Phân tích bài thơ Mời trầu

Xuất bản: 11/01/2024 - Tác giả:

Hướng dẫn phân tích bài thơ Mời trầu của Hồ Xuân Hương, TOP 5+ bài văn phân tích Mời trầu hay nhất dành cho học sinh tham khảo

Hướng dẫn lập dàn ý và tham khảo TOP 5+ bài văn phân tích bài thơ Mời trầu hay nhất do Đọc Tài Liệu sưu tầm và tổng hợp. Hi vọng sẽ giúp các em có thêm nguồn tư liệu tham khảo hữu ích để làm được một bài văn phân tích hay và sâu sắc nhất.

Dàn ý phân tích bài thơ Mời trầu của Hồ Xuân Hương

1. Mở bài

- Giới thiệu khái quát về tác giả Hồ Xuân Hương và bài thơ Mời trầu

- Nêu vấn đề cần phân tích.

2. Thân bài

a) Phân tích nội dung bài thơ

- Phân tích câu đề: Giới thiệu về hình ảnh trầu cau

Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi

+ Hình ảnh trầu cau được miêu tả theo lối ước lệ tượng trưng: quả cau là biểu tượng của người nam, miếng trầu là biểu tượng của người nữ

- Phân tích câu thực: Thể hiện tâm trạng của tác giả

+ Nỗi cô đơn, lẻ loi của người phụ nữ

+ Khao khát được yêu thương, hạnh phúc

- Phân tích câu luận: Lời mời trầu của tác giả

+ Mời trầu là một cách bày tỏ tình cảm của người phụ nữ

+ Lời mời trầu của tác giả mang ý nghĩa mong muốn tìm được một người tri kỉ, gắn bó trọn đời

- Phân tích câu kết: Lời thề ước của tác giả, mong muốn tình yêu bền vững, thủy chung.

b) Đặc sắc nghệ thuật

- Ngôn ngữ giản dị, mộc mạc nhưng giàu ý nghĩa

- Hình ảnh ước lệ tượng trưng mang đậm bản sắc dân tộc

- Sử dụng nhiều biện pháp tu từ như ẩn dụ, nhân hóa, điệp ngữ.

3. Kết bài

- Khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ

- Nêu cảm nhận, đánh giá của bản thân về bài thơ.

TOP 5+ bài văn phân tích bài thơ Mời trầu hay nhất

Phân tích Mời trầu mẫu số 1

Hồ Xuân Hương là một trong những nữ thi sĩ tài năng nhất của văn học Việt Nam. Bà là người có tư tưởng tiến bộ, dám vượt qua những rào cản của xã hội phong kiến để bộc lộ cảm xúc của mình. Bài thơ "Mời trầu" là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Hồ Xuân Hương, thể hiện khát khao hạnh phúc của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh trầu cau:

Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi

Hình ảnh trầu cau được miêu tả theo lối ước lệ tượng trưng: quả cau là biểu tượng của người nam, miếng trầu là biểu tượng của người nữ. Hai câu thơ này thể hiện tâm trạng cô đơn, lẻ loi của người phụ nữ. Cái "nho nhỏ" của quả cau như gợi lên hình ảnh một người đàn ông nhỏ bé, không đủ sức che chở cho người phụ nữ. Cái "hôi" của miếng trầu như gợi lên sự hờ hững, lạnh nhạt của người đàn ông.

Hai câu thực thể hiện tâm trạng khao khát được yêu thương, hạnh phúc của người phụ nữ:

Này của Xuân Hương mới mẻ

Của tin thì có, của nợ thì không

"Của Xuân Hương" là của cải, vật chất của người phụ nữ. "Của tin" là lời hứa hẹn, hẹn ước. "Của nợ" là sự ràng buộc, ràng buộc. Hai câu thơ này thể hiện sự chủ động, mạnh mẽ của người phụ nữ trong việc tìm kiếm hạnh phúc. Người phụ nữ không cần đến của cải, vật chất mà chỉ cần một lời hứa hẹn, hẹn ước chân thành.

Hai câu luận thể hiện lời mời trầu của người phụ nữ:

Miếng trầu xin có miếng trầu trao

Dám xin xăm xăm một hai ba

Lời mời trầu của người phụ nữ là một cách bày tỏ tình cảm của mình. Người phụ nữ mong muốn tìm được một người tri kỉ, gắn bó trọn đời.

Hai câu kết thể hiện lời thề ước của người phụ nữ:

Miếng trầu xin có miếng trầu trao

Đừng xanh như lá, bạc như vôi

Lời thề ước của người phụ nữ thể hiện khát khao tình yêu bền vững, thủy chung. Người phụ nữ mong muốn tìm được một tình yêu chân thành, không thay đổi theo thời gian.

Bài thơ "Mời trầu" được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật với ngôn ngữ giản dị, mộc mạc nhưng giàu ý nghĩa. Hình ảnh ước lệ tượng trưng mang đậm bản sắc dân tộc kết hợp với nhiều biện pháp tu từ như ẩn dụ, nhân hóa, điệp ngữ. Bài thơ đã góp phần khẳng định tài năng và tư tưởng tiến bộ của Hồ Xuân Hương, khẳng định khát khao hạnh phúc của người phụ nữ, đồng thời lên án những hủ tục, bất công trong xã hội phong kiến.

Phân tích Mời trầu mẫu số 2

Bài thơ Mời trầu là một bài thơ đặc sắc của Hồ Xuân Hương. Bài thơ đã thể hiện thành công khát khao hạnh phúc của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

Ngay từ hai câu đề, Hồ Xuân Hương đã giới thiệu hình ảnh trầu cau, một hình ảnh quen thuộc trong văn hóa Việt Nam.

"Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi"

Hình ảnh trầu cau được miêu tả theo lối ước lệ tượng trưng: quả cau là biểu tượng của người nam, miếng trầu là biểu tượng của người nữ. Hai câu thơ này đã gợi lên tâm trạng cô đơn, lẻ loi của người phụ nữ. Cái "nho nhỏ" của quả cau như gợi lên hình ảnh một người đàn ông nhỏ bé, không đủ sức che chở cho người phụ nữ. Cái "hôi" của miếng trầu như gợi lên sự hờ hững, lạnh nhạt của người đàn ông.

"Này của Xuân Hương mới quệt rồi"

Câu thực thể hiện tâm trạng khao khát được yêu thương, hạnh phúc của người phụ nữ. "Của Xuân Hương" là của cải, vật chất của người phụ nữ. Bà không hề dịu dàng, mà mạnh mẽ quả quyết khẳng định chủ quyền của mình với miếng trầu vừa được mời kia. Bà đã quyệt vôi vào đấy rồi, bà đã có ý định ăn miếng đó rồi nên nó là của Xuân Hương đấy. Một câu thơ nghe như là một lời tuyên bố thẳng thừng. Đồng thời vừa cảnh cáo những kẻ le ve xung quanh đừng có mà nhăm nhe đồ của Xuân Hương nữa. Đồng thời qua đó, bà cũng muốn nhắc nhở thế gian, Hồ Xuân Hương là người phụ nữ đã trải đời nhiều rồi nên bà không e dè, cũng không sợ hãi để luồn cúi. Dù xã hội có thối nát đến đâu thì bà vẫn sẽ giữ mãi những nét riêng của bà, những điều thuộc về bà.

"Có phải duyên nhau thì thắm lại"

Câu luận thể hiện lời mời trầu của người phụ nữ. Lời mời trầu của người phụ nữ là một cách bày tỏ tình cảm của mình. Người phụ nữ mong muốn tìm được một người tri kỉ, gắn bó trọn đời. Ở đây, tác giả không ngần ngại hỏi đối phương “có phải duyên nhau”. Mặc dù là nữ giới, nhưng tác giả đã chủ động để tìm kiếm tình yêu. Xuân Hương không ngồi chờ đợi để cha mẹ đặt đâu ngồi đấy, mà tự mình tìm kiếm, quyết định hạnh phúc lứa đôi. Tác giả không sợ mang tiếng là con gái mà “cọc đi tìm trâu”. Thi sĩ chỉ biết rằng, nếu đã phải duyên nhau thì nên thắm lại, đừng dùng dằng mà khiến hai bên đau khổ.

"Đừng xanh như lá bạc như vôi"

Câu thơ kết thể hiện lời thề ước của người phụ nữ. Lời thề ước của người phụ nữ thể hiện khát khao tình yêu bền vững, thủy chung. Người phụ nữ mong muốn tìm được một tình yêu chân thành, không thay đổi theo thời gian. Bạc ở đây là bạc tình bạc nghĩa. Bà ý nói những người có duyên với nhau rồi thì hãy biết trân trọng, hãy thắm thiết chứ đừng nhạt nhòa non nớt như màu xanh của lá, đừng phụ bạc lẫn nhau để rồi mà đau khổ. Màu xanh của lá, màu trắng của vôi vốn là màu đẹp của tự nhiên. Thế nhưng qua con mắt của “bà chúa thơ Nôm” nó trở nên thật thâm thúy.

Bài thơ "Mời trầu" được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, là một bài thơ giàu giá trị nội dung và nghệ thuật. Bài thơ đã thể hiện thành công khát khao hạnh phúc của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Bài thơ là tiếng nói tâm tình của Hồ Xuân Hương, đồng thời cũng là tiếng nói của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

Phân tích Mời trầu mẫu số 3

Hồ Xuân Hương là nhà thơ nổi tiếng cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX. Ở giai đoạn lịch sử này, chế độ phong kiến suy tàn đã bộc lộ những hạn chế, bất công. Hồ Xuân Hương đã gửi gắm vào thơ những suy tư, trăn trở trước hiện thực của xã hội, trước thân phận bất hạnh của con người, nhất là người phụ nữ. Những tác phẩm thơ Nôm tiêu biểu của bà thời kì này không thể không kể đến bài thơ “Mời trầu”.

Mời trầu cũng như nhiều bài thơ khác của Hồ Xuân Hương thuộc thể tuyệt cú cổ điển. Đấy là một thể Đường luật thi, một thứ văn chương bác học. Nhưng đọc “Mời trầu” không ai có ý nghĩ đây là bài thơ Đường du nhập từ Trung Quốc vào qua những nhà trí thức Hán học. Có một cái gì thật là nôm na dân dã ở lời thơ hết sức bình dị và giọng điệu mộc mạc.

Hình ảnh miếng trầu đã mang đến cho chúng ta những liên tưởng về miếng trầu truyền thống gắn liền với những niềm vui như đám cưới, nó cũng gắn liền với những giá trị đạo đức tốt đẹp của con người Việt Nam trong sự tích trầu cau. Còn ở đây thì sao? Miếng trầu ấy thể hiện được nỗi lòng Xuân Hương khao khát có một tình yêu thật sự, một hạnh phúc vợ chồng đời thường êm ấm, nồng đượm.

Trước hết hai câu thơ đầu nhà thơ nói về miếng trầu ấy và chủ nhân làm ra miếng trầu ấy chính là Xuân Hương:

“Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi

Này của Xuân Hương mới quệt rồi”

Quả cau và lá trầu là hai thứ đi liền với nhau để làm nên một miếng trầu. Hình ảnh những miếng trầu têm xanh ngắt cánh phượng mới đẹp làm sao. Quả cau thì nho nhỏ gợi lên cái hình ảnh nhỏ bé của miếng trầu nhưng lại rất đẹp. Sự nhỏ bé ấy hay cũng chính là sự nhỏ bé của thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa. Miếng trầu hôi không phải là nó có mùi hôi mà do lá trầu cay nên nói như thế. Hình ảnh miếng trầu có ngàn năm tuổi như thể hiện cho nguyện ước khát khao lứa đôi của bà chúa thơ Nôm. Người sở hữu miếng trầu ấy chính là nhà thơ. Từ “này” thể hiện được tiếng mời, tiếng xưng danh của Xuân Hương. Miếng trầu ấy mới quệt xong, nó vẫn còn tươi xanh, ngọt bùi lắm. Miếng trầu của Xuân Hương không khác gì miếng trầu bình thường khác về hình thức nhưng miếng trầu ấy chất chứa biết bao nhiêu là tâm sự là nỗi lòng của người con gái kia. Đó chính là miếng trầu của lòng khao khát hạnh phúc lứa đôi của thi sĩ.

Thế nhưng, sau tấm chân tình gần như bình thản ấy là một giọng nói nhẹ nhàng chất chứa bao cảm xúc, bao nỗi niềm.

“Có phải duyên nhau thì thắm lại

Đừng xanh như lá, bạc như vôi”.

Hồ Xuân Hương đưa ra một câu hỏi vừa đưa ra một yêu cầu: “Có phải duyên nhau thì thắm lại”. Từ “thắm” sử dụng rất đắt. “Duyên” theo quan niệm dân gian là sự ràng buộc lẫn nhau từ kiếp trước đến kiếp này, Hồ Xuân Hương muốn nói đến cái duyên ấy. Hai câu thơ đầu nói về chuyện ăn trầu, hai câu cuối chuyển sang chuyện duyên số, chuyện con người vậy mà ý thơ vẫn liền mạch, không gò bó chứng tỏ tài dùng ẩn dụ của nhà thơ đến mức tuyệt vời. Nhà thơ còn vận dụng thành ngữ, tục ngữ trong câu kết làm cho ý thơ thật đặc sắc.

Bài thơ không chỉ đơn giản nói về duyên trầu mà Hồ Xuân Hương đã nói đến duyên phận của con người, của người phụ nữ thời phong kiến. Cái duyên ấy bấp bênh bạc bẽo như vôi. Như trong một số bài khác bà có nhắc nhiều đến duyên phận của người phụ nữ "thân em vừa trắng lại vừa tròn - bảy nổi ba chìm với nước non” (Bánh trôi nước). Qua đó gợi lòng thương cảm tới những con người có niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi, một tình yêu son sắt thủy chung.

Với ngôn từ giản dị, giàu ý nghĩa, bài thơ “Mời trầu” như bao quát chuyện tình duyên lận đận của tác giả. Bà luôn khao khát sống với hạnh phúc lứa đôi. Đó là một tình cảm thật sự chứ không phải là thứ tình cảm vợ lẽ, chính vì thế mà ta cảm thấy yêu quý hơn người phụ nữ tài ba ấy.

Phân tích Mời trầu mẫu số 4

Thi sĩ Hồ Xuân Hương không chỉ được nhắc đến với vẻ ngoài xinh đẹp, tính cách trẻ trung, phóng khoáng mà còn gọi bà với cái tên “bà chúa thơ Nôm”. Bà là nhà thơ nổi tiếng cuối thế kỉ 18, đầu thế kỉ 19 với những lời thơ thấm đẫm suy tư, trăn trở trước những bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa suy tàn, độc đoán. Bài thơ “Mời trầu” là một trong những bài thơ nổi bật cho phong cách sáng tác của bà.

Bài thơ thuộc thể thơ thất ngôn tứ tuyệt cổ điển. Hình ảnh miếng trầu trong thơ của Hồ Xuân Hương không chỉ là một vật dụng thông thường mà còn mang nhiều ý nghĩa sâu sắc. Trong văn hóa Việt Nam, miếng trầu được xem là "đầu câu chuyện". Nó là hình thức giao tiếp thể hiện sự hiếu khách, thân thiện của người Việt. Khi có khách đến nhà, chủ nhà sẽ mời khách ăn miếng trầu trước khi bắt đầu câu chuyện. Miếng trầu cũng là biểu tượng của sự thủy chung, son sắt trong hôn nhân. Trong sự tích trầu cau, trầu và cau là hình ảnh của vợ chồng, gắn bó khăng khít bên nhau.

Hai cầu thơ đầu tiên trực tiếp miêu tả hình ảnh quả cau, miếng trầu:

“Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi

Này của Xuân Hương mới quệt rồi”

Quả cau nhỏ nhỏ tạo thành miếng trầu hôi. Quả cau nhỏ chính là số phận của người phụ nữ nhỏ bé, bị đè nén, chà đạp dưới xã hội phong kiến đầy oan trái, bất công. Thay vì nói rằng miếng trầu xanh ngắt thì Hồ Xuân Hương lại là “miếng trầu hôi”, phải chăng đó là lòng xót thương của bà với số phận của người phụ nữ, cũng chính là xót thương cho số phận bèo trôi của mình. Từ “này” cho ta thấy miếng trầu chua xót đó là của bà, bà dịu dàng nhưng cũng quả quyết, thẳng thừng khẳng định chủ quyền riêng của mình. Miếng trầu “mới quệt” chứng tỏ nó còn xanh lắm, bùi lắm. Thế nhưng nó không phải miếng trầu bình thường là miếng trầu này chất chứa bao nỗi niềm thầm kín của người con gái phải gồng lên mạnh mẽ trước số phận hẩm hiu.

Thế nhưng, mạnh mẽ đến đâu thì không thể không có những lúc yếu mềm. Hai câu thơ còn lại bộc lộ nỗi niềm xúc động, dạt dào cảm xúc của bà:

“Có phải duyên nhau thì thắm lại

Đừng xanh như lá, bạc như vôi”.

Theo câu chuyện dân gian xưa, khi đôi lứa mời nhau miếng trầu, đôi môi sẽ đỏ thắm lên đồng nghĩa với việc tơ duyên ấy đã thành. Hồ Xuân Hương không ngần ngại hỏi rằng: “Có phải duyên nhau thì thắm lại”. Đường đường là phận nữ nhi nhưng với tâm hồn phóng khoáng, bà chủ động đi tìm tình yêu của cuộc đời, bà tự se duyên cho chính mình. Thấu hiểu tình người, thi sĩ biết rằng nếu đã gặp “duyên” thì nên “thắm lại”, nhưng cũng đừng vì một phút đắm say mà khiến cả hai lâm vào đau khổ. Màu xanh của lá trầu với màu trắng nõn nà của vôi vốn là sự kết hợp đẹp đẽ, hoàn hảo nhưng trong mắt “bà chúa thơ Nôm”, màu sắc đó ẩn chứa ý nghĩa sâu sắc. Ý của bà rằng nếu đã nguyện cùng nhau se mối duyên này thì hãy biết trân trọng, vun đắp. Đừng để tình yêu nhạt nhòa dần theo năm tháng giống như màu xanh non nớt của lá trầu, đừng phụ tình, bạc bẽo với nhau như màu của vôi.

Chắc hẳn Hồ Xuân Hương phải trải đời lắm nên mới có được cái nhìn đa chiều với vạn vật, sự việc được như vậy. Cũng chính nhờ bà mà hình ảnh bánh trôi nước cũng được nhân hóa lên với thân phận bi thương của người phụ nữ “Ba chìm bảy nổi với nước non” (Bánh trôi nước). Đó không chỉ thể hiện khát vọng về tình yêu đôi lứa mà còn chứa đựng kinh nghiệm, bài học thâm thúy về tình yêu.

Với lời thơ dịu dàng, giản dị, bài thơ “Mời trầu” khiến ta thêm khâm phục tài làm thơ, đối chữ của bà mà còn cảm nhận được thi vị của tình yêu qua khát khao sống với hạnh phúc đôi lứa. Bởi Hồ Xuân Hương với đường tình duyên trắc trở và sự cảm thông sâu sắc với số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Bà thấy bất công, luyến tiếc khi phận nữ nhi yếu thế không thể xoay chuyển thời thế, vì vậy bà gửi gắm vào trong những lời thơ để tự khẳng định bản thân, cổ vũ chính mình cũng như cổ vũ cho phái đẹp tiến tới tình yêu hạnh phúc, phê phán thứ tình yêu rẻ tiền, bạc bẽo ở đời. Điều đó làm cho chúng ta càng thêm yêu mến người phụ nữ tài ba, “hồng nhan bạc phận”.

Phân tích Mời trầu mẫu số 5

Thông thường, những tác phẩm có tư tưởng lớn đều có hình thức mang tầm vóc lớn, đề tài cũng lớn. Những tác phẩm lấy đề tài nhỏ bé, hình thức xinh xắn chỉ đủ sức chứa đựng một tư tưởng quẩn quanh với cuộc sống sinh hoạt đời thường. Tuy nhiên, văn học cũng không hiếm những nghịch lý, làm nên sự kỳ diệu của nó. Đó là trường hợp những bài thơ đề tài nhỏ bé, hình thức xinh xắn nhưng chứa đựng những tư tưởng lớn, phá vỡ cái chật hẹp, ràng rịt của tư tưởng cũ kỹ, hà khắc; nâng niu một khát vọng mãnh liệt, chân thành. Bài thơ Mời trầu của Hồ Xuân Hương là một điển hình như vậy:

“Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá, bạc như vôi”

Bài thơ ra đời vào những thập niên cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX. Cảm thức thẩm mỹ bấy giờ thường trọng vọng những bài Đường luật đạo mạo, cổ kính, với thứ chữ Hán được điểm tô lộng lẫy bằng vô số điển tích ngoại lai. Vậy mà Mời trầu, vẫn khuôn khổ một thất ngôn tứ tuyệt, nhưng vóc dáng đường hoàng là chữ Nôm, hồn dân tộc. Thứ chữ “nôm na mách qué” đó đã tạo một tầm vóc trẻ, sừng sững trên văn đàn, mang theo sinh khí của văn hóa dân gian Việt nam: ca dao, tục ngữ, thành ngữ,…

Thời đại này, các nho sĩ hầu hết là nam giới. Tài tử, văn nhân hầu hết là đấng “tu mi” ngâm hoa vịnh nguyệt, cố teo tóp cái bản ngã, để hòa tan, trộn lẫn vào “cái ta” nhợt nhạt, vô hồn. Vậy mà, trong lúc đó, tác giả của Mời trầu lại là nữ giới – một phụ nữ dám tung hê, bóc trần cái “hoa nguyệt” giả dối, phù phiếm. Nữ sĩ còn dám đường hoàng xưng “tôi”, “cái tôi” làm kinh ngạc, ngã ngửa bao đấng tu mi, những bậc “hiền nhân quân tử”.

Bài thơ thật xinh xắn, chỉ hai mươi tám chữ. Đề tài lại nhỏ bé, chuyện mời trầu. Tưởng gì, “miếng trầu là đầu câu chuyện”. Từ thuở xa xưa, người Việt đã có tục ăn trầu. Người Việt vốn hiếu khách, lại hay giao tiếp, chuyện mời trầu nhau có gì đáng nói? Nhưng ngờ đâu, một tứ thơ lớn đã ẩn sau đề tài nhỏ bé ấy. Miếng trầu là vật để giao tiếp, đãi bôi . Nhưng miếng trầu còn là sự thắm đỏ của nghĩa tình, là sứ giả của tình yêu, là chứng nhân của tình chồng vợ:

“Trầu này trầu nghĩa, trầu tình
Cho loan lấy phượng, cho mình lấy ta”

Hay là:

“Có trầu mà chẳng có cau
Làm sao cho đỏ môi nhau thì làm”

Vậy, mời trầu ở đây đâu chỉ là hình thức giao tiếp. Mời trầu kỳ thực là mời tình. Nói đến tình là nói đến cõi tế vi, kỳ diệu của tâm hồn, của trái tim rồi! Mà chuyện tình, trong xã hội phong kiến, đâu phải là đề tài nhàn đàm lúc trà dư tửu hậu. Ở một góc nào đó, nó còn là điều cấm kỵ đối với các bậc mũ cao, áo dài. Đàn bà lại càng không được nói đến. Quyền mời trầu chỉ có ở đàn ông:

“Ra đường bác mẹ dặn rằng
Làm thân con gái chớ ăn trầu người”

Thế mà, kinh khủng chưa, trong bài thơ này, người mời trầu lại là nữ giới, chẳng thèm che mạng cúi đầu. Cái lớn của bài thơ đã nằm ngay ở tư thế của chủ thể trữ tình rồi! Tinh thần phá vỡ định kiến “thâm căn cố đế” đã nằm ngay ở cách đặt tựa đề và đề tài rồi!

Tuy nhiên, tiếng nói có sức mạnh phá vỡ ấy lại không hề “đao to búa lớn ”. Nó nhỏ nhẹ, ân cần, nồng nhiệt mà da diết, lắng sâu. Nó là một âm sắc trầm ấm của tiếng thơ táo bạo Hồ Xuân Hương.

Chúng ta thử xem nhà thơ mời trầu như thế nào:

“Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi”

Chẳng cần một buồng cau trả ơn, chẳng màng trầu têm cánh phượng dâng mời hoàng tử, người phụ nữ chỉ có “quả cau nho nhỏ”. Hẳn là ở đây, Xuân Hương đã hái một quả từ buồng cau dân gian rồi: “Quả cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân”,… Từ láy “nho nhỏ" còn gợi một ảnh hình xinh xắn, dễ thương. Quả cau nhỏ, chắc hẳn bổ ra thành những miếng cau thanh. Đâu cần nhiều, bởi Xuân Hương đâu phải mời bọn phàm phu, tục tử. Lại kèm với quả cau là “miếng trầu hôi”. Đâu rồi trầu quế, trầu thơm? Cớ sao lại chọn miếng trầu tầm thường, chẳng thơm, chẳng ngon mấy để mời? Có lẽ cũng chẳng phải là chọn, vì người phụ nữ có chi mời nấy, cốt yếu là mời bằng tấm lòng thành thực, với những cái vốn có của mình. Vả lại, người sâu sắc đâu dại gì đem cái sang trọng, đắt tiền để mời tình. Kẻ vụ lợi sẽ bị cái hào nhoáng, sang cả làm mờ mắt đi, cứ thế mà nhảy bổ vào cuộc tình. Tác giả của miếng trầu hôi, cũng như chủ thể trữ tình trong bài thơ, là phụ nữ từng trải, sâu sắc, nên thành ý ấy, dụng ý ấy, không chắc là không có.

Miếng trầu mời thật dân dã, tự nhiên, gợi cảm, chân thành, nhưng cách mời mới thật nồng nhiệt làm sao:

“Này của Xuân Hương mới quệt rồi”

Xã hội phong kiến đâu chấp nhận “cái tôi” với lời xưng trực tiếp như vậy. Thế mà, người phụ nữ ở đây lại dám tin vào chính mình, tự thừa nhận tấm tình của riêng cá nhân mình. Đã vậy, trầu vừa quệt là mời ngay. Hành động “mới quệt” hết sức khiêm tốn và chân thành. Miếng trầu có thể không khéo léo cách têm nhưng là cả sự nồng hậu, chào mời. Người phụ nữ mang tên hương – mùa – xuân quả thật hết sức khát khao nghĩa tình giữa con người với nhau trong cuộc sống. Tấm lòng ấy đã chủ động trao tặng cho người sự chân thành, thắm thiết.

Nếu như hai câu trên, giọng thơ thật chân thành, nồng nhiệt, vồn vã, đầy khát khao thì ở hai câu sau, giọng thơ lại chuyển sang trầm lắng, đầy trăn trở, ưu tư:

“Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá, bạc như vôi”

Hai câu thơ đầy màu sắc, đó là “xanh” của lá, “bạc” của vôi, pha trộn lại thì bạc và xanh đã hóa thành “thắm” rồi. “Thắm” là màu đỏ tươi của miếng trầu, mà cũng là thắm thiết, thắm tình – sắc màu của sự gắn bó, hòa hợp, chung tình. Nhà thơ đã khai thác tài tình ý nghĩa tượng trưng của màu sắc. Cái lá trầu và ít vôi, ăn chung với nhau thì ra sắc thắm, “thắm lại”. Nhưng tách riêng thì chỉ còn rời rã một màu xanh non nớt, lạnh lùng, chỉ còn màu bạc của sự bạc bẽo, bội bạc, hai lòng. Buồn thay cho sự chia lìa, bội bạc! Niềm khao khát ở đây sao mà ưu tư và buồn thấm thía.

Đã vậy, những từ ngữ “có phải… thì… đừng … như…” chẳng khác con dao bổ cau, cứa vào lòng, cứa vào trái tim vốn quen đập với nhịp chân thật, chung tình. Nghệ thuật so sánh cuối bài thơ được hái từ giàn trầu thành ngữ Việt Nam: “xanh như lá, bạc như vôi”. Ý thơ gợi ra một khát vọng đầy ưu tư, khắc khoải của một tâm hồn đã ít nhiều nếm trải dư vị chua chát, đắng cay của sự lạnh lùng, giả dối. Ngẫm lại cuộc đời, tâm sự của Hồ Xuân Hương, sao thấy bài thơ như là thân phận, số phận – đầy éo le, dở dang, trăn trở. Biết bao giờ, biết ai người sẽ “phải duyên nhau"

Cả bài thơ chính là một thông điệp gói trọn tâm tình, khát khao nồng thắm của một phụ nữ đa tài, tấm lòng rộng mở và muốn được vẹn tình. Tâm tình ấy, khát vọng ấy đã vang lên, trong trẻo và mạnh mẽ, mạnh dạn phá bỏ những định kiến tàn nhẫn, u ám của thời đại. Đó là tín hiệu đẹp cho sự đâm chồi, nảy tược của một ý thức cá nhân, của tinh thần đấu tranh đòi hạnh phúc cho người phụ nữ. Chắc rằng, tiếng vọng mời trầu của Hồ Xuân Hương đã băng qua thời gian, lay chuyển biết bao tâm hồn xanh xao, bạc bẽo tìm đến với nhau trong một tình yêu chân thật, hòa hợp, chung tình.

-/-

Các em vừa tham khảo một số gợi ý, mẫu dàn ý và bài văn mẫu tham khảo phân tích bài thơ Mời trầu của Hồ Xuân Hương. Hi vọng, bài viết đã giúp các em đã có những ý tưởng hay cho nội dung bài phân tích của mình. Tham khảo thêm các bài văn hay khác tại mục tài liệu Văn mẫu 8 do Đọc Tài Liệu sưu tầm và biên soạn để tự rèn luyện kỹ năng làm văn phân tích. Chúc các em học tốt!

Bạn còn vấn đề gì băn khoăn?
Vui lòng cung cấp thêm thông tin để chúng tôi giúp bạn
Hủy

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM