Phân tích bài thơ Đi đường (Tẩu lộ) của Hồ Chí Minh

Xuất bản: 15/05/2019 - Cập nhật: 20/03/2024 - Tác giả:

Hướng dẫn phân tích bài thơ Đi đường, lập dàn ý chi tiết, sơ đồ tư duy và top 5+ bài văn hay phân tích nội dung bài thơ Đi đường (Tẩu lộ) của Hồ Chí Minh.

Tài liệu hướng dẫn phân tích bài thơ Đi đường gồm những gợi ý chi tiết phân tích đề, lập dàn ý và tuyển chọn những bài văn mẫu hay phân tích nội dung, nghệ thuật của bài thơ Đi đường (Tẩu lộ) của tác giả Hồ Chí Minh.

Hướng dẫn phân tích bài thơ Đi đường (Tẩu lộ)

Đề bài: Phân tích bài thơ Đi Đường (Tẩu lộ) của Hồ Chí Minh.

1. Phân tích đề

- Yêu cầu về nội dung: phân tích nội dung, nghệ thuật bài thơ Đi đường.

- Đối tượng, phạm vi dẫn chứng: các câu thơ, từ ngữ, chi tiết tiêu biểu trong bài thơ Đi đường của Hồ Chí Minh.

- Phương pháp lập luận chính: Phân tích.

2. Luận điểm bài văn phân tích Đi đường

- Luận điểm 1: Hành trình đi đường núi gian lao.

- Luận điểm 2: Niềm vui sướng khi được đứng trên đỉnh cao của chiến thắng.

3. Sơ đồ tư duy phân tích bài Đi đường

Sơ đồ tư duy phân tích bài thơ Đi đường (Tẩu lộ)

Lập dàn ý chi tiết phân tích bài thơ Đi đường

1. Mở bài

- Giới thiệu vài nét về tác giả Hồ Chí Minh:

+ Hồ Chí Minh (1890 - 1969) là vị lãnh tụ tài ba vĩ đại, một nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới.

- Giới thiệu khái quát bài thơ Đi đường (Tẩu lộ):

+ Đi đường là một trong những bài thơ thể hiện phẩm chất, tinh thần lạc quan của Hồ Chí Minh, ghi lại những lần Bác di chuyển giữa các nhà lao ở Quảng Tây.

2. Thân bài

a) Khái quát hoàn cảnh sáng tác:

- Tháng 8 năm 1942, Nguyễn Ái Quốc vượt biên giới sang Trung Quốc để liên hệ với cách mạng và các lực lượng chống Nhật ở Trung Quốc. Bác đến thị trấn Túc Vinh thì bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt.

- Trong thời gian mười bốn tháng bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam cầm trái phép, Bác Hồ thường xuyên bị giải từ nhà lao này đến nhà lao khác khắp mười ba huyện của tỉnh Quảng Tây. Tay bị cùm, chân bị xích, đi trong sương gió lạnh buốt thấu xương hay trong nắng trưa đổ lửa. Vượt dốc, băng đèo, lội suối... với những khó khăn thử thách nhiều lúc tưởng quá sức chịu đựng của con người.

- Từ thực tế đó, tác giả đã khái quát thành chuyện "Đi đường" nói chung.

b) Hành trình đi đường núi gian lao (2 câu đầu)

- "đi đường - gian lao" -> cách nói trực tiếp nhằm nhấn mạnh việc đi đường rất gian lao khổ cực, chỉ khi bản thân từng trải nghiệm, thực hành qua mới cảm nhận được hết sự vất vả đó.

- Điệp từ “núi cao”: sự khúc khuỷu, trùng điệp, nối tiếp nhau của những ngọn núi. -> ý chỉ những khó khăn gian khổ, những chông gai mà người tù phải trải qua.

=> Có rất nhiều núi cao, hết núi cao này lại đến núi cao khác, cũng giống như những khó khăn trong cuộc sống không bao giờ giảm đi mà trái lại còn tăng cấp.

c) Niềm vui sướng khi được đứng trên đỉnh cao của chiến thắng (2 câu cuối)

- “lên đến tận cùng”: chinh phục được độ cao của núi

-> Niềm vui khi vượt qua khó khăn để lên đến tận cùng đỉnh núi.

=> Mọi gian khổ rồi sẽ kết thúc, mọi khó khăn sẽ lùi về sau.

- “thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”: người đi đường đứng trên đỉnh núi có thể tự do đứng ngắm nhìn mọi cảnh vật bên dưới, ngắm lại những gì mình đã trải qua.

-> Phong thái ung dung làm chủ thiên nhiên, hòa mình vào vũ trụ bao la, rộng lớn.

=> Nghị lực, phong thái lạc quan, yêu đời của người chiến sĩ cộng sản trên đỉnh cao của chiến thắng, dù đó là con đường đầy ải, chân tay bị trói buộc bởi xiềng, xích.

=> Từ việc đi đường, bài thơ khẳng định một chân lí đường đời đó là: vượt qua được gian lao sẽ đến được đỉnh cao của chiến thắng.

d) Đặc sắc nghệ thuật

- Thể thơ tứ tuyệt giản dị, hàm súc

- Liên tưởng sâu sắc, thể hiện tư tưởng của tác giả.

- Kết cấu chặt chẽ

- Giọng điệu thơ biến đổi linh hoạt

- Hình ảnh sinh động, giàu ý nghĩa.

- Sử dụng nghệ thuật ẩn dụ, từ việc đi đường để khái quát lên một chân lí trong cuộc sống

3. Kết bài

- Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ.

- Liên hệ ý nghĩa của bài thơ với thế hệ trẻ hiện nay.

>>> Tham khảo thêm hướng dẫn soạn bài Đi đường để có thêm những luận cứ, dẫn chứng cụ thể hơn cho bài phân tích.

7+ mẫu phân tích bài thơ Đi Đường hay đặc sắc (tham khảo)

Phân tích Đi đường Bài số 1

Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vô cùng kính yêu của dân tộc Việt Nam ta. Người không chỉ là một nhà cách mạng xuất sắc mà còn đồng thời là một thi nhân vô cùng tài ba. Sinh thời, sự nghiệp sáng tác của Người cũng vô cùng đồ sộ, trong đó nổi bật nhất là tập thơ "Nhật kí trong tù". Tập thơ gồm hai mươi bài thơ, là những tác phẩm được Người hoàn thành trong khi bị giam giữ ở nhà ngục Tưởng Giới Thạch. Trong số đó, "Đi đường" (Tẩu lộ) là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất, ca ngợi hình ảnh của người chiến sĩ Cách mạng trong gian lao.

Bài thơ ra đời trong một hoàn cảnh vô cùng đặc biệt, đó là khi Hồ Chí Minh bị bắt bớ, tù đày ở nhà tù Tưởng Giới Thạch và phải di chuyển hết từ nhà lao này sang nhà lao khác. Trong tình thế ấy, khó khăn, vất vả, gian lao đều có thể làm chùn bước chân của người tù nhưng với tấm lòng yêu đời, ý chí chiến đấu mạnh mẽ, không những không chịu khuất phục, Người còn dùng những lời thơ của mình ghi lại chân thực hoàn cảnh gian khổ đồng thời thôi thúc ý chí của mình. Bác muốn qua đó thể hiện chân dung ý chí bất khuất của một người tù Cách mạng dù trong hoàn cảnh khó khăn, và cũng để nêu lên triết lý muôn đời rằng: Vượt qua hết gian lao thử thách, chắc chắn sẽ đi tới được thắng lợi vẻ vang.

Vẫn là thể thơ Đường thất ngôn tứ tuyệt Người ưa thích, Hồ Chí Minh đã vẽ lên bức tranh hiện thực cùng bức tranh tinh thần của mình trong những lần chuyển lao bằng bài thơ "Đi đường":

"Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan
Trùng san chi ngoại hựu trùng san
Trùng san đăng đáo cao phong hậu
Vạn lý dư đồ cố miện gian"

Dịch thơ:

"Đi đường mới biết gian lao
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng
Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non"

Câu đầu của bài thơ mở ra như một lời nhận xét, một lời chiêm nghiệm từ thực tế cuộc sống:

"Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan"

(Đi đường mới biết gian lao)

Để rút ra được sự chiêm nghiệm, chân lý này, hẳn Người đã phải trải qua biết bao gian khó, biết bao cung đường trong những lần chuyển trại, chuyển lao. Bao lần bị giặc đày ải từ nhà tù này sang nhà tù khác, điều đó đã khiến Bác có được sự thấu hiểu về nỗi gian lao trong mỗi bước chân. Mỗi lần bước đi, xiềng xích, gông cùm kéo lê bước chân người tù Cách mạng khiến cho Người càng thấy khó nhọc hơn bội phần. Thấm thía được điều đó, Người đã viết lên câu thơ mở đầu bài thơ "Tẩu lộ" của mình. Đọc lên, chúng ta cảm thấy thật thấm thía biết bao, thấm thía cái gian lao ngấm trong từ câu chữ. Hai từ "tẩu lộ" được lặp lại liên tiếp trong cùng một câu thơ phải chăng đó là sự nhấn mạnh của Bác về những cung đường chuyển lao dài bất tận, khó khăn chồng chất, làm Người suy kiệt cả thể chất lẫn tinh thần.

Chỉ với một câu thơ thất ngôn ngắn ngủi, Hồ Chí Minh đã vẽ lại cho chúng ta hình ảnh của một người tù đang vất vả lê từng bước chân trên chặng đường gập ghềnh trong những lần chuyển lao, những khó khăn, cũng như những kinh nghiệm được đúc rút ra từ những chặng đường dài đó. Và cũng là để nhắn nhủ với chúng ta rằng: Trong cuộc sống, phải bắt tay vào công việc, phải "tẩu lộ" mới thấu hiểu được những mệt mỏi trong công việc ấy.

Câu thơ đầu vang lên đã khiến cho người đọc chúng ta không khỏi bồi hồi, xúc động về những vất vả mà Người đã phải chịu đựng chốn ngục tù ấy. Vậy mà câu thơ thứ hai khi đọc lên, càng khiến chúng ta thêm thấu hiểu những khó khăn ấy khi mà:

"Trùng san chi ngoại hựu trùng san"

(Núi cao rồi lại núi cao trập trùng)

Trên bước đường chuyển lao ấy, Bác không chỉ phải "ăn gió tắm sương" mà Người còn phải băng rừng, vượt suối, trải qua bao khó khăn trên bước đường gập ghềnh. Nhưng những vất vả ấy chẳng thấm vào đâu so với những lần vượt đèo vượt núi. Với đôi chân mang gông cùm, Người phải lê chân trèo lên những đỉnh núi cao, không chỉ một mà là hết ngọn núi này đến ngọn núi khác cứ liên tiếp nối nhau trước mắt Người. "Trùng san" (núi cao), từng ngọn cứ liên tiếp "chi ngoại hựu trùng san". Điệp từ "trùng san" được lặp lại trong câu, một đứng đầu, một đứng cuối khiến cho chúng ta khi đọc lên có cảm tưởng từng ngọn núi cứ dập dềnh liên tiếp trước mắt, tưởng như là bất tận, liên hồi.

Khách bộ hành thông thường khi đi đã thấy khó nhọc, vậy mà Bác Hồ của chúng ta chân mang xiềng xích, gông cùm trên vai lại phải vượt hết chặng đường gập ghềnh này đến chặng đường gập ghềnh khác, vượt hết núi này tới núi khác, quả thật, gian lao, khó nhọc vô cùng. Phải chăng những đỉnh núi cao liên tiếp, những gập ghềnh khó nhọc mà Người đang đi cũng là biểu tượng cho những khó khăn mà Cách mạng đang gặp phải? Những khó khăn, thử thách ấy đang đòi hỏi một người Cách mạng có ý chí kiên cường để vượt qua mà mang lại thắng lợi vẻ vang?

Khép lại hai câu thơ đầu, người đọc chúng ta chỉ thấy hiện lên trước mắt mình những con đường dài gập ghềnh, những đỉnh núi nhấp nhô, nối nhau dài bất tận. Con đường của người tù Cách mạng Hồ Chí Minh trong những lần chuyển lao ở nhà tù Tưởng Giới Thạch thật khó khăn, vất vả đến khốn cùng. Phải chăng, những khó khăn ấy mà Bác nói đến, những đỉnh núi cao, những gian lao khi đi đường là những thử thách của cuộc đời dành cho ý chí của người tù nhân Cách mạng giàu lòng yêu nước trước thành công cuối cùng?

Bước sang hai câu thơ cuối, vẫn là hình ảnh của núi non nhưng câu thơ lại mang một sắc thái thật khác lạ. Nếu như trong hai câu thơ đầu tiên, người ta thấy trong đó là những khó khăn, gian lao, là những chiêm nghiệm về cuộc đời của người tù Cách mạng Hồ Chí Minh, thì ở trong câu thơ này, chúng ta lại nhận ra được một hương vị thật khác:

"Trùng san đăng đáo cao phong hậu

Vạn lý dư đồ cố miện gian"

Dịch thơ:

Núi cao lên đến tận cùng

Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non

Hình ảnh núi non vẫn hiện lên sừng sững, nhưng lại chẳng thể ngăn bước chân của người Cách mạng với ý chí quyết tâm kiên cường, quyết tâm chinh phục cả đỉnh núi cao nhất. Nhịp thơ ở đây nghe thật nhanh, thật mạnh, thoảng trong đó là tiếng thở thật dồn dập của người tù khi đang cố bước thật nhanh lên đỉnh núi. Sự khẩn trương ấy lan ra toàn câu thơ, mỗi từ lại càng thêm mạnh, thêm khẩn trương, dồn dập hơn nữa:

"Trùng san đăng đáo cao phong hậu"

(Núi cao lên đến tận cùng)

Đọc câu thơ đến cuối, người ta thấy phảng phất trong nhịp thơ là niềm hạnh phúc, xốn xang khi đã chinh phục được "tận cùng" của "núi cao". Để đến câu thơ cuối cùng, người tù ấy thở một cái thật mạnh, sảng khoái vô cùng:

"Vạn lý dư đồ cố miện gian"

(Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non)

Ở câu thơ thứ ba, người đọc dường như thấy tiếng thở dồn dập của Người, khi ấy liệu ai trong chúng ta không khỏi băn khoăn tự hỏi liệu Người đã đến được đỉnh núi hay chưa, Người đã bước được đến "tận cùng" hay chưa,...? Để đến khi câu thơ thứ tư thốt ra nhẹ nhõm như một tiếng thở, thì người đọc chúng ta cũng nhẹ nhàng, khoan khoái tới lạ thường. Lên được tận cao "tận cùng" của đỉnh núi, mở ra trước tầm mắt của chúng ta là cả một không gian to lớn, rộng mênh mông, bát ngát của "muôn trùng nước non".

Nếu trong hai câu thơ đầu, đọc thơ, người đọc như cảm thấy sự vất vả, gian khó, một tâm trạng mang nặng suy tư của Hồ Chí Minh thì hai câu cuối, tình thế đã thay đổi thật nhanh chóng, tâm trạng cũng mang một màu vui vẻ khác thường. Từ tư thế của một người tù đang trong cảnh đày đọa, Hồ Chí Minh bỗng vụt đứng lên trong tư thế của một người tự do, Người chẳng còn mang xiềng xích, cũng chẳng bị đọa đày, tất cả chỉ là cảm giác vui sướng, ung dung trước không gian mênh mông, bát ngát của đất trời. Và từ trong sâu thẳm tâm hồn của Người đang reo vui thật rộn rã. Câu thơ thứ tư ấy thốt ra là một tiếng reo vui, mừng rỡ vô cùng. Sau chặng đường dài vất vả là thế, cuối cùng người tù Cách mạng ấy cũng đã chạm đến được đỉnh của thiên nhiên, được ngắm nhìn thiên nhiên mà Người trân trọng, yêu quý vô vàn. Đây chắc hẳn cũng là lời gửi gắm sâu thẳm của Người trên con đường Cách mạng rằng: Con đường Cách mạng chắc chắn sẽ khó khăn, núi cao sẽ liên tiếp, trở ngại, thách thức, thế nhưng khi bước chân được đến đỉnh của nó, chúng ta chắc chắn sẽ thu được thành công thật vẻ vang, thật xứng đáng. Và để làm được điều đó, chúng ta phải giữ được ý chí, được niềm tin thật kiên định, tin tưởng vào đường lối Cách mạng của Đảng.

Bài thơ "Tẩu lộ" (Đi đường) khép lại, thế nhưng đọng lại trong tâm trí chúng ta là hình ảnh của một người tù Cách mạng kiên định dù trong gian khó vẫn giữ một ý chí quật cường. Bài thơ vừa là lời bày tỏ những gian khổ của Bác trong những lần chuyển lao ở nhà tù Tưởng Giới Thạch vừa là một chân lý Bác muốn nêu ra sau những lần chiêm nghiệm của mình. Đường đi khó khăn, gập ghềnh, cũng như cuộc sống, như con đường Cách mạng vậy, nhưng chỉ cần chúng ta có quyết tâm, có ý chí mạnh mẽ thì chắc chắn thắng lợi vẻ vang sẽ đến và ngày đó chẳng còn xa nữa.

Bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật, Hồ Chí Minh đã giúp chúng ta cảm nhận được những khó khăn trong thời gian Người bị giam cầm nơi đất khách, cũng là lời ca ngợi ý chí chiến đấu kiên cường của Hồ Chí Minh. Chắc hẳn, mãi đến sau này, bài thơ vẫn sẽ mãi là một trong những tuyệt tác của Người - Hồ Chí Minh: Người chiến sĩ Cách mạng - nhà thi nhân xuất sắc của dân tộc ta.

Phân tích Đi đường Bài số 2

Nhật kí trong tù là một tập thơ độc đáo và đặc sắc của Hồ Chí Minh. Đọc những bài thơ được Bác viết ra trong những tháng ngày gian khổ chốn tù đày nơi biên ải xa xôi ấy, ta mới thêm cảm phục một con người với tâm hồn lớn. Ở Bác Hồ, không chỉ là tình yêu thiên nhiên sâu sắc, lòng yêu nước thương dân vô bờ bến mà còn là một vĩ nhân với ý chí và nghị lực phi thường, tinh thần lạc quan giữa bao gian khó, hiểm nguy. Bài thơ Đi đường của Người tiêu biểu cho tâm hồn lớn ấy.

Đi đường mới biết gian lao

Núi cao rồi lại núi cao trập trùng

Núi cao lên đến tận cùng

Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non

Mở đầu bài thơ, như một kinh nghiệm đúc rút qua bao hành trình gian khổ, tù nhà lao này qua nhà lao khác bằng đôi chân chính mình, Bác thấm thía được rằng: Cuộc hành trình ấy không phải là dễ dàng, đơn giản mà chứa đựng những gian lao, khó nhọc. Đường dài từ núi này qua núi nọ, núi rừng liên tiếp dốc cao, khiến người tù nhân không khỏi không có những phút mệt mỏi. Những dãy núi cứ liên tiếp chạy dài như thách thức từng bước chân, thách thức ý chí, nghị lực người tù cách mạng. Một câu thơ tả thực để thấy được chặng đường đầy những khó khăn, hiểm trở. Vượt qua được dãy núi cao nhất cũng là lúc tới đỉnh. Những chặng đường kia Người đi đã vượt qua tất thảy để chạm đến ngọn núi cuối cùng. Lúc này đây, núi non hùng vĩ, đất trời bao la, non sông rộng lớn như thu vào tầm mắt.

Sau những bước chân nặng nề vượt núi vượt ngàn, người tù nhân giờ đây dường như đang đứng trong một tâm thế vô cùng thoải mái, ung dung tận hưởng vẻ đẹp của non sông mình. Một vẻ đẹp "muôn trùng" mênh mông, còn mãi với thời gian. Bao gian nan được xua tan đi mà thay vào đó là niềm sung sướng khôn xiết khi ngắm và cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên.

Song, bài thơ không chỉ dừng lại ở tầng ý nghĩa này. Nó còn như một khúc ngân về lẽ sống cuộc đời, về con đường cách mạng hướng đến độc lập tự do cho đất nước. Con đường cách mạng có muôn vàn khó khăn đòi hỏi mỗi người cần có bản lĩnh để vượt qua. Những khó khăn đến từ nhiều yếu tố, nguyên nhân, sống không thể khiến ta chùn chân, lùi bước, cần nhìn nhận một cách điềm tĩnh dùng ý chí để vượt qua, hướng đến một tương lai tốt đẹp cho dân tộc.

Bởi vậy, khi cách mạng được thắng lợi, đất nước giải phóng cũng là lúc nhân dân được yên vui, núi sông thanh bình. Con đường cách mạng không phải một sớm một chiều, đường đi rất nhiều những vật cản, trở ngại của bọn xâm lược, kẻ thù tàn ác, người cách mạng phải nỗ lực, vững chí để hoàn thành nhiệm vụ, mang thắng lợi rực rỡ cho muôn dân. Đồng thời, qua bài thơ, ta học được bài học về lẽ sống.

Trên đường đời, đầy rẫy những chông gai, những hòn sỏi, tảng đá bên đường buộc ta phải vượt qua. Thành công chỉ đến với những người biết nỗ lực, xem khó khăn như một lẽ tự nhiên của đời sống. Khi vượt qua được nó, ta sẽ nhận về lại những thành quả tốt đẹp hơn. Hãy tin tưởng vào chính mình, hãy giữ vững tinh thần lạc quan nhất cho mình, hướng về những điều đẹp đẽ trong cuộc sống.

Đọc bài thơ ta thấy thêm kính yêu và trân trọng Bác hơn. Những vần thơ viết ra thấm đẫm những cảm xúc, chứa chan ý chí và niềm lạc quan. Bác từng nói: "Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông", phải chăng, qua bài thơ, Bác đã gửi đến chúng ta những thông điệp sống tích cực mà còn mãi giá trị qua bao tháng năm của thời gian.

Phân tích Đi đường Bài số 3

Bị bắt vì bị tình nghi là gián điệp, những ngày tháng bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam, Bác Hồ đã bị giải đi rất nhiều những nhà lao qua nhiều tỉnh thành ở Trung Quốc. Ra đời trong hoàn cảnh như vậy, rất nhiều bài thơ trong tập “Nhật kí trong tù” được lấy cảm hứng từ đề tài đi đường mà “Tẩu lộ” mà một bài thơ như vậy. Mở đầu bài thơ, Người đưa ra một lời triết lí vô cùng giản dị, tự nhiên mà chân xác:

Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan

(Đi đường mới biết gian lao)

Đúng là chỉ có đi đường mới biết đường gập ghềnh, khó đi, phải là người trực tiếp đi thì mới biết gian lao của nó. Hơn nữa tuyến đường mà Hồ Chủ tịch đang bị áp giải không hề dễ đi mà vô cùng lắm ổ voi, ổ chuột, Người lại đi chân đất, đầu trần trong tư thế bị trói, bị canh giữ. Một cung đường không hề dễ đi chút nào. Điệp lại từ “tẩu lộ” ở cùng một dòng thơ khiến cho câu thơ in sâu hơn ấn tượng về sự đi đường với người đọc. Những câu tiếp theo, Người đặc tả về sự khó khăn ấy một cách cụ thể:

Trùng san chi ngoại hựu trùng san

Trùng san đăng đáo cao phong hậu

(Núi cao rồi lại núi cao trập trùng;

Núi cao lên đến tận cùng)

Đến đây ta hiểu rằng, những con đường mà thi nhân đang phải vượt đâu chỉ là những con đường xấu, gồ ghề mà là đường đồi núi cao, hiểm trở trập trùng không chỉ gian nan mà còn là nguy hiểm cận kề. Từ “trùng” được điệp lại nhiều lần gợi cho ta cảm giác về những dãy núi cao trập trùng, hết dãy này đến dãy khác, cứ đi mãi, đi mãi mà cảm giác không sao đi hết được vì cứ vượt qua được dãy núi này thì lại xuất hiện một dãy núi khác đòi hỏi ta lại phải vượt qua.

Nếu ở câu trên, núi được mở ra theo chiều rộng thì câu dưới núi mở ra theo chiều cao. Núi không chỉ nhiều, trùng điệp giăng khắp nơi mà còn cao, dựng đứng lên đến tận cùng vô cùng khó để vượt qua. Trong hoàn cảnh của người tù cách mạng bấy giờ thì đúng là nỗi khó khăn tăng lên gấp bội. Ba câu trên đều nói tới khó khăn vất vả của việc đi đường, có phải ta sẽ lầm hiểu rằng nhà thơ đang mệt mỏi, kiệt sức, thoái chí nản lòng trên con đường gian nan cực khổ ấy nhưng nếu là vậy thì đó đã không phải là phong thái của Chủ Tịch Hồ Chí Minh. Mọi ánh sáng dường như hội tụ hết chính là ở câu thơ cuối bài:

Vạn lý dư đồ cố miện gian.

(Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non)

Tuy rằng ở ba câu thơ trên, ta cảm nhận được biết bao gian nan khó nhọc của việc đi đường, xuống đến câu dưới, hình như mọi gian nan, hiểm trở tan biến đâu hết mà chỉ còn là khung cảnh thiên nhiên đẹp của muôn trùng nước non. Không còn hình bóng của một người tù bị áp giải mà chỉ còn hình ảnh của một du khách đang đứng giữa đất trời, sảng khoái mà tận hưởng thành quả sau khi đã vượt qua tất cả những cung đường khó khăn kia.

Ở ba câu thơ đầu, hình ảnh thiên nhiên bao la rợn ngợp đến đâu thì câu thơ cuối con người không còn nhỏ bé bị thiên nhiên làm cho khiếp sợ mà trở nên cao lớn, hào sảng, hiên ngang vô cùng. Và đây cũng là tinh thần lạc quan, yêu thiên nhiên nơi người chiến sĩ cách mạng vĩ đại không bao giờ mất niềm tin vào cuộc đời.

Cả bài thơ đã gợi ra một triết lí sâu sắc đó là đi đường tuy có gian lao nhưng nếu ta có bản lĩnh vượt qua thì ta sẽ gặt hái được vẻ đẹp cuối con đường. Suy rộng ra, đây là con đường cách mạng, con đường đời, con đường nào cũng nhiều gian nan hiểm trở nhưng khi ta đã vượt qua thì ta sẽ đạt được những thành quả như mong đợi.

Chỉ với bài thơ thất ngôn tứ tuyệt cô đọng mà gợi ra cả một triết lí sâu sắc, và trên tất cả, ta thấy kính phục biết bao khí chất ngời sáng vĩ đại của Bác Hồ. Chính tinh thần thép ấy đã giúp Bác trở nên rắn rỏi hơn kể cả trong bất kì hoàn cảnh khắc nghiệt nào.

Phân tích Đi đường - Bài số 4:

M.Goóc-ki từng nói “Kì lạ thay con người!”. Con người đến với cuộc đời và khẳng định sự tồn tại của mình bằng chính ý chí, nghị lực và một trái tim bao la. Đường đời với biết bao thử thách chính là lửa thử vàng để vàng càng sáng. Trong tập thơ Nhật kí trong tù, ta luôn bắt gặp một con người như thế. Bài thơ Đi đường cũng giống như những bài thơ chuyển lao khác như: Đi Nam Ninh, Chiều tối, Giải đi sớm,… không chỉ diễn tả nỗi gian nan của người tù trên bước đường chuyển lao mà hơn hết thể hiện một thái độ mang tính chất triết lí trước những chặng đường đời đầy thử thách và phong thái của một con người có tầm vóc cao cả.

Câu thơ đầu tiên Bác dành để nói về việc đi đường. Nhưng không phải là lời kêu than của một người đã trải qua biết bao chặng đường chuyển lao mà nó như một lời khẳng định, suy ngẫm bằng sự trải nghiệm thấm thía của chính người đi đường:

“Đi đường mới biết gian lao

Núi cao rồi lại núi cao trập trùng.”

Câu thơ như một triết lí của con người từng trải. Có đi đường, có trải qua những khó khăn vất vả trên những chặng đường mới thấm thía được nỗi gian nan, mới biết gian khổ là gì. Bài học này không có gì là mới lạ nhưng phải bằng chính những thử thách, trải nghiệm của bản thân mới có sự nhận thức sâu sắc được như vậy. Câu thơ giản dị mà chứa đựng cả một chân lí hiển nhiên. “Trùng san chi ngoại hựu trùng san”. Điệp từ “trùng san” như mở ra trước mắt người đọc cả một con đường gập ghềnh những núi, càng nhấn mạnh sự trải dài như vô tận, không dứt hết lớp núi này đến lớp núi khác. Con đường đó dường như đối lập với sức người, vắt cạn sức lực của con người. Phải vượt qua con đường như thế mới có thể thấu hiểu được cái chân lí tưởng chừng như giản đơn: “Đi đường mới biết gian lao” mà Bác đã nói ở trong câu thơ đầu.

Hai câu thơ chỉ đơn giản nói chuyện đi đường vất vả, không hề trực tiếp miêu tả hình ảnh người đi đường. Nhưng ta vẫn thấy hình ảnh người đi đường xuất hiện. Con người ở đây không phải xuất hiện trong trạng thái thảnh thơi ngồi ngắm quãng đường với trập trùng những núi, không phải lữ khách du ngoạn để ngắm cảnh non sông, mây trời mà là một người tù đang phải trên đường chuyển lao. Vai đeo gông, chân mang xiềng xích, đói khát phải vượt qua bao đèo cao, dốc sâu, vực thẳm, qua những con đường núi non hiểm trở. Chữ “hựu” đứng giữa hai câu thơ dịch không chỉ diễn tả sự nối tiếp của núi non mà còn diễn tả sự vất vả của người tù. Chưa hết con đường này thì con đường núi khác đã hiện ra trước mắt, chưa hết khó khăn này thì một khó khăn khác lại ngáng trở phía trước. Thế nhưng, câu thơ không phải là tiếng thở dài, là lời than thở của người đi đường, mà chỉ là chân lí của người chiến sĩ cách mạng đúc rút được trên con đường chuyển lao, trong quá trình hoạt động cách mạng của mình.

Hai câu thơ tiếp theo làm người đọc sửng sốt. Nếu như hai câu thơ đầu là chân lí, thì hai câu thơ sau bỗng vút lên nhẹ nhàng:

“Núi cao lên đến tận cùng

Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”

Câu thơ thứ ba tiếp tục tả núi. Không chỉ dừng lại ở việc núi cao rồi lại núi cao trập trùng mà con đường đi đã được đẩy lên đến tột cùng khó khăn, hiểm trở “lên đến tận cùng”. Câu thơ dường như là một sự reo vui của người tù khi đã vượt qua được hàng ngàn núi cao, dốc sâu để lên được tới đỉnh núi cao nhất, tận cùng nhất. Ta như bắt gặp ở đây một chủ đề quen thuộc: đăng cao và một phong thái mang cảm giác vũ trụ của con người: Đăng cao, viễn vọng. Khi lên đến đỉnh núi cao rồi, cũng là lúc con người ta có thể phóng tầm mắt bao quát và chiếm lĩnh cả một khoảng không bao la, như làm chủ vũ trụ, đất trời. Con người khi đó như trong tư thế của một người chiến thắng. Con người tự nhiên như được tạo một dáng vẻ hiên ngang, ngạo nghễ giữa một vũ trụ bao la như một du khách dạo chơi nhàn tản giữa non nước mây trời. Trong tư thế đó, con người như một “tiên ông đạo cốt”. Những khó khăn của đường đi không thể cầm tù, giam hãm được con người trong những dãy núi. Con người như đang cố gắng vươn lên làm chủ chặng đường của mình.

“Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”. Câu thơ cuối là đỉnh điểm của cảm xúc. Có niềm vui khôn xiết của một con người đã vượt qua được bao khó khăn, khổ ải để có thể tận hưởng được cảnh nước non mây trời. Tưởng chừng như mọi khó khăn đều lùi xa, chỉ còn lại một con người làm chủ thiên nhiên, đất trời với phong thái ung dung, tự tại đầy lạc quan. Đến đây đất trời và con người như hòa làm một. Bài thơ vút lên trong một niềm cảm hứng lãng mạn.

Đi đường là một bài thơ ngắn nhưng chứa đựng một bài học lớn lao, nói về con đường có thực trong những năm tháng tù đày, chuyển lao hết nhà lao này đến nhà lao khác. Nhưng hơn hết, nó không chỉ đơn giản chỉ là con đường thật với núi non hiểm trở. Đó còn là con đường với biết bao chông gai thử thách. Những khó khăn đó không thể làm cho con người lùi bước. Bài thơ như một niềm tin sắt đá. Đường đời dù có gian nan, vất vả đến đâu nhưng chỉ cần con người kiên trì, nhẫn nại và quyết tâm vượt qua cuối cùng sẽ đến đích. Khi đó con người sẽ lên được tới đỉnh cao của vinh quang, trí tuệ và làm chủ được những giá trị đích thực của cuộc sống.

Bài thơ Đi đường Tẩu lộ không chỉ là bức tranh về con đường chuyển lao đầy rẫy nhọc nhằn trở ngại, đó còn là bức tranh chân dung tinh thần tự họa Hồ Chí Minh. Từ bài thơ, người đọc có thể cảm nhận hình ảnh Bác vừa có thần thái ung dung, bình tĩnh của một bậc tiên phong đạo cốt vừa có nét kiên cường rắn rỏi, đầy lạc quan của một người chiến sĩ cách mạng. Và như thế, bài thơ Đi đường cùng với nhiều bài thơ khác trong tập thơ Nhật kí trong tù thực sự là một đoá hoa đáng trân trọng của văn học Việt Nam.

Phân tích bài thơ Đi đường - Bài số 5:

Bài thơ Đi đường (Tẩu lộ) trích từ tập Nhật kí trong tù. Giống như một số bài có cùng chủ đề như Từ Long An đến Đồng Chính, Đi Nam Ninh, Giải đi sớm, Trên đường đi, Chiều tối, ở bài thơ này, Bác cũng ghi lại những điều cảm nhận được trên đường đi, khác ở chỗ sự cảm nhận ấy đã được khái quát và nâng cao lên thành triết lí. Do đó, ngoài ý nghĩa hiện thực, bài thơ còn chứa đựng ý nghĩa tượng trưng thâm thúy. Bằng nét bút tài hoa của người nghệ sĩ, Bác đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ và trên cái nền hoành tráng đó, nổi bật lên tư thế hiên ngang của người chiến sĩ với quyết tâm vượt khó và tinh thần lạc quan tin tưởng vào tương lai tươi sáng của cách mạng:

Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan,

Trùng san chi ngoại hựu trùng san;

Trùng san đăng đáo cao phong hậu,

Vạn lí dư đồ cố miện gian.

Dịch ra thơ tiếng Việt:

Đi đường mới biết gian lao,

Núi cao rồi lại núi cao trập trùng;

Núi cao lên đến tận cùng,

Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.

Nguyên tác bài thơ bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt (bảy chữ, bốn câu). Sự hàm súc, cô đọng của ngôn từ cùng niêm luật nghiêm ngặt của thơ Đường không bó buộc nổi tứ thơ phóng khoáng và cảm xúc dạt dào của thi nhân. Bản dịch ra tiếng Việt theo thể lục bát tuy có làm mềm đi đôi chút cái âm điệu rắn chắc, khỏe khoắn vốn có của nguyên tác nhưng vẫn thể hiện được nội dung tư tưởng và giá trị nghệ thuật của bài thơ.

Câu mở đầu là nhận xét chung của Bác về chuyện đi đường:

Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan

(Đi đường mới biết gian lao)

Đây không phải là nhận xét chủ quan chỉ sau một vài chuyến đi bình thường mà là sự đúc kết từ hiện thực của bao hành trình vất vả, hiểm nguy mà Bác đã phải trải qua. Trong thời gian mười bốn tháng bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam cầm trái phép, Bác Hồ thường xuyên bị giải từ nhà lao này đến nhà lao khác khắp mười ba huyện của tỉnh Quảng Tây. Tay bị cùm, chân bị xích, đi trong sương gió lạnh buốt thấu xương hay trong nắng trưa đổ lửa. Vượt dốc, băng đèo, lội suối… với những khó khăn thử thách nhiều lúc tưởng như quá sức chịu đựng của con người. Từ thực tế đó, tác giả khái quát thành chuyện đi đường.

Câu thơ thứ hai cụ thể hóa những gian lao trên đường đi thành hình ảnh:

Trùng san chi ngoại hựu trùng san

(Núi cao rồi lại núi cao trập trùng)

Giữa khung cảnh thiên nhiên chỉ toàn là núi cao nối tiếp núi cao, con người vốn nhỏ bé, yếu ớt lại càng thêm nhỏ bé, yếu ớt. Đường xa, dặm thẳm, vực sâu, dốc đứng… biết bao trở ngại, thách thức dễ làm cho con người chán nản, ngã lòng. Bởi vừa vượt qua mấy đỉnh núi cao, sức tinh thần, vật chất đã vơi, con người tưởng đã thoát nạn, ngờ đâu lại núi cao trập trùng chặn đứng trước mặt. Trong câu thơ chữ Hán có chữ hựu ác nghiệt, lời dịch nhân cái ác nghiệt ấy lên gấp đôi: Núi cao rồi lại núi cao trập trùng.

Gian lao kể sao cho xiết! Cấu trúc khép kín ở câu thơ chữ Hán (Trùng san chi ngoại hựu trùng san), chuyển sang kết cấu trùng lặp tăng tiến, vế sau nặng trĩu thêm bởi từ trập trùng ở cuối, cấu trúc khép kín và trùng lặp tăng tiến ấy dường như đẩy con người vào cái thế bị hãm chặt giữa ba bề bốn bên là rừng núi, không thoát ra được, chỉ có kiệt sức, nhụt chí, buông xuôi.

Nhưng đối với Bác thì hoàn toàn ngược lại:

Trùng san đăng đáo cao phong hậu

Vạn lí dư đồ cố miện gian.

(Núi cao lên đến tận cùng,

Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.)

Giữa vòng vây núi non trập trùng, chất ngất, hoang vu đó nổi lên điểm sáng, điểm động là con người với vẻ ngoài tuy nhỏ bé, yếu ớt nhưng bên trong lại là một nghị lực, sức mạnh phi thường.

Câu thơ trước kết thúc bằng hình ảnh trùng san, câu thơ sau mở đầu cũng bằng hình ảnh ấy. Trong thơ dịch không liền như thế nhưng cũng lặp được núi cao… núi cao… Âm điệu ấy nâng con người lên cái thế tưởng như bình thường nhưng thực ra lại rất hào hùng. Đạp lên đỉnh núi cao này bước sang đỉnh núi cao kia như đi trên bậc thang, cứ thế từ tốn lên đến đỉnh cao chót vót. Câu thơ chữ Hán dừng lại ở âm thanh chắc nịch của chữ hậu, tạo nên âm hưởng rắn rỏi, mạnh mẽ. Câu thơ dịch có âm điệu dàn trải như tiếng thở phào sung sướng, nhẹ nhõm: Núi cao lên đến tận cùng.

Đến đây thì mọi gian lao, vất vả đã khép lại; kết quả, phần thưởng xứng đáng mở ra. Lúc trước là mắt chạm vào vách núi cao thẳng đứng, chỉ toàn đá và cây; nay thì mắt nhìn bốn phương, đâu đâu cũng thấy muôn trùng nước non (vạn lí dư đổ). Leo lên đến tận cùng, đứng trên đỉnh núi cao nhất (cao phong), phóng tầm mắt ra xa, không những tầm nhìn mở rộng mà cả trí óc, tấm lòng, cuộc đời cũng mở rộng. Con người đã đến đích sau cuộc hành trình muôn vàn gian khổ. Âm hưởng câu thơ cuối ngân vang thể hiện niềm lạc quan vô hạn trước tương lai tươi đẹp. Cảnh muôn trùng nước non giờ đây đã thu gọn trong tầm mắt Bác. Bài thơ kết thúc ở niềm vui, niềm kiêu hãnh to lớn đó.

Vậy thì có phải bài thơ này chỉ đơn giản nói đến chuyện đi đường? Đi đường không phải chỉ có gian nan vì núi cao trập trùng mà còn có bao khó khăn nguy hiểm khác. Hình ảnh núi cao trập trùng tượng trưng cho vô vàn khó khăn, nguy hiểm mà con người thường gặp trong đời. Cho nên đường ở đây không phải là con đường đỉ trên mặt đất mà nó chính là đường đời, đường cách mạng.

Liệu có mấy ai suốt đời chỉ toàn gặp thuận buồm xuôi gió, thẳng một lèo đến thắng lợi, thành công? Trở ngại, nguy nan là chuyện thường tình. Muốn vượt qua tất cả, con người phải có một ý chí kiên cường, nội lực phi thường cùng một niềm tin không gì lay chuyển nổi. Như vậy mới có thể đạt được chiến thắng vinh quang. Thắng gian lao nguy hiểm và cao hơn nữa là chiến thắng chính mình.

Nếu con đường đó là con đường cách mạng thì chân lí tất yếu nêu trên lại càng sáng tỏ. Cuộc đời phấn đấu, hi sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương chói lọi. Trên con đường cách mạng đầy chông gai, sóng gió, với trí tuệ sáng suốt, ý chí và nghị lực tuyệt vời, Người đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam vượt qua mọi gian lao, thử thách để lên đến đỉnh cao vinh quang của thời đại. Từ chuyện đi đường tưởng như rất đỗi bình thường, người chiến sĩ cộng sản lão thành Hồ Chí Minh đã dạy chúng ta một bài học nhân sinh thiết thực và bổ ích.

Đọc thêm văn mẫu hayLí giải các lớp nghĩa trong bài thơ Đi Đường (Hồ Chí Minh)

Phân tích bài thơ Đi đường - Bài số 6:

“Bác Hồ đó chiếc áo nâu giản dị

Màu quê hương bền bỉ đậm đà

Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta…"

(Tố Hữu)

Biết mỗi hành động, đọc mỗi bài thơ của Bác, chúng ta như được thêm vốn sống, tăng thêm nghị lực, lòng kiên nhẫn để vượt qua mọi thử thách gian lao và tin tưởng vững chắc vào kết quả công việc của mình.

Vào mùa thu 1942, từ Pác Bó, Bác Hồ qua Trung Quốc để tìm viện trợ quốc tế cho cách mạng Việt Nam, và bị chính quyền tỉnh Quảng Tây bấy giờ bắt giam. Suốt một năm sông trong ngục tù, Bác đã viết Nhật kí trong tù, 133 bài thơ được Bác viết bằng Hán văn về nhiều đề tài khác nhau với mục đích là để tự động viên mình, trong đó có bài Đi đường (Tẩu lộ).

Bài thơ được viết bằng thể thất ngôn tứ tuyệt, nhà thơ Nam Trân dịch ra Việt ngữ bằng thể thơ lục bát. Cũng cần biết thêm là Bác thường mượn những hình ảnh dễ thấy trong cuộc sống làm đề tài để biểu đạt tư tưởng và tình cảm của mình. Ngay ở tựa bài Đi đường cũng đã chứng minh cho nhận xét ấy.

Từ hình ảnh cụ thể và khái quát ấy, nhà thơ Hồ Chí Minh đã viết thành câu khai:

Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan,

Bản dịch của Nam Trân viết:

Đi đường mới biết gian lao,

Câu thơ nguyên tác có điệp ngữ “tẩu lộ” (đi đường) để nhấn mạnh, còn câu thơ tiếng Việt thì không. Thế nhưng từ “nan" (khó) trong nguyên tác được dịch bằng từ “gian lao" thì khá tuyệt bởi nó diễn đạt nỗi khó khăn, gian khổ đậm nét hơn. Từ hình ảnh cụ thể ấy, người đọc hiểu rộng ra: mọi công việc, khi bắt tay vào hành động mới thấy những khó khăn đang chờ đợi.

Những khó khăn ở câu khai được nhà thơ diễn đạt rõ hơn ở câu thừa. Nguyên tác viết:

Trùng san chi ngoại hựu trùng san;

Bản dịch viết:

Núi cao rồi lại núi cao trập trùng;

Nguyên tác sử dụng điệp ngữ “trùng san – nhiều lớp núi chồng lên nhau” nhấn mạnh về núi non để làm rõ nghĩa cho “tẩu lộ nan – đi đường khó” ở câu khai. Bản dịch tiếng Việt cũng sử dụng điệp ngữ “núi cao”, quan hệ từ “rồi lại”, và cả tính từ láy âm “trập trùng” để cụ thể hóa “gian lao” ở câu khai. Như thế thì câu thơ dịch khá hoàn chỉnh, kể cả chất thơ. Từ sự việc có thật là lúc ở tù nhà thơ bị giải đi từ nhà lao này sang nhà lao khác ở tỉnh Quảng Tây, một tỉnh có địa hình nhiều rừng núi nhà thơ muốn nhấn mạnh đến những khó khăn không bao giờ dứt trong đời sống của mỗi người. Đường đời bình thường đi đã mệt, đường giành lại độc lập tự do đã bị thực dân tước mất thì khó khăn và nguy hiểm khôn lường. Lịch sử Việt Nam trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, giữ vững độc lập – tự do cho dân tộc từ thời dựng nước cho tới lúc nhà thơ bị bắt và làm bài thơ này đã chứng minh cụ thể cho sự khó khăn khôn lường ấy.

Biết như thế để tự động viên mình trên đường đi. Lúc nào cũng lạc quan, lúc nào cũng cố gắng tiến bước để đạt được mục tiêu cuối cùng như hình ảnh trong hai câu chuyển và hợp trong nguyên tác:

Trùng san đăng đáo cao phong hậu,

Vạn lí dư đồ cố miện gian.

Và bản dịch:

Núi cao lên đến tận cùng,

Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.

Cả nguyên tác lẫn bản dịch đều dùng phép đảo ngữ để nhấn mạnh “trùng san – núi cao". Khó khăn nào cũng cố gắng vượt qua, núi cao nào cũng leo tới đỉnh rồi lại tiếp bước. Càng vượt được nhiều núi cao, trong thực tế, càng tích lũy được nhiều kinh nghiệm trèo đèo, lội suối, vượt qua những vực sâu… nguy hiểm. Hiểu rộng ra trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, kể cả việc học hành, càng vượt qua nhiều khó khăn càng tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong giải quyết công việc. Lúc ấy ta sẽ vững tin khi đối diện với một khó khăn mới khác trên bước đường đời.

Trong cuộc đời hoạt động, Bác đã đến nhiều nơi, gặp gỡ nhiều người. Mỗi nơi, mỗi người đều giúp Bác thêm kiến thức, kinh nghiệm. Khi đã vượt qua tất cả những ngọn núi thấp để đến đỉnh ngọn cao nhất: vượt qua khó khăn lớn lao nhất thì… đạt đến thành công. Hình ảnh kỳ vĩ: con người với thân hình nhỏ bé đứng trên đỉnh cao của ngọn núi vĩ đại: một bức tranh thật hào hùng; thành công ấy thật vinh quang. Vượt qua khó khăn lớn nhất sẽ thấy rõ đường đời cái gì là trắc trở, cái gì là hạnh phúc, bình yên.

Muốn thế, cần phải có tâm và trí…

Ngày trước, Nguyễn Bá Học cũng đã từng mượn hình ảnh đi đường để nhấn mạnh vai trò nghị lực của con người rằng: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông…”. Rồi cụ Phan Bội Châu cũng đã từng nhắc nhở: "Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả,/ Anh hùng hào kiệt có hơn ai" thì nay lại có thêm Hồ Chí Minh. Mang nội dung giáo dục tư tưởng chính trị nhưng không khô khan bởi biết mượn hình ảnh sự việc để bộc lộ tâm tư của mình. Đúng là thơ của một danh nhân văn hóa của cả thế giới.

Thế hệ của Bác, đàn em của Bác đã học tập tinh thần ấy trong hai cuộc chiến chống thực dân và đế quốc. Còn các thế hệ sau thì nhờ học bài thơ mà họ thấy đường đời khó để bình tĩnh chuẩn bị hành trang mà vượt qua: tri thức là phương tiện để "lên đến tận cùng”, vượt nỗi nhục nghèo nàn, lạc hậu…

Phân tích bài thơ Đi đường - Bài số 7:

Bài thơ “Đi đường” có tựa đề là một cụm từ, chỉ một hệ thống. Bài thơ, do vậy có một ý nghĩa riêng, ngoài việc diễn tả cảm xúc trước cảnh núi non điệp trùng, đất trời cao rộng, hùng vĩ, nó còn thể hiện tư thế chủ động của một nhà thơ - chiến sĩ. Bài thơ sáng tác theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, được dịch ra thể lục bát:

“Đi đường mới biết gian lao

Núi cao rồi lại núi cao trập trùng

Núi cao lên đến tận cùng

Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”.

Mở đầu là một câu thơ giản dị gần như một lời nói thường:

“Đi đường mới biết gian lao”.

“Đi đường”, hai tiếng bình dị thế thôi nhưng chứa đựng biết bao ý nghĩa. Trước hết là nghĩa cụ thể của nó. Nói “đi đường” thực chất là bị giải đi đường, là đi đày. Bác tuy không kể, không tả, nhưng chúng ta, những người đọc thơ Bác hôm nay, không thể không đặt bài thơ trong khung cảnh Bác bị giải đi triền miên giữa cảnh đói rét thiếu thốn, giữa cảnh nắng đội mưa dầm, giày dép tả tơi, 53 cây số một ngày, tay bị trói, cổ mang vòng xích. Vậy mà, câu thơ nói đi nói lại dường như chỉ là một nhận xét, một đúc kết bình thường. Từ “mới biết” nghe nhẹ nhàng, khiêm tốn nhưng chất chứa ở bên trong biết bao sóng gió cuộc đời, bao nhiêu suy nghĩ của người trong cuộc. Như thế, câu đầu trong bài “Đi đường” không chỉ là sự đúc kết trong một cuộc đi đường cụ thể, mà còn bao hàm một thái độ đánh giá, nhận thức được suy nghĩ trong suốt cả chặng đường dài trên bước đường đời nói chung, trên bước đường cách mạng nói riêng. Câu thơ do vậy vừa mang nội dung cụ thể, vừa mang nội dung khái quát.

Đằng sau câu thơ, ta bắt gặp một tâm hồn lớn, cao khiết, đẹp đẽ, một trí tuệ mẫn cảm của bậc chí sĩ đang đối diện, chịu đựng những gian lao khủng khiếp nhưng đã biết vượt lên gian lao bằng thái độ làm chủ, bằng phong thái ung dung bình tĩnh, với cái nhìn minh mẫn, sáng suốt mà khiêm tốn.

Câu thơ thứ hai:

“Núi cao rồi lại núi cao trập trùng”.

Trước hết, đó là một câu thơ tả thực về cảnh những lớp núi điệp trùng mà Bác phải vượt qua. Có người cho đây là những hình ảnh cụ thể hóa các gian lao trong câu thơ đầu, cũng có thể là như thế. Nhưng như trên đã phân tích, câu đầu trong bài thơ không phải là một cảm hứng đầu mà là cảm hứng kết luận. Hơn nữa, âm hưởng của câu thơ gợi cho người đọc về cái gian lao thì ít mà mở ra một không gian bát ngát, điệp trùng, đẹp đẽ, hùng vĩ nhiều hơn.

Chẳng thấy đâu đầy ải xích xiềng, chỉ thấy một trái tim tự do đang chiêm ngưỡng, đắm say thưởng ngoạn thiên nhiên của nhà nghệ sĩ. Điều này thật khó phân tích, lí giải bằng lí luận chữ nghĩa. Từ tâm hồn nó đến thẳng tâm hồn. Thưởng thức thơ Bác chẳng khác nào thưởng thức một bông hoa. Đọc thơ Người, thỉnh thoảng phải dừng lại, nghĩ suy để thưởng thức các sức ngân vang của tâm hồn, tỏa ra từ những lớp chữ nghĩa, màu sắc, âm thanh... bình dị, thanh khiết.

Hai câu cuối:

“Núi cao lên đến tận cùng

Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”.

Cảnh núi non tiếp nối, không dứt, như vẽ ra trước mắt ta khung cảnh những lớp núi điệp trùng, hết lớp này đến lớp khác, trong đó con người, với tư cách là chủ thể của khung cảnh đang vượt lên những lớp núi chất chồng kia, đang đứng ở đỉnh cao ngất với niềm khoan khoái tự hào, thu vào tầm mắt cả một không gian khoáng đạt, cao rộng, cả khung cảnh gấm vóc hùng vĩ của đất nước, non sông. Câu thơ tả cảnh nhưng không giấu nổi một tiếng reo hạnh phúc ở bên trong, cái niềm hạnh phúc chân chính của một con người đã vượt qua bao chặng đường khổ ải, đã đi và đã đến đích, đang đứng ở đỉnh cao vời vợi. Trong khuôn khổ âm điệu, hình ảnh, vần luật của thơ ca cổ điển, khuôn phép, mực thước, ý thơ lại như có khuynh hướng muốn vượt ra ngoài, muốn vượt lên cái bình thường, để vươn tới cái tầm cao cả. Những câu thơ ấy mang vẻ đẹp của một thiên nhiên lớn và một tâm hồn lớn. Nó không chỉ diễn tả độ cao vời vợi của khung cảnh núi non cụ thể, nó còn diễn tả chiều cao của tầm nhìn, của ý chí, nghị lực, niềm tin, của lí tưởng cao cả, đẹp đẽ. Quả là khi đã có một lí tưởng cao cả, một bản lĩnh kiên cường, không có đỉnh cao nào mà con người không thể đạt tới. Và lúc bấy giờ còn người sẽ tìm thấy nguồn hạnh phúc vô biên. Cái kết luận ý nghĩa của bài thơ mang lại cho người đọc là như thế.

Phân tích bài thơ Đi đường - Bài số 8:

Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh là tác phẩm văn học có giá trị lớn, là một tác phẩm quý trong kho tàng văn học Việt Nam. Nhiều bài thơ trong Nhật kí trong tù thể hiện quan niệm sống đúng đắn, trở thành bài học quý cho tất cả mọi người. Bài thơ Đi đường là một dẫn chứng tiêu biểu. Đọc bài thơ Đi đường của Bác ta lại có thêm một bài học quý giá trong đường đời.

Đi đường mới biết gian lao,

Núi cao rồi lại núi cao trập trùng;

Núi cao lên đến tận cùng,

Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.

Trước hết, hình ảnh con đường trong bài thơ là con đường đi lại. Con đường lên núi thật khó khăn vất vả, nhiều gian nan, khó nhọc. Vượt qua ngọn núi này, phải trèo lên ngọn núi khác cao hơn, núi non trập trùng nối tiếp nhau. Thế nhưng, khi đã đặt chân lên đỉnh núi cao nhất, ta sẽ thấy được mọi thứ ở xung quanh, khi đó mọi khó khăn sẽ trở thành nhỏ bé.

Hình ảnh con đường trong bài thơ chứa đựng một ẩn ý sâu sắc. Con đường ấy chính là cuộc đời. Cuộc đời người có lắm gian nan, vất vả. Nếu có quyết tâm và lòng kiên trì vượt qua thử thách thì nhất định sẽ có được thành quả cao.

Bài thơ nêu ra một chân lí tuy bình thường nhưng rất sâu sắc và không phải ai cũng có thể thực hiện được. Những khó khăn trong cuộc sống xảy ra đòi hỏi con người phải giải quyết. Đó là thước đo cho lòng kiên trì và quyết tâm của mỗi con người. Chỉ khi có sự phấn đấu, rèn luyện thì mới mong đạt được kết quả cuối cùng.

Bác Hồ cũng đã có một số câu thơ nói lên những thử thách trong cuộc sống, qua đó đề cao ý chí quyết tâm của con người:

Gạo đem vào giã bao đau đớn

Gạo giã xong rồi trắng tựa bông

Sống ở trên đời người cũng vậy

Gian nan rèn luyện mới thành công.

Bài thơ Đi đường đã cho thấy khí phách và ý chí của Bác Hồ. Quả thật bài thơ Đi đường không còn là chuyến đi riêng của Bác mà là chuyến đi cho tất cả mọi người.

-/-

Trên đây là những gợi ý cách làm chi tiết cùng tuyển chọn top 7+ bài văn phân tích bài thơ Đi đường hay đặc sắc mà Đọc Tài Liệu tổng hợp và biên soạn giúp các em tham khảo. Hi vọng các em đã có thêm những ý văn hay để bổ sung cho nội dung bài viết của mình sắp viết.

Truy cập kho tài liệu Văn mẫu lớp 8 để cập nhật thêm nhiều bài văn hay khác giúp bạn rèn luyện kỹ năng làm văn, chuẩn bị tốt cho các bài thi và kiểm tra môn Văn. Chúc các em học tốt !

Bạn còn vấn đề gì băn khoăn?
Vui lòng cung cấp thêm thông tin để chúng tôi giúp bạn
Hủy

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM