Phân tích Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác - Ăng-ghen

Xuất bản: 12/04/2019 - Cập nhật: 10/12/2020 - Tác giả:

Phân tích Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác - Ăng-ghen để thấy được thành tựu của các nhà lãnh tụ và nghệ thuật lập luận trong văn bản Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác

Để làm được bài phân tích Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác đạt điểm cao sẽ không quá khó nếu bạn tham khảo kĩ những gợi ý mà bài viết trình bày sau đây:

  • Sơ lược về ba cống hiến vĩ đại của Các Mác
  • Nội dung và nghệ thuật bài Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác
  • Dàn ý mở bài, thân bài, kết bài phân tích Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác
  • Những bài văn mẫu hay và đặc sắc nhất

Ngay bây giờ, hãy cùng nhau từng bước đi vào phân tích, xây dựng nội dung chi tiết cho bài văn phân tích Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác - Ăng-ghen nhé!

I. Sơ lược về ba cống hiến vĩ đại của Các Mác

1. Ba phát kiến vĩ đại của Các Mác

Dựa trên các tài liệu tìm hiểu được có thể chỉ ra cống hiến vĩ đại của Các Mác đối với sự phát triển nhân loại như sau:

- Cống hiến đầu tiên là “tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người” qua các thời kì lịch sử, mà bản chất của quy luật đó là cơ sở hạ tầng (bao gồm tư liệu sản xuất, cách sản xuất tư liệu sản xuất, trình độ phát triển kinh tế,…) quyết định kiến trúc thượng tầng của xã hội (bao gồm các hình thức, thể chế nhà nước, tôn giáo, văn học nghệ thuật,…).

- Cống hiến thứ hai là “tìm ra quy luật vận động riêng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện nay và của xã hội tư sản do phương thức đó đẻ ra”. Đó là quy luật về giá trị thặng dư.

- Cống hiến thứ ba là cống hiến quan trọng hơn cả, đó là sự kết hợp giữa lí luận và thực tiễn, biến các lí thuyết cách mạng - khoa học thành hành động cách mạng, bởi vì “khoa học đối với Mác là một động lực lịch sử, một lực lượng cách mạng” và “trước hết Mác là một nhà cách mạng”, ở Mác “đấu tranh là hành động tự nhiên”.

2. Cống hiến vĩ đại của Ăng-ghen với sự ra đời và phát triển Chủ nghĩa Mác - Lê-nin

- Đóng góp to lớn của Ph. Ăng-ghen với chủ nghĩa Mác - Lê-nin thể hiện trong những tác phẩm viết chung với C. Mác (như Gia đình Thần thánh, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản) và các tác phẩm viết riêng (như Tình cảnh của giai cấp công nhân ở Anh, Chống Đuyrinh, Biện chứng tự nhiên, L. Phoi-ơ-bach và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức, …).

- Các nguyên lý, quy luật, phạm trù được xây dựng, trình bày một cách hệ thống, gồm: các vấn đề về chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản khoa học, các vấn đề kinh tế chính trị mác-xít, và lý luận quân sự hiện đại…

- Ph. Ăng-ghen là người đầu tiên vận dụng phép biện chứng duy vật vào việc nhận thức các quy luật của tự nhiên, luận giải, khái quát các thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên và phê phán quan điểm duy tâm thần bí, siêu hình, máy móc đang thống trị trong khoa học tự nhiên đương thời.

- Ông là người đặt nền móng và phát triển lý luận quân sự Mác-xít, áp dụng các khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật của phép biện chứng duy vật vào xem xét lĩnh vực quân sự; xây dựng hệ thống quan điểm khoa học về chiến tranh và quân đội; xây dựng cương lĩnh quân sự của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh giai cấp và thực hiện sứ mệnh lịch sử thế giới của mình.

II. Nội dung và nghệ thuật bài Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác

1. Giá trị nội dung

- Văn bản Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác chính là bài điếu văn do Ăng-ghen viết và đọc trước mộ Mác, ngày 14-3-1895. Có thể coi đây là bản tổng kết về toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp lớn lao của vị lãnh tụ kiệt xuất Các Mác.

- Mác là nhà tư tưởng vĩ đại nhất, nhà hoạt động cách mạng lớn, những cống hiến của Mác trở thành tài sản chung cho cả nhân loại.

- Cảm hứng tiếc thương nhưng chủ yếu nghiêng về khẳng định, ngợi ca công lao và những cống hiến vĩ đại của Mác, sự đánh giá của một vĩ nhân đối với một vĩ nhân.

2. Giá trị nghệ thuật

- Bố cục đoạn trích theo mô hình 3 phần của văn nghị luận:

+ Phần 1 (Từ đầu đến “…vĩ nhân ấy gây ra”): nhắc tới không gian, thời gian liên quan tới sự ra đi của Các Mác, tiên lượng sự mất mát, trống vắng của giai cấp vô sản, nhân dân thế giới và khoa học lịch sử trước cái chết của ông.

+ Phần 2 (tiếp đến “…không làm gì thêm nữa”): đề cập đến những cống hiến to lớn của Các Mác đối với nhân loại.

+ Phần 3 (còn lại): các giá trị tổng quát của những cống hiến của Các Mác, những cống hiến đó đều hướng vào mục tiêu chung là phục vụ nhân loại. Bày tỏ tình cảm tiếc thương vô hạn và khẳng định sự bất diệt của tên tuổi và sự nghiệp của Mác)

- Ngôn ngữ nghệ thuật: nghệ thuật so sánh theo hình thức tăng tiến, trùng điệp

- Nghệ thuật lập luận chặt chẽ, luận điểm, luận cứ, luận chứng rõ ràng.

II. Mở bài phân tích Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác

1. Tác giả Ph. Ăng-ghen

- Phri-đrích Ăng-ghen (1820 -1895) là nhà triết học người Đức, bạn thân thiết của Các Mác và là nhà hoạt động cách mạng nổi tiếng của phong trào công nhân thế giới và Quốc tế cộng sản.

- Di sản lí luận của ông là một phần quan trọng trong lí luận của chủ nghĩa Mác.

2. Các Mác

- Các Mác (1818 – 1883) là nhà triết học và lí luận chính trị vĩ đại người Đức, lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới.

- Học thuyết về chủ nghĩa cộng sản khoa học của Các Mác mở đường cho nhân loại bước vào kỉ nguyên xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.

Chân dung nhà tư tưởng Các Mác và Ăng-ghen

Các Mác và Ăng-ghen là hai là tư tưởng lỗi lạc của thế giới

3. Tác phẩm Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác

- Văn bản Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác là bài điếu văn do Ăng-ghen viết và đọc trước mộ Mác, ngày 14-3-1895, là bản tổng kết về toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp lớn lao của vị lãnh tụ kiệt xuất Các Mác cũng như đánh giá cao cống hiến của ông, biểu lộ lòng tiếc thương vô hạn đối với Mác, tình cảm thái độ của một vĩ nhân trước một vĩ nhân.

III. Thân bài phân tích Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác

1. Thông báo sự ra đi của Các Mác - một tổn thất lớn của nhân loại

- Ở phần mở đầu, Ăng-ghen thông báo rõ thời khắc ra đi vĩnh viễn của Các Mác bằng giọng văn ngậm ngùi, thương tiếc:

+ Thời gian: Chiều ngày 14 tháng 3, vào lúc ba giờ kém 15 phút. Vẻn vẹn chỉ có hai phút.

+ Không gian lúc ra đi:

  • Văn phòng của Các Mác
  • Trên chiếc ghế bành.

=> Không gian, thời gian cụ thể đến mức chi tiết gợi nên cái trang trọng, thiêng liêng của khoảnh khắc Mác qua đời.

- Sự ra đi của Mác rất nhẹ nhàng: Ngủ thiếp đi trên chiếc ghế bành nhưng là giấc ngủ nghìn thu. -> Nghệ thuật nói giảm, nói tránh góp phần xoa dịu đau thương nhưng không làm phai nhạt vị trí và tầm vóc Mác.

=> Niềm tiếc thương và kính trọng đối với Các Mác.

2. Những cống hiến vĩ đại của Các Mác

- Tác giả nêu bật tầm vóc lớn lao những cống hiến của Mác bằng cách so sánh những cống hiến ấy với cống hiến của nhà khoa học tự nhiên nổi tiếng Đác-uyn.

+ Cống hiến thứ nhất: Các Mác đã tìm ra quy luật phát triển của xã hội loài người là hạ tầng cơ sở quyết định kiến trúc thượng tầng. Điều này rất khoa học và tiến bộ trái ngược hẳn với các quan niệm sai lầm trước đó.

+ Cống hiến thứ hai: Các Mác phát hiện ra giá trị thặng dư, quy luật vận động của phương thức tư bản chủ nghĩa. Từ đó Các Mác chỉ ra bản chất của giai cấp tư sản là bóc lột sức lao động của giai cấp công nhân để làm giàu.

+ Cống hiến thứ ba: Các Mác không chỉ dừng lại ở lí thuyết mà biến lí thuyết thành hành động cách mạng -> Đây là cống hiến quan trọng nhất.

=> Với ba cống hiến đó, Các Mác đã trở thành một nhà khoa học, một nhà cách mạng lỗi lạc và người tiên phong trong sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản hiện đại, là “nhà tư tưởng vĩ đại nhất trong các nhà tư tưởng hiện đại”.

- Dựa trên những cống hiến quan trọng và to lớn của Các Mác, Ăng-ghen khẳng định tài năng của Các Mác trên hai phương diện: Con người của phát minh khám phá và con người của hành động thực tiễn

+ Các Mác là người khởi xướng phong trào đấu tranh giải phong dân tộc của giai cấp vô sản, lật đổ chính quyền tư sản

+ Các Mác kiên cường chống áp bức bất công để bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động trên toàn thế giới

=> Khẳng định Các Mác là nhà tư tưởng vĩ đại nhất trong số các nhà tư tưởng hiện đại, tên tuổi và sự nghiệp của Các Mác sẽ đời đời sống mãi.

3. Thái độ, tình cảm xót thương của Ăng-ghen với Các Mác

- Bài điếu văn sử dụng cách nói giảm, nói tránh, không nói nhiều về cái chết => Nhấn mạnh sự bất tử của Các Mác.

- Đề cao, ngợi ca, tiếc thương vô hạn trước sự ra đi vĩnh hằng của Các Mác, những cống hiến mang lại lợi ích cho toàn thể nhân loại.

- Mác bị căm ghét nhiều nhất vì tất cả những xấu xa trong xã hội đương thời đã bị Mác phơi bày ra trước ánh sáng. -> "Ông có thể có nhiều kẻ đối địch nhưng chưa chắc đã có một kẻ thù riêng nào cả"

- Giai cấp công nhân, cộng sự, nhân dân lao động trên toàn thế giới kính yêu, thương tiếc ông. -> tiếng khóc như lời khẳng định, lời cầu nguyện của Ăng-ghen trước mộ Các Mác.

=> Đây là bằng chứng hùng hồn cho thấy sức mạnh và sự bất tử của học thuyết Mác.

- Mục tiêu phê phán, đấu tranh suốt đời của Mác là chủ nghĩa tư bản, là tư tưởng, học thuyết phản động, duy tâm, bất công xã hội chứ không phải một cá nhân cụ thể nào.

IV. Kết bài phân tích Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác

Tổng kết, đánh giá khái quát giá trị nội dung và đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm.

1. Giá trị nội dung

- Văn bản Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác như một bản tổng kết về toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp lớn lao của vị lãnh tụ kiệt xuất Các Mác, là sự đánh giá của một vĩ nhân đối với một vĩ nhân.

- Biểu lộ tình cảm tiếc thương của những người cộng sản trước tổn thất to lớn không sao bù đắp được trước sự ra đi của Các Mác.

2. Đặc sắc nghệ thuật

- Lập luận chặt chẽ, lí lẽ giàu sức thuyết phục

- Nghệ thuật so sánh kết hợp kết cấu tầng bậc (tăng tiến) được sử dụng vô cùng thành công khiến bài văn càng thêm sức thuyết phục.

Như vậy, qua những phân tích đánh giá của Ph. Ăng-ghen, ta có thể nhận định khái quát rằng Mác là "nhà tư tưởng vĩ đại nhất trong số những nhà tư tưởng hiện đại". Qua việc phân tích văn bản Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác, hình ảnh, tầm vóc con người Mác hiện lên thật lớn lao, kì vĩ biết bao giữa những đỉnh cao tinh hoa của nhân loại, trở thành đỉnh cao của mọi đỉnh cao, vĩ nhân của mọi vĩ nhân.

V. Những bài văn hay tuyển chọn phân tích Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác

Nhằm giúp các em dễ hình dung cách triển khai nội dung cũng như mở rộng vốn từ ngữ trong khi làm bài, Doctailieu gửi tới các em 5 mẫu bài văn phân tích đoạn trích Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác ngay sau đây:

1. Phân tích Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác bài mẫu số 1

Là nhà triết học, lí luận, nhà hoạt động cách mạng lỗi lạc của thế giới, Ăng-ghen cũng có rất nhiều đóng góp trên lĩnh vực văn học nghệ thuật. Bài phát biểu của Ăng-ghen đọc trước mộ Các Mác là một bài văn nghị luận tiêu biểu và có giá trị văn chương. Bài phát biểu ngắn gọn súc tích, bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ tôn vinh tài năng và tên tuổi của nhà cách mạng vĩ đại thế giới: Các Mác.

Ngay phần mở đầu, tác giả có cách nêu tình huống tạo một sự chú ý đặc biệt với người đọc: “Chiều ngày 14 tháng 3, vào lúc ba giờ kém mười lăm phút, nhà tư tưởng vĩ đại nhất trong số những nhà tư tưởng hiện đại đã ngừng suy nghĩ”. Câu văn mở đầu đồng thời là lời thông báo về sự ra đi vĩnh viễn của Các Mác rất cảm động. Cách nói giảm “nhà tư tưởng vĩ đại” “đã ngừng suy nghĩ” vừa tạo sắc thái kính cẩn lại vẫn tạo ra vẻ trang trọng rất đúng với hình ảnh một con người suốt đời “cống hiến cho sự nghiệp giai cấp vô sản toàn thế giới”.

Cũng giống như những bài văn có ý nghĩa tiễn đưa, khóc thương người đã mất, trong phần mở đầu tác giả cũng bộc lộ rõ cảm xúc của mình về sự ra đi Mác: “Rồi đây, người ta sẽ cảm thấy nỗi trống vắng do sự qua đời của bậc vĩ nhân ấy gây ra”. Ngôn ngữ ngắn gọn súc tích nhưng lại có sức biểu cảm sâu xa, có khả năng đánh thức những tình cảm kính yêu muôn vàn của người đọc đối với vị lãnh tụ. Riêng ở phần hai, tác giả đã dành phần lớn dung lượng của bài viết ghi lại những cống hiến to lớn của Mác.

Trước hết, đó là tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người: con người trước hết cần phải có cái ăn, cái uống, quần áo và chỗ ở rồi sau đó mới có thể làm chính trị, khoa học, nghệ thuật và tôn giáo. Đó cũng là một lôgíc đơn giản có ý nghĩa biện chứng. Các thể chế nhà nước, các quan điểm pháp quyền, nghệ thuật, tôn giáo phải được xuất phát từ sự phát triển kinh tế, từ điều kiện vật chất trực tiếp, cụ thể. Cách so sánh với quy luật phát triển thế giới hữu cơ của Đác Uyn cùng với nghệ thuật liệt kê đã làm tăng sức thuyết phục và sự vĩ đại trong cống hiến của Mác.

Cống hiến thứ hai là việc tìm ra quy luật vận động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện nay và của xã hội tư sản do phương thức đó sinh ra. Đặc biệt là việc phát hiện giá trị thặng dư – phần giá trị dôi ra ở sản phẩm so với khoản tiền phải chi để tạo sản phẩm ấy. Cống hiến thứ ba là những phát kiến khoa học có tác động cách mạng đến công nghiệp, đến sự phát triển lịch sử nói chung. Khi nêu cống hiến thứ ba của Mác, tác giả có ý tách thành hai đoạn văn nhỏ:

Đoạn thứ nhất khẳng định con người khoa học ở Mác; đoạn thứ hai khẳng định con người cách mạng ở Mác. Điều đặc sắc là mối quan hệ biện chứng giữa khoa học và cách mạng: “Khoa học đối với Mác là một động lực lịch sử, một lực lượng cách mạng”. Mác là nhà khoa học nhưng trước hết ông cũng là một nhà cách mạng. “Đấu tranh là hành động tự nhiên của Mác”. Ông cũng là người đầu tiên đem đến cho giai cấp vô sản sự ý thức về địa vị và yêu cầu của mình. Cách trình bày ba cống hiến của Mác được Ăng-ghen sắp xếp chặt chẽ, theo một trật tự logíc nhất định. Bằng biện pháp nghị luận tăng tiến, người đọc nhận ra sự phát triển hiệu quả của từng cống hiến của Mác.

Cống hiến sau lớn hơn, vĩ đại hơn cống hiến trước. Chẳng hạn để mở đầu cho lời giới thiệu cống hiến thứ hai (sau cống hiến thứ nhất) là lời dẫn: “Nhưng không chỉ có thế thôi”. Hoặc câu văn chuyển tiếp “Nhưng đấy hoàn toàn không phải điều chủ yếu ở Mác” để tác giả đi đến khẳng định: “Khoa học đối với Mác là một động lực lịch sử, một lực lượng cách mạng”. Các cụm từ như bởi lẽ, trước hết, đó là… mở đầu các đoạn văn không chỉ có tác dụng liên kết đoạn mà còn tạo cho người đọc có nhiều điểm nhìn mở rộng và sâu sắc về Mác. Những lập luận tạo được sự lôgíc, mạch lạc.

Lời của Ăng-ghen ở phần kết, một lần nữa khẳng định lại sự bất diệt của tên tuổi và sự nghiệp của Mác. Ở đó người đọc cũng nhận ra một niềm kính yêu, sự cảm phục sâu sắc, một sự tiếc thương vô hạn của Ăng-ghen với Mác. Đó cũng là sự tôn vinh chính nghĩa khi Mác đứng về phía nhân loại tiến bộ, về phía giai cấp vô sản toàn thế giới để bảo vệ quyền lợi của họ.

2. Phân tích Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác bài mẫu số 2

Phri-đrích Ăng-ghen (1820 - 1895) là nhà triết học người Đức, bạn thân thiết của Mác và là nhà hoạt động cách mạng nổi tiếng của phong trào công nhân thế giới và Quốc tế cộng sản. Di sản lí luận của ông là một phần quan trọng trong lí luận của chủ nghĩa Mác. Văn bản “Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác” là bài điếu văn của Ăng-ghen đọc trước mộ Mác, trong đó ông đã đánh giá cao cống hiến to lớn của Mác và biểu lộ tình cảm tiếc thương của những người cộng sản trước tổn thất to lớn không bù đắp được này.

Các Mác (1818 - 1883) là nhà triết học và lí luận chính trị vĩ đại người Đức gốc Do Thái, lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới. Những hoạt động cách mạng và triết học của ông diễn ra trong thập niên 1840 - giữa lúc chủ nghĩa tư bản đang trong thời kỳ phát triển và giai cấp vô sản công nghiệp ra đời và có những hoạt động cách mạng chống chế độ tư bản. Học thuyết về chủ nghĩa cộng sản khoa học của Mác mở đường cho nhân loại bước vào kỉ nguyên xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Học thuyết của ông là vũ khí lí luận và hành động của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh chống ách thống trị tư sản.

Nhưng đáng tiếc và đau buồn thay khi vào lúc “Chiều ngày 14 tháng ba, vào lúc ba giờ kém mười lăm phút”, thì nhà tư tưởng hiện đại của nhân loại đã “ngừng suy nghĩ”. Cách nói giảm nói tránh được tác giả sử dụng một cách khéo léo, nhẹ nhàng, điềm đạm. Mọi người đã bày tỏ sự bất ngờ, sốc trong im lặng, chỉ biết đứng đó, lặng nhìn ông “chúng tôi đã thấy ông ngủ thiếp đi thanh thản trên chiếc ghế bành – nhưng là giấc ngủ nghìn thu”. Tác giả đã ẩn dụ hình ảnh “giấc ngủ nghìn thu” nghĩa là Các Mác đã vĩnh viễn ra đi, sẽ không còn hiện diện trên cõi đời này nữa. Cũng là cách nói đầy tình cảm, thể hiện sự tiếc nuối, thương cảm và xót xa với một con người vĩ đại của nhân loại.

“Con người đó ra đi là một tổn thất không sao lường hết được”, tác giả đề cao, ca ngợi tài năng của Các Mác, là người không ai có thể thay thế bởi những đóng góp vô cùng to lớn của ông đối với khoa học lịch sử, đối với giai cấp vô sản đang đấu tranh ở châu Âu và châu Mĩ. Tất cả chúng ta rồi sẽ cảm thấy trống vắng do sự qua đời đột ngột của “bậc vĩ nhân” ấy. Cũng qua đó thể hiện tình cảm của Ăng-ghen đối với người bạn thân thiết Các Mác.

Để rồi trong tang lễ đầy nước mắt ấy, Ăng-ghen đã đọc điếu văn ngợi ca những đóng góp quý giá của Các Mác đối với nhân loại, không ai có thể phủ nhận và sẽ mãi nhớ về nó. Ăng-ghen đã nêu ra những cống hiến theo một trình tự hợp lí với mức độ tăng tiến. Đầu tiên, “Mác đã tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người”, bản chất của quy luật này là cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng nghĩa là vật chất quyết định ý thức. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội chứ không phải ngược lại, phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung.

Lập luận của tác giả vô cùng chặt chẽ, ông đã đưa ra một so sánh ngang bằng “giống như”. Giống như Đác-uyn đã tìm ra quy luật phát triển của thế giới hữu cơ, thì Mác cũng tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người. Ăng-ghen đã đề cập đến những cống hiến của Mác một cách có trật tự, sắp xếp và theo mức độ tăng tiến, “giống như” rồi đến “nhưng không chỉ có thế thôi” quan trọng của mỗi đóng góp ấy.

Đến thành tự thứ hai: “Mác cũng tìm ra quy luật vận động riêng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện nay và của xã hội tư sản do phương thức đó đẻ ra”. Ông đã tìm ra quy luật của giá trị thặng dư, nghĩa là giá trị lao động sống tạo thêm ra ngoài giá trị sức lao động, là lao động không công của người công nhân làm thuê. Ông đã mang tới một luồng ánh sáng mới, khi chưa có ai phát hiện ra, họ đều mò mẫm trong bóng tối thì Mác đã tìm ra được, khai sáng được những thắc mắc của các nhà khoa học, các nhà phê bình xã hội chủ nghĩa. Đây là quy luật tiền đề quan trọng để xây dựng một xã hội công bằng tốt đẹp, không có sự bóc lột.

Và cống hiến thứ ba được nhắc đến là cống hiến to lớn quan trọng và vĩ đại nhất. Mác đã kết hợp giữa lí luận và thực tiễn. Khoa học với Mác là động lực lịch sử, động lực cách mạng, ông đã mang lại niềm vui cho chính mình khi những phát kiến của mình nhanh chóng có tác động cách mạng đến công nghiệp, đến sự phát triển lịch sử. Mác là một nhà cách mạng, ông tham gia vào việc lật đổ xã hội tư sản và các thiết chế nhà nước, tham gia vào sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản hiện đại. Đấu tranh chính là hành động tự nhiên của Mác, ông đã hoạt động một cách say sưa, miệt mài, kiên cường, nhiệt huyết hết mình và có kết quả.

Tất cả những đóng góp ấy đã đi vào lịch sử nhân loại, đánh dấu tên tuổi của nhà lãnh tụ kiệt xuất, để lại những dấu ấn vô cùng sâu đậm trong lòng mỗi người. Ông đã rất say mê học hỏi không ngừng và đạt nhiều thành quả nên không thể tránh khỏi bị căm ghét, vu khống, đổ tội cho ông. “Các chính phủ - cả chuyên chế lẫn cộng hòa – đều trục xuất ông, bọn tư sản – cả bảo thủ lẫn dân chủ cực đoan – đều thi nhau vu khống và nguyền rủa ông”. Nhưng ông bỏ ngoài tai những lời thị phi thiên hạ, sống chân chính, đúng đắn. Để rồi khi bậc vĩ nhân kì tài ấy mất đi, tất cả mọi người đã tôn kính, yêu mến và khóc thương ông, dù có rất nhiều kẻ thù địch nhưng tất cả đều công nhận tài năng của ông nên rất kính trọng và tiếc nuối trước sự ra đi này.

Câu cuối cùng của tác phẩm, tác giả viết nên như lời khẳng định, công nhận những công lao mà Mác đã cống hiến cho xã hội loài người:

  “Tên tuổi và sự nghiệp của ông đời đời sống mãi!” 

Đây chính là minh chứng hùng hồn về sự bất tử của học thuyết Mác. Kết thúc bằng một dấu chấm than đầy cảm xúc, biểu cảm, đến đây tất cả xúc cảm tâm sự chỉ còn đọng lại trong sự lặng im và tưởng nhớ.

Các Mác là người thầy vĩ đại không chỉ của cách mạng Việt Nam nói riêng mà là của toàn thể giai cấp vô sản, toàn thể loài người tiến bộ nói chung.Trong điều kiện thời đại ngày nay đã có nhiều biến đổi sâu sắc, nhiều điểm khác nhau về con đường và xu thế phát triển của từng dân tộc cũng như nhân loại, song con đường mà Các Mác đã vạch ra cho sự nghiệp giải phóng các dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người mãi mãi là chân lý của loài người quan tiến bộ. Các Mác vẫn sống mãi, có giá trị và sức sống trường tồn. Tư tưởng, lý luận ấy của Các Mác và chủ nghĩa Mác là một kho tàng vô giá, mãi mãi cần phải khám phá, hiểu biết, vận dụng và phát triển.

Bằng những lập luận chặt chẽ, kết hợp biện pháp so sánh ấn tượng, Ăng-ghen đã giúp chúng ta nhận thức sâu sắc những cống hiến vĩ đại của Mác đối với xã hội loài người. Đồng thời là sự tôn trọng, kính mến, ngợi ca ông.

>>> Tham khảo thêm: Soạn bài Phong cách ngôn ngữ chính luận - Ngữ văn 11

3. Phân tích Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác bài mẫu số 3

Phri-đrích Ăng-ghen (1820 - 1895), là nhà triết học Đức, nhà hoạt động cách mạng nổi tiếng của phong trào công nhân, đồng thời là người bạn thân thiết của Các Mác. Ông đã đóng góp một phần quan trọng vào học thuyết về chủ nghĩa cộng sản khoa học, mở đường cho nhân loại bước vào kỉ nguyên mới xã hội chủ nghĩa.

Văn bản Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác chính là bài điếu văn do Ăng-ghen viết và đọc trước mộ Mác, ngày 14 – 3 -1895. Có thể coi đây là bản tổng kết về toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp lớn lao của vị lãnh tụ kiệt xuất Các Mác. Điều đáng lưu ý nằm ở chỗ bài điếu văn của Ăng-ghen là sự đánh giá của một vĩ nhân đối với một vĩ nhân.

Bài văn gồm bảy đoạn không kể câu cuối cùng, có thể chia làm ba phần. Phần mở đầu là hai đoạn ngắn 1 và 2: Thời gian, không gian liên quan tới sự ra đi của Các Mác. Các đoạn 3, 4, 5 và 6 là phần trọng tâm, tổng kết ba cống hiến vĩ đại của Các Mác đối với giai cấp vô sản trên toàn thế giới. Đoạn 7 và câu cuối cùng là phần kết luận: Khẳng định giá trị tổng quát các cống hiến của Các Mác là sự hướng đến mục tiêu phục vụ chung cho nhân loại.

Mở đầu bài điếu văn, Ăng-ghen nêu rõ thời khắc ra đi của Các Mác (1818 - 1883), nhà triết học và lí luận chính trị vĩ đại người Đức, lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới bằng giọng văn lưu luyến xót thương: Chiều ngày 14 tháng ba, vào lúc ba giờ kém mười lăm phút, nhà tư tưởng vĩ đại nhất trong số những nhà tư tưởng hiện đại đã ngừng suy nghĩ. Các Mác đi vào cõi vĩnh hằng như ngủ thiếp đi thanh thản – nhưng là giấc ngũ nghìn thu. Ăng-ghen đã đánh giá cao cống hiến to lớn của Các Mác và biểu lộ tình cảm đau đớn, tiếc thương vô hạn của giai cấp vô sản trước tổn thất to lớn không gì bù đắp được: Con người đó ra đi là một tổn thất không sao lường hết được đối với giai cấp vô sản đang đấu tranh ở châu Âu và châu Mĩ, đối với khoa học, lịch sử. Rồi đây, người ta sẽ cảm thấy nỗi trống vắng do sự qua đời của bậc vĩ nhân ấy gây ra.

Tiếp sau đó, tác giả lần lượt nêu lên ba cống hiến vĩ đại của Các Mác. Vậy ba cống hiến vĩ đại của Mác là gì?

Cống hiến thứ nhất: Các Mác đã tìm ra quy luật phát triển của xã hội loài người là trong mỗi giai đoạn lịch sử, hạ tầng cơ sở (việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật chất trực tiếp, trình độ phát triển kinh tế,…) quyết định thượng tầng kiến trúc (thể chế nhà nước, tôn giáo, nghệ thuật,…). Điều này hoàn toàn ngược lại với quan điểm của nhiều người trước đây, cho rằng thượng tầng kiến trúc quyết định hạ tầng cơ sở. Ăng-ghen đã tóm tắt quy luật này bằng những lời lẽ hết sức cụ thể, dễ hiểu:

Cái sự thật đơn giản nhưng đã bị tầng tầng lớp lớp các tư tưởng phủ kín cho đến ngày nay, đó là con người trước hết cần phải có cái ăn cái uống, quần áo và chỗ ở, rồi sau đó mới có thể làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo,...; vì vậy, việc sản xuất ra những từ liệu sinh hoạt vật chất trực tiếp, và mỗi giai đoạn phát triển kinh tế nhất định của một dân tộc hay một thời đại tạo ra cơ sở để người ta phát triển các thể chế nhà nước, các quan điểm pháp quyền, nghệ thuật và cả tôn giáo nữa, cho nên phải xuất phát từ cơ sở đó mà giải thích những cái kia, chứ không phải ngược lại, như từ trước đến nay người ta đã làm.

Để làm nổi bật cống hiến của Các Mác trong lĩnh vực khoa học xã hội, Ăng-ghen đã so sánh với cống hiến của nhà bác học nổi tiếng Đác-uyn trong lĩnh vực khoa học tự nhiên. Ăng-ghen đánh giá cống hiến của Các Mác có giá trị to lớn giống như Đác-uyn đã tìm ra quy luật phát triển của thể giới hữu cơ, khám phá ra sự phát triển và tiến hoá của các giống loài trên cơ sở sự chọn lọc tự nhiên và quá trình đấu tranh để sinh tồn.

Cống hiến vĩ đại thứ hai của Mác là phát hiện ra giá trị thặng dư, quy luật vận động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa:

Nhưng không chỉ có thế thôi. Mác cũng tìm ra quy luật vận động riêng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện nay và của xã hội tư sản do phương thức đó đẻ ra. Với việc phát hiện ra giá trị thặng dư trong lĩnh vực này, lập tức một ánh sáng đã xuất hiện, trong khi mọi công trình nghiên cứu trước đây của các nhà kinh tế học tư sản cũng như của các nhà phê bình xã hội chủ nghĩa đều mò mẫm trong bóng tối.

Vậy giá trị thặng dư là gì?

Theo phân tích của Các Mác thì giá trị thặng dư là phần giá trị dôi ra ở sản phẩm so với khoản tiền phải chi phí để tạo ra sản phẩm ấy. Khoản tiền chi phí gồm tiền mua nguyên liệu, tiền hao mòn máy móc và tiền trả lương công nhân để họ làm việc và khôi phục sức lao động. Tuy nhiên, nhà tư bản có nhiều cách như kéo dài giờ làm việc hoặc tăng cường độ lao động của người thợ, khiến sản phẩm làm ra nhiều hơn và lợi nhuận cao hơn. Phần giá trị dôi ra ấy là sức lao động của công nhân bị chủ tư bản bóc lột.

Hai cống hiến trên đây là hai phát kiến vĩ đại của Mác, còn cống hiến cuối cùng không phải là phát kiến mà là hành động.

Cống hiến vĩ đại thứ ba của Các Mác là ông không chỉ dừng lại ở lí thuyết mà chuyển thành hành động cách mạng. Ăng-ghen khẳng định đây là cống hiến quan trọng nhất trong ba cống hiến của Các Mác, nên tác giả đã dành nhiều đoạn viết về cống hiến này:

Con người khoa học là như vậy đó. Nhưng đấy hoàn toàn không phải là điều chủ yếu ở Mác. Khoa học đối với Mác là một động lực lịch sử, một lực lượng cách mạng. Mỗi phát kiến mới trong bất cứ khoa học lí luận nào, thậm chí đôi khi người ta chưa thấy ngay được việc ứng dụng nó vào thực tế, đã có thể đem đến cho Mác một niềm vui thực sự, nhưng niềm vui của ông còn lớn hơn nữa khi phát kiến đó nhanh chóng có tác động cách mạng đến công nghiệp, đốn sự phát triển lịch sử nói chung.

Bởi lẽ trước hết Mác là một nhà cách mạng. Bằng cách này hay cách khác, tham gia vào việc lật đổ xã hội tư sản và các thiết chế nhà nước do nó dựng lên, tham gia vào sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản hiện đại mà ông là người đầu tiên đem đến cho giai cấp ấy ý thức về địa vị và yêu cầu của mình, ý thức về điều kiện để tự giải phóng, đó thật sự là sứ mệnh thiết thân của cuộc đời ông. Đấu tranh là hành động tự nhiên của Mác. Và Mác đã đấu tranh một cách say sưa, kiên cường và có kết quả, […] dẫn đến sự xuất hiện Hội liên hiệp công nhân quốc tế vĩ đại […], đấy chính là sự nghiệp mà ai xây dựng nên đều lấy làm tự hào, thậm chí dù cho người đó không làm gì thêm nữa.

Ở phần này, Ăng-ghen dã khẳng định tài năng của Các Mác trên hai phương diện: Con người của phát minh khám phá và con người của hành động thực tiễn.

Bằng lời lẽ chân tình và hết sức khách quan, Ăng-ghen đã dựng lên một tượng đài sừng sững bằng ngôn ngữ về Các Mác – con người bất tử. Các Mác đã tham gia vào việc lật đổ xã hội tư sản và các thiết chế nhà nước do nó dựng lên. Mác tham gia vào sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản hiện đại mà ông là người đầu tiên đem đến cho giai cấp ấy ý thức về địa vị và yêu cầu của mình, ý thức về điều kiện đề tự giải phóng. Như vậy là Các Mác cương quyết chống lại cường quyền, bất công trong xã hội; đồng thời bảo vệ, bênh vực những người lao động, đem đến cho họ niềm tin và khát vọng đấu tranh hướng đến xã hội tốt đẹp hơn trong tương lai. Những cống hiến của Các Mác phục vụ cho sự tiến bộ của nhân loại nói chung.

Khi nêu cống hiến thứ ba của Các Mác, Ăng-ghen đã tách thành hai đoạn ván nhỏ: Đoạn 1 khẳng định Các Mác là con người khoa học có những phát kiến mới tác động tới lịch sử phát triển xã hội loài người. Đoạn 2 khẳng định Mác là con người cách mạng. Các Mác đã đứng ra tổ chức, vận động giai cấp công nhân vùng lên để tự giải phóng, lật đổ xã hội tư bản. Điều đặc biệt là ở Các Mác có mối quan hệ biện chứng giữa khoa học và cách mạng: Khoa học đối với Mác là một động lực lịch sử, một lực lượng cách mạng. Các Mác là nhà khoa học nhưng trước hết ông cũng là một nhà cách mạng: Đấu tranh là hoạt động tự nhiên của Mác. Ông cũng là người đầu tiên đem đến cho giai cấp vô sản ý thức về địa vị và yêu cầu của mình.

Đoạn văn có sức thuyết phục lòng người rất lớn bởi Ăng-ghen đã sử dụng thành công các biện pháp nghệ thuật trong văn nghị luận như tăng tiến cùng cách lập luận lôgíc, mạch lạc giúp người đọc nhận ra hiệu quả rõ ràng cống hiến của Mác. Những cống hiến sau lớn hơn, vĩ dại hơn cống hiến trước. Sau cống hiến thứ nhất, để mở đầu cho lời giới thiệu về cống hiến thứ hai, tác giả dùng lời dẫn: Nhưng không chỉ thế thôi, hoặc câu văn chuyển tiếp: Nhưng đấy hoàn toàn không phải điều chủ yếu của Mác để đi đến khẳng định: Khoa học đối với Mác là một động lực lịch sử, một lực lượng cách mạng và Các Mác là một nhà cách mạng chân chính.

Ở phần kết, một lần nữa Ăng-ghen khẳng định tên tuổi và sự nghiệp của Các Mác là bất diệt, khẳng định sự tôn kính, cảm phục sâu sắc và lòng tiếc thương vô hạn đối với Mác. Bởi Mác đã đứng về phía nhân loại tiến bộ, về phía giai cấp vô sản toàn thế giới để bảo vệ quyền lợi của họ: Đó là lí do vì sao Mác là người bị căm ghét nhiều nhất và bị vu khống nhiều nhất trong thời đại ông. Các chính phủ – cả chuyên chế lẫn cộng hòa – đều trục xuất ông, bọn tư sản – cả bảo thủ lẫn dân chủ cực đoan – đều thi nhau vu khống và nguyền rủa ông. Mác đã gạt sang một bên tất cả những thứ đó, coi như cái mạng nhện vướng chân, chẳng thèm đếm xỉa, và chỉ đáp lại khi thấy hết sức cần thiết mà thôi. Và ông đã mất đi, hàng triệu người cộng sự cách mạng với ông ở khắp châu Âu và châu Mĩ, khắp những hầm mỏ Xi-bia đến tận Ca-li-phoóc-ni-a đã tôn kính, yêu mến và khóc thương ông, và tôi có thể mạnh dạn nói rằng ông có thể có nhiều kẻ đối địch, nhưng chưa chắc đã có một kẻ thù riêng nào cả.

"Tên tuổi và sự nghiệp của ông đời đời sống mãi!".

Trong suốt cuộc đời mình, Các Mác đã dũng cảm chống lại bất công, cường quyền và bạo quyền; bênh vực những người lao dộng, những người cùng khổ. Mác đem đến cho họ niềm tin vào hạnh phúc trong một thế giới mới, thế giới mà ở đó, người lao động thực sự là chủ nhân của xã hội. Hoạt động của Mác không phải để phục vụ cho quyền lợi cá nhân mà cho quyền lợi của toàn nhân loại. Vì thế nên: …ông có thể có nhiều kẻ đối địch, nhưng chưa chắc đã có một kẻ thù riêng nào cả.

Bài điếu văn của Ăng-ghen đọc trước mộ Các Mác là một bài văn nghị luận mẫu mực. Ăng-ghen đã khẳng định tầm vóc ba cống hiến vĩ đại của Các Mác đối với sự phát triển của xã hội loài người. Các cống hiến của Các Mác là tài sản tinh thần chung vô giá của nhân loại. Nó không những chỉ có giá trị lí luận mà còn có giá trị hành động, góp phần mở đường cho nhân loại không ngừng tiến lên phía trước.

4. Phân tích Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác bài mẫu số 4

Các Mác và Ph. Ăng ghen là hai cái tên mà cho đến nay chúng ta vẫn thường xuyên nhắc đến họ. Họ là hai là triết học nổi tiếng nhất, cuộc đời của họ sống với những nghiên cứu và khi ra đi họ để lại cho nhân loại chúng ta hiện nay những triết lý mang tính quy luật. Đặc biệt là Các Mác, ông đã để lại rất nhiều công trình nghiên cứu đồ sộ có giá trị ý nghĩa với cuộc sống mà tiêu biểu là có ba cống hiến vĩ đại nhất được thể hiện qua bài điếu văn của Ph. Ăng ghen. Qua bài ta thấy được trân trọng thêm những cống hiến cũng như con người ông.

Văn bản Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác là một bài văn điếu mà Ăng ghen đọc trước mộ của Các mác vào tháng 3/ 1883, sau khi Các Mác qua đời. Bài điếu văn ấy như ngợi ca những cống hiến vĩ đại mà Các Mác đã để lại có giá trị lớn cho cuộc sống của con người.

Trước hết là tình cảm của tác giả dành cho Các Mác. Đó là ngày gặp cuối cùng trước khi Các Mác qua đời. Ph. Ăng ghen đã ghi rõ thời điểm của buổi hôm ấy chính xác đến từng giờ từng phút. Điều đó chứng tỏ ông rất trân trọng con người này. Tình cảm của ông thể hiện một sự yêu mến kính trọng với bậc tiền bối đi trước. Thời gian ấy chính là vào buổi chiều lúc ba giờ kém mười lăm phút ngày 14/3/1883. Thời gian ấy, phút giây ấy cũng giống như biết bao nhiêu giờ phút khác trong một ngày thế nhưng cái giây phút Các Mác đi vào cõi vĩnh hằng thì là một phút giây đặc biệt. Phút giây ấy đã vĩnh viễn mang đi một con người tài năng của nhân loại, phút giây ấy đem đến sự mất mát đau đơn vô cùng lớn. Ph. Ăng-ghen gọi ông là "nhà tư tưởng vĩ đại nhất trong những nhà tư tưởng hiện đại". Điều đó cho thấy ông dành cả một sự kính trọng vô cùng lớn với tiền bối của mình. Và khi cả thế giới loài người mất đi nhà tư tưởng vĩ đại nhất ấy cũng là giây phút khiến cho tác giả cảm thấy mất mát và đau đớn lắm. Cách diễn đạt theo lối đòn bảy ấy vừa cho ta thấy được cái chết của Các Mác không phải là cái chết của một người bình thường mà còn cho ta cảm nhận được tình cảm của tác giả đối với người đã mất.

Không gian lúc ra đi là tại căn phòng của Các Mác trên chiếc ghế bành. Trước khi ra đi Các Mác vẫn ở trạng thái rất ung dung, thản nhiên. Căn phòng ấy có gì đặc biệt chăng? Không hề mà ở đây ta thấy được một căn phòng bình thường như những căn phòng khác nhưng điều đặc biệt là trong căn phòng bình thường ấy lại có một người phi thường. Điều đó mới là điều mà Ăng ghen muốn nói. Hơn nữa sự ra đi của Các Mác ngay trong chính căn phòng của mình thể hiện sự thanh thản nhẹ nhàng trước khi đi "để Các Mác ở lại một mình vẻn vẹn chỉ có hai phút, chúng tôi đã thấy ông ngủ thiếp đi thanh thản trên chiếc ghế bành – nhưng đó là một giấc ngủ ngàn thu". Cách nói diễn đạt ấy thể hiện nỗi xót thương của tác giả với Các Mác. Ăng ghen đã sử dụng kết cấu trùng điệp để nêu bật tầm vóc của Các Mác và sự mất mát lớn lao của nhân loại. Tầm vóc của Các Mác là nhà cách mạng nhà khoa học, sự mất mát của nhân loại đó chính là đấu tranh vô sản đang diễn ra thì Các Mác lại mất đi. Sự ra đi ấy còn gây mất mát cho khoa học, lịch sử nữa.

Nói về công lao của Các Mác thì ông cũng không thua kém gì Đac-uyn. Ba cống hiến vĩ đại mà ông để lại cho nhân loại có giá trị rất lớn.

Cống hiến thứ nhất là tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người qua các thời kì lịch sử, mà bản chất của quy luật ấy là cơ sở hạ tầng quyết định. Cái sự thật đơn giản... đó là con người trước hết phải có cái ăn uống quần áo, chỗ ở, rồi sau đó mới có thể làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo.

Cống hiến thứ hai là ông đã tìm ra phương thức hoạt động riêng của phương thức sản xuất hiện nay và xã hội tư sản mà nó đẻ ra. Đó là quy luật về giá trị thặng dư.

Cống hiến thứ ba là Các Mác kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, biến các lý thuyết cách mạng khoa học thành hành động cách mạng.

Với ba cống hiến đó thì Các Mác đã trở thành một nhà lỗi lạc và là người tiên phong trong công cuộc giải phóng giai cấp vô sản hiện đại. Không những thế ông còn sáng lập ra hội liên hiệp công nhân quốc tế. Chính bởi lẽ đó Các Mác trở thành một "nhà tư tưởng vĩ đại nhất trong các nhà tư tưởng".

Với nghệ thuật so sánh tăng tiến Ăng ghen đã so sánh những cống hiến của Các Mác với Đac uyn. Điều đó đã làm nổi bật cống hiến của Các Mác và tầm cao của tư tưởng thời đại. Nếu như Đac-uyn tìm ra sự phát triển của thế giới hữu cơ thì Các Mác tìm ra lịch sử phát triển của loài người.

Với tư tưởng và những đóng góp to lớn ấy Mác xứng đáng trở thành một nhà tư tưởng vĩ đại trong những nhà tư tưởng vĩ đại. Tên tuổi và sự nghiệp của ông đời đời sống mãi. Đồng thời qua bài điếu văn này thì chúng ta còn cảm nhận được một tình cảm thương xót của Ăng ghen nói riêng và hàng triệu nhân dân nói chung với sự ra đi của nhà tư tưởng lỗi lạc ấy.

5. Phân tích Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác bài mẫu số 5

Cũng như Các Mác, Phri-đích Ăng-ghen (1820 - 1895), người Đức, là lãnh tụ của giai cấp vô sản toàn thế giới. Mác và Ăng-ghen là hai người bạn thân thiết cùng sát cánh bên nhau trong việc thiết lập một hệ thống lý luận sâu sắc về triết học, kinh tế, lịch sử, văn học và nghệ thuật, dưới ánh sáng của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Người ta đã từng gọi tình bạn của hai người là tình bạn vĩ đại và cảm động, bởi vì tình bạn ấy được xây dựng trên một cơ sở vĩ đại: Sự nghiệp giải phóng loài người khỏi mọi ách áp bức.

Ăng-ghen là một cây bút có tài năng xuất chúng với những tư tưởng lớn, mà cho đến tận bây giờ sau gần hai thế kỉ vẫn còn nguyên giá trị. Trong những tác phẩm xuất sắc của ông, ta thấy không chỉ là những lời lẽ sắc bén chứng tỏ một trí tuệ siêu việt mà còn cả những tình cảm sâu sắc nồng nhiệt. Bài Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác là một minh chứng hùng hồn.

Thực sự đây là một điếu văn vì vậy nó cũng được thiết kế theo dạng phổ biến. Phần một thể hiện niềm đau đớn, tiếc thương, ngỡ ngàng vì sự ra đi của một con người. Phần hai nhắc lại những cống hiến đóng góp của người đã mất. Phần ba tác giả khẳng định niềm tiếc thương và sức sống của những di sản tinh thần mà người đã mất để lại. Nhưng hơn thế nữa bài phát biểu này còn là một điển hình mẫu mực về văn nghị luận với những lập luận rành mạch
sáng tỏ.

Mở đầu bài phát biểu, Ăng-ghen nhắc đến sự ra đi của Các Mác, một sự ra đi thanh thản. Con người đó đã ngừng suy nghĩ ngủ thiếp đi, đi vào giấc ngủ nghìn thu. Đó là sự ra đi của nhà tư tưởng vĩ đại nhất trong số những nhà tư tưởng hiện đại, bậc vĩ nhân, theo đánh giá của Ăng ghen. Nỗi đau của sự mất mát ấy được thể hiện qua những lời lẽ: tổn thất không sao lường hết được nỗi trống vắng. Nhưng hơn cả nỗi trống vắng của những người thân, Ăng-ghen coi đó là tổn thất không sao lường hết được đối với giai cấp vô sản đang đấu tranh ở châu Âu và châu Mĩ và cả khoa học lịch sử. Bởi cuộc đời của Các Mác con người vĩ đại ấy đâu chỉ của riêng ông mà còn thuộc về hàng triệu con người nhờ những cống hiến lớn lao của ông.

Trong phần thứ hai, bằng phương pháp nghị luận tổng kết rành mạch, rõ ràng, Ăng-ghen đã chỉ ra ba cống hiến lớn lao của Mác, những cống hiến khiến Mác trở thành bậc vĩ nhân, thành con người của cả nhân loại.

Cống hiến thứ nhất: Mác đã tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người "cái sự thật đơn giản... đó là con người trước hết phải có cái ăn uống quần áo, chỗ ở, rồi sau đó mới có thể làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo... Nghĩa là, trong đời sống con người vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, và những cơ sở vật chất của đời sống xã hội (việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt trực tiếp, trình độ phát triển kinh tế,...) sẽ quyết định đặc thù của thượng tầng kiến trúc (thể chế nhà nước, chính trị, tôn giáo, pháp luật, nghệ thuật...)

Để đánh giá mức độ lớn lao của cống hiến này, Ăng-ghen đã dùng phương pháp so sánh Mác với Đác-uyn, nhà sinh vật học người Anh, người đã tìm ra quy luật phát triển thế giới tự nhiên một cống hiến vĩ đại. Bên cạnh đó Ăng ghen còn đối chiếu tư tưởng Mác với các nhà tư tưởng khác: Mác đã đi ngược lại tất cả cách làm của các nhà tư tưởng khác và đã phát hiện được quy luật đơn giản nhưng vô cùng đúng đắn ấy.

Ăng-ghen dùng lập luận tăng tiến để dẫn tới cống hiến thứ hai: "nhưng không chỉ có thế thôi" nghĩa là còn có cống hiến khác không kém phần lớn lao. Cống hiến thứ hai của Mác là tìm ra quy luật vận động riêng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa với việc phát hiện giá trị thăng dư. Ăng-ghen đã so sánh kết quả nghiên cứu này của Mác như một ánh sáng so với việc mò mẫm trong bóng tối của các nhà kinh tế học tư sản và các nhà phê bình xã hội chủ nghĩa, để chỉ ra tính chân lí của phát hiện lập luận tăng tiến còn được dùng tiếp để nói đến cống hiến thứ ba, mà theo Ăng ghen là quan trọng nhất, với câu khẳng định: Những điều ấy hoàn toàn không phải là điều chủ yếu của Mác.

Ở đây, Ăng-ghen nhấn mạnh tới tính thực tiễn của khoa học lí luận của Mác, tới việc Mác không chỉ dừng lại ở lí thuyết mà chuyển sang thành hành động cách mạng. Để giải thích Ăng-ghen đã nói rõ, Mác trước hết là một nhà cách mạng, sứ mệnh thật sự thiết thân của đời ông là đấu tranh để tham gia vào việc lật đổ xã hội tư sản, tham gia vào việc
làm cho giai cấp vô sản ý thức được địa vị và quyền lợi của mình, ý thức về điều kiện tự giải phóng. Để làm được điều đó Mác đã say sưa, kiên cường đấu tranh trên mọi lĩnh vực, từ tư tưởng đến hoạt động chính trị.

Những lí luận của Mác đã tác động sâu rộng trong đời sống xã hội thúc đẩy lịch sử phát triển: phát kiến đó nhanh chóng có tác động cách mạng đến công nghiệp, đến sự phát triển lịch sử nói chung. Bởi lẽ lí thuyết của Mác là lí thuyết có khả năng tác động mạnh mẽ, mang tính cách mạng (nghĩa là có sự thay đổi mạnh mẽ, triệt để trong ý thức và trong thực tiễn đời sống). Qua hệ thống lí luận đó, giai cấp công nhân đã hiểu được sứ mệnh lịch sử của chính mình, hiểu được họ đã bị bóc lột thông qua giá trị thặng dư như thế nào và tiến đến có những hành động để tự giải phóng, mà bước đầu tiên là thành lập Hội liên hiệp công nhân quốc tế. Đây chính là kết quả của hành động cách mạng của Mác.

Phần này được tách thành hai đoạn là để nhấn mạnh tới tính quan trọng của cống hiến thứ ba này của Mác. Với ba cụm từ chỉ sự tăng tiến: "Nhưng không phải chỉ có thế thôi", "nhưng đây hoàn toàn không phải là điều chủ yếu của Mác", "nhưng niềm vui của ông còn lớn hơn nữa", tác giả đã khẳng định những cống hiến sau còn vĩ đại hơn cống hiến trước. Theo Ăng-ghen ba cống hiến lớn lao về tư tưởng và hành động đó của Mác đã làm cho giai cấp tư sản và chính phủ thời đại ông căm ghét và vu khống ông nhiều nhất, bởi ông đã góp phần làm lung lay chế độ tư sản đến tận gốc rễ. Chính vì thế nên ở đoạn cuối Ăng-ghen cho rằng Mác "có thể có nhiều kẻ đối địch nhưng chưa chắc đã có một kẻ thù riêng "Bởi lẽ mục đích của cả cuộc đời Mác, mọi tâm huyết và tài năng của ông là chống lại toàn bộ chế độ tư sản và bảo vệ giai cấp vô sản chứ không chống một người cụ thể, bảo vệ một người nào cụ thể.

Bằng những lời lẽ ngắn gọn, rành mạch và cả những tình cảm sâu sắc, chân thành, Ăng-ghen cho ta thấy không chỉ những di sản tinh thần lớn lao Các Mác đã để lại cho nhân loại, cho giai cấp vô sản toàn thế giới, mà còn cả hình ảnh con người ông. Bên cạnh con người khoa học, con người của những tư tưởng lớn, Mác còn là người hoạt động cách mạng say mê, kiên cường và niềm vui thực sự của ông là khi cuộc đấu tranh có kết quả. Có lẽ, không ai thấu hiểu và đánh giá Mác đúng đắn hơn Ăng-ghen!

-----

Các em vừa tham khảo nội dung hướng dẫn cách làm và hai bài văn mẫu hay phân tích Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác giúp em làm được một bài văn phân tích hay và hoàn chỉnh nhất. Chúc các em làm bài tốt khi tham khảo tài liệu tại Doctailieu.com !

Bạn còn vấn đề gì băn khoăn?
Vui lòng cung cấp thêm thông tin để chúng tôi giúp bạn
Hủy