm. Suốt cuộc đời bảy mươi chín mùa xuân, Bác chưa bao giờ có một giấc ngủ trọn vẹn: “Đêm nay Bác ngồi đó / Đêm nay Bác không ngủ / Vì một lẽ thường tình / Bác là Hồ Chí Minh.” (Minh Huệ). Liên tưởng đến câu thơ này càng khiến ta thêm nghẹn ngào, thành kính trước giấc ngủ ngàn thu đã phần nào yên giấc của Bác. Và ánh sáng dịu nhẹ trong lăng Bác gợi một liên tưởng thú vị tới hình ảnh vầng trăng. Trăng - một người bạn tri kỉ của Bác: “Trăng vào cửa sổ đòi thơ / Việc quân đang bận xin chờ hôm sau” (Báo Tiệp), trăng khi kháng chiến, trăng trong nhà lao, trăng ngoài chiến trận và giờ đây trăng đến bên Người để vỗ về giấc ngủ ngàn thu. Cùng với hình ảnh vầng trăng, nhà thơ Viễn Phương muốn tạo ra một hệ thống hình ảnh vũ trụ để ví với Bác. Vầng trăng dịu hiền hay chính là tâm hồn cao đẹp, trong sáng của Bác. Bác rực rỡ như mặt trời, Bác dịu hiền như ánh trăng. Bác đã hóa thân vào thiên nhiên đất trời dân tộc, sống mãi trong sự nghiệp và trong tâm trí của nhân dân như bầu trời xanh vĩnh viễn trên cao.

“Bác sống như trời đất của ta

Yêu từng ngọn lúa, mỗi cành hoa

Tự do cho mỗi đời nô lệ

Sữa để em thơ, lụa tặng già.”

(“Bác ơi!” - Tố Hữu)

Dù vẫn biết là như vậy nhưng người con Viễn Phương không thể không đau xót trước sự ra đi của Người. Nỗi đau xót đã được biểu hiện rất cụ thể, trực tiếp: “Mà sao nghe nhói ở trong tim”. Nỗi đau quặn thắt, tê tái như hàng ngàn mũi kim đâm vào trái tim thổn thức. Đó là sự rung cảm chân thành của nhà thơ. Bởi về lí trí, Bác đã ra đi thật sự nhưng về tình cảm, Người vẫn đang hiện hữu trong trái tim mỗi người con Việt Nam và trong lòng dân tộc.

Nhưng rồi cuộc sum họp nào rồi cũng chia li, đứng trước lăng Bác trong niềm xúc động vô bờ, chạnh lòng nghĩ đến việc trở về miền Nam nhà thơ đã không kìm được nỗi niềm thương nhớ: “Mai về miền Nam thương trào nước mắt”. Thương, thương đến trào nước mắt, đó chính là tình thương của nhân dân Việt Nam, của miền Nam ruột thịt dành cho Bác trong giây phút này, giây phút lặng người trước sự hi sinh to lớn của Bác… tất cả như im lặng… Những cảm xúc bị dồn nén bỗng trào dâng “thương trào” thật tự nhiên, thật chân thành. Và trong phút chốc ấy, nhà thơ như muốn hóa thân:

“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.”

Âm hưởng bài thơ được nhấn mạnh qua điệp ngữ “muốn làm”. Hình như có một sức mạnh vô hình nhưng mãnh liệt níu kéo lòng ta ở lại. Phải chi ta có thể biến thành những gì thân yêu quanh nơi Bác yên nghỉ, để có thể hằng ngày nhìn thấy Bác, nhìn thấy cả tấm lòng của vị lãnh tụ vĩ đại, bao dung. Ước gì ta có thể làm một con chim nho nhỏ góp tiếng hát của mình vào những buổi bình minh nơi lăng Bác. Hay ước chi ta được làm một bông hoa dân tộc nở quanh lăng của Người. Và phải chi một ngày nào đó ta sẽ trở thành một cây tre bên những hàng tre xanh tỏa bóng mát dịu dàng nơi lăng Bác. Ước chi… ước chi… điều ước duy nhất là tiếp bước con đường, đi theo lý tưởng của Bác trong công cuộc xây dựng đất nước.

Hình ảnh “hàng tre” xuất hiện ở đầu bài thơ giờ đây khép lại những dòng thơ cuối với một nét nghĩa bổ sung: “cây tre trung hiếu”. Đó là hình ảnh ẩn dụ thể hiện nguyện ước mãi mãi đi theo con đường cách mạng mà Người đã chọn. Hình ảnh đó còn tạo cho bài thơ có kết cấu đầu cuối tương ứng, gây ấn tượng sâu sắc với bạn đọc và dòng cảm xúc của tác giả cũng được trọn vẹn hơn. Câu thơ kết thúc trầm lắng nhưng sao tâm hồn nhà thơ lại vút lên cao. Nỗi thương nhớ, sự tự nguyện giờ phải biến thành những gì đó thật hơn, những gì mà có thể cống hiến cho quê hương, Tổ quốc, để muôn đời xứng đáng với những gì Bác đã làm cho dân tộc:

“Nhớ đôi dép cũ nặng công ơn

Yêu Bác, lòng ta trong sáng hơn

Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi

Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn.”

Xuyên suốt thi phẩm, tác giả đã tinh tế lựa chọn ngôn ngữ giản dị, chân thành nhưng giàu cảm xúc, phát huy triệt để giá trị của các biện pháp tu từ như ẩn dụ, so sánh, điệp ngữ… trong việc xây dựng hình ảnh thơ đầy sáng tạo, rất chân thực nhưng có ý nghĩa khái quát, biểu tượng và sức biểu cảm cao. Với cách gieo vần và nhịp thơ linh hoạt, giọng điệu vừa trang nghiêm sâu lắng vừa tha thiết, đau xót xen lẫn tự hào, bài thơ thể hiện niềm xúc động, tấm lòng thành kính, lòng biết ơn sâu sắc của tác giả khi từ miền Nam ra viếng lăng Bác.

Đã có rất nhiều áng văn thơ bất hủ viết về Bác, về sự nghiệp cách mạng sáng ngời của Người, “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương xứng đáng góp mặt trong những tác phẩm thi ca xuất sắc nhất viết về Bác. Bằng tình cảm trân trọng, kính yêu của người con miền Nam, Viễn Phương đã nói lên tình cảm của hàng triệu con người Việt Nam dành cho vị cha già dân tộc, tình cảm của tác giả được bộc lộ đầy xao xuyến, nghẹn ngào trong hai khổ thơ đầu của thi phẩm. Bác sẽ luôn là mặt trời sáng nhất, ấm áp nhất trong trái tim mỗi con người Việt Nam. Hình ảnh về Bác, về sự nghiệp và cuộc đời của Bác đâu chỉ gây xúc động cho Viễn Phương, cho con người, dân tộc Việt Nam mà còn truyền cảm hứng cho rất nhiều người dân, dân tộc trên thế giới. Đúng như nhà thơ người Cu Ba từng viết: “Hồ Chí Minh - tên người là cả một miền thơ”.

(Nguồn: Học văn chị Hiên)

Phân tích Viếng lăng Bác bài văn mẫu số 4

Viễn Phương là một trong những gương mặt nhà thơ tiêu biểu trong lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam. Trong 30 năm tham gia chiến đấu vì độc lập tự do của dân tộc, Viễn Phương đã có những cống hiến cho sự nghiệp cách mạng. Bài thơ “Viếng lăng Bác” được sáng tác vào năm 1976, một năm sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc thắng lợi, miền Nam giải phóng, đất nước thống nhất. Năm 1976 cũng là thời điểm công trình lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh khánh thành. Viễn Phương trên danh nghĩa là một trong số ít đồng bào chiến sĩ miền Nam đã có cơ hội viếng thăm lăng Bác. Bài thơ là những cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước lăng của Hồ Chủ tịch. Đó là những xúc động thiêng liêng, sự thành kính và lòng biết ơn vô hạn của Viễn Phương dành cho “vị cha già của dân tộc”.

“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng”

Viễn Phương vốn là một người con miền Nam, từng tham gia chiến đấu nơi chiến trường Nam Bộ xa xôi. Cũng như bao đồng bào và chiến sĩ miền Nam khác, Viễn Phương luôn mong mỏi một ngày được ra thăm Bác. Vì vậy, khi đứng trước lăng Hồ Chủ tịch, đặc biệt sau khi miền Nam giải phóng, thống nhất đất nước, nhà thơ đã không giấu nổi sự xúc động

Cảm xúc bồi hồi xen lẫn sự xúc động sâu xa thể hiện ngay trong câu thơ đầu tiên:

“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”

Tác giả đã sử dụng ngôn từ giản dị, câu thơ như một lời trần thuật, thông báo ngắn gọn rằng tác giả từ miền Nam, nơi tuyến đầu chống dịch của Tổ quốc, sau bao nhiêu năm mong mỏi nay cũng được về thăm Bác, vào đúng thời điểm lăng Bác vừa khánh thành. Việc tác giả sử dụng đại từ nhân xưng thân tình “Con - Bác” nhằm thể hiện tình cảm mà tác giả dành cho Bác mang một sự gần gũi, thân thiết, như mối quan hệ giữa hai người thân ruột thịt. Đây cũng chính là lối nói đặc trưng người miền Nam. Đại từ nhân xưng thân tình còn thể hiện được lòng tôn kính và tình cảm yêu thương ruột thịt, tạo cảm giác như một đứa con xa nhà, nay mới được trở về bên vị cha già kính yêu của dân tộc.

Biện pháp nghệ thuật tu từ nói giảm, nói tránh được tác giả vận dụng khi dùng từ “thăm” để thay cho từ “viếng”. Hai từ tuy biểu thị cùng một hoạt động nhưng tác giả muốn dùng từ “thăm” nhằm giảm bớt nỗi đau thương, mất mát khi những đứa con từ miền Nam chỉ còn được gặp Bác trong Lăng. Từ ngữ đó nhằm giảm bớt sự tiếc nuối của tác giả khi Bác đã không thể cùng nhân dân, đặc biệt là những người con Miền Nam, cùng đón nền hòa bình độc lập dân tộc mà Bác đã cống hiến cả đời để thực hiện hóa. Nghệ thuật dùng từ của tác giả còn khai thác hình tượng bất tử của Bác không chỉ trong lòng những người con miền Nam mà còn đối với cả dân tộc Việt Nam. Câu thơ đầu tiên với sự giản dị như một lời kể, đã bộc lộ tình cảm bao lâu nay của người con miền Nam, sau bao đợi chờ cuối cùng cũng được về thăm Người.

Khi đứng trước lăng Chủ tịch kính yêu, tác giả đã viết về ấn tượng đầu tiên về hàng tre xanh mát trong 3 câu thơ tiếp theo:

“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát 

Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam 

Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”

Trong đoạn thơ này, tác giả đã sử dụng từ cảm thán “Ôi!” để biểu thị niềm xúc động, niềm tự hào trước hình ảnh hàng tre đứng quanh lăng Bác. Hình ảnh “hàng tre bát ngát” ấy vừa có ý nghĩa là hình ảnh tả thực về quang cảnh tác giả đã nhìn thấy quanh lăng Bác, vừa liên tưởng đến những xóm làng Việt Nam với sự gần gũi, thân thương.

Hình ảnh ẩn dụ “hàng tre xanh xanh Việt Nam” mang ý nghĩa tượng trưng. Tre vốn là loài cây thường xuyên xuất hiện trong các câu chuyện dân gian Việt Nam. Sức sống tràn trề của tre tượng trưng cho những con người Việt Nam trong chiến tranh, mạnh mẽ và kiên cường. “Hàng tre” mà tác giả miêu tả gợi hình ảnh một quân đội hùng tráng với tinh thần kiên cường, bất khuất. Dù trong “bão táp mưa sa”, “hàng tre” ấy vẫn đứng bên cạnh canh giữ cho giấc ngủ ngàn thu của Người. Với việc sử dụng thành ngữ “bão táp mưa sa” gắn với “hàng tre”, tác giả đang tự mình nhớ về những khó khăn, gian khổ mà đất nước, nhân dân ta đã cùng nhau trải qua. Trong những cuộc chiến khắc nghiệt ấy, dân ta đã phải “chung lưng, đấu cật” để mang lại hòa bình độc lập như ngày hôm nay. Cách miêu tả hình ảnh hàng tre qua cụm từ “đứng thẳng hàng” đã đem lại cho người đọc hình dung về dáng dấp cứng cỏi, hiên ngang, kiên cường, bất khuất, đúng như tính cách vốn có của người dân Việt Nam. Như vậy là khổ thơ đầu diễn tả niềm xúc động sâu sắc, niềm tự hào, thành kính của tác giả khi có dịp đến thăm và đứng trước lăng Bác sau bao ngày tháng mong mỏi.

“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ

Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…”

Khổ thơ thứ 2 với bốn câu thơ miêu tả hình ảnh của dòng người vào viếng lăng Bác với nỗi tiếc thương và lòng biết ơn vô hạn. Hai hình ảnh “mặt trời” của thiên nhiên và “mặt trời” ẩn dụ sóng đôi với nhau cho thấy tấm lòng thành kính, lòng biết ơn sâu sắc mà tác giả cũng như người dân cả nước đang và sẽ mãi dành cho Bác. Trong câu thơ “Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng” mặt trời chính là hình ảnh tả thực. Đây là mặt trời của mẹ thiên nhiên, mặt trời mà chúng ta thường biết đến, giúp sưởi ấm, soi sáng không gian vũ trụ và mang lại sự sống cho vạn vật. Còn trong câu thơ “Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”, mặt trời là hình ảnh ẩn dụ về Bác Hồ. Đối với nhân dân Việt Nam, Bác chính là mặt trời chân lí, giúp sưởi ấm và soi sáng cho dân tộc thoát khỏi kiếp nô lệ, thoát khỏi chiến tranh và có một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Việc tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật nhân hóa với hai hành động ngày ngày “đi qua trên lăng” và thấy trong lăng có một mặt trời “rất đỏ” có tác dụng tô đậm tầm vóc vĩ đại của Người trong mắt những người con xa xứ như Viễn Phương. Chi tiết đặc tả “rất đỏ” đã góp phần tô đậm vẻ đẹp trong trái tim đầy nhiệt huyết vì Tổ quốc, vì nhân dân của Bác. Tuy Bác đã mất nhưng trái tim ấy cùng với lòng yêu nước nồng nàn sẽ mãi sáng chói như mặt trời, sẽ soi sáng cho dân tộc từ nay về sau.

Điệp từ “ngày ngày” chỉ dòng thời gian vô tận giống như tấm lòng của người dân chưa bao giờ nguôi nỗi nhớ về Bác; mang nỗi tiếc thương vô hạn trước thời khắc tiến vào lăng Bác. Hình ảnh “dòng người” mang giá trị tạo hình, thể hiện quang cảnh nhiều đoàn người nối hàng dài vào lăng để viếng Bác. Có thể thấy, tình thương mà người dân dành cho Bác là vô cùng lớn, đến mức họ chấp nhận xếp thành từng hàng chỉ để được vào nhìn Bác, gặp Bác ít nhất một lần trong đời. Hình ảnh “tràng hoa” ẩn dụ cho những đoàn người, cho thấy khung cảnh “dòng người” đông như kết lại thành hàng vạn trái tim, thành một “tràng hoa” với tấm lòng thương xót, thành kính dâng lên Bác.

Thông qua hình ảnh hoán dụ “bảy mươi chín mùa xuân”, tác giả muốn nhắc đến 79 năm trong cuộc đời của Bác, ứng với 79 mùa xuân mà Bác đã hi sinh cho độc lập tự do của toàn dân tộc. Khổ thơ thứ hai đã lột tả được một cách rõ nét tấm lòng tiếc thương của nhân dân cả nước dành cho “vị Cha già kính yêu” của dân tộc. Tuy đã ra đi nhưng trái tim và sự hi sinh của Người sẽ luôn sống và được nhân dân khắc ghi ngàn đời sau.

“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim”

Khi vào đến trong lăng, thời gian như ngưng đọng trong không khí yên bình, trang nghiêm cùng ánh sáng dịu nhẹ, trong trẻo của không gian bên trong lăng Bác:

“Bác nằm trong lăng giấc ngủ bình yên 

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền.”

Ở đây, tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật nói giảm “giấc ngủ” để miêu tả hình ảnh Bác nằm trong lăng. Tác giả dường như đang muốn phủ nhận sự thật đau lòng rằng Bác đã mất. Tuy nhiên trong mắt tác giả, Bác như chỉ đang ngủ một giấc bình yên vì sau bao năm cống hiến, hi sinh vì đất nước, nay ngày độc lập tự do đã đến, mong ước cả cuộc đời của Bác đã được toại nguyện. Hình ảnh “vầng trăng sáng” dịu hiền như đại diện cho tâm hồn, phong cách sống thanh tao, cao đẹp của Bác trong suốt cuộc đời. Cách tác giả đưa hình ảnh “vầng trăng” đã bộc lộ tấm lòng biết ơn sâu sắc dành cho Bác, với tư cách là một người con miền Nam. Hồ Chí Minh vốn nổi tiếng với các tập thơ viết về ánh trăng, việc sử dụng hình ảnh “vầng trăng” như một cách tác giả gửi lời tri ân đến những tác phẩm thơ ca của Bác, dưới danh nghĩa là một nhà thơ, từng trưởng thành trong chiến tranh.

“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi”

“Trời xanh” trong lớp nghĩa đầu tiên được hiểu là thiên nhiên, là bầu trời thân thuộc của chúng ta. Một bầu trời bao la rộng lớn, cùng với “mặt trời”, tồn tại vĩnh hằng theo thời gian. “Trời xanh” trong lớp nghĩa thứ hai mang nghĩa ẩn dụ sâu xa về hình ảnh Bác. Trong mắt người dân Việt Nam, Bác sẽ gắn bó mãi với non sông đất nước, với tình yêu nước lan tỏa đến toàn dân, như “trời xanh” vĩnh hằng và ánh sáng “mặt trời” không bao giờ tắt. Tác giả sử dụng hình ảnh ẩn dụ sâu xa “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi” để thể hiện tâm trạng xúc động của mình.

Tuy đã coi hình bóng của Bác sẽ sống mãi theo thời gian nhưng nhân dân vẫn không thể tránh khỏi tâm trạng đau xót và nuối tiếc trước sự ra đi của Bác. Niềm tiếc nuối ấy được thể hiện rõ nhất qua câu thơ:

“Mà sao nghe nhói ở trong tim”

Tác giả đã biểu hiện một nỗi đau đột ngột, quặn thắt khi sử dụng từ biểu cảm trực tiếp “Nhói”. Đây không phải sự mất mát thông thường mà là nỗi đau tận đáy sâu trong tâm hồn của một người con xa xứ, một nỗi đau đầy uất nghẹn đến nỗi không nói thành lời. Tất cả những gì mà tác giả có thể miêu tả về sự mất mát ấy chính là “nhói” - sự nhức nhối, cơn đau quặn đến từ bên trong mà khó có thể ngừng lại. Cặp quan hệ từ “vẫn” và “mà” diễn tả một sự mâu thuẫn, mâu thuẫn giữa cảm giác “nhói” với sự thật “trời xanh là mãi mãi”. Đó là mâu thuẫn giữa tình cảm và lý trí. Con người tuy biết được sự thật nhưng đứng trước khoảnh khắc thiêng liêng, vẫn không thể thoát khỏi phút yếu lòng. Cảm xúc trong 4 câu thơ này là đỉnh điểm của nỗi nhớ thương, của niềm đau xót khi đứng trước di hài của Bác. Và đó cũng là nguyên nhân dẫn đến khát vọng của tác giả trong khổ cuối của bài thơ.

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”

Sau khi được gặp Bác đúng như ý nguyện, tác giả dường như không muốn rời xa Bác. Nỗi đau mất mát cùng những giọt nước mắt đầy lưu luyến đã được diễn tả qua câu thơ:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”

Việc sử dụng từ chỉ thời gian “mai” đi liền với địa danh “miền Nam” thể hiện sự chia xa, xa cách cả về thời gian và không gian. Tuy khoảng cách có xa nhưng tấm lòng, tình cảm của tác giả, của những người con miền Nam vẫn dõi theo hình bóng của Người, muốn ở bên Người lâu hơn. Với lối nói diễn tả cảm xúc “thương trào nước mắt”, tác giả đã cụ thể hóa nỗi nhớ thương vô cùng da diết. Cảm xúc “trào nước mắt” mặt khác còn thể hiện sự gắn bó của tác giả với miền Bắc (nơi đặt lăng Bác), với Bác Hồ trong trái tim của những người con miền Nam.

Sau khi hoàn thành chuyến thăm lăng Bác và nói lời tạm biệt, tác giả dường như đang bày tỏ khát vọng hóa thân, làm sao để được ở lại bên Bác lâu hơn. Khát vọng ấy thể hiện rõ nét qua ba câu thơ cuối của bài thơ:

“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác 

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây 

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.”

Ba câu thơ với nhịp điệu dồn dập, kết hợp cùng điệp từ “muốn làm” ở đầu cho mỗi dòng thơ đã góp phần tô đậm sự tha thiết, mong ước mãnh liệt của tác giả khi muốn bất chấp hóa thân thành vạn vật, chỉ để được ở gần bên Bác. Tác giả vừa muốn ở lại bên Bác, vừa muốn góp cuộc đời mình để tô đẹp thêm cho cảnh quan quanh lăng. Tác giả ước được hóa thân thành “con chim” để cất tiếng hót làm vui lăng Bác; muốn làm “đóa hoa” để mang lại sắc hương trong vườn hoa quanh lăng. Cuối cùng, tác giả ao ước được làm là “cây tre trung hiếu” để hòa vào “hàng tre bát ngát”, bất khuất, kiên cường, tỏa bóng mát cho lăng mãi theo thời gian.

Tác giả mong muốn được ở lại miền Bắc, cạnh bên Bác để canh cho Người giấc ngủ yên. Hơn nữa, để có thể nghe được tiếng hót của chim, thưởng thức hương sắc của những đóa hoa thì cần sự hi sinh lớn lao của Bác. Vì vậy, tác giả muốn thông qua các sự vật trên để bày tỏ niềm biết ơn sâu sắc dành cho Bác. Đồng thời qua hình ảnh “cây tre” tác giả cũng muốn tôn vinh vẻ đẹp bất khuất, trung hiếu của con người Việt Nam.

Bài thơ Viếng lăng Bác đã khép lại bằng hình ảnh “cây tre trung hiếu”, tương đồng với hình ảnh “hàng tre bát ngát” ở đầu bài thơ, xây dựng thành một kết cấu đầu cuối tương ứng, thể hiện được mong ước và tấm lòng tác giả dành cho Bác. Bài thơ là niềm xúc động thiêng liêng, thành kính và niềm tự hào, đau xót của nhà thơ Viễn Phương, người đồng bào miền Nam khi thăm lăng Bác sau khi miền Nam giải phóng, thống nhất đất nước.

Phân tích Viếng lăng Bác bài văn mẫu số 5

Bác Hồ là vị cha già kính yêu của dân tộc ta. Để viết về Bác có lẽ chẳng bao giờ có thể ghi hết được công lao to lớn của Người dành cho dân tộc. Ngay cả sau khi Bác mất, rất nhiều bài thơ hay về Bác đã ra đời. Tiêu biểu trong số đó phải kể đến bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương. Cũng như nhiều người dân khác của nước Việt Nam, mỗi lần nhắc đến Bác Hồ là trong lòng lại trào dâng một nỗi xúc động lớn lao. Sự ra đi của Bác là nỗi tiếc thương cho toàn thể dân tộc Việt. Chính vì vậy mà trong mỗi vần thơ đều có hàm chứa sự biết ơn, lòng tôn kính đối với Người. Và bài thơ Viếng Lăng Bác đã thể hiện rất rõ điều đó.

Mở đầu bài thơ, tác giả cho ta thấy được xuất xứ:

Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Lòng tôn kính dành cho Bác đã thôi thúc người chiến sĩ Viễn Phương từ miền Nam ra thăm lăng Bác. Không quản ngại đường xa gian khó. Đến được với Bác là một điều tuyệt vời và có ý nghĩa hơn cả. Nhìn từ đằng xa qua lớp sương mù bao phủ nhưng nhà thơ đã thấy rõ hàng tre:

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng

Thán từ “ôi” gợi lên cho người đọc bao nỗi xúc động lớn lao. Dù chưa gặp Bác mà mới chỉ thấy hàng tre thôi đã khiến cho tác giả nghẹn lòng. “Hàng tre xanh xanh Việt Nam”, một hình ảnh tượng trưng vô cùng tuyệt vời. Người Việt Nam vốn gắn bó với lũy tre xanh. Nhìn thấy tre, ta liên tưởng đến những con người Việt Nam cần cù, chịu khó hai sương, một nắng. Cho dù phải hứng chịu biết bao bom đạn của những năm tháng chiến tranh thì tre và người đều đứng hiên ngang, thẳng hàng.

Hai câu thơ tiếp theo mới thật là đặc sắc:

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ

Chúng ta đều biết, trong tự nhiên chỉ có một mặt trời. Điệp từ “ngày ngày” cho ta thấy sự diễn biến liên tục của thời gian. Dường như không có một ngày nào mặt trời không đi qua trên lăng Bác. Mặt trời bao trùm lên không gian bên ngoài lăng Bác. Còn không gian bên trong thì đã có một mặt trời khác soi rọi. Mặt trời ấy chính là Bác Hồ. Nhà thơ Viễn Phương đã có sự ví vón vô cùng tinh tế bởi Bác Hồ khi còn sống là người đã chỉ đường cho chúng ta tìm thấy ánh sáng của sự tự do. Màu sắc “rất đỏ” càng làm nổi bật thêm hình ảnh con người Bác.

Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân

Hai câu thơ tiếp theo, Viễn Phương vẫn sử dụng điệp từ “ngày ngày” để chỉ sự liên tục tiếp diễn của những dòng người tới viếng lăng Bác. Không riêng gì nhà thơ, ai ai cũng muốn tới thăm Bác một lần để tưởng nhớ người anh hùng của dân tộc. Động từ “dâng” cho thấy sự biết ơn và lòng kính trọng của người dân đối với Bác. Ở đây, tác giả không nói dâng hoa lên Bác mà là “bảy mươi chín mùa xuân” ý chỉ số tuổi của Bác. Bác của chúng ta đã nằm xuống ở tuổi bảy mươi chín.

Khổ thơ thứ ba miêu tả sự bình yên của Bác:

Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim

Sau bao nhiêu năm tháng lăn lộn vì Tổ quốc, giờ đây Bác nằm xuống, đôi mắt nhắm tưởng như là đang ngủ. Đó là một giấc ngủ sâu và kéo dài mãi mãi. Nhìn thì bình yên vậy nhưng lòng người ở lại vẫn cứ thấy nhói đau. Đọc câu thơ thôi mà chúng ta cũng thấy gợn trong lòng. Đó là một sự mất mát quá lớn, một nỗi tiếc thương mà bao nhiêu năm cũng chẳng thể nào nguôi ngoai.

Khổ thơ cuối khép lại với lời chào tạm biệt Bác của nhà thơ. Đồng thời, nhà thơ cũng mong ước được hóa thân vào làm chim, làm hoa, làm cây tre để được ở mãi bên cạnh Người.

Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.

Qua 4 khổ thơ với giọng điệu chân thành, bình dị, người đọc cảm nhận được tình cảm của nhà thơ miền Nam dành cho Bác kính yêu. Bài thơ khép lại nhưng vẫn đọng lại trong lòng người đọc những nỗi ám ảnh và những nỗi tiếc thương. Nhà thơ Viễn Phương không chỉ nói lên được tình cảm của mình mà còn nói thay cho toàn dân tộc. Thật đáng quý biết bao.

Phân tích bài Viếng lăng Bác mẫu số 6

Trong thơ ca ca ngợi về chủ tịch Hồ Chí Minh thì có rất nhiều những tác phẩm thơ hay và đặc sắc. Thế nhưng không phải bài thơ viết về Bác nào cũng có thể nói được những xúc cảm đến nghẹn ngào như trong bài thơ Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương.

Không thể phủ nhận được bài thơ Viếng Lăng Bác là một trong những bài thơ đã thành công trong việc diễn tả niềm kính yêu, sự xót thương và lòng biết ơn vô hạn của Viễn Phương đối với vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc - Hồ Chí Minh bằng một ngôn ngữ tình tế, tâm tình và giàu xúc cảm.

Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Ngay từ câu thơ đầu tiên thì khi từ chiến trường miền Nam, nhà thơ Viễn Phương cũng đã mang theo trong mình với biết bao tình cảm thắm thiết của đồng bào và chiến sĩ ra viếng lăng Bác Hồ kính yêu. Có thể nói đây cũng chính là một cuộc hành hương của người chiến sĩ. Từ xa, nhà thơ đã nhìn thấy hàng tre ẩn hiện trong sương khói trên quảng trường Ba Đình lịch sử. Khi mà màn sương trong câu thơ gợi lên một không khí thiêng liêng gợi một miền cổ tích xa xưa. Ấn tượng đầu tiên với người con ở trong Nam khi ra đến lăng Bác cũng chính là hàng tre. Cây tre với dáng đứng thẳng cũng vô cùng quen thuộc với chúng ta và đặc biệt cây tre lại còn có đặc tính đứng thẳng, sống được ở nơi đất sỏi và đất bạc màu nữa. Hình ảnh hàng tre như tượng trưng cho sự cần cù, chịu thương chịu khó của người nông dân của con người Việt Nam.

Viễn Phương cũng thật tài tình khi ông cũng đã miêu tả cảnh quan (phía ngoài) lăng Bác, nhà thơ lúc này đây thật tinh tế khi ông tạo nên những suy nghĩ sâu sắc về phẩm chất tốt đẹp của nhân dân ta. Với khổ thơ tiếp theo nói về Bác. Bác Hồ cũng chính là một người con ưu tú của dân tộc và nói như Phạm Văn Đồng thì Bác là tinh hoa và khí phách của nhân dân Việt Nam.

Tiếp theo đó là hai câu thơ sóng nhau, hô ứng nhau với hai hình ảnh mặt trời. Một mặt trời thiên nhiên, rực rỡ, vĩnh hằng. Cứ như thường lệ mặt trời ngày ngày đi qua trên lăng và thấy ở trong lăng còn có mặt trời rất đỏ - Bác Hồ. Câu thơ ẩn dụ thật đẹp và mang lại cho người đọc những ấn tượng sâu xa biết bao nhiêu.

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.

Để có thể hòa nhập vào "dòng người" đến lăng viếng Bác, lúc này đây thì nhà thơ xúc động bồi hồi rồi thành kính cũng như nghiêm trang. Dòng người lúc này đây cũng như đang nối tiếp nhau đi viếng lăng Bác chẳng khác nào những tràng hoa có muôn sắc để có thể bày tỏ được lòng biết ơn, sự thành kính của nhân dân đối với Bác Hồ vĩ đại:

Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.

Viễn Phương thật tài tình biết bao nhiêu như cũng đã sử dụng từ “Dâng” như cũng đã lại chứa đựng bao tình cảm, bao tình nghĩa. Nhà thơ Viễn Phương không nói "bảy chín tuổi" mà lại nói rằng “bảy mươi chín mùa xuân” có thể nhận thấy được đây chính là một cách nói rất thơ nữa.

Tiếp theo đến với khổ thơ thứ ba nói về sự vĩnh hằng bất diệt của Bác. Bác như chỉ đang nằm ngủ một giấc ngủ vô cùng bình yên trong một khung cảnh thơ mộng. Bác vốn yêu trăng lắm. Nhà thơ Viễn Phương bằng những cảm thấy "Bác yên ngủ" một cách thanh thản ở giữa một vầng trăng dịu hiền. Khi nhìn thấy Bác ngủ mà nhà thơ đau đớn, xúc động. Độc giả khi đọc thấy câu thơ “mà sao nghe nhói ở trong tim” diễn tả sự đau đớn, như quặn thắt và tiếc thương đến cực độ. Tác giả Viễn Phương dường như cũng lại có một lối viết hàm súc, đầy thi vị và có những câu chữ để lại nhiều ám ảnh trong lòng người đọc.

Ấn tượng nhất không thể không nói đến khổ thơ cuối nói lên cảm xúc của nhà thơ khi ra về. Đồng thời cũng lại biết bao lưu luyến, buồn thương. Nhà thơ Viễn Phương cũng đã thể hiện các ước muốn hóa thân làm "con chim hót", mong muốn có thể thành đóa hoa tỏa hương. Hơn hết chính là mong muốn làm cây tre trung hiếu mới để được đền ơn đáp nghĩa Người. Thông qua đây ta nhận được câu thơ sâu lắng, hình ảnh thơ đẹp và độc đáo, hay đó chính là những cách biểu hiện cảm xúc vô cùng Nam Bộ. Thực tế có thể đánh giá đây là những câu thơ trội nhất trong bài Viếng lăng Bác.

Bài thơ Viếng lăng Bác, bài thơ ngắn mà ý thơ, hình tượng thơ, cảm xúc thơ sâu lắng, đồng thời lại còn mang được một hàm súc và đẹp. Nhà thơ Viễn Phương đã chọn thể thơ mỗi câu tám từ, trong mỗi khổ bốn câu, toàn bài bốn khổ - một sự cân đối và vô cùng hài hòa để biểu hiện một giọng điệu thơ nghiêm trang, kính cẩn với Bác. Thực sự đây là một bài thơ hay, một bài ca ngân vang ca ngợi về Bác Hồ và thể hiện được một nỗi niềm của chính nhà thơ với Bác.

Phân tích bài Viếng lăng Bác mẫu số 7

Nhà thơ Viễn Phương là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng Văn nghệ giải phóng miền Nam trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước. Năm 1976, sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Hà Nội cũng vừa được khánh thành. Viễn Phương nhân dịp này ra thăm miền Bắc và vào lăng viếng Bác Hồ. Ông đã sáng tác bài thơ “Viếng lăng Bác” để bộc lộ lòng thành kính, biết ơn với chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam.

Đến với khổ thơ đầu tiên, nhà thơ đã khắc họa đôi nét về hình ảnh thiên nhiên bên ngoài lăng Bác:

Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng

Câu thơ mở đầu là lời giới thiệu đầy thân tình: “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”. Cách xưng “con” - gọi “Bác” cho thấy sự thân thương, ngọt ngào và đậm chất Nam Bộ. “Con” ở miền Nam xa cách, vượt trăm ngàn cây số đến đây với mong muốn được gặp Bác Hồ - người cha già đáng kính. Tác giả dùng từ “thăm” thay vì từ “viếng” nhằm giảm nhẹ nỗi đau thương, mất mát nhưng vẫn chẳng thể che giấu được sự ly biệt. Hình ảnh đầu tiên mà “con” nhìn thấy là “hàng tre bát ngát”. Cây tre vốn là loài cây quen thuộc, đã trở thành biểu tượng cho những đức tính, phẩm chất của người Việt Nam. Khi kết hợp với hình ảnh “bão táp mưa sa” - ẩn dụ cho sự khó khăn gian khổ trong cuộc đời. Tác giả muốn khẳng định phẩm chất của con người Việt Nam cũng giống như cây tre, dù trải qua giông bão vùi dập vẫn “đứng thẳng hàng” - vẫn ngay thẳng, hiên ngang và luôn tràn đầy sự sống.

Đến khổ thơ tiếp theo, nhà thơ đã khắc họa hình ảnh đoàn người vào lăng viếng Bác:

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ

Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…

Hai câu thơ đầu được tạo nên bởi hai hình ảnh “mặt trời”. “Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng” - đó là mặt trời của tự nhiên chuyển động theo quy luật tuần hoàn của thời gian. “Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ” - hình ảnh ẩn dụ, ví Bác như “mặt trời” có sức lan tỏa, soi sáng cuộc đời của người dân Việt Nam. Bác đã đem lại cuộc sống tự do cho nhân dân ta, đưa nhân dân ta thoát khỏi ách nô lệ. Chẳng thể nào nói hết được lòng biết ơn vô hạn của nhân dân dành cho vị lãnh tụ đáng kính của dân tộc. Hai câu thơ tiếp theo là sự liên tưởng đến hình ảnh dòng người đang nối dài vô tận, cũng giống như nỗi nhớ dành cho Người. Cụm từ “ngày ngày” được điệp lại hai lần tạo nên một ước muốn về một cõi bất tử. “Tràng hoa” là hình ảnh ẩn dụ cho những người con từ khắp mọi miền tổ quốc đang hội tụ về đây, vào trong lăng viếng Bác. Ngày qua ngày, từng dòng người vẫn nối tiếp nhau vào trong lăng viếng Bác. Dù đã ra đi, nhưng Người đã để lại cho nhân dân một niềm tiếc thương vô hạn, một nỗi nhớ khó có thể nguôi ngoai.

Và rồi không gian và thời gian như ngừng chuyển động trước hình ảnh của Người:

Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim!

Cuộc đời của Hồ Chủ tịch chưa lúc nào yên giấc khi mà đất nước, nhân dân đang chịu sự cai trị của kẻ thù xâm lược. Đến nay, khi đã giành được độc lập, hai miền Nam - Bắc về chung một nhà, thì Bác lại ra đi mãi mãi. Điều ấy đã để lại niềm tiếc thương vô hạn. Nhà thơ dường như muốn tạm quên đi sự ra đi ấy: “Bác nằm trong giấc ngủ bình yên”. Dường như Bác chỉ đang nằm trong một giấc ngủ dài vô tận thôi. Với lòng yêu thương, ngưỡng mộ, khổ thơ thứ ba là lời thương xót và ước nguyện của nhà thơ. Bác như “vầng trăng sáng dịu hiền” - hình ảnh biểu tượng cho vẻ đẹp của Bác lúc này vô cùng thanh thản, bình yên. Người quả thật không mất đi mà chỉ đang ngủ thôi, Người vẫn còn sống với nhân dân, với đất nước. Mạch cảm xúc của bài thơ bỗng nhiên lắng xuống ở hai câu thơ cuối. Dẫu biết rằng trời xanh là mãi mãi - trời xanh là biểu tượng cho sự trường tồn bất tử của Bác. Bác vẫn còn sống mãi trong lòng nhân dân Việt Nam. Dẫu biết vậy, mà sao vẫn “nghe nhói ở trong tim” - vẫn cảm thấy xót xa, tiếc nuối vô cùng.

Và lời cuối cùng trước khi trở về, Viễn Phương đã bộc lộ niềm mong muốn:

Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này

Đó là lời hứa mà nhà thơ trước khi trở về miền Nam. Nhà thơ muốn “làm con chim hót quanh lăng Bác”, “đóa hoa tỏa hương đâu đây”, “cây tre trung hiếu chốn này”. Dù muốn trở thành gì, nhà thơ đều muốn được gần bên Bác, tận trung tận hiếu với Người. Quả thật, khi đọc bài thơ “Viếng lăng Bác” của nhà thơ Viễn Phương, người đọc mới thấy được tình cảm sâu nặng mà nhân dân Việt Nam dành cho Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Phân tích bài Viếng lăng Bác mẫu số 8

Bác Hồ luôn là đề tài muôn thuở trong thơ ca của Việt Nam. Người là nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà thơ, nhà văn thể hiện tài năng trong các tác phẩm của mình. Có thể nói, Bác chính là hình ảnh đẹp nhất, ngời sáng nhất trong thơ ca Việt Nam. Không ít tác phẩm viết về Người, viết về những cuộc viếng thăm, gặp gỡ Người, nhưng có lẽ, cảm xúc nhất trong những tác phẩm đó là “Viếng lăng Bác” của nhà thơ Viễn Phương. Bài thơ là nỗi niềm của một người con ở tận miền Nam xa xôi được trở ra thăm Bác sau ngày Bác đi xa.

Viễn Phương là một nhà thơ xuất hiện khá nhiều trong dòng văn học Cách mạng ở miền Nam từ những ngày còn trong thời gian chiến đấu. Nhưng tác phẩm “Viếng lăng Bác” có lẽ là tác phẩm thành công nhất của ông khi viết về Bác Hồ. Cả bài thơ chứa đựng trong đó là nỗi niềm đau xót, là sự xúc cảm chân thành dành cho vị Cha già của dân tộc của một người con nơi phương xa được trở về thăm. Mở đầu bài thơ, tác giả đã mở lời chào giới thiệu với chúng ta, với Bác Hồ kình yêu rằng:

“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”.

Không như những nhà thơ khác dùng lời mời chào mỹ miều để miêu tả một cuộc viếng thăm, Viễn Phương đã dùng sự chân thành nhất của mình để giới thiệu. Tác giả ở tận miền Nam xa xôi, mãi tới hôm nay, sau ngày độc lập dân tộc mới được ra thăm vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc. hai từ “miền Nam” như nhấn mạnh hơn sự xa xôi trong khoảng cách địa lý giữa hai đầu Tổ quốc.

Và sự viếng thăm của nhà thơ như là một mong mỏi từ lâu để được ra viếng lăng Bác Hồ. Bác Hồ đã ra đi từ năm 1969 nhưng mãi đến tận năm 1976, Viễn Phương mới được trở ra Bắc để thăm Người. Nói là thăm, nhưng thực ra là một cuộc viếng thăm lăng của Người bởi Người đã ra đi từ lâu.

Nhưng ở đây, nhà thơ rõ ràng không dùng từ “viếng” như mục đích thực sự của chuyến đi này mà lại dùng từ “thăm”. Bởi vì tác giả cũng như những người con Nam Bộ khác ra đây để thăm lại nhà, thăm lại vị Cha già của mình. Cũng bởi vì, miền Nam là một phần máu thịt của đất nước Việt Nam, là một phần “nhà” mà Bác Hồ luôn đau đáu vào thăm mà chưa có dịp:

“Bác thương miền Nam nỗi thương nhà

Miền Nam mong Bác nỗi mong cha” (Tố Hữu)

Nghệ thuật nói giảm nói tránh đã được nhà thơ sử dụng ở đây như một cách để làm giảm đi nỗi đau xót vô vàn đang trào dâng trong lòng ông. Bao nhiêu xúc cảm đau xót cứ thể trào ra trong lòng như một cơn sóng mạnh mẽ vậy mà ấn tượng đầu tiên để lại trong lòng tác giả lại là “hàng tre”. Ẩn hiện trong làn sương sớm long lanh bao phủ quanh lăng Bác là hàng tre xanh.

Cây tre từ bao đời nay đã trở thành một loài cây biểu tượng cho dân tộc ta, cho tinh thần bất khuất của cha ông ta. Từ thời Thánh Gióng cầm tre đuổi giặc, tới những cây chông, cây gai vót nhọn làm cản bước quân thù. Cây tre cứ thế đi vào đời sống tinh thần của người Việt. Hàng tre trước mắt Viễn Phương hiện lên “bát ngát”.

Không phải bất cứ từ nào khác mà lại là “bát ngát” tạo cho người đọc như cảm thấy sự cao lớn, sự mênh mông, rộng lớn của những hàng tre bao quanh lăng của Người. Ấn tượng đó của nhà thơ chợt chuyển thành một sự cảm thán.

“Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”.

Nhìn hàng tre quanh lăng Bác, nhà thơ chợt cảm thấy rằng những cây tre kia như ý chí con người Việt Nam qua bao năm tháng luôn luôn bất khuất, kiên cường, hiên ngang. Dù có trải qua “bão táp mưa sa” nhưng họ vẫn đoàn kết một lòng cùng nhau đứng lên. Từ láy “xanh xanh”được sử dụng ở đây như để biểu đạt, để diễn tả rằng con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam sẽ luôn luôn “xanh”màu xanh bất diệt.

“Xanh xanh” tức là lúc nào cũng vậy, lúc nào cũng một màu xanh như thế. Lớp con cháu kế tiếp lớp cha ông luôn mạnh mẽ để bảo vệ cho dân tộc ta. Cả khổ thơ thứ nhất bao trọn là những xúc cảm đầu tiên của tác giả khi lần đầu được tới thăm lăng Bác. Trong khổ thơ đó, có nỗi đau xót mất đi Bác, nhưng ẩn chứa trong đó phảng phất là niềm tự hào dân tộc.

Bước sang khổ thơ thứ hai, chúng ta theo chân Viễn Phương tiến dần vào lăng Bác. Trong không khí trang nghiêm ấy, nhà thơ chợt thấy hiện ra hình ảnh của mặt trời. Một mặt trời của vũ trụ luôn luôn luân chuyển không ngừng nghỉ ngày và đêm. Mặt trời ấy “ngày ngày” đi qua lăng của Bác, sưởi ấm cho Người. Và từ đó, nhà thơ cũng chợt nhận ra “một mặt trời trong lăng rất đỏ”.

Một hình ảnh ẩn dụ vô cùng tinh tế và đặc sắc. Bác Hồ - Người là vầng dương, con thuyền chỉ hướng cho dân tộc Việt Nam đi qua những ngày tăm tối nhất. Nếu như mặt trời của vũ trụ mỗi ngày tỏa xuống nhân gian thứ ánh sáng ấm áp, thì Bác Hồ - mặt trời của dân tộc Việt Nam cũng đã và luôn tỏa ra một nguồn ánh sáng vĩ đại soi tỏ con đường cho dân tộc. Trong thơ ca đã có không ít tác giả sử dụng hình ảnh của mặt trời để so sánh với Bác. Như Tố Hữu cũng đã từng nói:

“Người rực rỡ một mặt trời cách mạng

Còn đế quốc là loài dơi hốt hoảng”.

(Sáng tháng năm)

Nhưng ở đây, với Viễn Phương vẫn là hình ảnh ấy, mà lại mang một màu sắc riêng biệt vô cùng. Nếu như mặt trời ngoài kia mỗi ngày đều đỏ rực, thì mặt trời trong lăng đây cũng đỏ rực sắc màu của chính mình. Màu đỏ ấy toát lên từ phẩm chất con người của Hồ Chí Minh, từ lý tưởng vĩ đại mà Người mang tới, từ ý chí bất khuất, kiên cường đấu tranh mà Người đã thể hiện, từ công lao mà Người đã làm nên.

Tất cả những điều đó tạo nên một mặt trời rực rỡ, sánh ngang bằng với mặt trời của vũ trụ ngoài kia. Tác giả đã khéo léo sử dụng ở đây điệp từ “ngày ngày”. “Ngày ngày” tức là sự liên tục của thời gian, sự lặp lại tuần hoàn của thiên nhiên cũng như lý tưởng, ý chí của Người sẽ luôn luôn sáng tỏ như mặt trời kia vậy. Lần thứ hai, “ngày ngày” được lặp lại khi diễn tả dòng người đang lặng lẽ vào lăng thăm Người. Hàng người đi trong sự trang nghiêm và tĩnh lặng, trong nỗi tiếc thương, đau xót vô vàn.

Ở đây, tác giả đã thật tinh tế khi không phải là đoàn người, hàng người mà là dòng người. Điều này khiến cho người đọc như cảm thấy được sự tĩnh lặng, sự trải dài miên man vô tận của hàng người vào viếng Bác. Cả đoàn người ấy cứ lặng lẽ “đi trong thương nhớ”, thương nhớ vị lãnh tụ vĩ đại vô vàn kính yêu của dân tộc. Nỗi nhớ ấy đã kết thành “tràng hoa”, dòng người ấy đã trở thành một tràng hoa dài vô tận để dâng lên Bác Hồ.

Và Viễn Phương hòa cùng dòng người ấy đem tấm lòng yêu kính chân thành của mình dâng lên Bác, dâng lên “bảy mươi chín mùa xuân” của Người. “Bảy mươi chín mùa xuân” là số tuổi của Bác Hồ. Cả cuộc đời Người, với bảy mươi chín mùa xuân, tất cả đều cống hiến cho dân tộc, không một phút giây nào ngơi nghỉ dành cho bản thân mình. Tác giả muốn thể hiện sự cống hiến lớn lao mà Bác Hồ đã hi sinh của đất nước. Và sự hi sinh ấy đã giúp cho cả dân tộc được sống trong hòa bình.

“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ

Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”

Có lẽ đây là khổ thơ đắt giá nhất bài thơ. Cả khổ thơ là sự ca ngợi công ơn của Bác, đó cũng là niềm cảm kích, niềm biết ơn vô bờ của tất cả mọi người dân Việt Nam dành cho Bác. Tiếp theo đây, nhà thơ lại tiếp tục cuộc hành trình vào viếng thăm lăng Bác. Và giờ đây, ông đã được gặp gỡ Người cha già mà mình hằng yêu quý, kính trọng:

“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim”

Bác đang nằm ở đó, nhẹ nhàng thanh thản như đang chìm trong một giấc ngủ ngon. Cả cuộc đời Người chỉ có một niềm mong ước, đó là đất nước được hòa bình. Vậy nên giờ đây, khi đất nước được hòa bình, độc lập, Người đã được nghỉ ngơi trong giấc ngủ yên bình.

Cả cuộc đời Người đã cống hiến hết sức lực cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, vậy nên giờ đây, Người đang “nằm trong giấc ngủ yên bình”. Đối với nhà thơ hay với bất cứ ai, Bác như vừa mới đây năm xuống, thưởng cho mình một giấc ngủ ngon sau bao ngày vất vả, khuya sớm lo cho cuộc đấu tranh của nhân dân:

“Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”

Một lần nữa, Viễn Phương đã phải sử dụng tới biện pháp nói giảm nói tránh để làm bớt đi không khí đau thương đang tràn ngập trong tâm hồn ông. Bác Hồ đang nằm đó, giữa một giấc ngủ bình yên hơn bao giờ hết, giữa một thứ ánh sáng nhẹ nhàng lan tỏa trong không gian. Thứ ánh sáng đó có thể là một ngọn đèn ngủ dìu dịu được thắp trong lăng Bác. Nhưng cũng có thể nhà thơ đang muốn nói tới vầng trăng thiên nhiên - vầng trăng mà Bác Hồ yêu thích nhất. Có thể thấy, thơ của Người luôn tràn ngập hình ảnh của trăng. Ví dụ như:

“Tiếng suối trong như tiếng hát xa

Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”

Hay:

“Giữa dòng bàn bạc việc quân

Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”

Có lẽ ở đây, tác giả không chỉ đơn giản là muốn nói tới ngọn đèn trong lăng Bác mà còn muốn nói tới vầng trăng thiên nhiên ngoài kia. Bởi sinh thời, Bác Hồ là người yêu trăng hơn bao giờ hết. Giờ đây khi được bước sang một thế giới khác, yên bình hơn, Người muốn được hòa mình cùng với vầng trăng của thiên nhiên, luôn luôn sáng tỏ, đẹp đẽ, trường tồn cùng thời gian như lý tưởng của Người vậy. Và tiếp theo, sau bao nhiêu sự kìm nén, nhà thơ đã phải bật lên tiếng nấc nghẹn ngào:

“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim”

Một lời trách cứ mới đau đớn làm sao! Lời trách cứ ấy là lời trách trời xanh kia. Bầu trời thì vẫn vậy, bao năm tháng vẫn xanh một màu trường tồn vĩnh cửu, vậy mà vị Cha già của dân tộc sao đã phải ra đi? Vẫn biết quy luật sinh tử của tạo hóa nhưng vẫn thấy xót xa, đau đớn vô cùng. Dù lý trí luôn tỏ tường rằng quy luật của thiên nhiên là bất biến, nhưng nhà thơ vẫn “nghe nhói ở trong tim”. Nỗi đau xót nghẹn ngào ấy đã trở thành lời trách cứ đối với trời xanh. Và cảm giác “nghe nhói” khiến người đọc cũng như đồng cảm được một phần nào đó cảm giác đau xót, quặn thắt tim gan mà tác giả muốn biểu đạt. Thứ cảm xúc ấy dồn nén tới mọi giác quan trên cơ thể con người.

Cuộc gặp gỡ nào rồi cũng đến hồi chia ly và cuộc viếng thăm của Viễn Phương với Hồ Chủ tịch cũng vậy. Đến khi phải nói lời từ biệt, nhà thơ đã vô cùng xúc động. Sự xúc động ấy cùng với nỗi niềm đau xót kìm nén từ ban đầu đã bật thành một tiếng khóc, tiếng nấc nghẹn ngào:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa ngát hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”

Ngày mai, con phải rời xa Cha, rời xa vị Cha già kính mến để trở lại miền Nam xa xôi, biết bao giờ mới có dịp được thăm lại Người. Chính vì thế, nhà thơ đã bật lên tiếng nức nở. Bao nhiêu nỗi đau xót, nghẹn ngào cứ thế tuôn theo dòng lệ trào. Chính lúc này, trong tâm nhà thơ chợt hiện lên một ước nguyện:

“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa ngát hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”

Điệp từ “muốn” lặp lại ba lần như khẳng định lại ước muốn của nhà thơ. Đó là một ước muốn mãnh liệt, niềm khao khát cháy bỏng của nhà thơ. Ước nguyện đó là được ở lại bên cạnh Người - vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, chỉ để làm “một con chim hót”, “một đóa hoa”, “một cây tre trung hiếu”. Tất cả chỉ đều là những vật vô cùng nhỏ bé, tầm thường, nhưng lại là mong ước của tác giả.

Bởi vì chim hót sẽ ru thêm giấc ngủ ngon cho Người, hoa sẽ tỏa ngát hương thơm và một cây tre nhỏ mãi trung hiếu với nơi đây. Nhịp thơ ở đây chậm đi một nhịp so với các khổ thơ trước. Sự chậm rãi ấy như muốn kéo dài thêm giây phút sắp phải chia xa. Kết lại bài thơ, hình ảnh cây tre lại một lần nữa xuất hiện như một vòng lặp tuần hoàn.

Cây tre là biểu tượng của con người Việt Nam, biểu tượng cho ý chí và sức mạnh của dân tộc. Tác giả muốn ở lại bên lăng Hồ Chủ Tịch trở thành một cây tre trung thành với Bác, với lý tưởng mà Người đã chỉ lối. Qua đó, nhà thơ càng muốn khẳng định một điều, đó là sự tin tưởng, sự trung thành của mỗi người dân Việt Nam vào Bác, vào lý tưởng và chân lý mà Bác đem tới cho chúng ta. Cả khổ thơ đã thể hiện niềm mong ước cháy bỏng của tác giả, cũng chính là mong ước của mỗi người dân Việt Nam. Đó là luôn luôn được ở cạnh Người, ở cạnh vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu của dân tộc cũng từ đó, thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối vào Bác và lý tưởng mà Bác đã gây dựng.

Bài thơ đã kết lại nhưng lại mang đến cho người đọc chúng ta thật nhiều cảm xúc. Chỉ một cuộc viếng thăm thôi, nhưng lại chứa đựng trong đó bao nhiêu tình cảm, bao nhiêu tình yêu sâu sắc của một người con Nam Bộ đối với Bác Hồ kính yêu của chúng ta. Bài thơ được cấu tứ theo lối tám chữ. Lối thơ này được kết cấu như một câu chuyện kể với mạch văn chậm rãi khiến cho người đọc cảm nhận được hết tất cả những tình cảm mà nhà thơ muốn diễn tả. Cùng với hệ thống biện pháp tu từ mà nhiều nhất là nói giảm nói tránh, “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương đã làm sống dậy trong lòng bạn đọc sự yêu kính dành cho Bác, và cũng từ đó hòa chung vào niềm đau xót cũng như ước muốn mà tác giả muốn thể hiện.

“Hồ Chí Minh - Người ở khắp muôn nơi”. Đây là lời khẳng định của Tố Hữu trước sự hiện diện của Bác. Bác tuy đã đi xa nhưng sự hiện diện của Người thì còn mãi trong mỗi người con Việt Nam. Người là vị cha già đáng kính là “hồn của muôn hồn”. Sự ra đi của Người có đau xót, có xót xa, nhưng lý tưởng của Người để lại, ý chí và phẩm chất của Người sẽ mãi là tấm gương soi tỏ con đường mà dân tộc Việt Nam sẽ đi và mang vinh quang trở về. Đó cũng là lời mà Viễn Phương muốn ngỏ qua bài thơ “Viếng lăng Bác”.

Phân tích bài Viếng lăng Bác mẫu số 9

Ai đã là người con mang trong mình dòng máu “con Rồng cháu Tiên”, ắt hẳn đều một lần mong muốn được ra Hà Nội và lăng viếng Bác. Đặc biệt là với những người con ở những miền quê xa xôi như ở miền Nam. Khi phân tích Viếng lăng Bác của Viễn Phương, độc giả sẽ vô cùng cảm động trước tấm lòng của những người con phương Nam gửi tới Bác Hồ. Mà cụ thể là tấm lòng tôn kính, chân thành của tác giả Viễn Phương dành cho vị cha già dân tộc.

“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng”

Ngay từ câu đầu thơ đầu tiên, tác giả đã mang tới cho người đọc một tâm trạng trào dâng xúc động của một người con, từ chiến trường miền Nam xa xôi, bao năm mong mỏi giờ mới được ra thăm cha, thăm Bác. Tiếng “con” cất sao mà nghẹn ngào đến thế, da diết đến thế! Tiếng “con” ở đây tác giả không chỉ nói riêng nỗi lòng mình, mà đó là nỗi lòng của triệu triệu người con đất Việt dành cho Bác.

Ở đây, tác giả không dùng từ “cúng” mà dùng từ “thăm” để nói giảm, nói tránh đi nỗi đau mất mát. Với nhà thơ Viễn Phương cũng như tất cả triệu người con nước Việt, Bác Hồ luôn luôn sống mãi, Bác chỉ là đang ngủ một giấc dài mà thôi. Từ khi lăng Bác khánh thành, vẫn luôn có hàng ngàn, hàng vạn người kiên nhẫn chờ đợi để xếp hàng vào lăng thăm Bác. Ai cũng sẽ thấy hàng tre xanh đứng quan lăng Bác. Thế nhưng, không phải ai cũng thốt lên những câu ấn tượng về hàng tre ấy như nhà thơ Viễn Phương. Đúng vậy! Cây tre từ lâu đã là biểu tượng cho sự vững mạnh vượt qua mọi phong ba bão táp của nước Việt. Tre đã theo Thánh Gióng ra trận. Tre giữ làng giữ nước, giữ mái nhà xanh. Và giờ đây, quanh lăng Bác, những hàng tre vẫn đứng thẳng hàng, vẫn hiên ngang, bát ngát bảo vệ giấc ngủ của Người. Tác giả không miêu tả lăng Bác to lớn thế, uy nghi ra sao. Tác giả tự hào, nghẹn ngào xúc động bơi bên Bác vẫn là những khóm cây đậm chất Việt Nam. Vẫn là những điều bình dị, đơn sơ nhất, giống như tâm hồn của Người vậy.

“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ

Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…”

Vẫn là trên đường vào lăng Bác và tâm trạng của tác giả vẫn đang dâng trào sự xúc động. Ở đây, tác giả bất chợt đưa ra một sự ẩn dụ thật độc đáo. Khi thấy mặt trời đi qua trên lăng, nhà thơ nghĩ ngay đến hình ảnh Bác Hồ. Ông ví Bác như một mặt trời đang nằm trong lăng. Nếu như mặt trời thực kia mang tới sự sống cho Trái đất, muôn loài thì mặt trời ẩn dụ là Bác Hồ cũng mang tới cho dân tộc Việt sự trường tồn và hạnh phúc. Thật là một lối ẩn dụ hết sức chính xác và thuyết phục khiến độc giả chỉ cần đọc một lần và ấn tượng mãi không quên.

Hòa mình vào dòng người đang từng bước đến gần lăng Bác, mà lòng tác giả cứ dâng trào nỗi thương nhớ đến nghẹn ngào. Mọi người không ai bảo ai, kính cẩn, nghiêm trang xếp thành hàng như những tràng hoa muôn sắc màu để dâng lên Bác. Ở đây, tác giả một lần nữa lại sử dụng lối ẩn dụ để thể hiện tình cảm yêu mến tới Người. Trong khi đó, tác giả sử dụng hình ảnh hoán dụ để nói về số tuổi của Bác. Bác đã dùng bảy mươi chín mùa xuân của mình để đổi lấy niềm hạnh phúc và cuộc sống ấm no cho cả dân tộc.

“Bác nằm trong lăng giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim”.

Ngay khi nhìn thấy thi hài Bác, tác giả không hề nghĩ rằng Bác đã mất mà chỉ là đang ngủ một giấc bình yên. Bởi Bác tin rằng, nước nhà sẽ có ngày độc lập, nhân dân chắc chắn sẽ được hạnh phúc. Vì thế, Bác thanh thản nằm ngủ để ngày ngày lắng nghe đàn con cháu tới thăm. Nếu như khi ở ngoài lăng, tác giả ví von ẩn dụ Bác với hình ảnh mặt trời thì khi vào trong, ánh sáng dịu nhẹ nơi Bác ngủ, lại khiến nhà thơ liên tưởng tới “ vầng trăng sáng dịu hiền”. Khi còn sống, Bác đã có rất nhiều bài thơ gắn liền với ánh trăng. Bởi thế, hình ảnh “vầng trăng dịu hiền” ở đây gợi lên nhớ tới tâm hồn thanh cao của vị lãnh tụ vĩ đại. “Vầng trăng” còn gợi đến một cuộc sống dung dị, mộc mạc của Bác. Một đời Bác hy sinh cho đất cho nước là thế, nhưng Bác vẫn sống thật đạm bạc và giản gị. Thế nên, nhìn thấy Bác, tác giả không nén lại được nỗi xúc động dâng trào, để rồi phải thốt lên:

“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim”.

Không riêng gì nhà thơ Viễn Phương, mà với tất cả người con đất Việt, dù Bác Hồ đã ra đi, nhưng hồn Bác đã hóa thành sông núi, là bầu trời, là ánh trắng là đất nước. Nên hình ảnh Bác vẫn luôn hiện hữu quanh mỗi người. Vẫn biết là thế nhưng trong tim vẫn thấy nhói đau. Câu thơ nói lên xúc cảm quặn đau của tác giả trước thi hài Bác. Dù đã tự nhủ lòng không được khóc nhưng mà sao nước mắt cứ rơi.

Cuộc gặp gỡ nào rồi cũng đến lúc phải chia xa. Và lúc chia li bao giờ cũng bịn rịn đầy lưu luyến.

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đoá hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”

Câu thơ như khúc biệt ly thấm đẫm nước mắt. Hôm nay đây con ở bên cạnh Người, nhưng mai rồi con phải về nơi miền Nam xa cách. Một lời giã biệt giản dị nhưng diễn tả sâu lắng tình cảm mà tác giả dành cho Bác. Một lần ra Hà Nội là một lần khó bởi thế, tác giả luyến tiếc không muốn rời xa. Nhà thơ ước sao mình hóa thành chim để ngày ngày hót quanh lăng Bác. Tác giả muốn hóa thành hoa để tỏa hương quanh Bác. Tác giả muốn biến thành cây tre để bảo vệ Bác suốt đời.

Điệp từ “muốn làm” càng nhấn mạnh hơn tâm trạng lưu luyến của tác giả. Chẳng phải tự nhiên mà tác giả sắp xếp hình ảnh cây tre ở kết thúc bài. Bởi đó là hình ảnh nhân hóa, chứa đựng phẩm chất trung hiếu của con người đất Việt. Đó không chỉ thể hiện ý nguyện muốn được ở bên để bảo vệ Bác mà còn muốn khẳng định với Bác rằng, mọi người dân sẽ sống có trách nhiệm, quyết tâm gìn giữ sự nghiệp vì nước vì dân của Người.

Có thể nói, khi phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương, không ít độc giả đã rưng rưng nước mắt, bởi trong tim mỗi người con đất Việt, dù lớn hay bé, dù người miền xuôi hay miền ngược, dù miền Bắc, miền Trung hay miền Nam, Bác Hồ luôn là một người thân thiết. Mỗi câu thơ trong luôn khiến người đọc phải thổn thức. Đặc biệt, mỗi khi vào lăng viếng Bác, được nghe những câu thơ này càng khiến tâm trạng của mỗi người trào dâng sự xúc động.

Viếng lăng Bác là tấm lòng thành kính là tình yêu vô bờ bến của hết thảy người dân trên dải đất hình chữ S này dành cho Bác. Dù cho thế hệ ngày xưa, hôm nay và mai sau thì việc được một lần vào lăng viếng Bác luôn là một việc thiêng liêng, cao quý. Bài thơ sử dụng những hình ảnh ẩn dụ độc đáo, gợi cảm xúc, với ngôn ngữ hàm súc, bình dị. Nhịp thơ như một bài ca nên dễ đi vào lòng người. Có lẽ vì thế mà nhạc sĩ Hoàng Hiệp đã phổ nhạc thành bài hát cùng tên vô cùng ngọt ngào.

Phân tích Viếng lăng Bác bài văn mẫu số 10

"Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà

Miền Nam mong Bác nỗi mong cha."

Nỗi mong chờ và ao ước của đồng bào miền Nam được Bác vào thăm không còn nữa! Người đã ra đi mãi mãi để lại bao niềm nuối tiếc trong lòng mỗi người dân Nam Bộ. Viễn Phương - nhà thơ trẻ miền Nam - được vinh dự ra thăm lăng Bác. Tác giả đã thay mặt nhân dân miền Nam bày tỏ tình cảm của mình khi đứng trước người cha già dân tộc. Xúc động tận đáy lòng, Viễn Phương viết bài "Viếng lăng Bác". Đây là bài thơ gợi cho em niềm cảm xúc sâu xa nhất.

Cảm xúc đầu tiên mà em cảm nhận được từ bài thơ có lẽ vì bài thơ thể hiện được tình cảm chân thành và giản dị của đồng bào Nam Bộ muốn nhắn gửi, nhờ Viễn Phương nói hộ cùng Bác nỗi mong chờ và mong đợi Bác vào thăm. Xúc động dạt dào, mở đầu bài thơ, tác giả viết:

"Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Ôi hàng tre! Xanh xanh Việt Nam"

Tình cảm của nhà thơ rất chân thành và cũng rất gần gũi. Đối với người chiến sĩ miền Nam được ra thăm lăng Bác là một điều rất vinh dự nhưng không vì thế mà giảm mất tình yêu thương của tác giả đối với Bác. Câu thơ ấm áp tình người với cách xưng hô thân mật "con". Bởi tất cả mọi người đều là những người con trung hiếu của Bác, xem Bác như "là cha, là bác, là anh". Tình người bao la, giản dị, tình dân tộc đằm thắm mến yêu. Đoạn thơ đã tạo nên một không khí ấm áp, gần gũi.

Tác giả khéo léo chọn hình ảnh cây tre, hình ảnh thân thuộc của đất nước để mở bài thơ rộng hơn, xa hơn nhưng cũng gần gũi hơn bao giờ hết. Nhắc đến hình ảnh cây tre, ta lại nghĩ tới đất nước, tới dân tộc Việt Nam với bao đức tính cao quý. Tre anh dũng trong chiến đấu, tre yêu thương giúp đỡ dân tộc, tre hi sinh cho thế hệ mai sau và tre cũng rất anh hùng bất khuất:

"Nòi tre đâu chịu mọc cong

Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường"

Tre đã vất vả, chịu nhiều nắng mưa nhưng vẫn hiên ngang đứng giữa trời xanh, như dân tộc ta không bao giờ khuất phục bọn giặc cướp nước "Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng". Theo đoàn người vào thăm lăng Bác, nhà thơ nhìn thấy:

"Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ."

"Mặt trời" ngày ngày đi qua trên lăng là mặt trời của đất, nguồn sáng lớn nhất, rực rỡ và vĩnh viễn trên thế gian. Nhưng mặt trời ấy còn thấy và nhận ra một mặt trời khác, một "'mặt trời trong lăng" rất đỏ. Mặt trời trên cao được nhân hóa, nhìn mặt trời trong lăng bằng đôi mắt của mặt trời. Một hình ảnh chứa chan bao tôn kính đối với Bác Hồ vĩ đại. Bằng hình ảnh ẩn dụ, nhà thơ đã ví Bác là mặt trời. Người là mặt trời đỏ rực màu cách mạng sẽ mãi mãi chiếu sáng đường chúng ta đi bằng sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Người. Đây là nét nghệ thuật sáng tạo của tác giả.

Độc đáo hơn, nhà thơ còn sáng tạo một hình ảnh khác nữa để ca ngợi Bác:

"Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân."

Hình ảnh những dòng người đi trong thương nhớ kết thành những tràng hoa không chỉ là hình ảnh tả thực so sánh những dòng người xếp thành hàng dài vào lăng Bác trông như những tràng hoa vô tận. Nó còn có nghĩa tượng trưng: Cuộc đời của họ đã nở hoa dưới ánh sáng của Bác. Những bông hoa tươi thắm đó đang đến dâng lên Người những gì tốt đẹp nhất. "Dâng bảy mươi chín mùa xuân" - đây là hình ảnh hoán dụ mang ý nghĩa tượng trưng. Con người bảy mươi chín mùa xuân ấy đã sống một cuộc đời đẹp như những mùa xuân và đã làm ra những mùa xuân cho đất nước, cho con người.

Nhà thơ vào lăng, được nhìn thấy Bác nằm trong giấc ngủ bình yên giữa một vùng ánh sáng nhè nhẹ dịu hiền. Ánh sáng ấy nơi Bác nằm được nhà thơ miêu tả như ánh sáng một vầng trăng hiền dịu:

"Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim!"

Ánh sáng của những ngọn đèn mờ ảo trong lăng gợi nhà thơ sự liên tưởng thật là thú vị "ánh trăng". Tác giả đã thể hiện sự am hiểu của mình về Bác qua sự liên tưởng kì lạ đó bởi trăng với Bác từng là đôi bạn tri âm tri kỉ. Ánh trăng bát ngát ngoài trời đã từng vào thơ Bác trong nhà lao, trên chiến trận, giờ đây trăng cũng đến để ru giấc ngủ ngàn thu cho Người. Với hình ảnh "vầng trăng sáng dịu hiền" dụng ý nhà thơ còn muốn tạo ra một hệ thống hình ảnh vũ trụ để ví với Bác. Người có lúc như mặt trời ấm áp, có lúc dịu hiền như ánh trăng rằm.

Bác của chúng ta là vậy. "Mặt trời", "vầng trăng", "trời xanh" đó là những cái mênh mông bao la của vũ trụ được nhà thơ ví như cái bao la rộng lớn trong tình thương của Bác. Đó cũng là biểu hiện sự vĩ đại, rực rỡ, cao siêu của con người và sự nghiệp của Bác. Biết rằng Bác vẫn sống mãi trong sự nghiệp cách mạng và tâm trí nhân dân như bầu trời xanh vĩnh viễn trên cao nhưng nhà thơ vẫn không khỏi thấy nhói đau trong lòng khi đứng trước thi thể của Người: "Mà sao nghe nhói ở trong tim". Nỗi đau như hàng ngàn mũi kim đâm vào trái tim thổn thức của tác giả. Đó là sự rung cảm chân thành của nhà thơ.

Còn đứng trong lăng Bác, nhưng khi nghĩ đến lúc phải xa Bác, Viễn Phương thấy bịn rịn không muốn dứt. Tình cảm của nhà thơ trong suốt thời gian trên luôn sâu lắng, đau lặng lẽ nhưng đến giây phút này, Viễn Phương không thể nào ngăn được nữa để cho tình cảm theo dòng nước mắt tuôn trào, dâng lên cao và tha thiết nhất "mơ về miền Nam thương trào nước mắt".

Chỉ nghĩ đến việc về miền Nam, tác giả cũng đã "trào nước mắt", luyến tiếc khi chia tay, bịn rịn không muốn xa nơi Bác nghỉ. Ở câu thơ này, tác giả không sử dụng một nghệ thuật gì cả, chỉ là lời nói giản dị, là tình thương sâu lắng tự tấm lòng nhưng lại làm cho ta xúc động, cho bài thơ thêm giàu cảm xúc. Một cách nói không hoa mĩ, chân thành như người dân Nam Bộ, nhưng lại lắng trong đó nỗi thương yêu đau đớn không có gì có thể nói và tả được.

Tác giả thay mặt cho nhân dân miền Nam bày tỏ niềm thương tiếc vô hạn đối với vị cha già dân tộc. Câu nói giản dị ấy làm người đọc thêm hiểu và đồng cảm với cảm xúc của Viễn Phương, bởi lời nói đó đều xuất phát từ muôn triệu trái tim bé nhỏ cùng chung nỗi đau không khác gì tác giả. Được gần Bác dù chỉ trong giây phút nhưng không bao giờ ta muốn xa Bác bởi Người ấm áp quá, rộng lớn quá. Ước nguyện thành kính của Viễn Phương cũng là mong ước chung của những người đã hoặc chưa một lần nào gặp Bác:

"Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác 

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này."

Từ ngữ "muốn làm" được lặp đi lặp lại nhiều lần trong đoạn thơ thể hiện được ước muốn, sự tự nguyện của tác giả. Hình ảnh cây tre lại xuất hiện khép bài thơ lại một cách khéo léo. Một mong ước chân thành của nhà thơ. Tác giả muốn làm con chim hằng ngày ca hót cho Bác yên ngủ, làm đóa hoa tỏa hương thơm ngào ngạt, cùng muôn đóa hoa khác làm đẹp nơi Bác nghỉ. Và vui sướng nhất khi được làm cây tre trung hiếu đứng mãi bên Bác canh từng giấc ngủ của Người. Cánh hoa ấy, tiếng chim hót và cây tre trung hiếu ấy giữ mãi cho Người giấc ngủ bình yên.

Viễn Phương nói lên mong ước của mình cũng như là ước nguyện của tất cả chúng ta muốn được gần Bác để được lớn lên một chút:

"Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta

Ta bỗng lớn ở bên Người một chút."

Bác của chúng ta là vậy. Người giàu tình thương yêu, giàu đức hi sinh và đời Người thì vô cùng giản dị. Đất nước ta mất Bác như mất người cha vĩ đại, người cha luôn luôn dành cho nhân loại tình thương vô bờ bến.

Bài thơ "Viếng lăng Bác" thật giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, mấy ai đọc bài thơ mà không thấy rung động trong lòng. Bằng cách sử dụng điêu luyện những biện pháp tu từ một cách sáng tạo, tác giả đã thể hiện tình cảm ngọt ngào đằm thắm lại rất giản dị chân thành đối với Bác. Nhà thơ đã truyền được cảm xúc của mình đến với người đọc chính bởi cảm xúc của cả đồng bào Nam Bộ nói riêng cùa dân tộc nói chung. Chúng ta những cháu ngoan của Bác Hồ cũng xin nguyện như Viễn Phương làm cây tre trung hiếu, làm bông hoa đẹp, làm tiếng chim hay và làm muôn ngàn công việc tốt để dâng lên Người.

>>>Tìm hiểu sâu hơn về tình cảm, tấm lòng chân thành của tác giả với Bác qua những bài văn hay về lòng thành kính và niềm xúc động sâu sắc qua 2 khổ cuối Viếng lăng Bác

Mẫu số 11: Nghe bài văn phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương

Mẫu số 12 phân tích những cảm nhận của em về bài thơ Viếng lăng Bác

Mỗi tác giả đều có những xúc cảm riêng khi viết về Hồ Chí Minh, là xót xa, nuối tiếc, tự hào, ngưỡng mộ cho một đời người vì dân, vì nước. Nhà thơ Viễn Phương lần đầu tiên từ miền Nam ra thăm lăng Bác cũng đã giật mình nhận ra có những thay đổi trong chính cảm xúc của mình khi nhìn thấy Bác đang ngủ yên lành. Bài thơ “Viếng lăng Bác” là lòng thành kính, ngưỡng mộ, biết ơn của nhà thơ dành cho vị lãnh tụ vĩ đại.

Năm 1976, đất nước thống nhất, lăng chủ tịch Hồ Chí Minh được khánh thành; tác giả theo đoàn từ Nam ra viếng lăng Bác. Cảm xúc của một người con lần đầu tiên ra thăm lăng Bác thực sự dồn nén trong trái tim của tác giả. Bài thơ như một lời tri ân, lòng thành kính của một đứa con phương xa được trở về thăm Người. Có lẽ những câu thơ này như nói hộ tấm lòng của rất nhiều người, rất nhiều con dân Việt Nam được ra thăm lăng Bác.

Xuyên suốt bài thơ chính là mạch cảm xúc rưng rưng, xúc động, không kìm nổi lòng mình khi đứng trước một người anh hùng dân tộc. Bài thơ được mở đầu như một tiếng reo vui:

Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng

Một tiếng reo vui nhẹ nhàng, một tiếng “con” chân thành và sâu sắc của một người con từ phương xa. Câu thơ trở nên mềm mại, cuốn hút, chan chứa tình cảm. Một hành trình từ miền Nam ra tận miền Bắc chỉ để được nhìn ngắm Hồ Chí Minh một lần. Mặc dù Bác Hồ đã không còn nữa nhưng nhà thơ không dùng từ “viếng” mà lại dùng từ “thăm” rất nhẹ nhàng, tình cảm. Điều này cho thấy rằng mặc dù Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ nhưng lại rất gần gũi, thân thiết với nhân dân. Người đọc cảm nhận được rằng dường như Bác Hồ vẫn còn sống mãi, chỉ là Bác đang ngủ một giấc ngủ thật lâu, thật dài.

Khung cảnh hiện ra trước mắt khi nhà thơ đến đây là hàng tre “bát ngát”. Tre là hình ảnh thân thuộc, gần gũi với đất nước Việt Nam, biểu tượng cho sự dẻo dai, kiên cường, tinh thần không khuất phục của cả dân tộc ta. Mặc dù bão táp mưa sa nhưng hàng tre vẫn kiên cường, hiên ngang và bất khuất như chính tinh thần quật cường của dân tộc ta.

Viễn Phương mang một trái tim yêu thương và ngưỡng mộ với chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông đã mượn hình ảnh “mặt trời” biểu tượng cho Bác Hồ vĩ đại, luôn sống mãi với đất nước:

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ

Rõ ràng hình ảnh “mặt trời” ở hai câu thơ hoàn toàn có ý nghĩa khác nhau. Một mặt trời thực của thiên nhiên, một mặt trời mang giá trị ẩn dụ, tượng trưng cho người cha già dân tộc. Phép ẩn dụ này đã làm tăng lên tính biểu cảm, phần nào làm sắc nét hơn tình cảm thương yêu, trân trọng mà Viễn Phương dành cho Người. Mặt trời luôn tồn tại để soi sáng nhân gian cũng như Hồ Chí Minh còn sống mãi trong lòng dân.

Hòa vào dòng người viếng thăm Bác, Viễn Phương xúc động nghẹn ngào:

Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân

Đời người hữu hạn, thời gian vô hạn. Sự ra đi của Người để lại muôn vàn tiếc thương cho dân tộc. Niềm thương nhớ ấy kết thành những “tràng hoa” dâng Người. “Bảy mươi chín mùa xuân” chính là bảy mươi chín năm Người sống và cống hiến cho dân tộc. Hồ Chí Minh chính là mùa xuân lớn của đất nước ta, cho những kiếp người lầm than trong xã hội.

Tác giả được nhìn ngắm Bác Hồ, có một niềm xúc động sâu sắc:

Bác nằm trong lăng giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng trong dịu hiền

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim

Bác vẫn nằm đây, giữa thủ đô đầy nắng, giữa hàng triệu trái tim của dân tộc đang hướng về Người. Nét "dịu hiền” trên khuôn mặt Người chính là tượng trưng cho những gì cao đẹp, thanh khiết nhất của một cuộc đời. Dù nỗi đau còn đó, mất mát còn đó nhưng đất nước luôn nhớ đến Người.

Có lẽ khi đọc khổ thơ cuối cùng, người đọc sẽ bần thần trước lời nguyện ước của Viễn Phương:

Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này

Những vẫn thơ chân chất, bình dị này khiến cho người đọc “trào nước mắt”. Giây phút tác giả sắp rời xa Người trở về với miền Nam là giây phút ngưng lại nhiều cảm xúc nhất. Điệp từ “muốn” dường như nhấn mạnh hơn nữa khát khao, ước vọng của tác giả được ở cạnh Bác Hồ. Những ước muốn bình dị, mộc mạc nhưng chan chứa tình cảm.

Thật vậy, bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương khiến người đọc không cầm được nước mắt vì tình cảm của một người con dành cho Bác. Qua đó thấy được vị trí của Bác Hồ trong lòng dân quan trọng như thế nào.

Phân tích bài Viếng lăng Bác mẫu số 13: Nỗi xót thương sâu sắc của Viễn Phương

Sự vĩ đại, công lao to lớn của chủ tịch Hồ Chí Minh đối với dân tộc Việt Nam cả đời nhân dân ta vẫn luôn ghi nhớ, biết ơn. Viết về đức tính, tấm lòng của Bác là một mảng đề tài lớn trong sáng tác thơ ca. Và ngay cả khi Bác mất đi, nỗi tiếc thương vô hạn, đã dấy lên niềm biết ơn, kính trọng sâu sắc với Bác. Viếng lăng Bác của Viễn Phương là bài thơ được làm trên mạch cảm xúc ấy.

Trước sự ra đi của Bác, Tố Hữu đã từng thốt lên vô cùng đau đớn:

Bác đã xa rồi sao Bác ơi

Mùa thu đang đẹp, nắng xanh trời

Dù Viễn Phương không viết bài thơ ngay thời điểm Bác qua đời, nhưng cảm xúc vẫn vẹn nguyên, mãnh liệt. Tác phẩm được viết vào năm 1976, khi đất nước đã giải phóng và lăng chủ tịch Hồ Chí Minh vừa được khánh thành. Là một người con của miền Nam, tác giả cũng có một mong muốn mãnh liệt được ra thăm vị cha già của dân tộc khi đất nước đã hoàn toàn thống nhất. Bởi vậy, bài thơ là cảm xúc chân thành, tha thiết, đầy xúc động tác giả dành cho Bác.

Từ miền Nam xa xôi, Viễn Phương không quản ngại khó khăn để ra gặp Người. Lời thơ thân mật, gần gũi, như đứa con trở về thăm cha:

 Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Câu thơ như một lời thông báo ngắn gọn, nhưng ẩn chứa trong đó biết bao nỗi niềm và cảm xúc của tác giả. Từ cực Nam của tổ quốc, Viễn Phương ra Hà Nội không chỉ để chiêm ngưỡng công trình kiến trúc nơi Bác yên nghỉ mà đó là hành trình về với người cha, hành trình trở về nguồn cội của chính mình. Tiếng con nghe sao thiêng liêng và ấm áp quá, nó cho thấy mối quan hệ thân mật, gần gũi mà cũng rất đỗi thành kính, thiêng liêng. Và qua đó cũng diễn tả nỗi xúc động sâu sắc của tác giả sau bao năm xa cách được trở về thăm Người.

Cái hay, cái đẹp của khổ thơ không chỉ dừng lại ở lớp ngôn từ bình dị, mà còn ở những hình ảnh rất đỗi thân thương: “Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát/ Ôi! Xanh xanh hàng tre Việt Nam/ Bão táp mưa sa vẫn thẳng hàng”. Hàng tre xanh ấy chính là tượng trưng cho làng quê, cho con người Việt Nam cần cù, chịu thương chịu khó. Cảm xúc trào dâng, khiến ông bật lên tiếng cảm thán đầy cảm xúc “ôi” chất chứa lòng tự hào.

Dân tộc ta trải qua “bão táp mưa sa” - chiến tranh liên miên, cuộc sống còn nhiều khó khăn nhưng vẫn “đứng thẳng hàng” - họ những con người kiên cường, bất khuất trước mọi gian lao, thử thách. Đúng như Nguyễn Duy đã từng khẳng định: “Thân gầy guộc lá mong manh/ Mà sao nên lũy nên thành tre ơi”. Đồng thời những hàng tre này, cũng như vòng tay của quê hương, những đứa con đang ngày đêm canh gác giấc ngủ cho Người.

Đứng trước lăng Bác, Viễn Phương càng cảm nhận rõ hơn nữa sự vĩ đại của Người:

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ

Hình ảnh "mặt trời" trong câu thơ đầu là mặt trời thực, là nguồn gốc sự sống của vạn vật. Nhưng hình ảnh "mặt trời" thứ hai là hình ảnh ẩn dụ cho Bác. Bác là nguồn sống, đem đến ánh sáng cho dân tộc. Dưới sự dẫn dắt của Bác, đất nước đã được giải phóng, dân tộc được hưởng cuộc sống tự do, hạnh phúc. Bởi vậy, Bác chính là mặt trời của nhân dân, dân tộc Việt Nam. Đồng thời mặt trời mang trong mình hơi ấm, cũng như Bác mang trong mình tình yêu thương bao la với dân tộc: “Bóng Bác cao lồng lộng/ Ấm hơn ngọn lửa hồng” (Đêm nay Bác không ngủ - Minh Huệ).

Trước sự vĩ đại của Người, ngày ngày những người con Việt Nam vẫn lặng lẽ đến bên và kính dâng lên tình cảm, sự trân trọng, kính yêu: “Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ/ Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”. Dòng người trĩu nặng nhớ thương, từ khắp mọi miền đất nước vẫn tề tựu về đây, theo dòng người vào thăm lăng Bác. Bằng sự quan sát tinh tế, tác giả đã tạo ra hình ảnh ẩn dụ đặc sắc: tràng hoa. Tràng hoa từ khắp mọi miền tổ quốc, kính dâng lên Người với lòng biết ơn vô hạn. Hình ảnh thơ đã biểu lộ tấm lòng thành kính không chỉ của riêng nhà thơ mà còn là của nhân dân đối với Bác.

Tiến vào trong lăng thời gian như ngưng đọng. Bác nằm trong giấc ngủ bình yên sau những năm tháng hoạt động cách mạng và bên cạnh Bác luôn có người bạn hiền kề cận - ánh trăng. Đồng thời ánh trăng đó cũng cho thấy lối sống thanh cao, nhân cách trong sáng trong cả cuộc đời của Bác. Trong niềm xúc động vô hạn, Viễn Phương thốt lên đầy đau đớn: “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi/ Mà sao nghe nhói ở trong tim”. Vẫn biết Bác đã hóa thân vào dáng hình, xứ sở trường tồn cùng đất nước, nhưng nỗi đau trước sự ra đi của Bác vẫn làm nhà thơ đau nhói, đó là nỗi đau đột ngột, quặn thắt. Ấy là nỗi đau quá lớn, nghẹn ứ không thể nói thành lời của triệu con tim Việt Nam.

Thời khắc ở bên Người quả là quá ngắn ngủi, chẳng mấy chốc đã đến giờ phút chia xa. Nghĩ đến việc mình sẽ phải trở về miền Nam, phải xa Người nhà thơ không thể kìm nén nổi nỗi xúc động mà biểu lộ ra ngoài:

Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Câu thơ như một lời giã biệt, mà lắng sâu tình cảm. Những giọt nước mắt trào dâng, lưu luyến, bịn rịn không muốn rời xa nơi Bác yên nghỉ. Mặc dù lưu luyến, không muốn rời xa, nhưng bản thân ông cũng hiểu rằng đã đến lúc phải trở về miền Nam. Và đến lúc này ông dấy lên một ước nguyện chân thành tha thiết:

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này

Điệp ngữ muốn làm kết hợp với các hình ảnh: con chim, đóa hoa, cây tre đã thể hiện nguyện ước chân thành, mãnh liệt của ông. Đó là những sự vật hết sức gần gũi, thân thuộc. Và đặc biệt, ông muốn làm cây tre trung hiếu để nhập vào hàng tre quanh lăng Bác canh giữ giấc ngủ ngàn năm cho Người. Đồng thời hình ảnh này cũng thể hiện niềm kính yêu, lòng biết ơn vô hạn tác giả dành cho Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Cả bài thơ là nỗi xót thương sâu sắc của Viễn Phương khi đến thăm lăng Bác. Nhưng đằng sau đó ta còn thấy tấm lòng thành kính, tự hào trước công lao vĩ đại của Người đối với dân tộc Việt Nam. Cùng với đó là sự kết hợp linh hoạt các biện pháp nghệ thuật: so sánh, ẩn dụ, điệp ngữ,… giọng điệu đầy trữ tình đã tác động sâu sắc đến tâm khảm bạn đọc.

Phân tích Viếng lăng Bác ngắn gọn mẫu số 14:

Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhân vật lịch sử thân yêu nhất của dân tộc Việt Nam thế kỉ XX. Người để lại hình ảnh một người Cha già hiền từ, một tên gọi Bác thân thiết, người hiện thân cho những gì cao đẹp và mạnh mẽ của dân tộc. Lăng Bác trở thành nơi lưu giữ bóng dáng Bác lúc sinh thời, nơi chiêm ngưỡng thành kính của nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế. Biết bao nhà thơ đã làm thơ về Người, về lăng Người. Viếng lăng Bác" của Viễn Phương là một bài thơ ngắn đầy xúc động, thể hiện tấm lòng của đồng bào miền Nam đối với Người.           .

Mở đầu bài thơ, tác giả tự giới thiệu:

Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Lời thơ giản dị nhưng chứa đựng rất nhiều cảm xúc. Sinh thời, Người luôn nghĩ đến miền Nam. Nhà thơ Tố Hữu từng viết:

Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà

Miền Nam mong Bác nỗi mong Cha

(Bác ơi)

Lời bài thơ đúng là lời của người con miền Nam ra thăm lăng Bác, nơi yên nghỉ của người Cha già dân tộc. Tình cảm trong bài đúng là tình cảm của người con ở xa mà nỗi niềm nhớ thương ấp ủ bấy lâu như chỉ chờ gặp lại bóng dáng thân yêu là trào dâng, thổn thức.

Từ xa, nhà thơ vừa nhìn thấy hàng tre quanh lăng, đã xiết bao xúc động:

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.

Nhà thơ hẳn phải đến rất sớm để xếp hàng vào viếng, khi sương sớm còn bao phủ quanh lăng. Theo con đường quanh quanh dẫn tới lăng nổi lên hàng tre bát ngát. Bát ngát của tre và bát ngát của sương. Nhà thơ bắt gặp một hình ảnh thân thuộc mà bao năm đã in hằn trong tiềm thức: “Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam / Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”.

Một tình cảm vừa thân quen, vừa thương xót và tự hào. Thân quen vì người Việt Nam nào mà không biết tre. Thương xót vì tre phải chịu đựng bão táp, mưa sa, và tự hào vì tre vẫn thẳng hàng, không nghiêng ngả. Từ sương sa mà liên tưởng đến bão táp, mưa sa cũng rất tự nhiên. Từ cây tre mà nghĩ đến Việt Nam, rồi sẽ nghĩ đến Bác cũng là tự nhiên, bởi từ lâu “cây tre”, "Việt Nam”, “Hồ Chí Minh” là những từ ngữ có mối liên hệ nội tại.

Khổ thứ hai nói tới cảm xúc trước cảnh đoàn người xếp hàng vào lăng. Hẳn là đoàn người rất dài, tốc độ đi rất chậm. Khổ thơ trên, cảnh vật đang còn sương phủ, bây giờ mặt trời đã lên cao trên đầu. Mặt trời trên lăng lại gợi lên một liên hệ mới:

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ

Ví Bác với mặt trời là hình ảnh đã quen, nhưng đem so sánh mặt trời trên lăng và mặt trời trong lăng là một sáng tạo mới xuất thần, thoát sáo, chưa hề có. Mặt trời “rất đỏ” làm nhớ đến trái tim, trái tim nhiệt huyết, chân thành, trái tim thương nước, thương dân.

Ngắm nhìn dòng người vào viếng, nhà thơ lại nghĩ đến vòng hoa:

Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân...

Tràng hoa là chuỗi hoa vòng kết thành tròn. Từng đoàn người đi viếng di chuyển từ phía sau lăng, qua bên lăng, vòng ra trước lăng rồi quay vào chính diện của lăng, đúng là tạo thành một vòng tròn, khiến nhà thơ nghĩ đến tràng hoa. Bởi vì con người là hoa của đất, những con người từng được Bác Hồ quan tâm. Mọi người hình như không phải đến viếng một người đã từ trần, viếng một thi hài, mà là đến viếng một cuộc đời bảy mươi chín mùa xuân đã hiến dâng bao nhiêu hoa trái. Ở đây tác giả không chỉ liên tưởng sâu sắc, mà còn dùng từ tinh tế, đầy tình cảm nâng niu, quý trọng. Những chữ “ngày ngày” được lặp lại hai lần gây cảm giác một thời gian vô tận, vĩnh viễn, không bao giờ ngừng, như tấm lòng nhân dân không nguôi nhớ Bác.

Khổ thơ thứ ba nói về cảm xúc khi đã vào đến trong lăng. Đây là nơi ngự trị của cái im lặng trang nghiêm của sự yên nghỉ đời đời. Câu thơ đã viết rất đỗi chân thực và thơ mộng:

Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

Khung cảnh bình yên, lặng lẽ gợi lên giấc ngủ ban đêm, êm đềm dưới vầng trăng sáng dịu hiền. Nhà thơ một mặt không muốn cảm nhận đây là giấc ngủ vĩnh viễn, ngủ giữa ban ngày, nhưng mặt khác không thể không thấy một sự thật rằng con người đang nằm kia đã vĩnh viễn ra đi:

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi.

Mà sao nghe nhói ở trong tim

Dù biết Bác sống vĩnh viễn như trời xanh thì cũng không che giấu được một sự thật mất mát, làm đau nhói con tim. Câu thơ nghe như một tiếng khóc nghẹn ngào.

Khổ thơ cuối cùng là cảm xúc trước khi ra về:

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này

Nghĩ đến ngày mai về miền Nam, nỗi thương xót làm trào rơi nước mắt. Không phải rưng rưng, rơm rớm, mà là trào, một cảm xúc mãnh liệt. Tình thương xót như nén giữa tâm hồn, làm nảy sinh bao ước muốn. Ước muốn làm con chim hót quanh lăng Bác, để lại chút vui tươi, nhí nhảnh bên một người đã hy sinh cả gia đình, tình riêng vì đất nước. Ước muốn làm đóa hoa tỏa hương quanh lăng, một làn hương như thực như hư “đâu đây”, thoang thoảng. Ước muốn làm cây tre trung hiếu quanh lăng.

Mọi ước muốn đều quy tụ vào một điểm là mong được gần Bác mãi mãi, hẳn là muốn làm vui, làm khuây, làm vơi nỗi lạnh lẽo của con người đã suốt đời hi sinh cho sự nghiệp giải phóng Tổ quốc, giải phóng dân tộc, một con người lúc sinh thời đã dành trọn tình thương yêu cho mọi tầng lớp nhân dân và đặc biệt cho đồng bào miền Nam ruột thịt.

Bài thơ Viếng lăng Bác tả lại một ngày ra thăm lăng Bác, từ tinh sương đến trưa, rồi chiều. Nhưng thời gian trong tưởng niệm là thời gian vĩnh viễn của vũ trụ, của tâm hồn. Cả bài thơ bốn khổ, khổ nào cũng trào dâng một niềm thương nhớ bao la và xót thương vô hạn. Bốn khổ thơ, khổ nào cũng đầy ắp ẩn dụ, những ẩn dụ đẹp và trang nhã, thể hiện sự thăng hoa của tình cảm từ cõi hằng ngày lên cõi cao cả. Tình cảm đối với Bác chỉ có thể là tình cảm cao cả, nâng cao tâm hồn con người. Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương là một đóng góp quý báu vào kho tàng thi ca viết về Hồ Chủ tịch, vị lãnh tụ vĩ đại, kính yêu của dân tộc.

Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác mẫu số 15:

Bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương được sáng tác vào năm 1976, bài thơ mang đậm chất trữ tình này đã ghi lại tình cảm sâu lắng, thành kính của nhà thơ khi hòa vào dòng người viếng lăng Bác. Bài thơ cũng là tiếng nói, là nỗi niềm tâm sự của nhân dân Nam Bộ và nhân dân cả nước dành cho Bác.

Mở đầu bài thơ là cảm xúc của tác giả khi vừa bước chân vào lăng. Nhà thơ xưng “con” và gọi “Bác”; lời thơ giản dị, mộc mạc mà chất chứa bao tình cảm gần gũi, thân thương, kính trọng chủ tịch Hồ Chí Minh của ông. Điều đó càng cho thấy Bác là một con người rất hòa đồng và gần gũi. Chính vậy, nhà thơ Tố Hữu có viết “Người là Cha, là Bác, là Anh”.

Chi tiết thơ “Con ở miền Nam” còn mang một sắc thái đầy xúc động. Khúc ruột miền Nam là miền đất xa xôi mà Bác không nguôi ngóng chờ, cho đến những ngày trước lúc lâm chung thì trái tim người vẫn luôn hướng về miền Nam ruột thịt. Nơi đó có biết bao đồng bào ta đang ngày đêm chiến đấu và anh dũng hy sinh vì một ngày mai nước nhà thống nhất. Nhưng… Bác đã không chờ được đến ngày đó. Người đã ra đi mãi mãi vào cõi vĩnh hằng để lại muôn vàn niềm thương tiếc cho nhân dân ta. Câu thơ đầu gọn như một lời thông báo nhưng lại chứa chan bao tình cảm xúc động, bồi hồi của tác giả đối với vị cha già kính yêu của dân tộc.

Và trong cái mênh mang sương mù của một ngày mùa thu Hà Nội, qua con mắt thi nhân của Viễn Phương, ta chợt tìm thấy một “hàng tre” Việt Nam. Đến với Bác, đến với hàng tre, ta như đến với quê hương làng mạc, đến với mái nhà tranh âm vang lời ru của bà, của mẹ; đến với Bác là đến với dân tộc mình, thế mới đẹp làm sao! Hình ảnh nhân hóa hàng tre “bão táp mưa sa đứng thẳng hàng” còn là biểu tượng bất diệt của con người Việt Nam kiên cường, bất khuất bền bỉ. Màu xanh của tre chính là màu xanh của sức sống Việt Nam, màu xanh của hy vọng, hạnh phúc và hòa bình.

Đây quả là một tứ thơ độc đáo, giàu ý nghĩa tượng trưng:

“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”

Và nhà thơ phải kính yêu Bác lắm mới viết được những hình ảnh ẩn dụ tài tình này:

“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”

Cũng là “mặt trời” nhưng “mặt trời” ở câu thơ thứ nhất là mặt trời của thiên nhiên vũ trụ, ngày ngày tỏa sáng, đem sự sống cho muôn loài, vạn vật, nó cũng có lúc quạnh quẽo, u ám. Còn “mặt trời” của nhân dân Việt Nam, “mặt trời” trong lăng thì vẫn luôn chiếu ánh sáng vĩnh hằng, đỏ mãi. Bác chính là vầng mặt trời hồng tỏa tia sáng soi rọi con đường giúp dân tộc ta thoát khỏi kiếp đời nô lệ, là sức mạnh giúp nhân dân ta chèo lái con thuyền cách mạng cập bến vinh quang, đi đến bờ thắng lợi. Dù rằng đã ra đi mãi mãi nhưng Bác vẫn luôn bất tử, tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn luôn trường tồn, soi đường dẫn lối cho dân tộc ta đứng lên.

Hòa nhịp với gần trăm triệu bàn chân Việt Nam, hàng triệu bàn chân lao động trên thế giới, Viễn Phương bùi ngùi xúc động bước vào lăng:

“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”

Hình ảnh dòng người vào lăng viếng Bác được tác giả ví như nhưng tràng hoa dâng lên Người. “Bảy mươi chín” tràng hoa, ấy là bày mươi chín màu xuân, bày mươi chín năm cống hiến, hy sinh hết mình của Bác đối với dân tộc và nhân dân ta. Và quả thật, Bác chính là mùa xuân, và mùa xuân ấy đã làm cho cuộc đời người dân Việt Nam nở hoa. Điệp ngữ “ngày ngày” đứng mỗi ý thơ giữ vị trí “nhãn tự”, vừa thể hiện một qui luật trình tự của dòng người vào lăng viếng Bác, lại vừa thể hiện một qui luật tự nhiên của tạo hóa.

Đứng trước sự vĩ đại, to lớn của Bác, ta cũng vô thức bị dòng thơ cuốn vào trong lăng lúc nào không hay:

“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim”

Bác đang nằm đây, ngay trước mắt nhà thơ, hiền hậu, nhân từ như một vầng trăng “dịu hiền”, mát mẻ mà vẫn trong sáng rạng ngời. Ta có cảm giác như Bác vẫn chưa đi xa, vẫn chưa rời khỏi thế gian này mà Người đang ngủ đấy thôi. Lí trí thì nói Bác đang ngủ, nghĩa là Bác vẫn còn sống mãi với đất nước, với dân tộc ta như trời xanh còn mãi trên đầu. Mỗi ngày ngẩng đầu nhìn ta lại thấy trời xanh, lại thấy Bác. Bác không bao giờ mất, Bác sống mãi cùng dân tộc ta, trong mỗi cuộc đời, trong mỗi sự việc mà chúng ta làm vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội. Ta biết thế, ta nghĩ thế nhưng sao tim ta vẫn “đau nhói”, mắt ta vẫn trào dâng khi nhận ra rằng: Bác đã không còn nữa! Khổ thơ thứ hai và ba là một chuỗi các hình ảnh vũ trụ: mặt trời, vầng trăng, trời xanh lồng vào nhau như để ca ngợi tầm vóc lớn lao của Bác; đồng thời thể hiện lòng tôn kính vô hạn của tác giả, của nhân dân đối với vị cha già kính yêu của dân tộc.

Bài thơ bắt đầu bằng sự kiện “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác” và cũng kết thúc bằng chi tiết “Mai về miền Nam”. Đây là giờ phút sắp chia tay với Bác, tâm trạng nhà thơ tràn đầy niềm cảm thương xen lẫn bùi ngùi, lưu luyến. Điều đó được thể hiện qua hình ảnh cuờng điệu: “Thương trào nước mắt”:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Múon làm đóa hoa toả hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”

Tình thương xót nén giữa tâm hồn đã làm nảy sinh bao ước muốn: “muốn là con chim” để dâng lên tiếng hót vui, “muốn là đóa hoa” dâng hương thơm ngát, “muốn làm cây tre trung hiếu” canh gác cho giấc ngủ yên lành của Bác. Nhịp điệu khổ thơ lúc này dồn dập với điệp ngữ “muốn làm” nhắc lại đến ba lần và các hình ảnh liên tiếp xuất hiện như một dòng khát khao mãnh liệt của nhà thơ muốn được gần Bác mãi mãi.

Bằng tất cả tình cảm chân thành, Viễn Phương đã làm “Viếng lăng Bác” trở thành một bản tình ca bất tận để lại ấn tượng sâu sắc cho bao người dân Việt Nam. Bài thơ hay không chỉ vì các nghệ thuật, kĩ xảo độc đáo mà quan trọng hơn, đó là sự kết hợp nhuẫn nhị giữa cái “tâm” của một người con yêu nước và cái “tài” của người nghệ sĩ. Rất nhiều năm tháng đã đi qua nhưng mỗi thế hệ đọc lại “Viếng lăng Bác” đều đón nhận vào tâm hồn mình một ánh sáng tư tưởng, tình cảm của nhà thơ và đồng thời cũng thấm nhuần vẻ đẹp trong suốt, lấp lánh tỏa ra từ chính cuộc đời, trí tuệ và trái tim Bác Hồ.

(Nguồn: thegioivanmau.com)

Xem thêm

Các bạn vừa tham khảo gợi ý làm bài và một số bài văn mẫu hay phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương (chương trình Ngữ Văn 9). Truy cập kho tài liệu Văn mẫu lớp 9 để cập nhật thêm nhiều bài văn hay khác giúp bạn rèn luyện kỹ năng làm văn, chuẩn bị tốt cho các bài thi và kiểm tra môn Văn. Chúc các bạn học tốt !

Bạn còn vấn đề gì băn khoăn?
Vui lòng cung cấp thêm thông tin để chúng tôi giúp bạn
Hủy

TẢI VỀ

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM