Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải

Xuất bản: 15/02/2019 - Cập nhật: 10/04/2024 - Tác giả:

Hướng dẫn phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ, mẫu dàn ý chi tiết và TOP 10 bài văn hay lớp 9 phân tích nội dung tác phẩm Mùa xuân nho nhỏ của nhà thơ Thanh Hải.

Hướng dẫn phân tích Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải gồm những gợi ý chi tiết giúp em từng bước tìm hiểu, phân tích đề, lập dàn ý và xây dựng sơ đồ tư duy cụ thể. Ngoài ra, bài viết cũng sẽ cung cấp một số bài văn mẫu hay phân tích nội dung bài thơ Mùa xuân nho nhỏ giúp các em tham khảo để có một bài văn hay và đạt điểm cao.

Huong dan phan tich bai tho mua xuan nho nho

Tham khảo: Dàn ý phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ

Hướng dẫn phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ

Đề bài: Phân tích bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ" của Thanh Hải.

1. Xác định yêu cầu đề bài

- Yêu cầu về nội dung: phân tích nội dung, nghệ thuật của bài thơ Mùa xuân nho nhỏ.

- Phạm vi tư liệu, dẫn chứng: từ ngữ, hình ảnh, chi tiết tiêu biểu trong bài thơ Mùa xuân nho nhỏ (Thanh Hải)

- Phương pháp lập luận chính: Phân tích.

2. Luận điểm bài phân tích Mùa xuân nho nhỏ

- Luận điểm 1 (khổ thơ đầu): Cảm xúc trước mùa xuân thiên nhiên đất trời.

- Luận điểm 2 (khổ thơ 2, 3): Cảm xúc của tác giả trước mùa xuân của đất nước.

- Luận điểm 3 (khổ thơ 4, 5): Ước nguyện chân thành được cống hiến của tác giả.

- Luận điểm 4 (khổ thơ cuối): Lời ca ngợi quê hương đất nước qua điệu dân ca xứ Huế.

3. Kiến thức cơ bản về tác giả, tác phẩm

Trước khi đi vào phân tích nội dung chi tiết của bài thơ, các em cần nắm vững những kiến thức cơ bản về tác giả Thanh Hải và tác phẩm Mùa xuân nho nhỏ có thể dùng đến trong quá trình làm bài.

a) Tác giả Thanh Hải

- Thanh Hải (1930 - 1980) sinh ra trong một gia đình trí thức nghèo ở xã Phong Bình, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế.

- Cha làm nghề dạy học, mẹ là nông dân, gia đình có ba anh em trong đó ông là anh cả.

- Tham gia cách mạng từ khi lên 17 tuổi và làm chính trị viên Đoàn Văn công Thừa Thiên Huế.

- Từng giữ nhiều chức vụ tại Hội nhà văn Việt Nam, Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam...

- Ngày 15 - 12 - 1980, ông qua đời vì căn bệnh hiểm nghèo xơ gan cổ trướng.

- Phong cách sáng tác: Thanh Hải viết nhiều về thiên nhiên, lòng yêu cuộc sống với chất thơ bình dị, nhẹ nhàng nhưng đậm chất triết lí về cuộc đời, thể hiện tình yêu cuộc sống tha thiết.

- Các tác phẩm chính: các tập thơ Những đồng chí trung kiên (1962), Dấu võng Trường Sơn (1977), Huế mùa xuân (tập 1-1970, tập 2-1975), Mùa xuân nho nhỏ (11/1980), Ánh mắt (1956), Mưa xuân đất này (1982)

b) Tác phẩm Mùa xuân nho nhỏ

- Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ được sáng tác vào tháng 11/1980 trong thời gian tác giả Thanh Hải đang ốm nặng và phải điều trị ở bệnh viện Bạch Mai, tức khoảng 1 tháng trước khi ông qua đời.

- Ý nghĩa nhan đề: Trong tiêu đề “Mùa xuân nho nhỏ”, tính từ “nho nhỏ” được tác giả sử dụng nhằm cụ thể hóa, hữu hình hóa hình tượng “mùa xuân” và mang đến nhiều tầng ý nghĩa khác nhau:

+ Lớp nghĩa thực: chỉ mùa xuân của đất trời, của tự nhiên, mang tính chu kỳ, tuần hoàn theo thời gian.

+ Lớp nghĩa ẩn dụ: chỉ mùa xuân chính là mong muốn, khát vọng, lí tưởng sống của tác giả. Thanh Hải mong muốn cống hiến tất cả những gì đẹp đẽ nhất, tinh túy nhất cho cuộc đời, cho quê hương và đất nước.

- Nội dung chính của tác phẩm: Cảm xúc của Thanh Hải trước mùa xuân của thiên nhiên, đất nước và khát vọng đẹp đẽ muốn làm một “mùa xuân nho nhỏ” dâng hiến cho đời.

- Đặc sắc nghệ thuật: Thể thơ năm tiếng; nhạc điệu trong sáng, thiết tha, gần gũi với dân ca; sử dụng nhiều hình ảnh đẹp, giản dị, gợi cảm; nhiều so sánh và ẩn dụ sáng tạo.

4. Sơ đồ tư duy phân tích Mùa xuân nho nhỏ

So do tu duy phan tich bai tho Mua xuan nho nho

Xem thêm chi tiết hơn: Sơ đồ tư duy Mùa xuân nho nhỏ

4. Một số nhận định về Thanh Hải và bài thơ Mùa xuân nho nhỏ

 “Cuộc đấu tranh bền bỉ, anh dũng của nhân dân miền Nam, của nhân dân Thừa Thiên, là nguồn cảm hứng chủ yếu của thơ Thanh Hải. Sau năm 1975, thơ ông càng chín hơn. Bài "Mùa xuân nho nhỏ" (1980, làm trên giường bệnh trước khi mất không lâu) là thành công tiêu biểu hơn cả.

Nói chung, thơ ông chân thật, bình dị, đôn hậu và chân thành. Tuy nhiên, ông ít đổi mới trong phong cách, nhiều khi có hiện tượng tự lặp lại mình. Đối với nền thơ chống Mỹ của miền Nam, Thanh Hải là một trong những cây bút có nhiều đóng góp...".

(Nhà nghiên cứu văn học Trần Hữu Tá)

"“Đất nước bốn ngàn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước”

Khái quát về đất nước Việt Nam vất vả, gian lao, đau thương, ngời sáng là điểm gặp gỡ của rất nhiều nhà thơ: Nguyễn Đình Thi từng viết: “Anh yêu em như yêu đất nước/ Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần”… Vậy mà cách nói giản dị hình ảnh quen thuộc trong thơ Thanh Hải vẫn “chạm” vào cái phần thiêng liêng trong sâu thẳm tâm hồn con người - tình yêu Tổ quốc".

(Lê Khánh Mai)

"Bài thơ không chỉ hay về ý tứ mà còn hay về nhạc điệu. Câu thơ 5 tiếng ngắt nhịp 3/2 xen với 2/3 linh hoạt… Không chỉ ngắt nhịp linh hoạt, nhà thơ còn chú ý dùng vần trắc cuối năm khổ thơ, tạo một âm vang giòn giã như thể nhịp phách tiền. Đó là các câu cuối khổ thứ nhất, thứ ba, thứ tư, thứ năm, thứ sáu…"

(Trần Đình Sử, Đọc văn học văn)

“Thơ Thanh Hải được đông đảo bạn đọc biết đến từ năm 1962… Thơ Thanh Hải khi ấy được cả miền Bắc nâng niu, coi đó là tiếng nói nhớ thương, niềm khát khao đoàn tụ của miền Nam xa cách. Từ đó, những bài thơ Thanh Hải liên tục được giới thiệu trên báo chí miền Bắc”.

(Nhà thơ Vũ Quần Phương)

“Thanh Hải là nhà thơ cách mạng. “Cái tôi” của nhà thơ cách mạng có đặc điểm nổi bật là thường gắn liền, hài hòa với “cái ta” của cộng đồng, gắn với nhân dân, đất nước.”

“Người đọc tìm thấy ở ông sự kết hợp giữa chất trí tuệ và cảm xúc, giữa lòng khát khao lí tưởng với những tình cảm riêng tư của con người”.

(Nguyễn Đăng Mạnh)

5. Một số từ ngữ, hình ảnh cần lưu ý khi phân tích Mùa xuân nho nhỏ

Phân tích hai khổ thơ đầu Mùa xuân nho nhỏ:

* Khổ 1:

- Mọc: ngôn từ “mọc” được đưa lên đầu câu nhấn mạnh đến sức sống mãnh liệt của bông hoa tím biếc nhưng cũng chính là sức sống mãnh liệt của thiên nhiên, đất trời xứ Huế ngày xuân.

- Bông hoa tím biếc: vẻ đẹp thơ mộng, lãng mạn của thiên nhiên mùa xuân, sắc tím còn là nét đặc trưng của xứ Huế mộng mơ, trầm tư, cổ kính.

- Ơi: tiếng gọi thân thân, trìu mến.

- Hót chi: "chi" là ngôn ngữ địa phương của người miền Trung. "Hót chi" thể hiện sự da diết, tha thiết của tác giả trước tiếng hót vang trời của tiếng chim chiền chiện.

- Giọt long lanh: Gợi nhiều liên tưởng, ở đây có thể hiểu là giọt sương sớm mai long lanh, cũng có thể hiểu là những giọt âm thanh. Như vậy, tác giả đón nhận mùa xuân bằng thị giác và xúc giác.

- Hứng: Thái độ trân trọng, nâng niu.

* Khổ 2:

- Lộc: hình ảnh mang tính biểu tượng cao.

+ Lộc trong “Mùa xuân người cầm súng”: lộc của người lính với cành lá ngụy trang.

+ Lộc trong “Mùa xuân người ra đồng”: lộc trải dài nương mạ của những người nông dân lao động sản xuất.

* Khổ 3:

- Đất nước bốn nghìn năm: Nhấn mạnh đến chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc với bao thăng trầm, vất vả, gian lao.

- Đất nước như vì sao: Khẳng định niềm tin vững chắc của tác giả với tương lai đất nước tươi sáng, rạng ngời.

Phân tích khổ 4 - 5 bài Mùa xuân nho nhỏ

* Khổ 4:

- Chim hót, cành hoa, nốt trầm xao xuyến: khát vọng hóa thân vào những hình ảnh giản dị, gần gũi, thân thuộc. Mỗi hình ảnh đều mang lại ý nghĩa riêng làm đẹp cho đời.

* Khổ 5:

- Mùa xuân nho nhỏ: “Mùa xuân” chính là cuộc đời của tác giả đã lặng lẽ cống hiến. Đó là cái nho nhỏ của một tâm hồn khiêm nhường, bình dị, tự ý thức về trách nhiệm, vai trò bản thân trong mùa xuân chung của đất nước.

- Dâng: thể hiện nguyện ước cống hiến chân thành.

- Tuổi hai mươi, khi tóc bạc: nhấn mạnh ngọn lửa nhiệt tình cống hiến của tác giả dù là tuổi xuân hay khi đã về già.

Dàn ý phân tích bài Mùa xuân nho nhỏ

Từ những luận điểm đã xác định ở trên, ta có thể triển khai một dàn ý phân tích Mùa xuân nho nhỏ cơ bản và chi tiết như sau:

Mẫu dàn ý khái quát 3 phần

- Mở bài: Giới thiệu khái quát về Thanh Hải và bài thơ Mùa xuân nho nhỏ. Tham khảo ngay những mẫu mở bài Mùa xuân nho nhỏ tối ưu nhất.

- Thân bài: Triển khai 4 luận điểm phân tích Mùa xuân nho nhỏ đã nêu ở phần trên thành các đoạn văn theo hình thức diễn dịch hoặc quy nạp, sau đó sắp xếp các đoạn văn theo thứ tự logic hợp lí.

- Kết bài: Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ Mùa xuân nho nhỏ.

Mẫu dàn ý chi tiết phân tích Mùa xuân nho nhỏ

1. Mở bài

- Giới thiệu vài nét về tác giả Thanh Hải và bài thơ Mùa xuân nho nhỏ:

Thanh Hải (1930 - 1980) là một nhà thơ hiện đại yêu nước, yêu cách mạng, có công xây dựng nền văn hóa cách mạng ở miền Nam trong giai đoạn đầu.

+ Mùa xuân nho nhỏ (1980) là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của ông được viết khi ông đang nằm trên giường bệnh.

2. Thân bài phân tích Mùa xuân nho nhỏ

a) Hoàn cảnh sáng tác bài thơ

- Bài thơ được Thanh Hải viết vào tháng 11 mùa đông năm 1980, thời kỳ đất nước đã thống nhất và đang trên đà xây dựng cuộc sống mới giữa vô vàn khó khăn, thử thách, bản thân tác giả đang còn nằm trên giường bệnh, một tháng trước lúc qua đời vì bệnh hiểm nghèo.

- Bài thơ là nỗi lòng của tác giả về yêu mến tha thiết với cuộc đời, đất nước mong muốn cống hiến góp mùa xuân nho nhỏ của mình vào mùa xuân của đất nước, dân tộc. Có thể nói, bài thơ như một lời tâm niệm chân thành của tác giả, gửi gắm triết lý về lẽ sống cao cả, đẹp đẽ đến thế hệ sau.

b) Phân tích nội dung bài thơ Mùa xuân nho nhỏ

* Luận điểm 1: Cảm xúc trước mùa xuân thiên nhiên đất trời (Phân tích khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ)

- Bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp:

+ Cảnh thiên nhiên nhẹ nhàng, nên thơ, màu sắc hài hòa gợi cảm: hoa tím, sông xanh, bầu trời cao rộng,...

+ Âm thanh: tiếng chim chiền chiện báo xuân về như kết tinh thành “từng giọt long lanh”.

+ Màu sắc: màu xanh của dòng sông, màu tím của hoa

-> Những sự vật là tín hiệu đặc trưng, báo hiệu cho mùa xuân xứ Huế đã đến.

=> Nghệ thuật đảo từ “mọc“ và từ “một” tạo sự đột ngột để tô đậm vẻ đẹp và sức sống của hoa.

- Sử dụng từ cảm thán “ơi” và “chi”, tác giả đã khiến người đọc liên tưởng đến một chất giọng ngọt ngào, thân thương của một người con xứ Huế, đang bày tỏ cảm xúc trước thiên nhiên.

- Cảm xúc và tấm lòng trân trọng của tác giả trước thiên nhiên, cuộc đời:

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng

+ Nhà thơ có cái nhìn trìu mến với cảnh vật

+ Đưa tay ra “hứng” "Giọt long lanh": là giọt sương mai hay giọt mưa xuân buổi sáng - hình ảnh thơ đa nghĩa, ở đây được hiểu theo nghĩa ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, từ chỗ âm thanh được cảm nhận bằng thính giác chuyển sang cảm nhận bằng thị giác và xúc giác “đưa tay hứng”. Từ thính giác sang xúc giác, chính mùa xuân đã khiến cho mọi giác quan trong cơ thể người bừng tỉnh.

+ Điệp từ “tôi” hai lần kết hợp với hành động “hứng” cho thấy sự trân trọng của thi nhân trước vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên.

=> Cảm xúc ngây ngất trước vẻ đẹp của mùa xuân của thiên nhiên, khao khát hòa mình với thiên nhiên đất trời.

* Luận điểm 2: Cảm xúc trước mùa xuân của đất nước (khổ thơ 2, 3)

- Sáng tạo của tác giả thể hiện qua việc dùng từ “lộc” và hình ảnh “người cầm súng”, “người ra đồng”, “lộc giắt quanh lưng”, “lộc trải dài nương mạ” -> Sức sống mạnh mẽ, khí thế đi lên của dân tộc.

+ Hình ảnh lộc xuân trên “nương mạ” là hình ảnh đẹp về cuộc sống lao động kiến thiết đất nước của lực lượng sản xuất

+ Hình ảnh người cầm súng trên đường ra trận mang trên vai cành lá ngụy trang, và niềm tin vào ngày mai hòa bình

- Các từ láy “hối hả”, “xôn xao”, điệp từ “tất cả” với nhịp thơ nhanh, gấp, để chỉ nhịp sống lao động khẩn trương, tưng bừng, niềm vui rạo rực lòng người.

- So sánh “Đất nước như vì sao”: nâng đất nước lên tầm cao mới đẹp đẽ, kì vĩ khẳng định sự trường tồn bền vững

-> Nhà thơ tin tưởng và tự hào vào tương lai tươi sáng của đất nước cho dù trước mắt trải qua nhiều khó khăn, gian khổ.

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước

- Tác giả không quên nhắc nhở mọi người nhớ về những tháng ngày gian khổ trong chiến đấu, cách mạng

- Phụ từ “cứ” kết hợp với động từ “đi lên” thể hiện quyết tâm cao độ, hiên ngang tiến lên phía trước dù khó khăn gian khổ.

-> Niềm tự hào đối với quê hương, đất nước mình, lạc quan tin tưởng vào sức sống, sự vươn lên mạnh mẽ của đất nước, dân tộc.

* Luận điểm 3: Ước nguyện chân thành, giản dị được cống hiến của tác giả (khổ 4 và 5)

Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến

- “Ta làm”: khẳng định sự tự nguyện mang niềm vui đến cho cuộc đời.

- “Ta làm con chim hót”, "làm cành hoa”, “một nốt trầm”: tác giả khao khát hóa thân thành những thứ bình dị để làm đẹp cho cuộc đời, nguyện vọng nhỏ nhoi nhưng mãnh liệt, cháy bỏng.

- Đại từ “Ta”: vừa chỉ số ít, vừa chỉ số nhiều: vừa diễn tả niềm riêng và cái chung.

-> Đó vừa là tâm niệm chân thành của nhà thơ và cũng là khát vọng cống hiến cho đời chung của nhiều người, muốn góp sức mình làm nên mùa xuân đẹp tươi của thiên nhiên, của tạo vật của đất nước.

- Các từ láy “lặng lẽ”, “nho nhỏ” là cách nói khiêm tốn, chân thành của nhân cách sống cao đẹp khi hướng tới việc góp vào lợi ích chung của dân tộc một cách âm thầm và lặng lẽ.

- Mùa xuân nho nhỏ là một ẩn dụ đầy sáng tạo của nhà thơ khi thể hiện thiết tha, cảm động khát vọng được cống hiến và sống ý nghĩa.

- Điệp từ “dù là” khiến âm điệu câu thơ trở nên thiết tha, lắng đọng:

“Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc”

+ Hoán dụ người tóc bạc, tuổi 20 -> tuổi trẻ -> tuổi già -> Sự cống hiến không kể tuổi tác, thứ bậc, giới tính, giai cấp.

=> Dù đang nằm trên giường bệnh nhưng tác giả vẫn tha thiết với cuộc đời, tâm niệm tràn đầy nhiệt huyết, mong muốn sống đẹp và hữu ích, tận hiến cho cuộc đời chung.

* Luận điểm 4: Ngợi ca quê hương đất nước qua điệu hát dân ca Huế (khổ cuối)

- Cách gieo vần "bình, minh, tình": thể hiện chất nhạc dân ca xứ Huế.

- Cách gieo vần phối âm khá độc đáo: câu đầu và câu cuối kết thúc bằng hai thanh trắc hát, Huế.

=> Cả bài thơ giống như làn điệu dân ca Huế mượt mà, trữ tình và sâu lắng.

- “Mùa xuân ta xin hát”: không chỉ mở ra không gian nó còn mở ra niềm tự hào về lối sống nghĩa tình của cha ông.

- Bài thơ khép lại với điệu Nam ai, Nam bình của xứ Huế để ca ngợi vẻ đẹp và nỗi niềm của người con xứ Huế

- Khúc ca còn ngân vang mãi từ tâm hồn của người lạc quan, yêu đời, khát khao sống có ích.

=> Bài thơ thể hiện lòng yêu thiên nhiên, đất nước con người, sự cống hiến thầm lặng, mối quan hệ cá nhân và cộng đồng.

c) Đánh giá về đặc sắc nghệ thuật

- Thể thơ năm chữ, gần với các làn điệu dân ca.

- Bài thơ giàu nhạc điệu, âm hưởng nhẹ nhàng, thiết tha

- Hình ảnh tự nhiên, giản dị kết hợp với hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng khái quát.

- Câu từ chặt chẽ, sự phát triển tự nhiên của hình ảnh mùa xuân với các phép tu từ đặc sắc.

3. Kết bài

- Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ: Bài thơ là lời tâm niệm chân thành, gửi gắm tha thiết của nhà thơ để lại với đời; niềm khát khao, niềm mong mỏi có thể tiếp tục cống hiến “mùa xuân nho nhỏ” cho cuộc đời này.

- Liên hệ khát vọng cống hiến của bản thân và thế hệ trẻ ngày nay.

TOP 10+ bài văn mẫu hay phân tích Mùa xuân nho nhỏ (Thanh Hải)

Dưới đây là một số bài văn mẫu phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ hay do Đọc Tài Liệu sưu tầm  và tổng hợp được dành cho các em tham khảo. Hi vọng bài viết đã mang đến những thông tin kiến thức hữu ích cũng như bổ sung thêm vốn từ ngữ phần nào giúp các em tự tin hơn trước khi bắt tay vào viết bài.

Phân tích Mùa xuân nho nhỏ mẫu số 1: Những ước nguyện cao đẹp của Thanh Hải

Trong bài thơ Con chim chiếc lá, Tố Hữu có viết: “Nếu là con chim, con chim phải hót/ Nếu là chiếc lá chiếc lá phải xanh/ Lẽ nào vay mà không trả/ Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”. Và lẽ sống cao đẹp ấy cũng được nhà thơ Thanh Hải thể hiện thật cảm động trong bài thơ Mùa xuân nho nhỏ. Bài thơ được viết vào trước lúc nhà thơ giã biệt cuộc đời chỉ khoảng một tháng, để thể hiện niềm yêu thiết tha với cuộc sống, đất nước, quê hương và ước nguyện cao đẹp của tác giả.

Về nhan đề “Mùa xuân nho nhỏ”, được hiểu theo nghĩa thực là nói về mùa đầu tiên trong một năm, với sự tươi đẹp, tràn trề sức sống của đất trời, là cái mùa mà ông hoàng thơ tình Xuân Diệu cả một đời trăn trở, nuối tiếc. Thế nhưng ý nghĩa của nhan đề không chỉ dừng lại ở nghĩa thực mà ở đây nó còn chỉ phần tuổi trẻ đẹp đẽ nhất của mỗi con người, hoặc cũng là để chỉ phần đẹp đẽ nhất trong tâm hồn con người, cùng với những khao khát được dâng hiến cái mùa xuân, phần đẹp đẽ nhất cuộc đời của mình cho mùa xuân lớn của cuộc đời. Hai từ “mùa xuân” đứng bên cạnh từ “nho nhỏ” thể hiện thái độ khiêm nhường và vô cùng chân thành của nhà thơ Thanh Hải, làm nổi bật chủ đề của tác phẩm.

“Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay hứng về”

Ở khổ thơ đầu ta thấy hiện lên bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp, thanh mát với những gam màu sắc hài hòa cộng hưởng với âm thanh vang vọng rộn rã báo hiệu một mùa xuân rất sống động, trẻ trung. Bằng bút pháp chấm phá chỉ gợi chứ không tả thường thấy trong thi ca Việt Nam, nhà thơ Thanh Hải đã vẽ ra bức tranh thiên nhiên mùa xuân chỉ bằng một “dòng sông xanh” mang lại cảm giác hiền hòa, trong trẻo, thanh khiết của mùa xuân, cùng với “một bông hoa tím biếc”, khác với vẻ buồn mộng mơ thường thấy, thì màu “tím biếc” trong bài thơ của Thanh Hải lại khắc họa một cách rõ nét về sự thay đổi của cảnh một thiên nhiên, sự biến đổi của đất trời, từ màu xanh sang màu tím, nhấn mạnh sự rực rỡ, thanh nhã khi mùa xuân đến. Bông hoa ấy cũng là đại diện cho muôn hoa đang khoe sắc, vẽ ra một khung cảnh thanh bình và tĩnh lặng vô cùng. Và giữa một dòng sông xanh, sông xanh vì màu nước hay vì màu trời, cũng đều gợi ra một khoảng trời quang đãng, trong xanh. Và trên đó người ta nhìn thấy chú chim chiền chiện bay lượn, nhào lộn vẽ ra những nét rất vui nhộn, rất thần tình, giữa khung cảnh nên thơ, nước xanh biếc, hoa tím biếc, trời thăm thẳm thì tiếng hót của chú chim lại càng trở nên khoáng đạt, rộng rãi và vang vọng hơn.

Thể hiện sức sống mãnh liệt, tràn ngập đang lan tràn trong không gian, đến mức âm thanh ấy dường như thánh thót đọng lại thành từng giọt “long lanh” trong tâm hồn tác giả, khiến ông xúc động muốn đưa đôi tay hứng về, như hứng lấy cái mùa xuân tươi đẹp của xứ Huế. Và trước sự tươi đẹp của bức tranh nhà thơ đã bộc lộ cảm xúc của mình một cách rất mãnh liệt bằng từ cảm thán “Ơi” thể hiện sự hào hứng, phiêu bồng cùng chú chim nhỏ giữa khung cảnh mùa xuân, chứa một xúc cảm gì đó rất lãng mạn, rất thi sĩ.

“Mùa xuân người cầm súng

Lộc giắt đầy quanh lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương lúa

Đất nước bốn ngàn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao

Vững vàng phía trước”

Sau những vần thơ đầy cảm xúc vui tươi về mùa xuân của thiên nhiên, nhà thơ Thanh Hải bắt đầu nói về mùa xuân của đất nước với những phương diện khác nhau. Có thể thấy rõ rằng mùa xuân của đất nước được tạo nên từ hai nhiệm vụ cơ bản ấy là nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc của “mùa xuân người cầm súng” và nhiệm vụ xây dựng đất nước của “mùa xuân người ra đồng”. Hình ảnh ẩn dụ “lộc” và phép điệp từ này, khiến người đọc liên tưởng đến khí thế chiến đấu và lao động khẩn trương, hăng hái trên mảnh đất quê hương. Đối với người lính chiến đấu, hình ảnh “lộc” trước hết là để chỉ những nhành cây ngụy trang đeo trên lưng người lính, thứ hai chính là để chỉ thành quả cách mạng vẻ vang mà người lính đi chiến đấu bao năm đạt được. Còn đối với người lao động, thì “lộc” chính là để chỉ những thành quả quý giá trong suốt quá trình lao động sản xuất. Nếu thành quả gắn với người lính là sự tự do, độc lập, hạnh phúc của dân tộc, thì thành quả gắn với người lao động chính là sự ấm no, sung túc, giàu có, là sự đổi mới là sức xuân đang dâng trào mãnh liệt trên quê hương.

Có thể nói rằng chiến đấu và xây dựng đất nước đã là hai nhiệm vụ, hai yếu tố song hành cùng với nhau trong suốt hơn 4000 năm văn hiến lịch sử của dân tộc. Mùa xuân của đất nước đã được dựng lên từ cuộc đời từ mùa xuân của biết bao nhiêu thế hệ đi trước, có vất vả, có gian lao, của những con người không ai nhớ mặt đặt tên, của biết bao trai gái, già trẻ. Để cuối cùng ta có một đất nước xuân sắc, trường tồn sáng mãi như những vì sao, vững vàng tiến bước về phía trước, một đất nước đẹp hiên ngang, rực rỡ huy hoàng, một đất nước của những con người đảm đang, trung hậu, kiên cường. Bên cạnh đó phép so sánh “Đất nước như vì sao” còn thể hiện lòng tự hào, yêu thương của Thanh Hải với dải đất hình chữ S, nâng tầm Tổ quốc sánh ngang với tầm vóc vũ trụ, đẹp đẽ, rực rỡ và vĩ đại, khiến người người thiết tha ngưỡng mộ, tự hào.

“Ta làm con chim hót

Ta làm một nhành hoa

Một nốt trầm xao xuyến

Ta hát trong hòa ca

Mùa xuân, mùa xuân

Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Mùa xuân mùa xuân”

Ở hai khổ thơ trên chính là ước nguyện, là tấm lòng khao khát dâng hiến cho cuộc đời của nhà thơ Thanh Hải, mà có lẽ đâu đó trong bài hát Tự nguyện ta đã từng nghe có những câu rất hay “Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng. Nếu là hoa, tôi sẽ là một đóa hướng dương. Nếu là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm. Là người, tôi sẽ chết cho quê hương", cũng mang cùng một tinh thần, một ý thức như của tác giả Thanh Hải. Nhà thơ muốn làm chú chim để thỏa sức bay lượn, tặng cho đời những tiếng hót vui tai, những âm thanh tuyệt diệu, tô điểm thêm cho bức tranh cuộc sống muôn màu. Nhà thơ muốn làm một nhành hoa để cho đời thứ hương sắc trong trẻo như bông hoa tím biếc, mọc giữa dòng sông xanh, làm cho cuộc đời, làm cho mùa xuân thêm đẹp đẽ, tươi sáng hơn. Và dẫu là cánh chim hay nhành hoa thì đều là những vật vô cùng nhỏ bé, là một “nốt trầm xao xuyến” hòa vào bản giao hưởng mùa xuân, là một mùa xuân nho nhỏ góp vào trong mùa xuân lớn của cuộc đời của đất nước. Ước vọng của nhà thơ Thanh Hải thật giản đơn, thật khiêm nhường, sự chân thành tuyệt đối, thể hiện lòng yêu cuộc đời tha thiết, mãnh liệt, thể hiện vẻ đẹp trong tâm hồn của một thi nhân đã ở tuổi gần đất xa trời, nhưng tâm hồn vẫn trong trẻo và xuân sắc vô cùng.

“Mùa xuân tôi xin hát

Khúc Nam Ai Nam Bằng

Nước non ngàn dặm mình

Nước non ngàn dặm tình

Đất Huế nhịp phách tiền”

Từ ước nguyện khiêm nhường, nhưng cháy bỏng và mãnh liệt của mình Thanh Hải đã khép lại bài thơ bằng những vần thơ gợi nhớ về xứ Huế mộng mơ. Tâm hồn thi sĩ được cất cao, bay bổng, yêu đời hơn nhờ những điệu Nam Ai, Nam Bình ngọt ngào, thể hiện sự gắn bó tha thiết với mảnh đất quê hương khi mở đầu tác phẩm là mùa xuân xứ Huế và kết thúc tác phẩm chính là một điệu hò đậm chất Huế thân yêu.

Mùa xuân nho nhỏ là một bài thơ rất hay, bởi âm điệu trầm bổng, ngân nga, câu từ giản dị nhưng sâu sắc. Bộc lộ được tấm lòng yêu mến mùa xuân của thiên nhiên, mùa xuân của đất nước, và những khát khao cháy bỏng, mãnh liệt được dâng hiến hết cái phần đẹp đẽ, một mùa xuân nho nhỏ mang tên Thanh Hải cho cuộc đời này bằng những xúc cảm chân thành, tha thiết, khiêm nhường, giản dị của một con người sắp đi xa. Và có lẽ rằng tác phẩm Mùa xuân nho nhỏ chính là cống hiến, chính là mùa xuân mà tác giả đã để lại cho đời, cho nền văn học Việt Nam một cách chân thành và đáng quý nhất với vai trò là một thi nhân.

Phân tích Mùa xuân nho nhỏ mẫu số 2: Thanh Hải đã góp cho vườn thơ Việt một bài thơ xuân đẹp

Thanh Hải là nhà thơ tiêu biểu của mảnh đất cố đô xinh đẹp, ông nổi tiếng với những vần thơ mượt mà, sâu lắng mang đậm văn hóa con người xứ Huế. Mùa xuân nho nhỏ là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông. Bài thơ được ông viết vào năm 1980, trong khung cảnh hòa bình, trong công cuộc xây dựng đất nước. Một hồn thơ trong trẻo. Một điệu thơ ngân vang Đất nước vào xuân vui tươi rộn ràng.

Sáu câu thơ đầu như tiếng hát reo vui đón chào một mùa xuân đẹp đã về. Trên dòng sông xanh của quê hương mọc lên một bông hoa tím biếc. Động từ "mọc" nằm ở vị trí đầu câu thơ gợi tả sự ngạc nhiên vui thú, một niềm vui hân hoan đón chào tín hiệu mùa xuân:

Mọc giữa dòng sông xanh,

Một bông hoa tím biếc.

"Bông hoa tím biếc" ấy chỉ có thể là hoa lục bình, hoặc hoa súng mà ta thường gặp trên ao hồ, sông nước làng quê:

Con sông nhỏ tuổi thơ ta tắm

Vẫn còn đây nước chẳng đổi dòng

Hoa lục bình tím cả bờ sông...

(Trở về quê nội - Lê Anh Xuân)

Màu xanh của nước hòa hợp với màu "tím biếc" của hoa đã tạo nên bức tranh xuân chấm phá mà đằm thắm. Ngẩng nhìn bầu trời, nhà thơ vui sướng lắng tai nghe chim chiền chiện hót. Chim chiền chiện còn gọi là chim sơn ca, bạn thân của nhà nông. Từ "ơi" cảm thán biểu lộ niềm vui ngây ngất khi nghe chim hót:

Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời.

Hai tiếng ''hót chi" là giọng điệu thân thương của người dân Huế được tác giả đưa vào diễn tả cảm xúc thiết tha giữa người với tạo vật. Chim chiền chiện hót gọi xuân về. Tiếng chim ngân vang, rung động đất trời đem đến bao niềm vui. Ngắm dòng sông, nhìn bông hoa đẹp, nghe chim hót, nhà thơ bồi hồi sung sướng:

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng

"Đưa tay... hứng" là một cử chỉ bình dị trân trọng, thể hiện sự xúc động sâu xa. "Giọt long lanh" là sự liên tưởng đầy chất thơ. Là giọt sương mai, hay giọt âm thanh tiếng chim chiền chiện? Sự chuyển đổi cảm giác (thính giác - thị giác) đã tạo nên hình khối thẩm mĩ của âm thanh. Tóm lại, chỉ bằng ba nét vẽ: dòng sông xanh, bông hoa tím biếc, tiếng chim chiền chiện hót, Thanh Hải đã vẽ nên một bức tranh xuân đẹp và đáng yêu vô cùng. Đó là vẻ đẹp và sức sống mặn mà của đất nước vào xuân.

Bốn câu thơ tiếp theo nói về mùa xuân sản xuất và chiến đấu của nhân dân ta. Cấu trúc thơ song hành để chỉ rõ hai nhiệm vụ chiến lược ấy:

Mùa xuân người cầm súng,

Lộc giắt đầy trên lưng.

Mùa xuân người ra đồng,

Lộc trải dài nương mạ.

"Lộc” là chồi non, cành biếc mơn mởn. Khi mùa xuân về cây cối đâm chồi nẩy lộc. "Lộc" trong văn cảnh này tượng trưng cho vẻ đẹp mùa xuân và sức sống mãnh liệt của đất nước. Người lính khoác trên lưng vành lá ngụy trang xanh biếc, mang theo sức sống mùa xuân, sức mạnh của dân tộc để bảo vệ Tổ quốc. Người nông dân đem mồ hôi và sức lao động cần cù làm nên màu xanh cho ruộng đồng, "nương mạ" bát ngát trên quê hương. Ý thơ vô cùng sâu sắc: máu và mồ hôi của nhân dân đã góp phần tô điểm mùa xuân và để giữ lấy mùa xuân mãi mãi.

Cả dân tộc bước vào mùa xuân với khí thế khẩn trương và náo nhiệt:

Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao...

"Hối hả" nghĩa là vội vã, gấp gáp, khẩn trương. "Xôn xao" là có nhiều âm thanh xen lẫn vào nhau, làm cho náo động; ở trong câu thơ, "xôn xao" cùng với điệp ngữ "tất cả như..." làm cho nhạc thơ vang lên nhịp điệu vui tươi, mạnh mẽ khác thường. Đó là hành khúc mùa xuân của thời đại Hồ Chí Minh.

Đoạn thơ tiếp theo nói lên những suy tư của nhà thơ về đất nước và nhân dân:

Đất nước bốn nghìn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước.

Chặng đường lịch sử của đất nước với bốn nghìn năm trường tồn, lúc suy vong, lúc hưng thịnh với bao thử thách "vất vả và gian lao". Thời gian đằng đẵng ấy, nhân dân ta từ thế hệ này qua thế hệ khác đã đem xương máu và mồ hôi, lòng yêu nước và tinh thần quả cảm để xây dựng và bảo vệ đất nước. Dân ta tài trí và nhân nghĩa. Bốn nghìn năm lập quốc tỏa sáng nền văn hiến Đại Việt, đã khẳng định sức mạnh Việt Nam. Câu thơ "Đất nước như vì sao" là một hình ảnh so sánh đẹp và đầy ý nghĩa. Sao là nguồn sáng lấp lánh, là vẻ đẹp bầu trời, vĩnh hằng trong không gian và thời gian. So sánh đất nước với vì sao là biểu lộ niềm tự hào đối với đất nước Việt Nam anh hùng, giàu đẹp. Hành trang đi tới tương lai của dân tộc ta không một thế lực nào có thể ngăn cản được: "Cứ đi lên phía trước". Ba tiếng "cứ đi lên" thể hiện chí khí, quyết tâm và niềm tin sắt đá của dân tộc để xây dựng một Việt Nam "dân giàu, nước mạnh".

Sau lời suy tư là điều tâm niệm của Thanh Hải. Trước hết là lời nguyện cầu được hóa thân:

Ta làm con chim hót

Ta làm một nhành hoa

Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến.

"Con chim hót" để gọi xuân về, đem đến niềm vui cho con người. "Một nhành hoa" để tô điểm cuộc sống, làm đẹp thiên nhiên sông núi. "Một nốt trầm" của bản "hòa ca" êm ái để làm xao xuyến lòng người, cổ vũ nhân dân. "Con chim hót", "một nhành hoa", "một nốt trầm" là ba hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho cái đẹp, niềm vui, cho tài trí của đất nước và con người Việt Nam.

Với Thanh Hải, hóa thân là để hiến dâng, để phục vụ cho một mục đích cao cả:

Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc.

Lời thơ tâm tình thiết tha. Mỗi con người hãy trở thành "một mùa xuân nho nhỏ" để làm nên mùa xuân bất diệt của đất nước. Ai cũng phải có ích cho đời. Mùa xuân nho nhỏ, là một ẩn dụ đầy sáng tạo khắc sâu ý tưởng: "Mỗi cuộc đời đã hóa núi sông ta" (Nguyễn Khoa Điềm). "Nho nhỏ" và "lặng lẽ" là cách nói khiêm tốn, chân thành. "Dâng cho đời" là lẽ sống đẹp, cao cả. Bởi lẽ "Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình" (Tố Hữu), sống hết mình thủy chung cho đất nước, đem cả cuộc đời mình phục vụ đất nước, từ lúc "tuổi hai mươi" trai tráng cho đến khi về già "tóc bạc". Thơ hay là ở cảm xúc chân thành. Thanh Hải đã nói lên những lời "gan ruột" của mình. Ông đã sống như lời thơ ông tâm tình. Khi đất nước bị Mĩ - Diệm và bè lũ tay sai âm mưu chia cắt làm hai miền, ông hoạt động bí mật trong vùng giặc, gây dựng phong trào cách mạng, coi thường cảnh máu chảy đầu rơi. Cảm động hơn nữa là bài thơ Mùa xuân nho nhỏ được ông viết ra trên giường bệnh, một tháng trước lúc ông qua đời.

Thanh Hải sử dụng biện pháp nghệ thuật điệp ngữ rất tài tình: "Ta làm... ta làm... ta nhập...", "dù là tuổi... dù là khi..." đã làm cho âm điệu thơ, giọng thơ tha thiết, sâu lắng, ý thơ được khắc sâu và nhấn mạnh. Người đọc xúc động biết bao trước một giọng điệu thơ trữ tình, ấm áp tình đời như vậy. Có thể xem đoạn thơ này là những lời trăn trối của ông.

Khổ thơ cuối là tiếng hát yêu thương:

Mùa xuân - ta xin hát

Câu Nam ai, Nam bình

Nước non ngàn dặm mình

Nước non ngàn dặm tình

Nhịp phách tiền đất Huế.

Nam ai và Nam bình là hai điệu dân ca Huế rất nổi tiếng mấy trăm năm nay. Phách tiền là một nhạc cụ dân tộc để điểm nhịp cho lời ca, tiếng đàn tranh, đàn tam thập lục. Câu thơ "Mùa xuân - ta xin hát" diễn tả niềm khao khát bồi hồi của nhà thơ đối với quê hương yêu dấu buổi xuân về. Quê hương đất nước trải dài ngàn dặm, chứa chan tình yêu thương. Đó là "ngàn dặm mình", "ngàn dặm tình" đối với non nước và xứ Huế quê mẹ thân thương! Câu thơ của người con đất Huế quả là "dịu ngọt" vậy.

Mùa xuân là đề tài truyền thống trong thơ ca dân tộc. Có thể nói, Thanh Hải đã góp cho vườn thơ Việt một bài thơ xuân đẹp, đậm đà tình nghĩa. Thể thơ năm chữ, giọng thơ lúc mạnh mẽ, lúc tha thiết ngân vang. Ngôn ngữ thơ trong sáng và hiểu cảm, hàm súc và hình tượng. Các biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ song hành đối xứng, các điệp ngữ... được vận dụng sắc sảo, tài hoa. Tình yêu mùa xuân gắn liền với tình yêu đất nước, quê hương được Thanh Hải diễn tả một cách sâu sắc, cảm động. Mỗi một cuộc đời hãy là một mùa xuân. Đất nước ta mãi mãi sẽ là những mùa xuân tươi đẹp.

Mẫu số 3: Phân tích Mùa xuân nho nhỏ của khát khao sống mãnh liệt

Mùa xuân trong thi ca là đề tài được nhiều nhà thơ khai thác. Mùa xuân là mùa của tuổi trẻ, là mùa của khát khao sống mãnh liệt, là mùa của niềm tin vào cuộc đời. Nhà thơ Thanh Hải, một người con của mảnh đất Huế thân yêu đã có bài thơ vô cùng hay viết về mùa xuân đó chính là bài thơ Mùa xuân nho nhỏ. Điều tuyệt vời nhất là ông sáng tác bài thơ này khi đang nằm trên giường bệnh. Một người đang đau ốm mà vẫn cảm nhận được cái đẹp của mùa xuân. Chao ôi, mùa xuân ấy mới đẹp làm sao.

Suốt cuộc đời của mình, nhà thơ Thanh Hải đã cống hiến cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc qua cả hai cuộc đấu tranh chống Mỹ và chống Pháp. Cái khát vọng được dâng hiến cuộc đời mình cho Tổ quốc luôn ẩn chứa trong con người tác giả. Điều này thể hiện rất rõ qua tác phẩm Mùa xuân nho nhỏ. Có thể xem đây là bài thơ, là món quà cuối cùng mà Thanh Hải dành tặng cho chúng ta, dành tặng cho chính cuộc đời của ông.

Mặc dù đang ở trong tâm thế là người bệnh nhưng nhà thơ Thanh Hải viết lên những vần thơ không hề có sự buồn bực của một người sắp lìa xa cõi đời. Ngược lại, câu thơ của ông chứa đựng nét thiết tha và thanh thản. Một giọng văn đầy cởi mở và tươi mới. Tác giả đã nhìn thấy cảnh sắc của một mùa xuân mới thông qua một ô cửa sổ nhỏ, lắng nghe được tiếng gọi của mùa xuân một cách đầy tinh tế:

Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng

Màu tím là một màu sắc đặc trưng của xứ Huế. Chúng ta vẫn nói Huế tím mộng mơ là vì thế. Màu tím biếc của bông hoa nổi bật lên giữa màu xanh của dòng sông. Đó là những bông hoa bèo đầy dân dã. Mặc dù tả màu tím của hoa nhưng khi đọc lên người đọc lại liên tưởng đến cả màu tím của tà áo dài của những cô gái Huế. Chúng mỏng manh và thật gợi tình. Từ chỗ nhìn thấy, tác giả bắt đầu nghe thấy. Đó là âm thanh của tiếng chim chiền chiện đang hót vang trời. Chim chiền chiện là loài chim thường xuất hiện nhiều vào mùa xuân. Hình ảnh chim “hót chi mà vang trời” biểu lộ cho một sự vui tươi của cảnh vật và của chính nhà thơ nữa. Cảnh vật đẹp như vậy nên nhà thơ muốn ôm trọn vào lòng mình. Muốn hứng lấy từng giọt long lanh của đất trời. “Giọt long lanh”, đó có thể là giọt sương mai, cũng có thể là tiếng chim hót được nhà thơ viết theo một lối chơi chữ tài tình. Hiểu theo cách nào thì cũng đủ để người đọc cảm nhận được sự trân quý của tác giả Thanh Hải đối với cảnh đẹp thiên nhiên.

Sau khi cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên, tác giả lại cảm nhận vẻ đẹp của mùa xuân đất nước qua hình ảnh những người chiến sĩ, những người nông dân bám mình trên đồng ruộng:

Mùa xuân người cầm súng

Lộc giắt đầy quanh lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương mạ

Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao…

Ở khổ thơ này tuy tác giả không nhắc đến màu xanh nhưng ta lại thấy màu xanh ngập tràn cả khổ thơ. Đó là màu xanh của lá cây mà những người chiến sĩ giắt đầy quanh mình ngụy trang, đó là màu xanh của nương mạ gieo ngoài đồng vào mùa xuân. Mùa xuân, người lính thì ra chiến trường, người nông dân thì ra đồng cày cấy và trở thành hậu phương vững chắc cho tiền tuyến. Mỗi người mỗi công việc nhưng ai cũng hối hả, ai cũng xôn xao. Họ tìm thấy niềm vui trong việc mà họ đang làm. Chính họ là những người đã đem mùa xuân đến cho Tổ quốc của chúng ta. Dấu chấm lửng ở cuối đoạn thơ như ý muốn nói mùa xuân ấy vẫn sẽ còn tiếp diễn đời này qua đời khác. Bốn câu thơ tiếp theo chính là thể hiện cho sự tiếp nối ấy:

Đất nước bốn nghìn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước

Câu thơ là một sự tự hào của tác giả đối với đất nước. Trải qua hơn bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, nhân dân ta đã phải hứng chịu biết bao nhiêu nỗi vất vả và nhọc nhằn. Thế nhưng sau tất cả, tinh thần dân tộc vẫn giúp chúng ta đi lên. Tác giả ví “đất nước như vì sao” bởi lẽ những ngôi sao lúc nào cũng sáng lấp lánh trên đầu trời đêm. Đất nước dù khó khăn cũng sẽ vững vàng mà tiến lên phía trước.

Trước sự tự hào của bản thân về đất nước, nhà thơ đã muốn hóa thân mình thành con chim, thành nhành hoa, thành nốt trầm để hiến dâng cho cuộc đời. Mong ước ấy thật giản đơn nhưng cũng thật vĩ đại:

Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến

Những điều nhà thơ mong muốn tưởng như rất bình dị nhưng chính những điều đó lại làm nên nét đẹp của cuộc đời, làm nên một bản hòa ca với những thanh âm trong trẻo. Thật đẹp biết bao tâm hồn của thi sĩ. Thật đáng quý biết bao khi ở trong hoàn cảnh như nhà thơ mà vẫn muốn được hiến dâng mình cho Tổ quốc. Mong ước của tác giả có lẽ cũng là mong ước chung của nhiều người:

Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc

Mỗi người trong chúng ta đều là một mùa xuân nhỏ, từng mùa xuân nhỏ ấy lặng lẽ dâng cho cuộc đời một mùa xuân lớn, một mùa xuân chung cho tất cả. Chẳng cần phải là vĩ nhân, chỉ cần là những người dân bình dị sống hết mình cho quê hương, Tổ quốc thì dù đầu xanh hay tóc bạc cũng đã góp phần làm nên mùa xuân rồi.

Kết bài, một khúc hát quen thuộc của Huế vang lên. Nếu như Bác Hồ trước lúc đi xa muốn nghe một câu hát dân ca thì ở đây tác giả cũng ngân vang khúc ca xứ Huế. Điều đó cho thấy tình yêu của ông dành cho quê hương mình quả là bất diệt:

Mùa xuân ta xin hát

Khúc Nam ai, Nam Bình

Nước non ngàn dặm tình

Nước non ngàn dặm mình

Nhịp phách tiền đất Huế.

Bao nhiêu tâm tư, tác giả đều đã gửi gắm vào trong những vần thơ. Người ta thường nói lời của người trước khi mất là những lời chân thực nhất. Qua những vần thơ của Thanh Hải, người đọc hẳn cũng đã cảm nhận được cái chân thành trong con người ông. Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ mang đến cho người đọc ý nghĩa của cuộc sống, mang đến cho con người ta khát vọng về niềm vui sống mãnh liệt. Viết về mùa xuân nho nhỏ nhưng lại nói lên được cái tình cảm lớn lao của con người, tác giả đã để lại trong lòng người đọc nỗi xúc động trào dâng.

Mẫu số 4: Phân tích Mùa xuân nho nhỏ - xúc cảm thiết tha trước vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước

Gấp lại một trang thơ, điều mà người đọc quan tâm hơn cả sau những câu chữ nghệ thuật kia, đó là giá trị mà nhà thơ mang lại, những tiếng lòng góp phần thay đổi cuộc sống theo hướng tích cực hơn, nhân văn hơn. Đó mới là giá trị chân chính một tác phẩm và là sức mạnh kì diệu của văn chương. Đến với thi phẩm “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải, bạn đọc một lần nữa được cảm nhận cái hay, cái đẹp, cái ý nghĩa của những vần thơ được viết bằng tất thảy tình yêu và sự gắn bó với cuộc đời. Nhận xét về bài thơ này, có ý kiến cho rằng: “Mùa xuân nho nhỏ” (Thanh Hải) vừa thể hiện những cảm xúc trước vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước vừa nói lên ước nguyện chân thành được dâng hiến cho cuộc đời của tác giả”.

Nhà thơ Thanh Hải với cả cuộc đời từ khi sinh ra, lớn lên, sống và chiến đấu đều gắn bó tha thiết với quê hương xứ Huế, đã sáng tác nên nhiều thi phẩm đặc sắc, thể hiện phong cách thơ trong sáng, giản dị, giàu âm điệu, nhạc điệu. Qua những vần thơ ấy, “Người đọc tìm thấy ở ông sự kết hợp giữa chất trí tuệ và cảm xúc, giữa lòng khát khao lí tưởng với những tình cảm riêng tư của con người” (Nguyễn Đăng Mạnh). Mùa xuân nho nhỏ là một thi phẩm đặc sắc của Thanh Hải. Bài thơ ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt, tháng 11 năm 1980, khi đó tác giả đang nằm trên giường bệnh chiến đấu với căn bệnh quái ác. Đất nước ta lúc bấy giờ vừa bước ra khỏi chiến tranh, còn đó là biết bao khó khăn và thử thách. Tuy nhiên, từ nhan đề cho đến những hình ảnh thơ, “Mùa xuân nho nhỏ” đều tràn đầy niềm tin và sự lạc quan. Mạch cảm xúc đi từ những rung động thiết tha trước mùa xuân của thiên nhiên đến phút lắng lòng cảm nhận một mùa xuân đất nước để rồi bộc lộ mãnh liệt một ước nguyện chân thành và cuối cùng kết đọng nơi những vần thơ ngợi ca quê hương đất nước. Từ đó, bài thơ có hai nội dung chủ đạo: “vừa thể hiện những cảm xúc trước vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước vừa nói lên ước nguyện chân thành được dâng hiến cho cuộc đời của tác giả”.

Một cách tự nhiên, nhà thơ Thanh Hải thả hồn vào không gian thiên nhiên khi mùa xuân về, say sưa, rạo rực và như thế, từng vần thơ ra đời:

“Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời”

Bức tranh xuân được gợi ra bằng những nét vẽ chấm phá mà giàu sức gợi cảm bằng một lối tả tinh tế, độc đáo. Có một dòng sông xanh hiền hòa, mênh mang làm nền cho sắc tím của bông hoa. Màu tím của xứ Huế thơ mộng, của nhớ nhung đã tạo nên cảm giác mát dịu làm sao! Nghệ thuật đảo ngữ càng làm nổi bật vẻ đẹp của bông hoa. Bông hoa ấy mọc từ giữa dòng sông như tâm điểm của một bức tranh đầy ấn tượng. Bông hoa ấy như phát sinh, khởi nguồn từ sức sống dồi dào, bất tận của dòng sông xanh để không ngừng vươn lên. Nghệ thuật phối màu bằng thơ của thi nhân cũng thật tinh tế! Lấy sắc xanh làm nền, sắc tím làm tâm điểm, đều là những gam màu lạnh gợi sự thanh nhẹ, dịu dàng của cảnh vật. Song bức tranh không hề đơn điệu, nhạt nhòa mà thay vào đó, độ sống động, tươi tắn đã được toát lên từ một chữ “biếc”. Nếu “tím” chỉ là màu thì chữ “biếc” còn gợi cả độ ánh lên của màu sắc ấy.

Ta có thể hình dung trên nền xanh mênh mông và tĩnh lặng của dòng sông xuân, sắc tím biếc của bông hoa ánh lên một vẻ đẹp đầy quyến rũ để làm xao động cảm xúc trong những tâm hồn mơ mộng. Bức tranh thiên nhiên càng sống động hơn bởi âm thanh của tiếng chim chiền chiện trong trẻo, ngân nga, rộn ràng có độ lan tỏa không dứt. Đến đây, nhạc và thơ dường như đã hòa quyện vào từng chữ, từng dòng trong cả khổ thơ, đem đến một giai điệu mùa xuân vui tươi, rạo rực. Nhà thơ lặng ngắm, lắng nghe tiếng chim với vẻ say mê và tấm lòng tràn đầy cảm hứng sống để rồi cất tiếng gọi trìu mến: “Ơi con chim chiền chiện/ Hót chi mà vang trời”. Biện pháp nhân hóa được sử dụng quá đỗi tự nhiên, ngỡ như nhà thơ đang trò chuyện với người bạn tri kỉ của mình. Tất thảy mọi vẻ đẹp của đất trời khi vào xuân được nhà thơ Thanh Hải cảm nhận bằng niềm trân trọng, say sưa:

“Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng”

Bút pháp tỉnh lược khiến hình ảnh thơ trở nên đa nghĩa: “giọt long lanh” ở đây có thể là giọt mưa xuân, giọt sương mai. Song trong mối liên hệ với hai câu trước, nó cũng cho phép ta tưởng tượng ra âm thanh mượt mà, trong vắt của tiếng chim thánh thót như chuỗi ngọc long lanh, đọng lại làm thành từng giọt, từng giọt, rơi xuống cõi lòng rộng mở của thi sĩ, thấm vào tâm hồn đang rạo rực tình xuân. Như vậy từ một âm thanh được cảm nhận bằng thính giác, tác giả đã liên tưởng để khắc họa thành một sự vật có thể cảm nhận được thị giác, rồi lại được như cảm nhận nó bằng da thịt, bằng sự tiếp xúc: “Tôi đưa tay tôi hứng”. Biện pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác ấy là một sáng tạo nghệ thuật gợi cảm từ con mắt nhìn rất thơ của thi sĩ. Hình ảnh đưa tay “hứng” xiết bao yêu quý, nâng niu đã thể hiện được sự đồng cảm của tâm hồn nhà thơ trước thiên nhiên và cuộc đời.

Nhà thơ Thanh Hải viết “Mùa xuân nho nhỏ” với mạch cảm xúc thiết tha, say sưa, rạo rực, từ bức tranh xuân của thiên nhiên, liên tưởng thơ vận động một cách tự nhiên đến mùa xuân của đất nước, của cách mạng, của cuộc đời:

“Mùa xuân người cầm súng

Lộc giắt đầy trên lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương mạ

Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao”

Là cây bút gắn liền với những thời kì gian khó của dân tộc, được ngắm nhìn mùa xuân của đất nước hòa bình, tác giả như cất lên tiếng nói của hân hoan, phấn khởi. Điệp ngữ “mùa xuân” nhấn mạnh không khí đẹp tươi của đất trời và tâm thế vui tươi của lòng người. Trong không khí mùa xuân tràn trề, hình ảnh con người cũng hiện lên thật đặc biệt: “người cầm súng” với “lộc giắt đầy quanh lưng”, “người ra đồng” với “lộc trải dài nương mạ”. Mỗi con người của đất nước đảm nhận một công việc, trọng trách khác nhau nhưng đều góp hết sức mình cho công cuộc chung của toàn Đảng, toàn dân. “Lộc” trước hết là hình ảnh thực, là chồi non, lá biếc, là cành lá ngụy trang của những người lính trên mặt trận. Không chỉ thế, “lộc” còn mang ý nghĩa ẩn dụ cho mùa xuân, sức sống, thành quả hạnh phúc, là những điều tốt đẹp, may mắn. Lời nhắn gửi thân thương ấy được nhà thơ trân quý dành cho những “người cầm súng” và “người ra đồng” - hai lực lượng gắn liền với hai nhiệm vụ chiến lược quan trọng của đất nước ta lúc bấy giờ - nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ quê hương và nhiệm vụ lao động sản xuất. Họ gánh trên vai, trên lưng mình sự sinh sôi nảy nở, sự phát triển tiến lên của mùa xuân đất nước.

Chỉ năm năm sau ngày thống nhất đất nước, “Mùa xuân nho nhỏ” được ra đời. Có lẽ vì thế, việc nhà thơ sử dụng hệ thống các từ “lộc”, “mùa xuân” như muốn bộc lộ sự tự hào, hi vọng về tương lai của một đất nước đang trong những ngày đầu thống nhất rất tươi tắn và non trẻ. Hình ảnh của người lính ra trận, của những “người ra đồng”, tác giả đã khái quát lên dáng vẻ mùa xuân đất nước: “Tất cả như hối hả / Tất cả như xôn xao”. Hai câu thơ tuy ngắn gọn nhưng đã khắc họa rõ nét một mùa xuân “lớn”, mùa xuân của toàn Đảng, toàn dân tộc. Điệp ngữ “tất cả” kết hợp với biện pháp tu từ so sánh, các từ láy “hối hả, xôn xao” không chỉ diễn tả không khí rộn ràng, tươi vui, phấn khởi khi đất nước bước vào mùa xuân với những nhiệm vụ mới, công việc mới mà còn giúp nhịp thơ như nhanh hơn, dồn dập hơn. Nếu như “hối hả” là từ chỉ trạng thái vội vã do ý thức được về sự thôi thúc thời gian, ở đây gợi nhịp điệu khẩn trương của không khí làm ăn tập thể để xây dựng đất nước thì “xôn xao” vừa gợi tả những âm thanh vang lên từ nhiều phía, vừa biểu hiện được những rung động, xao xuyến từ trong lòng người. Toàn dân tộc cùng đồng lòng, chung sức vì một tương lai rực rỡ, vì những mùa xuân đại thắng của đất nước, của Tổ quốc mình.

Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” không chỉ “thể hiện những cảm xúc trước vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước” mà còn “nói lên ước nguyện chân thành được dâng hiến cho cuộc đời của tác giả”:

“Ta làm con chim hót

Ta làm một nhành hoa

Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến”

Phép điệp cấu trúc “Ta làm”, “Ta nhập” thể hiện một khát vọng mãnh liệt và cháy bỏng. Kết hợp với đó, nhà thơ lựa chọn hình ảnh tự nhiên, giản dị: “con chim hót”, “một nhành hoa”, “một nốt trầm” gợi ước nguyện cống hiến khiêm nhường, thầm lặng. Ước nguyện cuối đời của tác giả không phải những ước muốn to lớn hay ghi dấu tên mình với cuộc sống mà là được hòa nhập, được cống hiến một cách lặng lẽ, âm thầm. Theo lẽ tự nhiên, con chim sinh ra để hót, bông hoa sinh ra để tỏa sắc hương. Thanh Hải muốn sự cống hiến của mình cho đời cũng tự nhiên như thế: làm con chim hót giữa muôn ngàn tiếng chim vô tư, cất tiếng hót tự nhiên thật đẹp dâng cho đời, làm một cành hoa giữa vườn hoa rực rỡ sắc xuân cống hiến sắc hương, làm một nốt trầm trong bản hòa ca muôn điệu, xao xuyến lòng người. Một sự cống hiến tuy đơn sơ nhưng chưa bao giờ nhỏ bé, tầm thường, bởi chỉ cần biết hướng cuộc đời mình với cuộc đời chung, mỗi chúng ta đều đáng được trân trọng - như những ca từ thật đẹp trong ca khúc “Tự nguyện” của Trương Quốc Khánh:

“Nếu là chim tôi sẽ là loài bồ câu trắng

Nếu là hoa, tôi sẽ là một đóa hướng dương

Nếu là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm

Bên cạnh đó, trong khổ thơ thứ tư của thi phẩm “Mùa xuân nho nhỏ”, bạn đọc còn nhận ra sự thay đổi trong cách dùng đại từ nhân xưng. Nếu ở khổ thơ đầu, đại từ nhân xưng được dùng là “tôi” thì ở đây nhà thơ lại dùng từ “ta”. Sự chuyển đổi đó thể hiện dụng ý nghệ thuật, phù hợp với sự chuyển biến của cảm xúc và tư tưởng trong bài thơ. Bởi đại từ “tôi” ở khổ đầu biểu hiện một cái “tôi” cụ thể rất riêng của nhà thơ, vừa thể hiện được sự nâng niu, trân trọng với vẻ đẹp và sức sống của mùa xuân. Đại từ “ta” ở khổ thứ tư lại tạo được sắc thái trang trọng, thiêng liêng của một lời ước nguyện, bày tỏ điều tâm niệm tha thiết, một khát vọng dâng hiến cao đẹp. Lời nguyện cầu chân thành ấy của Thanh Hải dường như có sức lan tỏa mạnh mẽ tới nhiều thế hệ, nhắc nhở mỗi con người về lối sống khát vọng, sống có ích, sống biết cống hiến, hiến dâng tâm sức của mình cho quê hương, đất nước.

Lối sống ấy trong khát vọng của tác giả luôn được cất lên bằng tất cả tâm tình, khát khao dù ở bất cứ độ tuổi nào, gói gọn trong hai chữ “nho nhỏ”:

“Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc”

Đã trải qua đủ một đời người, đã trưởng thành từ trong bom đạn, khói lửa, những cuộc chiến khốc liệt nhất, nhưng tâm nguyện cuối đời của người con xứ Huế thân thương ấy là được hóa thân thành “mùa xuân nho nhỏ”. Tự nguyện làm mùa xuân là nhà thơ đã tự nguyện sống đẹp bằng tất cả sức sống thanh xuân, tươi trẻ của mình cho đất nước để “Lặng lẽ dâng cho đời”. Đảo ngữ “lặng lẽ” nhấn mạnh thái độ cống hiến tự nguyện, âm thầm. Tự nguyện hiến dâng cho cuộc đời bằng sự kín đáo, không ồn ào, phô trương, nhà thơ qua đó còn muốn nhắc nhở tới chính chúng ta về lối sống cao đẹp này. Điều đáng quý nhất là sự dâng hiến ấy không phải chỉ có một giới hạn thời gian mà là trong cả cuộc đời: “Dù là tuổi hai mươi / Dù là khi tóc bạc”. “Tuổi hai mươi” là hoán dụ chỉ những tháng năm tuổi trẻ - khoảng thời gian mà sức sống căng tràn trong lồng ngực và hoài bão táp đầy trong tâm hồn. “Tóc bạc” lại là hoán dụ chỉ tuổi già - khi sức sống đã hao vơi, cũng là khi con người cần dừng lại để ngơi nghỉ. Điệp ngữ “dù là” đã nhấn mạnh mong muốn của nhà thơ, rằng dù trong hoàn cảnh nào, điều kiện nào thì sự cống hiến cũng luôn là khát vọng suốt đời.

Đi hết cuộc đời với vần thơ đầy “hoa”, đầy niềm tin chiến thắng trong những năm tháng chiến đấu, làm thơ trên chiến trường, khi phải chống chọi với căn bệnh quái ác, Thanh Hải chưa bao giờ ngừng cống hiến. Sự hiến dâng lặng lẽ mà thiêng liêng của ông chính là minh chứng sống cho những khát vọng bền bỉ dâng hiến của con người với quê hương, đất nước, như chính câu hát trong “Tự nguyện” của tác giả Trương Quốc Khánh đã cất lên rằng: “Nếu là người, tôi sẽ chết cho quê hương”.

Quả thực, từng vần thơ của Thanh Hải đều ngập tràn cảm xúc chân thành, dạt dào tình yêu tha thiết trước cảnh sắc thiên nhiên, thể hiện khát vọng mãnh liệt mong muốn được hiến dâng những gì tốt đẹp nhất cho đời sống chung. Đặc sắc của đoạn thơ là thể thơ năm chữ giản dị, nhịp thơ nhẹ nhàng, xao xuyến, sự kết hợp độc đáo giữa các biện pháp điệp từ, ẩn dụ, những hình ảnh thơ đẹp, trong sáng giàu ý nghĩa như “con chim hót”, “một nhành hoa”, “một nốt trầm xao xuyến”, “một mùa xuân nho nhỏ”... Bốn khổ thơ đã gieo vào lòng người đọc những rung động thiết tha, truyền cho người đọc niềm lạc quan, yêu đời, khát khao cống hiến vì những giá trị đẹp đẽ chung cho cộng đồng.

Như những chồi non, lộc biếc của thời đại hòa bình, mỗi bạn trẻ khi đến với trang thơ “Mùa xuân nho nhỏ” đều được truyền cảm hứng sống đẹp, vươn mình mạnh mẽ với khát khao hiến dâng và góp sức cho đời. Dù là một chiếc lá, một bông hoa, một tiếng chim cao vút hay vầng mây ấm êm đềm, tất cả đều đem đến hương sắc cho cuộc sống, tự nhiên và bất tận. Lẽ sống cống hiến giúp cho những trái tim trẻ trung đang căng tràn bầu nhiệt huyết biết hướng đến những điều cao đẹp, có lối sống tích cực, không ngừng rèn luyện, tu dưỡng để ngày một hoàn thiện hơn, ưu tú hơn, đóng góp cả sức lực và trí lực vào công cuộc phát triển chung của đất nước.

“Thời gian như là gió

Mùa đi theo tháng năm”

(Xuân Quỳnh)

Trước thách thức của thời gian, mọi giá trị đều lu mờ phủ bụi nếu nó không tác động sâu sắc tới lí trí và trái tim con người. Văn chương không nằm ngoài quy luật khắc nghiệt ấy nhưng kì diệu thay, văn chương chân chính cũng đứng trong hàng ngũ của những thứ “khí giới thanh cao và đắc lực” có sức mạnh trường tồn cùng với đời sống của chúng ta. Chẳng xa xôi đâu nếu khẳng định “Mùa xuân nho nhỏ” là một thi phẩm có sức mạnh trường tồn như thế. Bởi tiếng thơ của Thanh Hải - tiếng thơ của những xúc cảm thiết tha trước vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước, tiếng thơ của một trái tim không khi nào thôi đập từng nhịp bồi hồi hướng về cuộc đời chung - sẽ luôn lắng đọng ngọt ngào trong bạn đọc chúng ta, như “ngọn lửa nhỏ sẽ mãi nhen lên”, như “một nốt trầm cứ vang ngân không dứt”.

Phân tích bài Mùa xuân nho nhỏ mẫu số 5:

Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được sáng tác vào tháng 11 năm 1980. Điều đặc biệt ở chỗ, đó là khoảnh khắc hấp hối của thi nhân trên giường bệnh. Giữa cái không khí se se của năm mới, dù phải chống trọi với cơn đau của bệnh tật, Thanh Hải vẫn dành trọn từng giây từng phút cho văn chương nghệ thuật, cho đời và cho người. Tôi nhớ Hàn Mặc Tử, nhà thơ của “Mùa xuân chín” cũng từng sáng tác thành công bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” chan chứa tình người, tình đời khi bản thân đang phải chịu đựng căn bệnh phong ghê gớm. Thanh Hải cũng như thế. Ở ông, ta bắt gặp một “tấm lòng sứ điệp” sâu nặng, nhất là trước lúc lâm chung, mới thấy cái tình ấy của nhà thơ thật đậm đà biết nhường nào.

Làm văn, làm thơ là để “gửi hương cho gió” (Xuân Diệu) dù chỉ để gió cuốn đi. Thanh Hải đã gửi cái hương lòng của mình phả vào từng khổ thơ. Mỗi câu, mỗi chữ đọc lên như nắm bắt được cái linh hồn chan chứa của tác giả. Đến với khổ thơ đầu tiên, ta bỗng bắt gặp một lòng yêu say sưa trước bức tranh thiên nhiền mùa xuân đầy xuân sắc, xuân tình. Một vẻ đẹp hết sức tự nhiên, nhẹ nhàng, đặc trưng cho mùa xuân nơi xứ Huế.

Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng.

Ngay ở dòng đầu tiên, với phép đảo trật tự ngữ pháp, động từ “mọc” được đặt trước hình ảnh “dòng sông xanh” và “hoa tím biếc”, tác giả đã gợi được cái sức sống trỗi dậy, vươn mình của vạn vật trước mùa xuân. Không tranh nhiều lời, bức tranh hiện lên sắc nét qua những hình ảnh chọn lọc đầy tiêu biểu, đó là dòng sông Hương thơ mộng, nước trong xanh êm đềm, điểm thêm sắc tím biếc mộng mơ của bông lục bình lững lờ trôi. Nếu mùa xuân trong thơ Tố Hữu có “mơ nở trắng rừng” thì Thanh Hải chỉ say đắm một đóa lục bình tím mà thôi. Câu thơ thứ hai đọc lên tưởng chừng vô lý, bởi lẽ giữa dòng sông dài rộng kia làm sao chỉ có “một bông hoa” cho được? Thế nhưng đằng sau cái vô lý của logic còn là cái có lý của cảm xúc. Bút pháp chấm phá cùng điểm nhìn đặt vào một bông hoa nhỏ bé giữa dòng đã phần nào tạo nên điểm nhấn cho bức tranh. Là một bông nhưng không hề gợi ra cái vẻ cô đơn lẻ loi, trái lại, đó là cảm giác say mê ngắm nhìn, tận hưởng cảnh đẹp của tạo hóa.

Xuân không chỉ hiện hữu qua màu sắc, đường nét mà còn hài hòa cả âm thanh. Là cái tiếng hót trong trẻo thanh thanh của chú chiền chiện nhỏ nhắn vang động cả không gian mùa xuân tĩnh tại. Tác giả đã rất tinh tế khi sử dụng một loạt các từ “chi, ơi” mang đậm âm hưởng ngọt ngào, dễ thương đặc trưng cho giọng nói người Huế. Đó cũng như một điểm nhấn cho bức tranh mùa xuân của riêng Thanh Hải, của riêng Huế chứ không phải của bất cứ một vùng miền nào.

Ấn tượng nhất trong bức tranh đầy xuân sắc xuân tình là chi tiết “từng giọt long lanh rơi”. Không biết đó phải chăng là giọt mưa xuân hay giọt sương đêm còn vương chút lưu luyến trên lá mà ở lại? Đặt vào hoàn cảnh sáng tác bài thơ, giữa tiết trời đông lạnh giá, hanh khô của xứ Huế, hóa ra giọt sương ấy không chỉ đơn thuần là hình ảnh tả thực. Nó được tạo ra dưới hình thức nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “nghe - nhìn”. Nằm trên giường bệnh, làm sao thi nhân có thể đưa mắt ngắm nhìn giọt sương nhỏ bé ở xa? Chính tâm hồn nhạy cảm, đầy luyến ái đã gợi cho nhà thơ những vẻ đẹp chỉ có thể cảm nhận bằng toàn bộ trái tim mình. Ta hiểu “giọt long lanh” ấy chính là giọt âm thanh của tiếng chim, của sức sống mùa xuân đang phơi phới căng tràn trong lồng ngực. Thi nhân dường như đã quyện hòa hoàn toàn trong thiên nhiên tự lúc nào.

Câu thơ cuối là thái độ hết sức trân trọng của tác giả: “Tôi đưa tay tôi hứng”. Nâng niu “từng giọt sương” nhỏ bé hay cũng chính là trân trọng vẻ đẹp tự nhiên mà mẹ tạo hóa đã ban tặng cho con người. Phải có một tình yêu, sự gắn bó thiết tha vào cuộc sống, với quê hương đất nước, phải có một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, nhà thơ mới có được những cảm nhận về mùa xuân hay đến vậy. Đặc biệt hơn, đó còn là giờ khắc nhà thơ hấp hối trên giường bệnh thì ắt hẳn tình yêu ấy còn nồng nàn đạt đến cực điểm vô bờ.

Nếu như ở khổ thơ thứ nhất, ta bắt gặp một bức tranh thiên nhiên đầy xuân sắc xuân tình, thì ở khổ thứ hai, ta không khỏi xao xuyến trước bức tranh sinh hoạt đầy ấm áp của con người:

Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao.

Để khắc họa mùa xuân của đất nước, tác giả đã thật tài tình khi chọn lọc được những hình ảnh tiêu biểu nhất. Đó có lẽ là những kí ức sâu đậm, không thể xóa nhòa trong tâm trí của một người con yêu quê hương, yêu Tổ quốc. Hình ảnh “người cầm súng” - hình ảnh đẹp nhất, cao cả nhất đại diện cho lực lượng chiến đấu và bảo vệ quê hương. Hình ảnh “người ra đồng” - lực lượng lao động sản xuất xây dựng xã hội chủ nghĩa. Đó chính là hai lực lượng cao quý nhất không chỉ với thời Thanh Hải mà còn cho cả hôm nay. Đất nước vắng tiếng bom, không gian trong lành, bình yên, lại thêm con người hào hứng lao động. Là gì đây nếu không phải sức sống căng tràn tiềm ẩn trong mùa xuân mới của dân tộc?

Hình ảnh “lộc” được tác giả lặp lại hai lần, không chỉ là lộc non, lộc biếc của mùa xuân, tươi non trên cành lá mà còn tượng trưng cho thành quả lao động sản xuất và chiến đấu, là thành quả của cuộc cách mạng Việt Nam trên khắp các mặt trận giải phóng dân tộc. Điệp ngữ “tất cả” tạo nên cái điệp khúc dồn dập, “hối hả, xôn xao”. Chỉ với hai tính từ láy nhưng tác giả đã thể hiện thành công cái không khí “người người thi đua, nhà nhà thi đua” xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Mùa xuân mới của đất nước trong thơ Thanh Hải sao cứ gợi cho tôi nhớ đến mùa thu mới trong thơ Nguyễn Đình Thi? “Mùa thu nay khác rồi. Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi. Gió thổi mùa thu phấp phới. Rừng thu thay áo mới. Trong biếc nói cười thiết tha…” Chắc bởi lẽ cả hai bài thơ đều rạo rực khí thế của người chiến thắng, của cuộc sống mới, không còn gông xiềng nô lệ. Cả hai nhà thơ, ta đều cảm nhận được một tinh thần tự chủ, một tấm lòng sâu nặng với non sông gấm vóc Việt.

Như một lẽ thường tình, niềm tự hào trong Thanh Hải gợi cho nhà thơ nhớ về một thời lịch sử hào hùng của toàn dân tộc:

Đất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.

Trải qua muôn vàn thử thách gian lao, biết bao thế hệ cha anh đã hy sinh ngã xuống, biết bao máu xương của tổ tiên phải chôn vùi dưới lớp đất cổ ngàn năm. Giấc ngủ nghìn thu ấy gợi nhắc mỗi thế hệ trẻ hôm nay sống, tận hưởng nhưng vẫn phải tận hiến cho cuộc đời, cho xứng đáng với công sức mà tổ tiên ta để lại. Bốn ngàn năm, khoảng thời gian đủ dài để thi nhân bồi hồi nhưng cũng không kém phần tự hào, hãnh diện. Phép so sánh “đất nước như vì sao” là cách nói rất đẹp gợi đến lòng tin yêu vào một tương lai tươi sáng “cứ đi lên phía trước”. Đó cũng là niềm tin vào thế hệ trẻ hôm nay sẽ “Gánh vác phần người đi trước để lại. Dặn dò con cháu chuyện mai sau” (Nguyễn Khoa Điềm). Âm hưởng lời thơ vui vẻ, phơi phới. Tâm hồn ta cũng như cuộn trào trong từng đợt sóng lòng khôn nguôi hòa vào mùa xuân và sức sống diệu kì của dân tộc.

Từ cảm xúc dạt dào, ngây ngát trước cảnh sắc đất nước, sâu thẳm trái tim nhà thơ như dậy lên một “mùa xuân nho nhỏ”, cũng là niềm khao khát cao đẹp của một tâm hồn trong ngần:

Ta làm con chim hót
Ta làm một nhành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến

Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”

Nếu như ở khổ thơ đầu, nhân vật trữ tình xưng “tôi” - tức là cái tôi riêng của thi nhân thì đến đây Thanh Hải đã chuyển thành “ta”, nghĩa là đại từ chỉ chung cho tất thảy mọi người. Nhà thơ như hòa nhập tâm hồn mình vào tâm hồn của tạo vật, con người để nói hộ chung tiếng nói của vô vàn những người khác. Làm thơ không chỉ nói cho mình mà còn ca thay lòng người. “Thơ đi từ chân trời của một người đến chân trời của tất cả” cũng bở lẽ đó.

Trở lại với mạch thơ, tôi ấn tượng nhất với điệp ngữ “ta làm” kết hợp với những hình ảnh vô cùng giản dị: con chim hót, nhành hoa, nhốt nhạc trầm. Tác giả một lần nữa nhấn mạnh mong ước mãnh liệt, tâm nguyện thiết tha, xúc động của mình: Muốn cống hiến cho đời. Điều đáng nói ở chỗ, Thanh Hải không mong ước được làm đại bàng, nhiều đóa hoa, cũng chẳng mong được trở thành một nốt nhạc cao vút. Ta bỗng thấy tận sâu trong mỗi từ mỗi câu là một sự tự nguyện chân thành, một khát khao được tận hiến cho cuộc đời một cách âm thầm, lặng lẽ mà ý nghĩa. Không to tát, không ồn ào, ước nguyện của thi nhân cũng giống như ước nguyện của anh thanh niên trên đỉnh núi Sa Pa cao hơn hai nghìn bảy trăm mét trong tác phẩm “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Trung Thành. Họ là những con người có lối sống giản dị, không phô trương, thâm trầm nhưng sâu sắc. Một lần nữa ta như động lòng trước tấm lòng của một “Tấm lòng sứ điệp” nơi nhà thơ.

Tất cả những mong ước nhỏ nhoi kia đã khái quát thành một “mùa xuân nho nhỏ”. Sáng tạo, độc đáo, Thanh Hải đã mang đến một cách nghĩ đẹp, một cách sống đẹp của một con người đẹp, một cuộc đời đẹp cống hiến và hi sinh máu thịt cho quê hương. Ta bỗng nhận ra, chính chúng ta, mỗi người hãy là một “mùa xuân nho nhỏ” dù chỉ rất nhỏ bé thôi cũng đủ sức góp vào một “mùa xuân lớn” của dân tộc. Đúng như một vĩ nhân từng nói rằng: “Xã hội như một bếp lửa mà ở đó luôn cần mỗi người góp chút củi của mình vào lửa thay vì ngồi đó và sụt sùi bên đống tro tàn”.

Cách nói “tuổi hai mươi, khi tóc bạc” chính là cách nói tượng trưng cho cuộc đời con người từ khi sinh ra và chết đi. Kết hợp với điệp ngữ “dù là”, tác giả đã nhấn mạnh rõ hơn chân lý muôn đời của cuộc sống.

Khép lại bài thơ cũng là khép lại mạch cảm xúc của tác giả:

Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam ai Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế.

Vẫn mở đầu bằng mùa xuân, bằng đại từ “ta” như hòa vào cảm xúc chung của toàn dân tộc, khúc hát Nam ai Nam bình đã được tác giả nhắc lại như một niềm tự hào vô bờ bến. Hình ảnh “nước non ngàn dặm mình. Nước non ngàn dặm tình” vang lên mặn mà mà chung thủy, gắn bó chẳng thể rời xa. Phải chăng đó là ẩn dụ của đất mẹ đang vỗ về người con ưu tú của quê hương? Văng vẳng đâu đây vẫn là lời ca ngọt ngào của một tâm hồn nhạy cảm, một lòng yêu thương gắn bó máu thịt với quê hương của nhà thơ Thanh Hải.

Có thể nói, vượt lên rất nhiều bài thơ viết về mùa xuân của các thi nhân Việt Nam, “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải đã để lại cho đời một ý nghĩa thật lớn lao. Ngôn ngữ thơ giản dị, mộc mạc với giọng điệu tâm tình, thủ thỉ. Hình ảnh thơ trong sáng, khoáng đạt. Biểu tượng thơ sâu sắc, đa nghĩa… Tác giả không chỉ biết hiện một bức tranh thiên nhiên hút hồn người mà còn như một dịp cất lên tiếng lòng thiết tha của một người con yêu nước. Thấm vào từng trang thơ là niềm tin mãnh liệt vào sức sống lâu bền của dân tộc.

Mẫu số 6: Phân tích Mùa xuân nho nhỏ học sinh giỏi Văn

Lắng tai nghe…

Khúc nhạc mùa xuân đang mời gọi

Dõi mắt nhìn…

Sắc xuân lung linh tràn ngập cả đất trời.

Vâng! Xuân về đánh thức ngàn cây cỏ nội đâm chồi nảy lộc. Xuân đến còn đánh thức nguồn cảm xúc vô tận của thi nhân. Lắng lòng lại, ta nghe đâu đây sắc xuân, tình xuân đang hòa quyện trong vũ điệu giao mùa, đang rạo rực trong tâm hồn Thanh Hải để “Mùa xuân nho nhỏ” ra đời. Bài thơ với lời giản dị, tứ thơ sâu lắng nhưng ôm trọn tâm hồn đôn hậu, bình dị, thiết tha yêu cuộc sống của nhà thơ.

Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được Thanh Hải viết vào tháng 11 năm 1980, ngay trên giường bệnh và chỉ ít lâu sau tháng 12 năm 1980, nhà thơ mãi mãi ra đi. Ở giữa mùa đông giá rét của xứ Huế, đối mặt với biên giới giữa sự sống và cái chết nhưng không làm trái tim nhà thơ nguội lạnh. Ngược lại, tâm hồn thi nhân càng nảy nở, bừng sức sống để cảm nhận sâu sắc về một mùa xuân nồng ấm tình người, khiến ngòi bút nở hoa để một “Mùa xuân nho nhỏ” ấm áp tâm tình của thi nhân trước thiên nhiên, con người, cuộc sống.

Mùa xuân là mùa khởi đầu cho một năm mới, là mùa muôn hoa đua nở đem đến hương sắc, vị ngọt của sức sống, tình yêu, hạnh phúc. Trước vẻ đẹp diệu kỳ của mùa xuân, các thi nhân đều cảm nhận bằng con mắt trìu mến, thân thương. Mùa xuân hiện ra với muôn vàn sắc màu rực rỡ:

“Cỏ xanh như khói bến xuân tươi

Lại có mưa xuân nước vỗ trời.”

(Nguyễn Trãi)

Vũ điệu của mùa xuân đã rót vào tâm hồn Thanh Hải niềm cảm xúc dâng trào. Thật đơn sơ, lặng lẽ mà mùa xuân vẫn hiện về tràn đầy sức sống trào dâng:

“Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc.”

Giản dị mà đầm ấm xiết bao! Thanh Hải đã khéo chọn cho mình một bức tranh xuân với gam màu ấm áp, mà dịu dàng, trang nhã. Một màu xanh của dòng Hương Giang mênh mông, êm đềm, một màu tím biếc của bông hoa nhỏ bé. Sự sắp xếp hết sức cân đối hài hòa của bức tranh thơ, cái to lớn bao la không lấn át cái nhỏ nhoi, bé bỏng. Màu xanh của dòng sông làm nền cho sắc tím của hoa càng nổi bật. Chỉ vài nét phác thảo, Thanh Hải đã vẽ nên bức tranh xuân thơ mộng hài hòa.

Bằng biện pháp đảo ngữ “mọc giữa dòng sông xanh”, tác giả đã tô đậm hình ảnh một bông hoa tím bé nhỏ mà tràn đầy sức sống mãnh liệt, vươn lên sự sống trong điều kiện có phần khắc nghiệt để hòa cùng vạn vật giữa vũ trụ bao la vô tận. Hình ảnh thơ thật nhẹ nhàng, thanh thoát, màu hoa tím biếc nhè nhẹ xuôi dòng Hương Giang xanh thẳm thật thơ mộng lãng mạn, quyến rũ đến lạ thường! Một màu tím thủy chung đặc trưng của con người xứ Huế mộng mơ, trầm tư, cổ kính.

Trong không gian tĩnh lặng của mùa xuân bị khuấy động bởi âm thanh ngân vang đầy trìu mến chất chứa niềm vui rộn rã:

“Ơi! Con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời.”

Mùa xuân không chỉ với sắc màu hài hòa mà bức tranh xuân ấy bỗng nhộn nhịp hẳn lên với tiếng chim hót vang trời chào đón ngày mới. Không gian tươi vui ấy làm xao động đến tâm hồn nhạy cảm của thi nhân. Thanh Hải đang lắng tai nghe tiếng chim chiền chiện cao vút trong không trung. Tác giả đặt từ “Ơi” vào câu thơ như một lời thốt lên ngạc nhiên thích thú, như một nốt nhạc ngân vang trong bản trường ca mùa xuân vô tận.

Tiếng chim hót như rót vào tâm hồn nhà thơ một niềm trìu cảm. Tâm hồn nhà thơ đang tràn ngập niềm vui để ngôn từ thốt lên “hót chi mà” như một lời trách yêu đầy thân thương. Tiếng chim chiền chiện hát vang lừng trong trẻo cao vút như nốt thăng rộn rã của mùa xuân. Tiếng hát ấy cứ kéo dài, ngân nga rồi lan tỏa hòa quyện vào bầu trời xuân kèm không gian bừng sáng, rộn ràng.

Phân tích khổ thơ thứ hai Mùa xuân nho nhỏ, trong dòng cảm xúc tuôn trào trước mùa xuân, Thanh Hải như cảm nhận được hơi thở nồng ấm của mùa xuân, hương vị ngọt ngào của mùa xuân, sắc xuân tình xuân chan chứa:

“Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng.”

Nhà thơ đón nhận mùa xuân bằng thị giác, thính giác và cả xúc giác. Nhà thơ đưa tay hứng lấy từng giọt gì đang long lanh rơi? Giọt sương chăng? Hay giọt nắng? Hay những giọt âm thanh của tiếng chim? Mà đó chính là những giọt mùa xuân, giọt hạnh phúc của tình đời như đượm thắm cả đất trời, hòa quyện vào tâm hồn thi sĩ. Thanh Hải xòe bàn tay mình ra để cảm nhận những hương vị ngọt ngào của mùa xuân bằng thái độ trân trọng, nâng niu áp vào trái tim mình.

Tác giả đã cụ thể hóa từng giọt mùa xuân như chan hòa vào lòng đất mẹ để muôn hoa khoe sắc thắm để sức sống dâng trào, để tâm hồn con người tràn ngập niềm vui. Trong vũ điệu của mùa xuân, ta không chỉ thấy được vẻ đẹp quyến rũ của mùa xuân thiên nhiên mà con người bắt gặp mùa xuân trẻ trung, sôi nổi của con người Thanh Hải đưa ra hai hình ảnh cụ thể, tiêu biểu của đất nước đó là người lính và người nông dân:

“Mùa xuân người cầm súng

Lộc giắt đầy quanh lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương mạ.”

Hình ảnh lộc non là biểu tượng cho sức sống mới vươn lên. Lộc của lính là cành lá ngụy trang. Những cành lá ngụy trang biến thành lộc đầu mùa được mang đến theo từng bước chân người lính. Lộc mà người chiến sĩ mang đến cho chúng ta là xương máu mà các anh đổ xuống, là công sức bảo vệ mùa xuân thanh bình của dân tộc, gieo niềm hạnh phúc đến mọi nhà. Người lính biểu trưng cho những con người bảo vệ Tổ quốc và người nông dân là những con người tiêu biểu trong công cuộc xây dựng đất nước.

Bằng hình thức sóng đôi hài hòa, âm hưởng câu thơ trở nên nhịp nhàng, cân đối. Từ bàn tay người nông dân “lộc trải dài nương mạ”. Bàn tay của “người ra đồng” tô điểm cho mùa xuân đất nước. Đôi bàn tay kì diệu của những người họa sĩ ấy đã vẽ nên những mảng xanh của niềm tin, hi vọng lên đất nước. Cũng như người cầm súng, lộc của người ra đồng mang đến cũng đáng trân trọng biết bao.

Lộc mà người nông dân tặng là mồ hôi, là bát cơm gạo, là cơm no áo ấm. Người cầm súng, người ra đồng là hình ảnh rất tiêu biểu cho những con người đóng góp, cống hiến cả thân mình để làm nên mùa xuân Tổ quốc. Giai điệu rộn rã của mùa xuân, nhịp sống con người chừng như hối hả hơn, xôn xao hơn:

“Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao.”

Tâm hồn con người hòa quyện vào thiên nhiên, hòa quyện vào giai điệu mùa xuân. Điệp từ “tất cả” như nhấn mạnh nhịp điệu cuộc sống, mùa xuân. Lời thơ thể hiện niềm hân hoan, rung động trong tâm hồn tác giả. Các cặp từ láy “hối hả”, “xôn xao” vừa gợi cảm vừa gợi hình, nhịp điệu khẩn trương, phấn khởi, rộn rịp, tưng bừng khơi gợi niềm vui náo động trong lòng người.

Âm hưởng của mùa xuân tràn ngập cả thiên nhiên, hòa vào tâm hồn con người những niềm rung động. Bất giác Thanh Hải chạnh lòng nghĩ đến quê hương đất nước, âm hưởng câu thơ bỗng trầm buồn, sâu lắng:

“Đất nước bốn nghìn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước.”

Trong giai điệu trầm lắng suy tư, câu thơ như đưa ta trở về với quá khứ bốn ngàn năm lịch sử. Trải dài suốt chiều dài lịch sử dựng nước, giữ nước, Tổ quốc ta đã trải qua bao biến động, thăng trầm. Ngày từ buổi đầu dựng nước, giữ nước đã đứng trước nguy cơ xâm lược của kẻ thù. Câu chuyện mang màu sắc huyền sử về Thánh Gióng, cậu bé ba tuổi làng Phù Đổng cất tiếng nói đầu tiên là tiếng nói yêu nước. Một ngàn năm nô lệ cho phong kiến phương Bắc đầy đau thương, tủi nhục, những hình ảnh của những người phụ nữ kiên trinh “chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, lấy lại giang sơn, dựng nền độc lập, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người”.

Năm 938, với chiến thắng oanh liệt của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng đã mở ra một kỉ nguyên mới của độc lập tự chủ. Những vần thơ bỗng trầm lắng suy tư như gợi nhớ về một thời kỳ đau thương mà anh dũng. Trong thời kỳ ấy sản sinh ra những người con trưởng thành từ đất mẹ đầy gian nan, vất vả nhưng luôn giành chiến thắng:

“Đất nghèo nuôi những anh hùng

Chìm trong máu chảy lại vùng đứng lên.”

(Nguyễn Đình Thi)

Đã qua bao cuộc biến động của lịch sử, đất nước, con người Việt Nam vẫn kiên cường anh dũng, hiên ngang vượt qua những thử thách đầy cam go, quyết liệt. Từ “cứ” vang lên như một lời khẳng khái hùng hồn, một niềm tin bất diệt của Thanh Hải về tương lai đất nước đẹp lung linh, lấp lánh như những vì sao trên bầu trời Tổ quốc. Đó là cách so sánh thật độc đáo và mới lạ, là sức liên tưởng vừa hiện thực vừa lãng mạn như khơi gợi trong lòng người đọc một hình ảnh đẹp về tình yêu quê hương đất nước.

Trong cảm xúc về mùa xuân đang dâng trào nhà thơ bỗng muốn hóa thân:

“Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến.”

Cái giai điệu nhè nhẹ, du dương, êm ái, ngọt ngào của những thanh bằng liên tiếp, những luyến láy, điệp ngữ “ta làm…, ta làm…, ta nhập” cứ xôn xao, réo rắt mãi trong lòng người đọc, chừng như ta được bay bổng theo ước mơ của tác giả. Các động từ “làm”, “nhập” thể hiện một sự hóa thân kì diệu. Cái “ta” bây giờ không còn riêng là cái ta của tác giả mà nó đã hòa nhập, đồng điệu với cái ta của tất cả mọi người. Các hình ảnh “con chim hót”, “một cành hoa”, “một nốt trầm xao xuyến” mang ý nghĩa biểu lộ một lẽ sống, niềm tâm niệm của Thanh Hải đối với Tổ quốc, Nhân dân.

Nhà phê bình văn học Hoài Thanh – Hoài Chân đã từng nhận xét: “Mỗi bài thơ hay là một cánh cửa mở cho tôi đi vào tâm hồn” (Thi nhân Việt Nam). Vâng! Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải đã mở cửa cho tất cả chúng ta cảm nhận một trái tim khiêm tốn bình dị, đôn hậu, chân thành của nhà thơ. Không ước mơ cao xa, Thanh Hải chỉ nhỏ nhẹ xin làm một tiếng chim hót góp tiếng ca tươi vui vào giai điệu rộn rã của mùa xuân, một cánh hoa nhỏ bé giữa rừng hoa muôn ngàn sắc thắm của dân tộc.

Thanh Hải đã khéo mượn vẻ đẹp thanh khiết của thiên nhiên, cuộc đời để thể hiện niềm mong ước thiết tha được sống có ích, đem lại hương sắc, niềm vui tô điểm cho mùa xuân đất nước. Khát vọng sống là trọn đời hiến dâng của Thanh Hải cũng gặp được nét đồng điệu trong tâm hồn các nhà thơ khác:

“Nếu là con chim, chiếc lá

Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh

Lẽ nào vay mà không có trả

Sống là đâu chỉ nhận riêng mình.”

(Tố Hữu)

Nhà thơ cũng có ước mơ nguyện sống là phải cho, phải cống hiến. Đó là quan niệm sống đẹp đúng đắn. Say trong vũ khúc mùa xuân, khúc nhạc lòng Thanh Hải cứ ngân lên như cây đàn muôn điệu. Đọc khổ thơ ta mới cảm nhận được tình yêu thiên nhiên, cuộc sống và khát vọng cháy bỏng cống hiến cho đời. Trong bản hòa ca trầm bổng của mùa xuân, Thanh Hải chỉ mong được làm một và chỉ một “nốt trầm xao xuyến”.

Một nốt trầm ấy lặng lẽ, đơn sơ, nhỏ nhẹ nhưng lại không thể thiếu trong bản giao hưởng mùa xuân. Cái âm thanh trầm lắng của nốt trầm trong bản hòa ca càng làm tăng thêm sức gợi cảm trong giai điệu gọi mùa “Em ơi! Mùa xuân đến rồi đó!”. Cảm hứng ấy càng thêm mãnh liệt khi ta ngâm khẽ những vần thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải.

Âm hưởng của nốt trầm ấy cứ mãi du dương để lại dư âm ngọt ngào trong lòng người sau những nốt thăng cao vút, rộn rã của cuộc đời. Thật khiêm nhường nhà thơ nguyện được hóa thân thành “nốt trầm xao xuyến” để nhập vào khúc ca tiếng hát của cuộc đời một cách âm thầm, lặng lẽ, muốn đem tài năng, sức lực nho nhỏ của mình để góp phần cho sự nghiệp xây dựng hòa bình, đổi mới của đất nước.

Tất cả khát vọng như lắng lại trong tâm hồn nhà thơ như một niềm cảm xúc:

“Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời.”

Mùa xuân là khái niệm trừu tượng chỉ thời gian. Thanh Hải đã cụ thể hình ảnh “nho nhỏ” thể hiện một tâm hồn bình dị, lặng lẽ cống hiến. Lặng lẽ thôi mà sao đẹp biết bao, dạt dào như sóng triều dâng. Trong lời tự tình của tác giả làm chúng ta liên tưởng đến những con người trong “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long, người chiến sĩ của Lê Anh

Xuân trong “Dáng đứng Việt Nam”:

“Từ dáng đứng của anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất

Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân.”

(Lê Anh Xuân)

Lật tiếp những dòng thơ của Thanh Hải, ta lại liên tưởng đến những chiến sĩ, những cô gái thanh niên xung phong đã miệt mài, âm thầm cống hiến cả tuổi xuân phơi phới tươi đẹp cho Tổ quốc:

“Em đã lấy tình yêu Tổ quốc thắp lên ngọn lửa

Đánh lạc hướng thù hứng lấy luồng bom.”

(Lâm Thị Mỹ Dạ)

Trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại bảo vệ Tổ quốc, cống hiến luôn là khát vọng cháy bỏng ngày đêm thường trực trong tâm hồn Thanh Hải. Trở về với dòng chảy lịch sử cách đây sáu trăm năm, Nguyễn Trãi đã khẳng định tấm lòng trung hiếu sắt son với đất nước:

“Bui có một lòng trung lẫn hiếu

Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen.”

(Thuật hứng XXIV)

Thanh Hải ngay trên giường bệnh trong điều kiện khắc nghiệt vẫn khẳng định khát vọng cống hiến trọn cả cuộc đời cho Tổ quốc:

“Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc.”

Điệp ngữ “dù là” thể hiện một chân lý, một giá trị sống, cống hiến trọn đời mình. Câu thơ mang âm hưởng mạnh mẽ, khẳng khái như lời nguyện cầu thành tâm nhất của Thanh Hải trước lúc ra đi. Lời tâm nguyện ấy thật thủy chung, son sắt vững bền. Ngay trong tuổi xanh tràn đầy sức sống hay khi đã về già, ngọn lửa nhiệt tình vẫn không bao giờ lịm tắt. Thanh Hải chỉ xin làm một mùa xuân nho nhỏ trong hàng triệu mùa xuân nho nhỏ khác để được suốt đời góp phần cho:

“Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”

(Lê Anh Xuân)

Khổ thơ cuối đã kết thúc bài thơ trong âm điệu nhẹ nhàng êm ả như giọng hò xứ Huế:

“Mùa xuân ta xin hát

Câu Nam ai, Nam bình

Nước non ngàn dặm mình

Nước non ngàn dặm tình

Nhịp phách tiền đất Huế.”

Vẫn trái tim dào dạt yêu quê hương, Thanh Hải chọn khúc hát giữa mùa xuân. Giai điệu êm ái Nam ai, Nam bình, thiết tha hiền hòa như con người Việt Nam. Dù ở trên mảnh đất “nước non nghìn dặm” hay ở bất đâu cũng đẹp, cũng gắn liền với tình cảm con người:

“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn.”

(Chế Lan Viên)

Thanh Hải với niềm tin yêu trìu mến quê hương, nhà thơ hết sức khéo léo khi chọn dòng sông, sắc màu, âm thanh, điệu hát đều gắn chặt với quê hương và dường như nhà thơ muốn ôm trọn tất cả hình ảnh ấy trước khi về cõi vĩnh hằng. Bằng điệp ngữ “nước non ngàn dặm” kết hợp gieo vần bằng “bình, mình, tình” đã tạo âm hưởng bài thơ nhẹ nhàng như câu hò xứ Huế cứ ngân dài mãi ra rồi lắng đọng lại trong lòng chúng ta những cảm xúc chân thành, ru hồn người đọc trên con đò xứ Huế êm ả trôi nhẹ trên sông Hương rồi khép lại trong ân hưởng rộn ràng, xao động của “nhịp phách tiền” đầy xao xuyến.

Trang sách đã khép lại nhưng dư âm của nó vẫn còn đọng mãi như khơi gợi trong lòng chúng ta về một tình cảm cao đẹp của con người. Chính tình yêu thiên nhiên, khát vọng dâng hiến của Thanh Hải làm xao xuyến rung động biết bao trái tim người đọc cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ. Bài thơ cứ nhẹ nhàng, thấm thía tự nhiên đi vào lòng người như một bài học sâu sắc về lẽ sống đẹp, cách ứng xử đầy nhân văn, tấm gương cao thượng trong sáng của Thanh Hải làm ta trân trọng, khâm phục và tự ngẫm phải sống sao cho xứng đáng với Tổ quốc, Nhân dân.

(Bài làm của bạn Đào Thị Kim Ngân, học sinh giỏi văn thành phố)

Phân tích Mùa xuân nho nhỏ mẫu số 7

Mùa xuân là đề tài bất tận của thơ ca. Song, cái cảm nhận về mùa xuân của các nhà thơ theo thời gian có nhiều thay đổi. Đối với Mãn Giác Thiền sư, một cao tăng nổi tiếng thời Lý, mùa xuân mang một tính triết lý sâu sắc:

“Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết

Đêm qua sân trước một nhành mai”

Còn đối với những nhà thơ trước cách mạng, mùa xuân gợi lên một nét sầu cảm:

“Tôi có chờ đâu, có đợi đâu,

Mang chi xuân đến gợi thêm sầu.”

(Chế Lan Viên)

Nhưng đối với nhà thơ Thanh Hải, mùa xuân mang một nét đẹp đáng yêu tươi thắm; gợi lên trong lòng người đọc nhiều hình ảnh rạo rực tươi trẻ. Vì thế, mùa xuân trong thơ của Thanh Hải là biểu tượng cho sức sống mạnh mẽ của quê hương, dân tộc. Tất cả đã được thể hiện rõ nét trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”, một bài thơ đặc sắc được nhà thơ viết không lâu trước khi qua đời.

Người xưa có câu: “Thi trung hữu họa”. Thơ ca vẽ nên những bức tranh tuyệt đẹp của cuộc sống. Mở đầu bài thơ, Thanh Hải đã phác họa nên một bức tranh xuân giản dị mà tươi đẹp:

“Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời”

“Dòng sông xanh” gợi nhắc hình ảnh những khúc sông uốn lượn của dải đất miền Trung quanh co, đó có thể là dòng sông Hương thơ mộng, một vẻ đẹp lắng đọng của xứ Huế mộng mơ. Trên gam màu xanh lơ của dòng sông thơ mộng, nổi bật lên hình ảnh “một bông hoa tím biếc”. Không có màu vàng rực rỡ của hoa mai, cũng không có màu đỏ thắm của hoa đào, mùa xuân của Thanh Hải mang một sắc thái bình dị với màu tím biếc của bông hoa lục bình. Đây là một hình ảnh mang đậm bản sắc của cố đô Huế.

Không biết tự bao giờ màu tím đã trở thành màu sắc đặc trưng của con người và đất trời xứ Huế. Màu tím biếc gợi nhớ hình ảnh những nữ sinh xứ Huế trong những bộ áo dài màu tím dịu dàng thướt tha. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp nghệ thuật đảo ngữ, đưa động từ "mọc” lên đầu câu như một cách để nhấn mạnh vẻ đẹp tươi trẻ, đầy sức sống của mùa xuân thiên nhiên. Trong bức tranh mùa xuân của Thanh Hải, không chỉ có hình ảnh, mà còn có âm thanh xao xuyến, ngân nga của con chim chiền chiện. Tiếng chim lảnh lót vang lên làm xao động cả đất trời, làm xao xuyến cả tâm hồn thi sĩ nhạy cảm của nhà thơ.

Những từ ngữ cảm thán “ơi", "hót chi” đã thể hiện rõ nét cảm xúc của nhà thơ. Mùa xuân của thiên nhiên đã đem đến cho nhà thơ một cảm giác ngây ngất. Mùa xuân ấy không có gì khác lạ, vẫn là một mùa xuân rất giản dị trên quê hương xứ Huế của nhà thơ. Nhưng nhà thơ bỗng nhận ra vẻ đẹp lạ kì của mùa xuân, một vẻ đẹp mà bấy lâu nhà thơ không để ý. Phải chăng vì đây là lần cuối cùng được ngắm nhìn mùa xuân quê hương nên nhà thơ cảm thấy mùa xuân ấy đẹp hơn, tươi sáng hơn ?

Say sưa, ngây ngất trước vẻ đẹp giản dị và nên thơ của mùa xuân, nhà thơ bồi hồi xúc động:

“Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng”

“Giọt long lanh” là giọt mưa xuân, giọt nắng vàng hay giọt sương sớm ? Theo mạch cảm xúc của nhà thơ thì có lẽ đây là giọt âm thanh của tiếng chim ngân vang. Bằng một cảm nhận tinh tế, nhà thơ đã hình tượng hóa tiếng chim thành một sự vật có hình dáng, đây là một sự sáng tạo rất mới mẻ chỉ có thể có được nhờ tâm hồn nhạy cảm của một thi sĩ. Như vậy, chỉ bằng ba nét vẽ: dòng sông xanh, bông hoa tím và tiếng chim ngân vang khắp đất trời, nhà thơ đã phác họa nên một bức tranh xuân tuyệt đẹp trên cố đô Huế.

Từ vẻ đẹp thanh khiết của mùa xuân thiên nhiên, nhà thơ liên hệ đến mùa xuân của đất nước, mùa xuân của cách mạng:

“Mùa xuân người cầm súng

Lộc giắt đầy trên lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương mạ”

Bốn câu thơ mang cấu trúc song hành thể hiện rõ hai nhiệm vụ của nhân dân: chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và sản xuất làm giàu nước nhà. Hai nhiệm vụ ấy đặt nặng lên vai của người chiến sĩ - “người cầm súng” và người nông dân - “người ra đồng”. Nét đặc sắc của đoạn thơ là việc sáng tạo hình ảnh “lộc”. “Lộc” là chồi non, cành biếc; “lộc” còn tượng trưng cho sự may mắn, niềm an lành trong năm mới.

Đối với người chiến sĩ, “lộc” là cành lá ngụy trang che mắt quân thù. Đối với người nông dân, “lộc” là những mầm mạ non trải dài trên đồng ruộng bát ngát, báo hiệu một mùa bội thu. Người chiến sĩ chiến đấu bảo vệ Tổ quốc sẽ đem về “lộc” là sự an lành niềm vui, niềm tự hào chiến thắng cho dân tộc. Người nông dân gieo trồng lúa trên đồng ruộng sẽ đem về “lộc” là những hạt gạo trắng ngần, những bát cơm ngon ngọt cho đồng bào cả nước.

Cả dân tộc bước vào xuân với khí thế khẩn trương và náo nhiệt:

“Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao…”

Bằng cách sử dụng từ láy hối hả, xôn xao cùng với điệp từ, tác giả đã mang đến cho câu thơ một nét rộn ràng, nhộn nhịp. “Hối hả” nghĩa là vội vã, khẩn trương. “Xôn xao” là có nhiều âm thanh trộn lẫn vào nhau, làm cho náo động. Từ những âm thanh xôn xao và sự hối hả của con người, nhà thơ lại suy tư về sự phát triển của đất nước qua bốn ngàn năm lịch sử:

“Đất nước bốn ngàn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước”

Chặng đường lịch sử của đất nước qua bốn ngàn năm trường tồn đã trải qua biết bao thăng trầm, với bao nhiêu là “vất vả và gian lao”. So sánh đất nước với vì sao sáng, nhà thơ đã thể hiện niềm tự hào đối với đất nước và dân tộc. Sao là nguồn sáng bất diệt, là vẻ đẹp vĩnh hằng trong không gian và thời gian. Ngôi sao sáng đã trở thành vẻ đẹp lộng lẫy trên lá cờ Việt Nam, trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp ngời sáng của con người và đất nước Việt Nam. Đất nước vẫn không ngừng phát triển, vẫn “cứ đi lên phía trước” để sánh vai cùng các cường quốc năm châu trên thế giới. Đoạn thơ thể hiện ý chí vươn lên không ngừng của con người và dân tộc Việt Nam.

Trong không khí tưng bừng của đất nước vào xuân, nhà thơ cảm nhận được một mùa xuân tươi trẻ, rạo rực trỗi dậy trong tâm hồn. Đó là mùa xuân của lòng người, mùa xuân của sức sống tươi trẻ, mùa xuân của sự cống hiến và hòa nhập:

“Ta làm con chim hót

Ta làm một nhành hoa

Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến”

Nhịp thơ dồn dập và điệp từ “ta làm” diễn tả rõ nét khát vọng cống hiến của nhà thơ. Nhà thơ muốn làm một con chim, muốn làm một nhành hoa thắm trong vườn hoa xuân để dâng tiếng hót tha thiết, để tỏa hương sắc tô điểm cho mùa xuân đất nước. “Nốt trầm” là nốt nhạc tạo nên sự lắng đọng sâu xa trong một bản nhạc. Trong cái không khí tưng bừng của ngày hội mùa xuân, nhà thơ muốn làm một nốt nhạc trầm để góp vào khúc ca xuân của dân tộc một chút vấn vương, xao xuyến.

Từ khát vọng hòa nhập, nhà thơ thể hiện rõ hơn khát vọng cống hiến của mình ở những câu thơ tiếp theo:

“Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc”

“Mùa xuân nho nhỏ” là cách nói ẩn dụ đầy sáng tạo của nhà thơ. Mỗi con người đều có thể góp một phần công sức của mình như “một mùa xuân nho nhỏ” để tô hương thêm sắc cho quê hương đất nước. “Dâng” là một hành động cống hiến, cho đi mà không đòi hỏi sự đền đáp. Phép đảo ngữ nhằm nhấn mạnh khát vọng cống hiến chân thành của nhà thơ. Nhà thơ muốn góp công sức của mình trong công cuộc xây dựng đất nước nhưng chỉ với một thái độ hết sức khiêm tốn, không khoa trương mà chỉ “lặng lẽ”, âm thầm nhưng lại là toàn tâm toàn ý, như nhà thơ Tố Hữu đã khẳng định:

“Lẽ nào cho vay mà không trả

Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình.”

Điệp từ “dù là” được điệp lại hai lần thể hiện rõ sự tự tin, bất chấp thời gian và tuổi tác của nhà thơ. Qua khổ thơ, nhà thơ đã nhấn mạnh một ý nghĩa hết sức sâu sắc: nhiệm vụ cống hiến xây dựng đất nước là của mọi người và là mãi mãi. Không ai là không có nghĩa vụ xây dựng đất nước, và nghĩa vụ ấy kéo dài cả một đời người, từ tuổi đôi mươi cho đến khi đầu đã điểm bạc theo năm tháng. Đây là lời kêu gọi mọi người cùng chung vai gánh vác công việc xây dựng và phát triển đất nước, để đất nước có thể vững vàng mà tiếp tục “đi lên phía trước”.

Khổ thơ cuối là tiếng hát yêu thương nhà thơ ban tặng cho đất nước và dân tộc, như một sự hiến dâng cuối cùng cho quê hương đất nước:

“Mùa xuân - ta xin hát

Câu Nam ai, Nam bình

Nước non ngàn dặm mình

Nước non ngàn dặm tình

Nhịp phách tiền đất Huế”

Trong những ngày cuối cùng của cuộc đời, Thanh Hải muốn hát lại hai làn điệu dân ca quen thuộc của quê hương xứ Huế. Có lẽ trong những ngày tháng nằm trên giường bệnh, khi bị tử thần rình rập, nhà thơ lại thấy quê hương của mình đẹp hơn, bản sắc quê hương mình cũng đáng tự hào hơn. Đây cũng là cách để nhà thơ thể hiện tình yêu quê hương, nguồn cội.

Đoạn thơ cho ta thấy rõ nhà thơ rất yêu mến quê hương thơ mộng của mình, có lẽ cũng từ đó mà nhà thơ có thể mở rộng tình cảm để yêu mến đất nước, mới có thể cống hiến cả cuộc đời cho nước nhà. Bởi lẽ, chỉ có những người biết yêu thương quê hương xóm làng thì mới có thể mở rộng lòng mình để yêu mến đất nước dân tộc.

Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được viết theo thể thơ năm tiếng, với cấu trúc gồm bảy khổ, mỗi khổ từ bốn đến sáu câu. Những hình ảnh ẩn dụ sáng tạo, biện pháp nhân hóa, điệp ngữ và những từ ngữ tượng hình được sử dụng thành công đã tạo nên nét đặc sắc của bài thơ. Qua đó, ta có thể cảm nhận được cái thi vị trong hồn thơ Thanh Hải.

Tình yêu thiên nhiên, sự xúc động trước vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, mùa xuân cách mạng và khát vọng cống hiến đã được Thanh Hải gửi gắm qua bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”. Tuy là tác phẩm được viết không lâu trước khi nhà thơ qua đời nhưng bài thơ vẫn để lại trong lòng bao thế hệ bạn đọc những cảm xúc sâu lắng khó phai mờ. Và bài thơ vẫn sẽ tiếp tục trường tồn cùng với những bước đi lên của đất nước, gợi nhắc cho những thế hệ trẻ một cách sống đẹp: góp một “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc, để đất nước ta sẽ mãi tươi đẹp như trong tiết xuân. Thế mới biết, cuộc đời của con người thì có hạn nhưng những giá trị tinh thần mà con người để lại cho đời sau thì có giá trị vĩnh hằng.

Bài văn phân tích Mùa xuân nho nhỏ mẫu số 8

Tố Hữu đã từng viết rằng:

Nếu là con chim chiếc lá

Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh

Lẽ nào vay mà không trả

Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình

Trong cuộc sống bộn bề những âu lo, không tránh khỏi những lúc ta vô tình sống ích kỉ, chỉ nghĩ cho riêng mình. Nhưng trong cuộc sống này, chúng ta phải biết hi sinh, san sẻ, bởi cho đi chính là nhận lại. Thanh Hải trong những ngày cuối cùng của cuộc đời mình, chính là biểu hiện rõ nét nhất của lối sống cao đẹp, tận hiến bản thân cho mùa xuân của đất nước. Những lời tâm tình, nguyện ước đã được ông gửi gắm trọn vẹn trong bài “Mùa xuân nho nhỏ”.

Mở đầu bài thơ là bức tranh thiên nhiên khoáng đạt, rộng rãi được Thanh Hải phác họa bằng những hình ảnh hết sức giản dị, gần gũi:

Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Xứ Huế mơ mộng chỉ cần một dòng sông xanh, một nhành hoa tím cũng đủ để Thanh Hải gợi nên cái thần, cái hồn của riêng nơi đây. Hai màu sắc ấy hòa quyện vào nhau đến bất ngờ và vô cùng dân dã, bình dị. Đặc biệt với động từ “mọc” đảo lên đầu câu cho thấy sức sống mạnh mẽ, sự trỗi dậy của thiên nhiên vạn vật khi xuân sang. Bức tranh xứ Huế không chỉ tươi tắn về màu sắc mà còn rộn ràng bởi âm thanh:

“Ôi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời”

Tiếng hót của những chú chim làm cho không gian trở nên rộng rãi, khoáng đạt, không gian được nới rộng biên độ. Trước khung cảnh và âm thanh đó, Thanh Hải say sưa ngắm nhìn, thu vào lòng mình vẻ đẹp của thiên nhiên, ông trân trọng, nâng niu, hứng lấy từng vẻ đẹp của tạo hóa:

“Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng”

Những giọt âm thanh, giọt xuân thật lung linh, đẹp đẽ nhưng đọng lại như những hạt pha lê, để Thanh Hải ôm lấy vẻ đẹp của cuộc sống vào lòng mình. Bằng thứ ngôn ngữ vừa giản dị, vừa tinh tế và rất mực tài hoa, tác giả đã cho người đọc thấy một mùa xuân thật đẹp đẽ, rực rỡ và vô cùng quyến rũ.

Từ những cảm nhận hết sức chân thành, tinh tế về vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, Thanh Hải hướng ngòi bút để cảm nhận vẻ đẹp của cách mạng, đất nước:

Mùa xuân người cầm súng

 ...

Cứ đi lên phía trước

Các điệp ngữ: "lộc, mùa xuân" giúp người đọc hình dung khung cảnh lao động và chiến đấu của nhân dân ta. Thanh Hải đã sáng tạo ra hai hình ảnh sóng đôi, tương đương với hai lực lượng xã hội lúc bấy giờ là chiến sĩ và nông dân. Họ đều gánh vác trên mình những nhiệm vụ cao cả thiêng liêng: chiến đấu bảo vệ tổ quốc và lao động sản xuất để phát triển quê hương. Trên lưng họ đều mang những nhành lộc biếc, mang lại sức sống cho đất nước, dân tộc.

Trước vẻ đẹp đó, Thanh Hải xúc động sâu sắc và càng tự hào hơn nữa về lịch sử bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc. Bằng nghệ thuật nhân hóa, tác giả đã biến tổ quốc thành một bà mẹ tần tảo, hiền từ, vất vả gian lao trong những cuộc kháng chiến vĩ đại để trường tồn cùng núi sông. Đồng thời ông cũng thể hiện niềm tin tưởng tuyệt đối vào sự trường tồn vĩnh cửu của đất nước. So sánh đất nước như những vì sao sáng, lung linh, tỏa rạng, cùng với từ “cứ đi lên” đã cho thấy niềm tin tưởng mạnh mẽ của ông đối với tương lai của dân tộc. Dân tộc ta là dân tộc anh hùng, kiên cường trước mọi thử thách:

Sống vững chãi bốn nghìn năm sừng sững

Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa

Cả cuộc sống phấn đấu và phục vụ đất nước, nhưng cho đến những giờ khắc cuối cùng của cuộc đời Thanh Hải vẫn giữ trọn lối sống đẹp đẽ, thiêng liêng ấy qua những nguyện ước chân thành:

Một mùa xuân nho nhỏ

...

Một nốt trầm xao xuyến

Lời tâm tình của ông thật thủy chung, son sắt, ông muốn góp mùa xuân nhỏ bé của mình vào mùa xuân lớn của đất nước. Và ông nguyện chỉ là một nốt trầm trong bản hòa ca đa hương, đa màu sắc ấy. Những nguyện ước đó là biểu hiện của một con người khiêm nhường. Đồng thời lối kết cấu “Dù là...” đã cho thấy đây không chỉ là nguyện ước trong khoảnh khắc nhất thời mà đó là ước mơ chân thành, đã có từ tuổi đôi mươi cho đến ngày gần đất xa trời ông vẫn nguyện làm con chim, làm nhành hoa lặng lẽ dâng tiếng hát, hương thơm cho đời. Đây quả là lối sống đẹp, đáng ngợi ca tôn vinh.

"Mùa xuân nhỏ nhỏ" là khúc ca say mê, đằm thắm mà cũng vô cùng mãnh liệt của Thanh Hải. Qua những vần thơ đó ta thấy được tình yêu quê hương đất nước, lối sống cao đẹp của nhà thơ. Những vần thơ tuy nhẹ nhàng, nhưng lắng sâu, làm cho mỗi chúng ta đều phải suy nghĩ về lối sống, cách ứng xử của bản thân đối với chính mình và đối với xã hội.

Nghe bài văn phân tích mùa xuân nho nhỏ hay

Phân tích Mùa xuân nho nhỏ ngắn nhất bài mẫu số 9

Thanh Hải là một người chuyên sáng tác thơ. Ông có rất nhiều bài thơ hay và tôi thích nhất là bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ" của ông. Bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ" được sáng tác vào năm 1980 khi ông còn nằm trên giường bệnh, bài thơ là tiếng lòng tha thiết gắn bó với cuộc đời thể hiện ước nguyện chân thành của nhà thơ được cống hiến cho đất nước.

"Mọc giữa dòng sông xanh.

….

Nhịp phách tiền đất Huế".

Vậy thông qua bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ" Thanh Hải đã muốn gửi gắm đến chúng ta những suy nghĩ gì?

Thật vậy, bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ" là một bài thơ hay. Mở đầu bài thơ là bức tranh mùa xuân của thiên nhiên được phác họa bằng vài nét chấm phá:

"Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ơi! con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng".

Với những hình ảnh nho nhỏ, thân quen, bình dị, nhà thơ đã vẽ nên bức tranh thật đẹp. Chỉ bằng vài nét phác họa, tác giả đã vẽ ra một không gian của mùa xuân, rộng lớn với dòng sông mặt đất, bầu trời bao la với sắc màu tươi thắm, với những âm thanh vang vọng của mùa xuân mơ mộng, đậm đà phong vị xứ Huế.

Bức tranh mùa xuân ở đây chỉ toàn là màu sắc dịu nhẹ một màu xanh biêng biếc của dòng sông quê, một màu tím ngát của cánh hoa mong manh đang mọc giữa dòng sông ấy. Nghệ thuật đảo ngữ giữa hai câu thơ làm nổi bật hình ảnh của sắc hoa màu tím. Màu tím gợi lên một sắc xuân dịu dàng, đằm thắm. Màu tím là màu đặc trưng của Huế. Bức tranh xuân bỗng rộn rã hơn lên bởi tiếng hót của chim chiền chiện. "Chiền chiện" là một loài chim hót vào mùa xuân.

Từ cảm thán "ơi!" là tiếng gọi trìu mến, thân thương của nhà thơ. Mấy tiếng "hót chi mà…" như một lời trách yêu nghe thât dịu dàng và duyên dáng. Bản nhạc của con chim chiền chiện như vang động cả đất trời, tràn ngập khắp không gian, làm bừng lên một niềm vui bất diệt. Chỉ bằng vài nét phác họa đơn sơ: với một dòng sông, một bông hoa, một tiếng chim, một màu xanh, một sắc tím, Thanh Hải đã hoàn chỉnh bức tranh xuân của quê hương mình thật nhẹ nhàng và quyến rũ lạ thường.

"Giọt long lanh" ở đây có thể là giọt sương sớm của mùa xuân, có thể là những giọt mưa xuân phơ phất hoặc có thể nói là những giọt âm thanh của tiếng chim chiền chiện đang đọng lại trong không gian rồi từ từ rơi xuống cho nhà thơ xòe hứng bằng đôi tay trân trọng của mình.

Chỉ có sáu câu thơ mà có đủ cả âm thanh, màu sắc, dòng sông, bông hoa, tiếng chim, bầu trời cao lồng lộng. Cảnh mùa xuân mở ra một không gian phóng khoáng nhưng lại dịu dàng, tươi mát, một không gian rất Huế. Trong không khí mùa xuân rộn ràng và tưng bừng, tác giả nhắc đến người cầm súng và người ra đồng, họ là hai lực lượng tiêu biểu nhất cho đất nước, làm hai nhiệm vụ quan trọng nhất đó là sản xuất và chiến đấu:

"Mùa xuân người cầm súng

Lộc dắt đầy trên lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương mạ

Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao".

Ngày xuân, người ta đi hái lộc, "lộc" theo nghĩa hẹp là chồi non, nghĩa rộng là sự may mắn. Lộc của người lính là lá ngụy trang trên lưng. Lộc của người nông dân là nương mạ xanh rờn. Cặp câu thơ đối xứng nhịp nhàng, kết hợp với điệp ngữ "mùa xuân" và điệp từ "lộc" được láy đi láy lại nhiều lần, làm cho không khí xây dựng và bảo vệ đất nước như càng khẩn trương, gấp gáp hơn. Và không khí háo hức sôi nổi ấy được miêu tả bằng các từ "hối hả, xôn xao" như càng tăng thêm sức gợi tả.

Sau đó, nhà thơ nghĩ về mùa xuân của đất nước:

"Đất nước bốn nghìn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước".

Viết về đất nước, nhà thơ chỉ viết có bốn câu thơ nhưng bốn câu thơ đó thật tự hào. Tự hào về quá khứ oai hùng và khẳng định về một tương lai tươi sáng của quê hương mình. Từ ngữ giản dị "bốn nghìn năm" giống như nhà thơ đang kể chuyện tâm tình về đề tài lịch sử. Mấy ngàn năm nước Việt ta đã trải qua biết bao gian lao, vất vả - kể từ lúc vua Hùng dựng nước rồi đến lúc nhân dân ta cùng nhau giữ lấy nước. Ta cũng bắt gặp lòng tự hào ấy trong nhiều tác phẩm văn học. Đối lập với hai câu thơ nói về quá khứ là hai câu thơ ca ngợi tương lai.

Tại sao nhà thơ không dùng từ "vẫn" hay từ "sẽ" mà nhà thơ lại dùng từ "cứ". "Cứ đi lên phía trước" chỉ sự tử tế đi lên một cách hiên ngang, mạnh mẽ không có một sức mạnh nào ngăn cản được. Với nghệ thuật so sánh "đất nước như vì sao", hình ảnh đất nước trở nên gần gũi, gợi cảm. Đất nước đẹp như ánh sao sáng lung linh trên bầu trời cao vời vợi mà chúng ta đang ngẩng cao đầu chiêm ngưỡng.

Mở đầu bài thơ, tác giả xưng tôi. Đến cuối bài thơ tác giả lại xưng "ta". Cái "ta" bây giờ vừa mang cái "ta" cá thể của riêng tác giả vừa là cái "ta" chung của chúng ta, của tất cả mọi người.

"Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến".

Đại từ "ta" mang sắc thái trang trọng, kiêu hãnh, cấu trúc "ta làm", "ta nhập" nghe như lời căn dặn. Nhà thơ đang căn dặn mình và căn dặn chúng ta vì trách nhiệm và nghĩa vụ với quê hương. Trong cái lớn lao chung của mùa xuân xinh đẹp, nhà thơ chỉ góp mình như một tiếng chim, trong giọng hót của muôn chim. Một cành hoa, trong muôn sắc hương hoa, một nốt nhạc trầm khiêm tốn, trong muôn nốt nhạc bản tình ca. Cánh chim, cành hoa rất nhỏ bé, nhưng chim vô tư cống hiến những tiếng hót hay cho đời.

Nốt nhạc trầm không đủ tạo nên một bản nhạc hay nhưng nó cũng góp phần tạo nên những cung bậc khác nhau của bản nhạc. Mượn cánh chim trời, đóa hoa thơm, nốt nhạc trầm, để bày tỏ lòng mình. Nhà thơ muốn được góp phần công sức bé nhỏ của mình trong công cuộc xây dựng quê hương. Qua đó, ta thấy được khát vọng sống có ích cho đời của tác giả. Khát vọng đó thể hiện rõ ý thức đúng đắn trong mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, giữa "tôi" và "chúng ta".

Tóm lại, qua những điều chúng ta vừa bàn luận, bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ" là tiếng lòng tha thiết, gắn bó với đất nước, với cuộc đời, thể hiện ước nguyện chân thành của nhà thơ được cống hiến cho đất nước, góp một mùa xuân nhỏ của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc.

>>> Tham khảo thêmSoạn bài Mùa xuân nho nhỏ

Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ ngắn nhất bài văn số 10

Cuộc đời là giọt nắng ban mai, là hạt mưa vội vã, là cơn gió dịu mát. Nhà thơ phải đưa tay hứng lấy những hồn, những sắc của cuộc sống và rót vào đoá hoa thi ca, để bông hoa vươn mình dâng lên cho đời mật ngọt quý giá, hương nhụy trong lành. Hẳn rằng, đã là người nghệ sĩ, có ai cất đi những rung động của trái tim vào chiếc rương khóa chặt, có ai giã từ bốn chữ "tận tâm tận tụy" mà mặc nhiên để "tâm nhãn" ngủ đông khi đứng trước những biến thiên của thế gian.

Hiểu được một điều tất lẽ dĩ ngẫu ấy, Thanh Hải đã chắp bút viết nên hồn thơ "Mùa xuân nho nhỏ" khi nhịp thở dần yếu ớt, khi miền đất chết đã cận kề. "Mùa xuân nho nhỏ" là tiếng lòng của người thi nhân đang hấp hối nhưng chớ lầm tưởng rằng tiếng lòng ấy sẽ bi quan, u uất. Thi phẩm là viên ngọc được kết tinh từ niềm ái mộ tha thiết của nhà thơ trước thiên nhiên, đất nước và cũng là nơi Thanh Hải gửi gắm niềm ước nguyện của mình.

Thanh Hải, một trong những thi nhân được nuôi dưỡng trong tiết trời của xứ Huế, gắn bó cả đời người bên người mẹ thứ hai mang tên "Huế". Ông là một nhà thơ luôn hướng ngòi bút của mình vào lý tưởng sống và tình yêu để từ ấy góp sức vào sự nghiệp dựng xây nền văn học cách mạng ở miền Nam từ những ngày đầu. Bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ" được sáng tác lúc ông đang ở trên giường bệnh vào những ngày cuối đời.

Với giọng thơ hồ hởi, thiết tha đan xen những hình ảnh hồn xuân, sắc xuân, Thanh Hải đã dẫn bạn đọc đến với một mùa xuân tràn đầy tin yêu của mảnh đất Huế kinh kì hoa mộng, của đất nước Việt Nam. Ông còn gửi vào thi phẩm âm hưởng của niềm hi vọng về những vị lai đất nước sẽ tươi sáng hơn, thể hiện một niềm tự hào cùng khát khao tận hiến cho quê hương xứ sở.

Mở đầu tác phẩm, ông đã trở thành người hoạ sĩ vẽ nên một bức tranh về một mùa xuân rất Huế với những gam màu thật ấm áp:

"Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc."

"Mọc" là vươn lên để đón lấy những nắng gió cuộc đời, là sự trỗi dậy, sự thức tỉnh sau một giấc ngủ đông. Bằng việc vận dụng nghệ thuật đảo ngữ, từ "mọc" đặt ở đầu câu thơ càng tô đậm sức sống mãnh liệt đến bất ngờ của thiên nhiên, tạo vật khi khoác lên mình chiếc áo của sự khởi đầu và hứng lấy những tinh chất quý giá của ngày xuân. Cũng góp vào thi đàn hồn thơ nàng xuân, Chế Lan Viên đã viết "Xuân về", về trên màu xanh của tà áo chuối non, màu đỏ của những chùm pháo trước nhà và sắc hồng dịu dàng của hoa đào.

Còn Thanh Hải, ông chọn cho mình những gam màu dịu dàng, nên thơ và rất đặc trưng của Huế. Đó là khúc sông uốn lượn tựa như tấm lụa đào thướt tha của dải đất miền Trung quanh co. Phải chăng đó chính là dòng Hương Giang êm đềm, hiền từ? Dòng sông đó đã hoà nhập với bầu trời xanh thẳm bên trên để biến thân thành một "dòng sông xanh". Chấm phá trên phông nền xanh xanh ấy là hình ảnh "một bông hoa tím biếc".

Xuân miền Nam là hoa mai nhuộm màu vàng rạo rực của nắng. Xuân miền Bắc là cành đào e thẹn nép sau chiếc váy màu hồng nhạt. Còn mùa xuân của Huế, mùa xuân của Thanh Hải là một màu tím biếc. Chẳng biết tự bao giờ, mỗi lần nhắc đến tên gọi của vùng đất Thần Kinh thương nhớ, người ta lại mường tượng ra một sắc tím thủy chung ôm trọn cả bầu trời. Đến với hồn thơ của Thanh Hải, ta lại thấy sắc tím bình dị thắp thoáng giữa dòng Hương như một biểu tượng ngàn năm của xứ Huế trầm tư, cổ kính.

Cổ nhân từng nói: "Thi trung hữu nhạc" tức trong thơ trữ tình có nhịp điệu hòa quyện với nhạc, chứa đựng những thanh âm của nhà hát cuộc đời. Có lẽ vì vậy, Thanh Hải đã thả trọn những vang vọng của thiên nhiên đang độ xuân về vào vần thơ của mình:

"Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời."

Có thứ âm hưởng thật ngọt ngào, dịu dàng trong "ngôn ngữ Huế". Thanh Hải là một người gắn bó với xứ Huế bằng tình yêu tha thiết, chân thành nên trong giọng thơ trìu mến, thân thương của ông tồn tại hình bóng của từ "Ơi" mộc mạc, gần gũi và lời trách yêu "hót chi mà". Trong bản trường ca mùa xuân, chàng nghệ sĩ chiền chiện đã cất cao tiếng hát trong veo, thánh thót và ngân nga. Hàng ngày ngồi bên cửa sổ phòng bệnh, màu tím biếc của hoa, sắc xanh của dòng nước và điệp khúc của tiếng chim cứ gợn trong mắt, âm vang bên tai nhà thơ. Đó đều là những hình ảnh, tín hiệu đặc trưng của mùa xuân cố đô.

Ông đã nâng lên chén rượu kính đời và "say” trong niềm thổn thức trước thiên nhiên. Tâm trí của nhà thơ như con thuyền nhỏ đi từ bến cõi thực sang bến cõi mộng. Sóng xanh, hoa tím, tiếng chim... đều kết tinh thành giọt:

"Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng.

"Giọt long lanh" - hình ảnh giàu sức gợi và ẩn chứa muôn trùng sắc thái. Đó phải chăng là dư âm của trận mưa đọng lại trên phiến lá? Hay mùa gió xuân đã thổi những hạt phấn của nắng sớm phủ lên giọt sương mai nơi kẽ lá, như những viên pha lê xinh đẹp? Có lẽ là tất cả và còn nhiều hơn nữa. Đó cũng là giọt hạnh phúc của tình đời đượm thắm cả đất trời, hòa quyện vào tâm hồn thi sĩ.

Trong mối liên kết với câu thơ trước, tiếng chim hồn nhiên, trong trẻo mà da diết dưới vòm trời cao rộng đã kết đọng lại thành từng "giọt âm thanh" rơi xuống hồn người, chạm vào cõi sâu lặng, khuấy lên bao nỗi niềm của nhà thơ. Bằng tâm hồn tinh tế và điểm nhìn nghệ thuật độc đáo, ông đã hình tượng hóa tiếng chim như suối nguồn âm thanh tuôn chảy trong ánh sáng rạng rỡ. Tiếng chim từ chỗ được lắng nghe bằng thính giác chuyển sang thị giác rồi xúc giác. Đó chính là nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác được Thanh Hải sử dụng một cách tài tình.

Thi nhân vội vàng đưa đôi bàn tay để "hứng" lấy thứ quà tặng của thiên nhiên xứ Huế với một sự đón nhận, nâng niu, trân quý như sợ rằng, nếu không làm như vậy thứ âm thanh ngọt lành kia sẽ chìm vào thinh vắng. Đại từ "tôi" được điệp hai lần đã gợi nên khát khao được ôm trọn vào lòng tất cả tinh hoa của cuộc sống, được tận hưởng, chiếm lĩnh và giao hòa với bản hoà tấu mùa xuân.

Như vậy, chỉ với vài nét họa, đan xen một chút chất nhạc, Thanh Hải đã phác họa được một kiệt tác tuyệt sắc mang điệu hồn thơ mộng, trữ tình của mùa xuân đất Huế căng tràn sức sống. Từ đó, bộc lộ niềm say xưa, ngây ngất của tác giả trước thiên nhiên đất trời mùa xuân.

Vẻ đẹp của mùa xuân kinh thành Huế chính là một nét họa thần tình tô đậm cho vẻ đẹp của chốn thiên đường mang tên "mùa xuân con người, mùa xuân đất nước":

“Mùa xuân người cầm súng

Lộc giắt đầy trên lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương mạ

Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao"

Không phải ngẫu nhiên mà Thanh Hải sử dụng hình thức sóng đôi nhịp nhàng với hai hình ảnh “người cầm súng" và "người ra đồng”. Bởi lẽ họ là những người đại diện cho sức mạnh dân tộc. Đồng thời, biểu trưng cho hai nhiệm vụ chiến lược quan trọng của đất nước ta là chiến đấu ở tiền tuyến và lao động xây dựng hậu phương vững chắc. Nét đặc sắc của đoạn thơ là việc sáng tạo hình ảnh ẩn dụ “lộc”. Lộc biếc rũ bỏ quá khứ điêu tàn, cũ kĩ để vươn lên sau những cơn mưa xuân rét mướt, những ngày đông giá lạnh trong kén lá đang ngỡ ngàng nhìn vạn vật.

Lộc giắt đầy trên lưng "người cầm súng", phơi phới bước chân ra trận gợi liên tưởng đến cành lá ngụy trang của người chiến sĩ. Lộc mà người chiến sĩ mang đến cho chúng ta là mồ hôi, là giọt lệ, là xương máu mà các anh đổ xuống vì toàn dân, là thành quả của những năm tháng dốc toàn sức toàn lực bảo vệ mùa xuân thanh bình của tổ quốc, là phong bì đỏ của niềm hạnh phúc, an lành gửi đến mọi nhà phong. Lộc trải dài vô tận trên nương mạ do những đôi tay chai sạn của "người ra đồng" gieo trồng.

Những người nghệ nhân ấy đã tô điểm thêm cánh diều xanh của niềm tin, hi vọng đang tung bay trong mùa gió xuân. Lộc mà người nông dân dành tặng cho người, cho đời là rãy bắp, bãi dâu, là những hạt gạo trắng ngần, những bát cơm ngon ngọt. Người cầm súng mang theo sức xuân vào trận đánh, người ra đồng gieo mùa xuân trên từng thửa ruộng. Họ đã mang cả hương vị mùa xuân ra trận địa của mình để gặt hái mùa xuân về cho đất nước.

Tất cả "như hối hả", "như xôn xao" mà hoà quyện trong sự phồn thực của mùa xuân. Điệp từ “tất cả” đi liền với những từ láy “hối hả, xôn xao” làm cho nhịp thơ trở nên sôi động, lời thơ chan chứa niềm hân hoan, rung động. Tác giả đã mang đến âm hưởng của nét sống rộn ràng, nhộn nhịp, khẩn trương trong nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đất nước.

Cung bậc cảm xúc của thi nhân bất giác gói gọn trong nỗi chạnh lòng khi thước phim bốn ngàn năm lịch sử của quê hương, đất nước chợt sống dậy trong nhịp thơ trầm tư, sâu lắng:

“Đất nước bốn ngàn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước”

Xuyên suốt chiều dài của triền đê mang tên "Lịch sử", móc thời gian "bốn ngàn năm" đã đi vào tâm thức của biết bao thế hệ. Một lời tổng kết về lịch sử đất nước “bốn ngàn năm” với bao “vất vả”, “gian lao", với muôn vàn những thăng trầm, gian truân, biến động. Cái nghèo cái đói chẳng buông tha, bão giông, nắng lửa chẳng nương tay, những cơn thủy triều của sự đau thương, mất mát cứ xé nát tâm can. Song, Thanh Hải đã sử dụng hình ảnh so sánh "Đất nước như vì sao" để khẳng định sức mạnh lớn lao, ý chí bất khuất và bản lĩnh can trường của tổ quốc Việt Nam. Vì sao ấy luôn luôn tỏa ra vầng hào quang rạng ngời, sáng tỏa, vững vàng bay lên từng nấc thang của bầu trời rộng lớn để ngày càng văn minh, hạnh phúc.

Điệp từ “đất nước” cộng với cấu trúc song hành “đất nước bốn ngàn năm, đất nước như vì sao” diễn tả nhịp vận động đi lên của lịch sử và khẳng định sự trường tồn vĩnh cửu của đất nước. Dằng dặc bốn ngàn năm, ta vẫn là ta, là một quốc gia nhỏ bé trên bản đồ thế giới nhưng lại khiến toàn nhân loại thán phục với những chiến công hiển hách. Đó là ba lần thắng lợi trước đoàn quân Mông - Nguyên hung hãn. Là Bạch Đằng, Chương Dương, Hàm Tử - mồ chôn của bao đế chế ngông cuồng. Là những năm tháng đấu tranh ngoan cường khiến Mĩ và Pháp phải thua cuộc. Hình ảnh một quốc gia dẫu trải qua bao nhiêu khó khăn, dẫu phải đứng trước những kẻ thù to lớn vẫn không bao giờ cam tâm quỳ xuống đã đi vào hồn thơ của Hạ Văn Thịnh:

"Định mệnh nhắc ta rằng Đất Việt gian truân

Nhưng chữ S chẳng thể nào gục gãy

Người trước ngã, người sau đứng dậy"

Từ "cứ" vang lên như một nốt thăng với khí thế hào sảng. Tiếng thơ là một lời khẳng định hùng hồn và chan chứa niềm tin, niềm tự hào bất diệt của Thanh Hải vào sức sống của dân tộc, vào sự phát triển không ngừng trong tương lai của đất nước.

Tận sâu nơi cõi lòng của nhà thơ dâng trào một nỗi khao khát, một nguyện vọng hiến dâng cho đời tựa như một tia sáng vụt lên khỏi vực thẳm tăm tối nhuốm bệnh hiểm nghèo, như một dòng suối ấm nóng len lỏi đến mọi ngõ ngách của trái tim người thi nhân và người thưởng văn:

“Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến”.

Cảm nhận về khổ thơ Ta làm con chim hót Một nốt trầm xao xuyến, Thanh Hải đã đặt bàn tay xám ngắt của mình lên chiếc vĩ cầm "thơ ca" để tấu lên giai điệu ngọt ngào, du dương, êm ái rót vào tâm hồn, nhẹ nhàng xoa dịu trái tim. Giai điệu ấy hiện lên trong những thanh bằng liên tiếp, những luyến láy, điệp ngữ “ta làm… ta làm... ta nhập”. Tiếng thơ như một lời thủ thỉ tâm tình về niềm ước nguyện của nhà thơ. Thi nhân muốn hóa thân đến tột độ, hóa thân đến trọn vẹn hồn cốt - một sự hóa thân diệu kì. Đó hẳn là nguyên do mà ông sử dụng các động từ "làm", "nhập". Cái "ta" ở đây không phải là của riêng tác giả hay một cá thể đơn thân nào khác. "Ta" giờ đây là là một quần thể, một dân tộc. "Ta" đã đồng thanh, đồng điệu với mọi người, chân trời riêng đã hòa quyện với chân trời chung.

Những hình ảnh "con chim hót", "một cành hoa", "một nốt trầm" dẫu nhỏ bé, đơn sơ nhưng lạ phúng dụ lẽ sống cao đẹp của Thanh Hải. Ông muốn làm một "con chim" trong muôn vàn loài chim, góp vào đời tiếng hót tươi vui, tha thiết làm đắm say lòng người. Ông chỉ xin được làm "một cành hoa" trong xứ sở hoa với đủ đầy những gam màu từ rạng rỡ đến âm trầm. Và người thi sĩ ấy chỉ ước mong được làm "một nốt trầm" lặng lẽ, âm thầm cứ mãi du dương để lại dư âm bồi hồi, xao xuyến trong lòng người. Bản giao hưởng cuộc đời không thể thiếu những nốt trầm ấy.

Thanh Hải - "nốt trầm" trong bản hòa ca muôn điệu của đất nước đã để lại trong lòng người đọc hình ảnh một thi sĩ sống với điều tâm niệm thật chân thành, giản dị và tha thiết. Khát vọng được cống hiến của tác giả cũng gặp được nét đồng điệu với nhạc sĩ Trương Quốc Khánh:

"Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng

Nếu là hoa, tôi sẽ là một đóa hướng dương

Nếu là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm

Là người, tôi sẽ chết cho quê hương"

Khát vọng cống hiến sức nhỏ, cống hiến những gì tinh túy nhất của đời người cho đất nước đã làm sáng lên hồn thơ, làm ngân lên âm hưởng của một lẽ sống khiêm tốn, cao cả:

“Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc”

Mùa xuân là thước đo của thời gian, hạn định của không gian. Song, Thanh Hải đã sử dụng từ láy "nho nhỏ" đã định hình cho khái niệm trừu tượng,thể hiện ước vọng khiêm tốn, dung dị. Tính từ “lặng lẽ” cho thấy vẻ đẹp của một tâm hồn, lối sống và nhân cách không ồn ào, khoa trương. Ông tự nguyện cả cuộc đời cho đi một cách lặng lẽ mà không hề đòi hỏi người ta sẽ nhớ đến danh xưng, ghi tạc vào sử sách.

Ví như người lao công lặng lẽ giữ sạch đường phố, người bác sĩ lặng lẽ cứu lấy những sinh mệnh đang hấp hối. Lặng lẽ thôi mà sao ý nghĩa, đẹp đẽ biết bao. Lặng lẽ thôi mà sao như dòng suối mát lành, như ngọn lửa ấm áp. Ngâm khẽ những vần thơ "Mùa xuân nho nhỏ", bức thư tự tình của tác giả khiến ta nhớ đến một Sa Pa lặng lẽ nhưng không tầm thường, những con người cứ lặng lẽ mà miệt mài cống hiến thanh xuân và sức trẻ cho đất nước.

Hay trong Áo xanh của Quách Tỉnh Xuân Trường có đoạn:

"Đất nước hòa bình, tôi vẫn mải miết đi

Tiếp bước cha anh, đâu nghĩ gì danh lợi

Ở trong trái tim, cờ sao bay phấp phới

Lý tưởng trau dồi, mãi mãi một niềm tin

Cống hiến sức mình, chẳng cần đợi gọi tên"

Điệp ngữ "dù là" cùng hình ảnh đánh dấu hai mốc son quan trọng của đời người “tuổi hai mươi” và “khi tóc bạc” khiến cho lời thơ khẳng khái như một lời hứa, lời tự nhủ rằng sẽ trọn đời cống hiến của nhà thơ. Trên lưng đồi từ tuổi trẻ đến những ngày vãn niên, khát vọng hiến dâng, lí tưởng sống thầm lặng và cao đẹp đã trở thành một lời tuyên thề vững bền, một tâm nguyện thủy chung in sâu vào trái tim người thi sĩ ấy.

Tuổi hai mươi với nguồn năng lượng dạt dào, căng tràn sức sống, ông đầy kiên nghị và sôi nổi, hết mình sống vì sự nghiệp xây dựng đất nước. Khi thời gian lưu lại dấu vết trên mái tóc bạc màu, ngọn lửa nhiệt huyết vẫn không bao giờ tắt lịm. Ngọn lửa ấy cứ bập bùng cháy mãi, mùa xuân ấy cứ nho nhỏ mà lại tận tâm tận tụy hòa nhịp cùng "Chín mươi triệu người lấy thân mình chở che Tổ quốc linh thiêng" (Nguyễn Phan Quế Mai).

Sau những buồn vui, thành bại, quê hương vẫn là nơi đón nhận, là "phòng triển lãm" lưu giữ những gì còn lại của đời người. Khúc ca cuối cùng của Thanh Hải vẫn hướng về vẻ đẹp quê hương, vẫn là khúc ca dành cho Huế:

“Mùa xuân ta xin hát

Câu Nam ai Nam bình

Nước non ngàn dặm mình

Nước non ngàn dặm tình

Nhịp phách tiền đất Huế”

Khúc Nam ai là khúc nhạc buồn thương, da diết gợi nên thước phim quá khứ đầy hy sinh, khổ đau mà đất nước đã trải qua. Và trong tiết xuân hiền hòa, ấm áp của hiện tại ta thấy ngân vang khúc Nam Bình - khúc nhạc êm ái, trìu mến. Những âm điệu đặc trưng của Huế đã hòa vào dòng máu của nhà thơ, đã trở thành một phần của linh hồn và luôn thường trực trong "ốc đảo" trái tim. Bằng điệp ngữ "nước non ngàn dặm" kết hợp gieo vần bằng "bình, mình, tình" làm cho âm hưởng bài thơ ngọt ngào, dịu nhẹ như làn điệu dân ca trữ tình xứ Huế.

Bài thơ khép lại với "nhịp phách tiền" rộn ràng, xao động. Đó là điệu nhạc của cuộc sống mới, sức sống mới của dân tộc. Con đò xứ Huế trên dòng sông Hương chở theo những câu hò xao xuyến, bay bổng, điệu hò chậm rãi, miên man, tiếng hò bâng khuâng, da diết rót vào hồn người. Để mỗi khi nghe hò là người ta nhớ đến Huế:

Tiếng hát đâu mà nghe nhớ

Mái nhì man mác nước sông Hương.

(Tố Hữu)

Xuân Diệu quan niệm: "Thơ hay là hay cả hồn lẫn xác, hay cả bài". Thơ hay là hay từ vẻ đẹp bên ngoài đến cốt cách bên trong. "Mùa xuân nho nhỏ" chính là một thi phẩm không chỉ thành công về mặt nội dung mà còn mang những nghệ thuật đặc sắc.Ta dễ dàng nhận thấy bài thơ có cấu tứ “lộ thiên” theo chiều không gian mở.

Mạch thơ đi theo trình tự: Xuân thiên nhiên - xuân con người - xuân đất nước - xuân thi sĩ và cuối cùng là xuân đất Huế quê hương. Nhờ có những biện pháp ẩn dụ, so sánh, điệp ngữ... đã góp phần làm nổi bật cấu tứ, hình ảnh, hình tượng và ngôn từ của tác phẩm. Mỗi câu thơ đều giàu sức gợi tình, gợi cảm. Đây quả là một bài thơ kết hợp hài hòa bốn yếu tố: ý - tình - hình - nhạc.

"Bài thơ không chỉ hay về ý tứ mà còn hay về nhạc điệu. Câu thơ 5 tiếng ngắt nhịp 3/2 xen với 2/3 linh hoạt... Không chỉ ngắt nhịp linh hoạt, nhà thơ còn chú ý dùng vần trắc cuối năm khổ thơ, tạo một âm vang giòn giã như thể nhịp phách tiền..." (Trần Đình Sử, Đọc văn học văn). Thả hồn vào "Mùa xuân nho nhỏ", ta có thể cảm nhận được chất thi vị trong hồn thơ Thanh Hải.

"Mùa xuân nho nhỏ" là ngọn lửa diệu kì ủ ấm đôi tay xám ngắt của thi nhân. Ngọn lửa ấy như có phép màu truyền hơi thở, truyền tình yêu vào mạch huyết, vào trái tim của nhà thơ. Thi phẩm là tiếng hát của thiên nhiên đất trời, là tiếng nói ngân vang của cõi lòng người con xứ Huế với tình yêu dạt dào dành cho quê hương, đất nước, với khát vọng dâng hiến trọn đời vì tổ quốc. Hồn thơ cứ nhẹ nhàng mà thấm thía, lặng lẽ mà chạm đến ngưỡng rung động vĩnh hằng của trái tim người đọc.

Tác phẩm là một minh chứng cho "nghệ thuật vị nhân sinh” bởi lẽ nó đã tác động và khơi gợi được "những ngọn lửa" tư tưởng tích cực, tiến bộ neo đậu trong trái tim độc giả trẻ rằng ta phải sống ý nghĩa, cống hiến hết mình vì dân tộc. Bài thơ được nhạc sĩ Trần Hoàn phổ nhạc trở thành ca khúc vượt thời gian để người đời hiểu thêm nhân cách một thi sĩ, một chiến sĩ.

(Nguồn: Âu Dương Nhật Hạ)

Xem thêm:​​​​​​​

Trên đây là những gợi ý cơ bản giúp em làm bài văn phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải có kèm theo một số bài văn mẫu tham khảo. Truy cập mục tài liệu Văn mẫu lớp 9 để cập nhật thêm nhiều bài văn hay khác giúp bạn rèn luyện kỹ năng làm văn. Chúc các bạn học tốt!

Bạn còn vấn đề gì băn khoăn?
Vui lòng cung cấp thêm thông tin để chúng tôi giúp bạn
Hủy

TẢI VỀ

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM