Phân tích bài Cây tre Việt Nam

Xuất bản: 19/07/2024 - Tác giả:

Phân tích bài Cây tre Việt Nam của Thép Mới, phân tích các thủ pháp nghệ thuật và ý nghĩa nhân văn của hình tượng cây tre trong tác phẩm.

Hình ảnh cây tre - biểu tượng của dân tộc Việt Nam - đã được Thép Mới khắc họa một cách tinh tế và đầy cảm xúc trong bài Cây tre Việt Nam. Phân tích bài Cây tre Việt Nam để hiểu sâu hơn về tác phẩm này, cũng như khám phá những tầng ý nghĩa ẩn chứa trong từng câu chữ và viết thành một bài văn phân tích hoàn chỉnh. Từ việc nắm vững nội dung, nghệ thuật đặc sắc, đến việc khám phá thông điệp ý nghĩa mà tác giả muốn gửi gắm, bài viết này sẽ trang bị cho em những kiến thức cần thiết để hoàn thành bài văn phân tích.

Giới thiệu tác giả và văn bản Cây tre Việt Nam

1. Tác giả Thép Mới

- Thép Mới (1925 - 1991), tên khai sinh là Hà Văn Lộc, quê ở phường Quảng An, quận Tây Hồ, Hà Nội

- Sinh ra ở thành phố Nam Định, ông cùng em trai học ở Nam Định đến trung học, tham gia các hoạt động xã hội, phong trào học sinh yêu nước, gia nhập Đoàn Thanh niên Dân chủ Đông Dương và bắt đầu viết bài cộng tác với báo với bút danh Phượng Kim.

- Ngoài báo chí, Thép Mới còn viết nhiều bút kí, thuyết minh phim.

- Một số bút danh của ông được biết đến là Phượng Kim, Hồng Châu, và Thép Mới.

- Ông là một nhà văn nổi tiếng tại Việt Nam, chuyên viết về đề tài Chiến tranh Đông Dương v Chiến tranh Việt Nam.

- Ông mất ngày 28 - 8 - 1991 tại TP. Hồ Chí Minh.

- Các tác phẩm tiêu biểu:

+ Bút ký: Kháng chiến sau lũy tre trên đồng lúa (1947), Ý nghĩ người phóng viên kháng chiến (1948), Trách nhiệm (1951), Như anh em một nhà (1957), Hiên ngang Cu Ba (1962), Điện Biên Phủ, Một danh từ Việt Nam (1964),...

+ Thuyết minh phim: Nguyễn Ái Quốc đến với Lê Nin (1980), Đường về Tổ quốc (1980)

+ Dịch: Thời gian ủng hộ chúng ta (Ilya Ehrenburg, 1954), Thép đã tôi thế đấy (Nikolai Ostrovsky, 1955)

+ Cây tre Việt Nam, Trung thu độc lập.

2. Văn bản Cây tre Việt Nam

- Hoàn cảnh sáng tác: Văn bản sáng tác năm 1955, là lời bình cho bộ phim tài liệu “Cây tre Việt Nam” do các nhà điện ảnh Ba Lan thực hiện sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta kết thúc thắng lợi.

- Tóm tắt nội dung: Cây tre là người bạn thân của nông dân Việt Nam. Tre (và những cây cùng họ) là thứ cây có mặt ở khắp mọi nơi trên đất nước ta. Tre có một vẻ đẹp giản dị và nhiều phẩm chất đáng quý. Tre gắn bó lâu đời với con người (đặc biệt là người nông dân) trong cuộc sống hàng ngày, trong lao động sản xuất và trong chiến đấu bảo vệ quê hương, đất nước. Tre là bạn đồng hành của dân tộc ta trên con đường đi tới tương lai.

- Gía trị nội dung: Cây tre là người bạn thân thiết, lâu đời của người nông dân và nhân dân Việt Nam với vẻ đẹp bình dị và nhiều phẩm chất quý báu đã trở thành biểu tượng của đất nước, dân tộc Việt Nam.

- Giá trị nghệ thuật:

+ Sử dụng lớp ngôn ngữ giàu chất thơ với nhịp điệu phong phú, biến hóa linh hoạt, phù hợp với nội dung bài viết.

+ Phép tu từ nhân hóa, so sánh...

+ Hệ thống điệp từ, điệp ngữ, chia làm nhiều câu văn ngắn tạo nên không khí sục sôi, hào hùng của những năm tháng kháng chiến chống Pháp.

+ Lời bình giàu hình ảnh, gợi ra khung cảnh làng quê êm đềm.

+ Giọng điệu dịu dàng kết hợp với các câu văn trữ tình, lời văn giàu cảm xúc, nhịp điệu hòa quyện với nhau tựa như một khúc hát ru tha thiết.

Phân tích Cây tre Việt Nam - biểu tượng của dân tộc Việt Nam

Phân tích Cây tre Việt Nam - biểu tượng của dân tộc Việt Nam

Dàn ý phân tích Cây tre Việt Nam - Thép Mới

1. Mở bài

  • Giới thiệu về tác giả Thép Mới (những nét chính về cuộc đời, các sáng tác của ông,…)
  • Giới thiệu về văn bản “Cây tre Việt Nam” (xuất xứ, khái quát giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật,…)

2. Thân bài

a) Giới thiệu khái quát về cây tre

  • Là người bạn thân của nông dân, nhân dân Việt Nam
  • Đặc điểm của cây tre:

    + Vào đâu tre cũng sống, cũng xanh tốt

    + Dáng tre vươn mộc mạc, màu tre tươi nhũn nhặn

    + Tre lớn lên, cứng cáp, dẻo dai, vững chắc

  • Nghệ thuật: Nghệ thuật nhân hóa. Tre thanh cao, giản dị, chí khí như con người

b) Sự gắn bó của cây tre với con người trong lao động sản xuất và trong chiến đấu

  • Trong lao động, sản xuất:

    + Tre trùm lên âu yếm bản làng, xóm, thôn

    + Dưới bóng tre, giữ gìn một nền văn hóa lâu đời, con người dựng nhà, dựng cửa, vỡ ruộng, khai hoang

    + Tre là cánh tay của người nông dân

    + Tre vất vả mãi với người: cối xay tre nặng nề quay

    + Tre là người nhà, khăng khít với đời sống hằng ngày

    + Tre buộc chặt những tình cảm chân quê

    + Tre là niềm vui của tuổi thơ, của người già

    + Tre chung thủy

  • Trong chiến đấu: tre là tất cả, tre là vũ khí - tre xung phong vào xe tăng, đại bác, tre giữ làng, giữ nước, tre hi sinh để bảo về con người
  • Tre gần gũi, gắn bó với đời sống con người

c) Vị trí của tre đối với đất nước trong tương lai

  • Tre vẫn cong nguyên vị trí trong tương lai khi đất nước đi vào công nghiệp hóa: tre vẫn là bóng mát, tre mang khúc nhạc tâm tình,…
  • Tre mang những đức tính của người hiền, là tượng trưng cao quý của dân tộc Việt Nam

3. Kết bài

- Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của văn bản:

  • Nội dung: Cây tre là người bạn thân thiết, lâu đời của người nông dân và nhân dân Việt Nam. Cây tre có vẻ đẹp bình dị và nhiều phẩm chất quý báu. Cây tre đã trở thành một biểu tượng của đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam
  • Nghệ thuật: Sử dụng chi tiết, hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng, nhân hóa, giọng điệu,…

- Cảm nhận của bản thân về cây tre: yêu, trân trọng, gắn với kỉ niệm tuổi thơ,…

>>> Xem lại nội dung soạn bài Cây tre Việt Nam để có thêm ý văn phân tích và dẫn chứng chi tiết

5+ bài văn mẫu phân tích văn bản Cây tre Việt Nam

Phân tích bài Cây tre Việt Nam mẫu số 1

Cây tre, một loài cây gắn bó mật thiết với đời sống người Việt, đã trở thành biểu tượng văn hóa sâu sắc của dân tộc. Trong bài tùy bút "Cây tre Việt Nam", nhà văn Thép Mới đã khắc họa hình ảnh cây tre một cách chân thực và sinh động, đồng thời thể hiện tình yêu quê hương, đất nước tha thiết qua hình ảnh cây tre mộc mạc mà kiên cường.

Thép Mới (1925 - 1991) là một nhà văn, nhà báo nổi tiếng với những tác phẩm đậm chất trữ tình và giàu giá trị nhân văn. "Cây tre Việt Nam" là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông, được viết làm lời bình cho bộ phim tài liệu cùng tên của Ba Lan. Bài văn không chỉ giới thiệu về cây tre Việt Nam mà còn ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất cao quý của con người Việt Nam.

Ngay từ những dòng đầu tiên, Thép Mới đã khẳng định sự gắn bó của cây tre với cuộc sống người Việt Nam: "Cây tre là người bạn thân của nông dân Việt Nam, bạn thân của nhân dân Việt Nam". Cây tre hiện diện trong mọi mặt đời sống, từ vật dụng hàng ngày như "nón tre, đũa tre" đến những công cụ lao động như "cối xay tre nặng nề quay". Tre còn là "vật liệu để làm nhà, tre làm hàng rào, làm cầu ao". Không chỉ vậy, tre còn gắn bó với những giá trị văn hóa tinh thần như "tiếng sáo diều tre" hay "chõng tre, giường tre".

Thép Mới đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa để làm nổi bật vẻ đẹp của cây tre: "Cây tre trông thanh cao, giản dị, chí khí như người". Cây tre được miêu tả là "mọc thẳng", "vươn cao", thể hiện sự ngay thẳng, kiên cường. Hình ảnh "bóng tre trùm lên âu yếm làng, bản, xóm, thôn" gợi lên sự che chở, đùm bọc của tre đối với con người. Trong những năm tháng chiến tranh gian khổ, cây tre đã trở thành vũ khí, thành đồng đội của người lính: "Gậy tre, chông tre chống lại sắt thép của quân thù". Tre còn là biểu tượng của tinh thần bất khuất, kiên cường: "Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín".

Qua những hình ảnh, chi tiết sinh động, Thép Mới đã khẳng định cây tre là biểu tượng của dân tộc Việt Nam: "Tre là thẳng thắn, bất khuất, can đảm, thủy chung, chí khí như người". Cây tre mang trong mình những phẩm chất cao quý của con người Việt Nam, là biểu tượng của tinh thần đoàn kết, yêu nước, bất khuất trước mọi khó khăn, thử thách.

"Cây tre Việt Nam" của Thép Mới là một tác phẩm văn học đặc sắc, giàu giá trị nghệ thuật và nhân văn. Thông qua hình ảnh cây tre trong bài tùy bút, tác giả đã thể hiện tình yêu quê hương, đất nước tha thiết, đồng thời ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất cao quý của con người Việt Nam. Bài văn là một lời nhắc nhở về truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, khơi dậy niềm tự hào và ý chí vươn lên trong mỗi người Việt Nam.

Phân tích bài Cây tre Việt Nam mẫu số 2

Thép Mới là một cây bút tài hoa của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông để lại nhiều tác phẩm có giá trị, trong đó, bài tùy bút "Cây tre Việt Nam" là một áng văn chứa chan tình yêu quê hương, đất nước và ngợi ca vẻ đẹp của cây tre - biểu tượng của dân tộc Việt Nam.

Mở đầu bài tùy bút, Thép Mới đã khẳng định một cách chắc chắn và tự hào về mối quan hệ gắn bó giữa cây tre và con người Việt Nam: "Cây tre là người bạn thân của nông dân Việt Nam, bạn thân của nhân dân Việt Nam". Câu văn ngắn gọn, giản dị nhưng đã khái quát được vai trò quan trọng của cây tre trong đời sống vật chất và tinh thần của người dân Việt.

Tác giả đã dành nhiều trang viết để miêu tả vẻ đẹp của cây tre. Tre hiện lên với vẻ đẹp giản dị, thanh cao nhưng cũng rất đỗi kiên cường, bất khuất: "Dáng tre vươn mộc mạc, màu tre tươi nhũn nhặn". Tre sống ở đâu cũng xanh tốt, dù là "đất sỏi đất vôi bạc màu". Tre cũng mang trong mình sức sống bền bỉ, dẻo dai: "vào đâu tre cũng sống, ở đâu tre cũng xanh tốt". Tác giả đã sử dụng hàng loạt tính từ chỉ màu sắc, hình dáng để khắc họa vẻ đẹp của cây tre một cách sinh động và chân thực.

Không chỉ có vẻ đẹp bên ngoài, cây tre còn mang trong mình những phẩm chất cao quý. Tre là biểu tượng của sự ngay thẳng, chính trực: "Tre trông thanh cao, giản dị, chí khí như người". Tre cũng là biểu tượng của sự đoàn kết, gắn bó: "Bóng tre trùm lên âu yếm làng, bản, xóm, thôn". Trong những câu văn này, ta thấy được tình cảm yêu mến, trân trọng của tác giả đối với cây tre.

Bên cạnh việc miêu tả vẻ đẹp và phẩm chất của cây tre, Thép Mới còn nhắc đến sự gắn bó của cây tre với cuộc sống con người. Tre là nguyên liệu để làm ra những vật dụng quen thuộc trong đời sống hàng ngày như "nôi tre, đũa tre, rổ rá tre,...". Tre cũng là vũ khí để bảo vệ quê hương, đất nước: "Gậy tre, chông tre chống lại sắt thép của quân thù". Những câu văn này cho thấy sự hữu ích và đa dạng của cây tre trong đời sống con người.

Đoạn kết của bài tùy bút, tác giả đã khẳng định một lần nữa về vai trò quan trọng của cây tre trong tương lai của dân tộc: "Nứa tre... còn mãi với dân tộc Việt Nam, chia ngọt sẻ bùi của những ngày mai tươi hát...". Câu văn như một lời nhắn nhủ, một lời hứa về sự trường tồn của cây tre cũng như của dân tộc Việt Nam.

Tóm lại, bài tùy bút "Cây tre Việt Nam" của Thép Mới là một tác phẩm văn học có giá trị. Qua ngòi bút tài hoa và tình cảm chân thành của tác giả, hình ảnh cây tre hiện lên thật đẹp, thật gần gũi và thân thương. Bài tùy bút không chỉ là một áng văn ca ngợi vẻ đẹp của cây tre mà còn là một lời khẳng định về sức sống mãnh liệt của dân tộc Việt Nam.

Phân tích tác phẩm Cây tre Việt Nam mẫu số 3

Cây tre là biểu tượng cho con người, dân tộc Việt Nam. Viết về vẻ đẹp mộc mạc, giản dị của cây tre chúng ta có thể kể đến bài Tre Việt Nam của nhà thơ Nguyễn Duy và không thể không nhắc đến tác phẩm Cây tre Việt Nam của nhà văn Thép Mới. Tác phẩm được viết làm lời bình cho một bộ phim điện ảnh Ba Lan. Thông qua hình ảnh cây tre, tác phẩm đã cho thấy vẻ đẹp của con người, đất nước Việt Nam, đồng thời ca ngợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta.

Ngay từ những câu văn mở đầu tác giả đã khẳng định tre là người “bạn thân của nông dân Việt Nam, của nhân dân Việt Nam”. Câu văn như một lời khẳng định chắc nịch về mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, lâu bền của tre với con người. Để làm nổi bật vai trò, ý nghĩa của tre, tác giả đã đặt nó trong muôn ngàn cây cối khác nhau, nhưng tre luôn giữa một vị trí đặc biệt quan trọng: “Nước Việt Nam xanh muôn ngàn cây lá khác nhau. Cây nào cũng đẹp, cây nào cũng quý, nhưng thân thuộc nhất vẫn là tre nứa”. Cũng bởi vậy mà tre có mặt ở khắp mọi nơi: “Tre Đồng Nai, nứa Việt Bắc, tre ngút ngàn Điện Biên Phủ, lũy tre thân mật làng tôi,… đâu đâu ta cũng có nứa tre làm bạn”. Câu văn nhịp nhàng kết hợp với biện pháp liệt kê đã cho thấy sự thân thuộc, gần gũi của tre với đời sống con người.

Tiếp ngay sau đó, Thép Mới khẳng định những vẻ đẹp phẩm chất của tre: mọc thẳng, ở đâu tre cũng xanh tốt, dáng tre mộc mạc, màu tre nhũn nhặn, cứng cáp, dẻo dai, vững chắc,… được diễn đạt bằng lời văn nhịp nhàng, cân đối tựa như một lời hát. Và vẻ đẹp, khí chất của tre được tác giả so sánh: “Tre trông thanh cao, giản dị, chí khí như người”. Câu văn như một lời ngầm khẳng định cây tre chính là biểu tượng cho con người Việt Nam, những vẻ đẹp, khí chất của tre cũng chính là phẩm chất cao quý của dân tộc ta.

Ngay từ phần mở đầu của bài viết, Thép Mới đã khẳng định sự gắn bó khăng khít và bền chặt của tre với người. Để minh chứng cho nhận định, ông đã sử dụng hàng loạt các dẫn chứng khác nhau để làm sáng tỏ vấn đề đó. Không chỉ mang những phẩm chất đẹp đẽ của dân tộc Việt Nam, tre còn gắn liền với đời sống dân tộc Việt. Tác giả bắt đầu sự gắn bó đó bằng việc trích dẫn câu thơ của Tố Hữu: “Bóng tre trùm mát rượi”, đây là cầu nối, khơi gợi sự gắn bó khăng khít giữa người và tre. Tre bao bọc, che chở con người, dưới bóng tre xanh dân ta vỡ ruộng, khai hoang, làm ăn sinh sống. Điệp ngữ “bóng tre” “dưới bóng tre” được điệp đi điệp lại càng khẳng định hơn nữa sự gắn bó thủy chung của tre với con người. Tre cứ thế gắn bó trong lao động, trong đời sống văn hóa, tâm linh của dân tộc Việt. Không chỉ vậy, tre còn gắn bó với người từ thuở lọt lòng với chiếc nôi tre cùng lời ru ngọt ngào của bà của mẹ, những năm tháng tuổi thơ cây sáo với nhạc điệu du dương trầm bổng hay bộ chắt bằng tre làm bạn, tuổi già lấy điếu thuốc lào làm vui, và khi nhắm mắt xuôi tay tre cũng ở bên cạnh con người.

Chưa dừng lại ở đó, những năm tháng chiến tranh gian nan, ác liệt tre cũng là đồng chí, người bạn đồng hành của nhân dân Việt Nam. Cảm hứng chính của đoạn văn được khơi dậy từ hình ảnh: “Như tre mọc thẳng, con người không chịu khuất” một mặt tô đậm đặc điểm của tre nhưng đằng sau đó là lời ca ngợi ý chí kiên cường, bất khuất của dân tộc ta. Trước mưa bom, bão đạn của kẻ thù, cả tre và người không chịu khuất phục, tre giúp sức người: gậy tre, chông tre chống lại sắt thép quân thù. Trong đoạn văn tác giả đã sử dụng hàng loạt biện pháp nhân hóa: tre là đồng chí, tre giữ làng, tre hi sinh,… vừa tôn vinh giá trị của tre vừa làm sống dậy những năm tháng chiến tranh ác liệt mà hào hùng của dân tộc.

Kết lại bài viết, là hình ảnh tre của hiện tại, khi cuộc sống con người đã trở nên hiện đại hơn, sắt thép xi măng đã dần thay thế cho tre. Nhưng không vì thế mà tre mất đi vị thế của mình. Tre vẫn xuất hiện trên phù hiệu ở ngực thiếu nhi, được tác giả diễn đạt thật tinh tế qua hình ảnh “măng mọc”, tiếng sáo diều vi vút,… Lời kết vút lên như một lần nữa ca ngợi sự gắn bó thủy chung, son sắt của tre với con người.

Bài kí sử dụng lớp ngôn ngữ giàu chất thơ với nhịp điệu phong phú, biến hóa linh hoạt, phù hợp với nội dung bài viết. Hệ thống điệp từ, điệp ngữ, chia làm nhiều câu văn ngắn tạo nên không khí sục sôi, hào hùng trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp. Không chỉ vậy, góp phần tạo nên sự thành công cho văn bản còn phải kể đến những lời bình giàu hình ảnh, gợi ra khung cảnh làng quê êm đềm. Giọng điệu dịu dàng kết hợp với các câu văn trữ tình (ca dao, câu thơ) hòa quyện với nhau tựa như một khúc hát ru tha thiết. Tất cả đã góp phần tạo nên sự thành công cho tác phẩm.

Với những chi tiết, hình ảnh được chọn lọc kĩ càng, giọng điệu tha thiết tác giả đã khẳng định sự gắn bó, thủy chung của cây tre với đời sống người dân Việt Nam. Cây tre với những phẩm chất tốt đẹp quý báu chính là biểu tượng của đất nước, dân tộc Việt Nam.

Phân tích Cây tre Việt Nam của tác giả Thép Mới mẫu số 4

Cây tre Việt Nam được Thép Mới viết để làm lời thuyết minh cho bộ phim cùng tên của các nhà điện ảnh Ba Lan. Thông qua hình ảnh cây tre, bộ phim đã thể hiện đất nước và con người Việt Nam, ca ngợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta. Lời thuyết minh đã góp phần làm lên giá trị của bộ phim, nó được coi như là một bài tùy bút đặc sắc, một bài thơ - văn xuôi đẹp của nhà báo, nhà văn Thép Mới.

Câu mở đầu Thép Mới viết: Cây tre là người bạn thân của nông dân Việt Nam, bạn thân của nhân dân Việt Nam. Phải chăng tác giả đã xác lập mối quan hệ gắn bó lâu đời, đặc biệt giữa tre với người Việt Nam - nông dân Việt Nam. Chính vì thế mà tre có mặt khắp nơi trên đất nước: Tre Đồng Nai, nứa Việt Bắc, tre ngút ngàn Điện Biên Phủ, lũy tre thân mật làng tôi... đâu đâu cũng có tre nứa làm bạn. Chỉ có một câu văn thôi mà đã gợi lên được tre ở mọi miền Tổ quốc. Hình ảnh đối xứng nhịp nhàng, câu văn có nhạc tính, đọc lên nghe rất thích thú. Tiếp ngay sau đó, nhà văn ca ngợi những đức tính đáng quý của tre: Vào đâu tre cũng sống, ở đâu tre cũng xanh tươi. Dáng tre vươn mộc mạc, màu tre tươi nhũn nhặn. Sức sống bền vững, dẻo dai; dáng vẻ thanh cao, giản dị của tre một lần nữa được nói lên trong những câu văn giàu nhạc tính, cân xứng nhịp nhàng. Đọc đến câu "Tre trông thanh cao, giản dị, chí khí như người" thì ta bỗng hiểu ra cái ý vị sâu sắc: cây tre chính là con người Việt Nam - là tượng trưng cho dân tộc Việt Nam và những phẩm chất cao qúy của tre cũng là những đức tính đẹp đẽ của con người.

Nhận định tre là người bạn thân của nông dân Việt Nam, bạn thân của nhân dân Việt Nam là tư tưởng xuyên suốt bài văn. Để chứng minh cho nhận định này, tác giả đã đưa ra một hệ thống luận điểm với nhiều dẫn chứng. Luận điểm thứ nhất như đã nói ở phần mở đầu, sự gắn bó của cây tre với con người Việt Nam. Cây tre có mặt ở khắp nơi trên đất nước. Hơn thế nữa, tre ăn ở với người đời đời kiếp kiếp. Đã từ lâu đời, dưới bóng tre xanh con người Việt Nam đã làm ăn sinh sống và gìn giữ một nét văn hóa cổ truyền. Tre còn giúp người trăm nghìn công việc khác nhau như là cánh tay của người nông dân:

Cánh đồng ta năm đôi ba vụ

Tre với người vất vả quanh năm.

Trong cuộc sống đời thường, tre gắn bó với con người thuộc mọi lứa tuổi: với tuổi thơ, tre là nguồn vui - các bạn nhỏ chơi chuyền đánh chắt bằng tre; với lứa đôi nam nữ thì dưới bóng tre là nơi hò hẹn tâm tình; với tuổi già hút thuốc làm vui thì có chiếc điếu cày... Suốt một đời người, từ thuở lọt lòng trong chiếc nôi tre, đến khi nhắm mắt xuôi tay, nằm trên giường tre, tre với mình sống có nhau, chết có nhau, chung thủy.

Trong cuộc chiến đấu bảo vệ quê hương đất nước, tre cũng gắn bó cùng dân tộc. Ta kháng chiến, tre lại là đồng chí chiến đấu của ta... Gậy tre, chông tre chống lại sắt thép của quân thù... Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre hy sinh để bảo vệ con người. Chính trong hoàn cảnh chiến đấu, tre bộc lộ nhiều phẩm chất cao quí khác: thẳng thắn, bất khuất: Trúc dẫu cháy, đốt ngay vẫn thẳng. Tre lại vì ta mà cùng ta đánh giặc. Trong lịch sử kháng chiến chống ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc, cây tre càng gắn bó khăng khít, chặt chẽ hơn với con người Việt Nam. Từ truyền thuyết cây tre đằng ngà cùng anh hùng làng Gióng đánh tan giặc Ân, đến câu ca dao: "Trồng tre nên gậy, gặp đâu đánh què!". Cho tới cuộc kháng chiến chống Pháp... cây tre rất xứng danh anh hùng bất khuất, như dân tộc Việt Nam bất khuất anh hùng. Đế tổng kết vai trò lớn lao của cây tre đối với đời sống con người và dân tộc Việt Nam, tác giả đã khái quát: Tre, anh hùng lao động! Tre, anh hùng chiến đấu.

Cây tre tiếp tục gắn bó thân thiết với dân tộc Việt Nam trong hiện tại và mãi mãi sau này. Phần kết của bài kí, tác giả đặt ra một vấn đề có ý nghĩa: vai trò của cây tre khi đất nước bước vào thời kì mới (Công nghiệp hóa - hiện đại hóa) trong giai đoạn hiện tại và tương lai, khẳng định tre mãi mãi là người bạn chia bùi, sẻ ngọt với con người. Để đưa người đọc đến vấn đề này, tác giả bắt đầu từ hình ảnh nhạc của trúc, của tre, hình ảnh sáo tre, sáo trúc biểu lộ tâm tình của con người Việt Nam. Những câu văn viết về nhạc của trúc, của tre thiết tha bay bổng như một đoạn thơ - văn xuôi giàu nhạc tính. Sau đó, tác giả lấy câu tục ngữ tre già măng mọc và hình ảnh măng non trên phù hiệu đội viên thiếu nhi làm phương tiện chuyển ý rất tự nhiên để khẳng định vị trí của cây tre trong tương lai của đất nước: Nứa tre... còn mãi với dân tộc Việt Nam, chia ngọt sẻ bùi của những ngày mai tươi hát... Ngày mai, trên đất nước này, sắt thép có thể nhiều hơn tre nứa. Nhưng trên đường đời ta dấn bước, tre xanh mãi là bóng mát. Tre vẫn mang khúc nhạc tâm tình... Nghĩa là cây tre với những phẩm chất quí báu của nó lưu giữ biết bao giá trị lịch sử, giá trị vàn hóa, tượng trưng cao quí của dân tộc Việt Nam vẫn còn mãi với các thế hệ Việt Nam hôm nay và mai sau, với bao niềm tự hào và kiêu hãnh:

Mai sau

Mai sau

Mai sau...

Đất xanh tre mãi xanh màu tre xanh...

(Nguyễn Duy, Tre Việt Nam)

Bài Cây tre Việt Nam với nhiều chi tiết, hình ảnh chọn lọc mang ý nghĩa biểu tượng, phép nhân hóa sử dụng thành công, lời văn giàu cảm xúc và nhịp điệu, Thép Mới đã đem đến cho người đọc vẻ đẹp bình dị và những phẩm chất cao quí của cây tre. Cây tre đã trở thành một biểu tượng của đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam.

Phân tích Cây tre Việt Nam - áng văn xuôi xuất sắc của Thép Mới mẫu số 5

Cây tre là người bạn thân thiết lâu đời của người nông dân và nhân dân Việt Nam. Với nhiều phẩm chất quý báu, nó đã trở thành biểu tượng về đất nước Việt Nam, về dân tộc Việt Nam. Toàn bộ nội dung ấy được diễn đạt trong một bài văn thể kí nghiêng về phía tùy bút chính luận. Cho dù là lời thuyết minh cho một cuốn phim với tất cả sự phụ thuộc vào kịch bản, người viết vẫn phát huy được bản sắc của mình bằng lối văn giàu hình ảnh và nhạc điệu. Tất cả thống nhất trong một bố cục chặt chẽ của tư duy. Đây là một trong những bài văn xuôi hiếm có của văn học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám.

Văn bản thuyết minh bắt đầu bằng một nhận xét bao trùm, có sức khái quát cho toàn bài: "Cây tre là người bạn thân của nông dân Việt Nam, bạn thân của nhân dân Việt Nam", rồi ngay sau đó để chứng minh, người viết đi vào luận điểm đầu tiên: cây tre Việt Nam là loài cây độc đáo nhất trong các loài cây. Ý thức khẳng định bằng phép so sánh này đã có một cách làm trực tiếp: đặt cây tre vào vùng thiên nhiên nhiệt đới của "muôn ngàn cây lá khác nhau". Chỉ với ba câu văn, tác giả đã thuyết phục được chúng ta ở sự trân trọng, nâng niu (cây nào cũng đẹp, cây nào cũng quý) nhưng là nhằm nhấn mạnh về quan hệ "thân thuộc nhất" với con người thì không gì bằng nứa bằng tre. Để tránh sự ngộ nhận, chủ quan, với cách viết dụng công và tâm huyết, ông trưng bày một hệ thống hình ảnh trùng điệp, liên hoàn có ấn tượng thị giác rất cao: "Tre Đồng Nai, nứa Việt Bắc, tre ngút ngàn Điện Biên Phủ, lũy tre thân mật làng tôi...". Nếu hình dung cách viết này như một thứ ống kính quay phim, ta có một cái nhìn ở hai cấp độ: viễn cảnh và cận cảnh, từ xa đến gần. Riêng hình ảnh cận cảnh (lũy tre thân mật làng tôi) làm chúng ta không khỏi bồi hồi. Ấy là chưa nói sự cất cánh của lời văn bằng nhạc, một giai điệu say sưa ở sự cân đối, hài hòa.

Nếu tách nhịp, chúng ta có kết cấu 3-3, 6-6. Ngôn ngữ ấy, nhạc điệu ấy - từ cảm xúc vang lên như những bài thơ. Mạch cảm hứng dồi dào còn vắt xuống ý tiếp theo để đi vào phẩm chất. Vẫn với phương pháp so sánh, vẫn với lối văn trùng điệp, vẫn những nhịp điệu hài hòa, ta thấy hình tượng cây tre độc đáo hiện ra với lòng ham sống và sức sống dồi dào: "Vào đâu tre cũng sống, ở đâu tre cũng xanh tốt", và từ cái gốc ấy, nó tự vun trồng những nét đặc trưng: mộc mạc, nhũn nhặn, cứng cáp, dẻo dai, thanh cao, chí khí. Quen thuộc với con người, lại "chí khí" như người, cây tre còn độc đáo ở sự hóa thân. Nó là cốt cách người và chỉ con người Việt Nam mới có. Đọc câu văn ấy ta bỗng giật mình: đường biên phân định giữa cây tre với con người không còn chia tách rạch ròi được nữa.

Ý tưởng "cây tre là người bạn thân của nông dân Việt Nam, của nhân dân Việt Nam" từ đoạn hai trở đi mới rõ. Dưới "bóng tre trùm lên âu yếm làng, bản, xóm, thôn", hiện ra toàn bộ đời sống con người từ ăn, ở, làm lụng, tập quán, phong tục, buồn vui, từ dựng nhà dựng cửa, lấy vợ lấy chồng (hai trong ba việc hệ trọng: tậu trâu, cưới vợ, làm nhà), sinh ra và mất đi, "tre với mình, sống có nhau, chết có nhau chung thủy". Trong đoạn văn quan trọng này, về cấu trúc có sự kết hợp đan cài giữa chiều ngang và chiều dọc. Về chiều ngang, ta nhận ra thấp thoáng mái chùa cổ kính, nền văn hóa nông thôn, những công việc hằng ngày, cả những nhọc nhằn giần, sàng, xay, giã. Tre chẻ lạt gói bánh chưng mỗi lần tết đến, niềm vui của trẻ thơ, phút khoan khoái của tuổi già, tre đã chia sẻ với con người khăng khít, thủy chung. Còn về chiều dọc, nhằm gắn kết, gia cố sự bền chặt, tác giả đã nhấn mạnh yếu tố thời gian: "mái đình cổ kính", "nền văn hóa lâu đời", "đã từ lâu", "đời đời, kiếp kiếp", "đã mấy nghìn năm". Đó chính là chiều dài bốn nghìn năm lịch sử. Riêng về yếu tố văn hóa, nếu nghĩ cho sâu, nó không chỉ thể hiện bằng chất liệu vật thể mà còn có cả nền văn hóa phi vật thể. Đó là những câu hát, những tâm sự, cách so sánh ví von. Đoạn hai của bài có ba câu thơ thì bắt đầu bằng câu thơ của thời đại mới ("Bóng tre trùm mát rượi").

Sau đó, hình như để xâu chuỗi với tâm hồn dân tộc thì một câu thơ là tâm sự mùa màng, còn một câu nữa là khúc hát giao duyên. Câu thứ nhất, tâm sự cùng tre làm ta nhớ đến nỗi niềm của người nông dân với con trâu quen thuộc: "Trâu ơi ta bảo trâu này". Còn chất nhạc nếu là ưu điểm nổi bật của bài văn thì ở đoạn này hiện ra rất rõ. Đó là cách nói có vần và nhịp điệu, nhất là nhịp điệu, chẳng hạn câu: "Giang chẻ lạt, buộc mềm, khít chặt như những mối tình quê cái thuở ban đầu thường nỉ non dưới bóng tre, bóng nứa". Nhất là câu: "Cối xay tre nặng nề quay, từ nghìn đời nay, xay nắm thóc". Có thể nói, ít có đoạn nào mà bao nhiêu tâm sự, nỗi niềm của người viết đã gửi gắm tài hoa và chắt lọc vào từng câu, từng chữ như ở đoạn này.

Nếu đoạn hai nói về vai trò của cây tre trong sự nghiệp dựng nước thì đoạn ba lại khẳng định vị trí của cây tre trong công cuộc giữ nước. Vì sự bất khuất, can trường vốn cũng là một thuộc tính của tre. Tác giả có nhắc tới ý của người xưa: "Trúc dẫu cháy, đốt ngay vẫn thẳng". Đúng, ngay thẳng vốn là khí tiết, là cách ứng xử của trúc, của tre: "Tre xung phong vào xe tăng, đại bác. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre hi sinh để bảo vệ con người". Tư thế của tre là lăn xả vào cái ác dù cái ác mạnh đến chừng nào để giữ gìn non sông, đạo lí và cũng là để chung thủy với phẩm chất của tre. Yếu tố trữ tình một lần nữa lại được phát huy. Nhưng ở đoạn này nó còn gắn liền với tính chính luận. Để liên kết với đoạn trên cũng là để làm hiện lên một chân dung nguyên khối của cây tre, người viết luôn luôn lưu ý: "Ta kháng chiến, tre lại là đồng chí chiến đấu của ta. Tre vốn cùng ta làm ăn, lại vì ta mà cùng ta đánh giặc". Và kì lạ thay, nếu ở đoạn trên, chiếc cối xay tre là biểu tượng về cuộc đời lam lũ, sự chịu đựng đến mức bền bỉ, dẻo dai thì đến đây, vẫn là cây tre nhũn nhặn ấy, nó nhọn hoắt mũi tầm vông với sức mạnh của Thánh Gióng năm nào đuổi giặc Ân cứu nước.

Đoạn cuối của bài văn là một phác thảo về cây tre trên con đường đi tới để liên kết giữa hiện tại, quá khứ với tương lai. Đây mới là những dự cảm. Và, tuy mới chỉ là dự cảm, nhưng vì nói đến tương lai, nó thật là náo nức: "Nhạc của trúc, nhạc của tre là khúc nhạc của đồng quê. Nhớ một buổi trưa nào, nồm nam cơn gió thổi...". Sử dụng văn chương như một thứ nhạc nền nhằm thuyết minh thì sức thuyết phục của nó có cả từ lời lẫn nhạc. Bởi nó bay bổng dĩ nhiên, nhưng ở trường hợp này, nó còn là lời của câu thơ cũ, thơ của lớp người cắp sách ngày xưa. Vì vậy, thật xao xuyến, bâng khuâng, man mác. Nó - "tre già măng mọc", nối liền với tâm hồn trẻ thơ bây giờ, và cả những ngày mai sắp tới. Và có lẽ vì là nhạc của trúc, của tre của thời đại mới, nó không còn là lời ca của những mối tình quê cái thuở ban đầu, nó là tiếng hát của lớp trẻ thơ măng mọc thẳng: Diều bay, diều lá tre bay lưng trời... Sáo tre, sáo trúc vang lưng trời... Đó là lời của tre, trúc hay là lời của một thời đại đang bay mà phơi phới, rộn ràng, khấp khởi?

Hồi kết của đoạn văn vừa là khúc tâm tình vừa khơi gợi lời nhấn nhủ: "Các em, các em rồi đây lớn lên...". Cây tre vật chất Việt Nam dĩ nhiên không thay thế được xi măng, sắt thép, nhưng người bạn son sắt thủy chung ấy ít nhất cũng là một nhân chứng chia vui. Còn "cây tre tinh thần" vẫn là bóng mát, là khúc nhạc tâm tình, là cổng chào thắng lợi. Nó vẫn bền chặt với con người, còn tri kỉ, tri âm mãi mãi. Câu văn chính luận cuối cùng như một cách đóng đinh vào ý tưởng: "Cây tre mang những đức tính của người hiền là tượng trưng cao quý của dân tộc Việt Nam".

Về nghệ thuật, trước hết người đọc dễ dàng nhận ra: Cây tre Việt Nam có phẩm chất văn chương hơn báo chí dù tác giả của nó là nhà báo hơn một nhà văn. Phẩm chất văn chương biểu hiện cái nền của cảm xúc dồi dào, tình yêu nồng nhiệt trước con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam mà cây tre là biểu tượng tuyệt vời. Tình cảm ấy cộng với những tri thức văn hóa, văn chương đã tìm đến những hình ảnh, những nhạc điệu như một thi nhân để thổ lộ, giãi bày, diễn tả. Tuy nhiên, là một tùy bút chính luận, dù muốn dù không, bài văn có một tổ chức phân đoạn, phân ý rõ ràng. Cái khéo của nhà văn là tạo được mối liên kết cả bên ngoài và cả bên trong của nó. Bài văn có được sự liền mạch câu nọ nối liền câu kia, ý trên với ý dưới như dòng chảy một con sông. Đây là một chỉnh thể nghệ thuật.

Cùng với nội dung, giá trị nghệ thuật chủ yếu của bài văn là chất thơ văn xuôi của nó. Chất thơ ấy thể hiện trên hai mặt, một là những hình ảnh táo bạo, phong phú và hai là nhạc điệu đặc biệt của câu về hình ảnh độc đáo, người viết tạo ra bằng biện pháp nhân hóa trong nhiều trường hợp. Thực ra cái cách này không mới. Ca dao từng đã có câu: "Giã ơn cái cối cái chày", "Giã ơn cái cọc bờ ao". Nhưng sáng tạo của Thép Mới là sử dụng biện pháp ấy một cách tối đa, có hệ thống và đầy hiệu quả: "Tre với người như thế đã mấy nghìn năm...". Sự xuyên suốt theo kiểu tính đếm ấy sâu nặng nhân tình như một thứ lạt mềm buộc chặt để ai đó trong chúng ta chỉ cần thao thức một chút là không khỏi rưng rưng về cái nơi sinh thành gốc đa, giếng nước. Còn về nhạc điệu của lời văn, có gì xao xuyến hơn những câu văn đầy tính hòa thanh của bằng trắc, của cách ngắt nhịp khi dồn dập trào dâng, lúc lắng sâu, nỉ non, thủ thỉ. Câu văn có lúc căm giận đến nghẹn ngào: "Một thế kỉ "văn minh", "khai hóa" của thực dân cũng không làm ra được một tấc sắt. Tre vẫn phải còn vất vả mãi với người", lúc trầm tư như chiêm ngưỡng một bức tranh thuốc nước: "Dưới bóng tre của ngàn xưa, thấp thoáng mái đình mái chùa cổ kính". Với thành công về nhiều mặt như đã phân tích trên đây, Cây tre Việt Nam là một áng văn xuôi đặc sắc.

-/-

Trên đây là tuyển chọn những bài văn mẫu phân tích Cây tre Việt Nam do Đọc Tài Liệu biên soạn và tổng hợp, cùng các bài văn mẫu 6 hy vọng sẽ giúp các em hoàn thành tốt các bài văn về phân tích, cảm nhận...

Bạn còn vấn đề gì băn khoăn?
Vui lòng cung cấp thêm thông tin để chúng tôi giúp bạn
Hủy

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM