Phân tích 4 câu đầu bài Câu cá mùa thu

Xuất bản: 26/05/2023 - Tác giả:

Phân tích 4 câu đầu bài Câu cá mùa thu bao gồm dàn ý và tuyển chọn những bài văn mẫu phân tích 4 câu đầu bài thơ Câu cá mùa thu giúp học sinh tham khảo.

Dàn ý Phân tích 4 câu đầu bài Câu cá mùa thu

1. Mở bài

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm:

+ Nguyễn Khuyến là một trong hai đại biểu xuất sắc cuối cùng của nền văn học Trung đại Việt Nam, bậc vô địch về thơ tả cảnh mùa thu nổi tiếng với chùm thơ thu ba bài Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm.

+ Thu điếu có nét rực rỡ riêng, tả cảnh thu ở một ko gian thời kì cụ thể, đằng sau cảnh thu yên ắng là nỗi niềm tâm tư thầm kín của thi nhân.

– Nói chung nội dung 4 câu đầu: Cảnh sắc mùa thu của làng quê Bắc Bộ đẹp mộc mạc, giản dị.

2. Thân bài

* Giới thiệu chung về bài thơ

– Mùa thu là đề tài thân thuộc của thi ca. Thơ viết về mùa thu của văn học Trung đại Việt Nam thường mô tả cảnh đẹp vắng vẻ, úa tàn và u buồn. Cảnh thu được ghi lại một cách ước lệ tượng trưng với những nét chấm phá, chớp lấy cái hồn của tạo vật. Thu điếu của Nguyễn Khuyến cũng mang nét thi pháp đó.

– Nhưng Nguyễn Khuyến được mệnh danh là thi sĩ của làng quê Việt Nam. Gần suốt đời mình, ông gắn bó với thôn quê, hòa hợp và thấu hiểu mảnh đất quê nhà. Thế nên, cảnh vật làng quê trong thơ ông hiện lên rất chân thực, giản dị, tinh tế. Đọc Thu điếu, ta bắt gặp một bức tranh thu đặc trưng của vùng chiêm trũng Bắc Bộ, quê hương của thi sĩ. Đấy chính là nét mới mẻ của tác phẩm so với thi pháp truyền thống của văn học Trung đại Việt Nam.

– Thu điếu viết bằng chữ Nôm, tuân theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Cảnh thu được mô tả trong hồ hết 8 câu thơ, hình ảnh con người chỉ xuất hiện trực tiếp ở hai câu cuối bài. Cảnh trong bài vẫn là trời nước, gió, trúc – những thi liệu thân thuộc nhưng hồn thơ thì đã vượt ra khỏi khuôn sáo thi tứ cổ điển.

* Phân tích 4 câu đầu bài thơ Câu cá mùa thu

– Hai câu đề

+ Nhà thơ Nguyễn Khuyến đã mở ra không gian cao rộng với những cảnh sắc đặc trưng của vùng chiêm trũng Bắc Bộ:

  • Hình ảnh trước nhất được tác giả mô tả là “ao thu”.
  • Từ “lạnh lẽo” đặc tả khí lạnh của ao nước mùa thu, dường như cái lạnh đó thấm sâu vào da thịt con người.
  • Tính từ “trong veo” đã tuyệt đối hóa độ trong của nước, đồng thời còn gợi ra độ thanh sạch, sự bất động, yên ắng của mặt ao.

→ Gợi ra không khí se lạnh, không gian tĩnh lặng điển hình của mùa thu Bắc Bộ.

  • Hai âm “eo” được gieo trong một câu làm cho cảm giác về cái lạnh và sự ngưng đọng của ko gian càng trở thành tuyệt đối, đồng thời còn gợi ra ko gian nhỏ hẹp của chiếc ao.
  • Trên nền cảnh thu đó xuất hiện một chiếc thuyền câu lẻ loi, đơn chiếc, nhỏ nhỏ. Số từ chỉ số ít “một chiếc” liên kết với từ láy “tẻo teo” làm cho chiếc thuyền càng nhỏ nhỏ hơn, như co lại thành một nét chấm trên nền ao cũng nhỏ xíu và trong trong tận đáy.

⇒ Hai câu đề đã vẽ nên cảnh sắc rất riêng lẻ, mộc mạc, đơn sơ của mùa thu Bắc Bộ với những nét đặc trưng nhất của khí thu, chất thu là cái lạnh và sự yên ắng.

– Hai câu thực

+ Mùa thu tiếp tục hiện lên với hình ảnh “sóng biếc”, “lá vàng”.

+ Cảnh vận động một cách khẽ khàng:

  • Tác giả đã rất nhạy cảm, tinh tế lúc chớp được những biến động tinh xảo của tạo vật.
  • Sự chuyển động “hơi gợn tí” của sóng, là sự đưa nhẹ, khẽ khàng của chiếc lá vàng, là sự mỏng manh uốn lượn của hơi nước mờ ảo trên mặt ao.

+ Hai câu thơ đối nhau rất chỉnh, các sự vật có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, gió thổi làm sóng gợn, làm lá rơi.

+ Các tính từ, trạng từ “biếc”, “tí”, “vàng”, “khẽ”, ”vèo” được sử dụng một cách hợp pháp, giàu chất tạo hình, vừa tạo ra bức tranh màu sắc thanh nhã, có xanh có vàng, vừa gợi được sự uyển chuyển, sinh động của tạo vật.

⇒ Cảnh được mô tả trong hai câu thực, mặc dù là động, nhưng vì động khẽ khàng quá nên thực chất là lấy động để tả cái yên ắng của mùa thu trong ko gian của một chiếc ao quê nhà.

3. Kết bài

– Nêu phân tích, nhận định chung của em về 4 câu thơ.

7 bài văn hay không trùng lặp Phân tích 4 câu đầu bài Câu cá mùa thu

Với những bài văn mẫu dưới đây, học sinh sẽ hiểu rõ về mùa thu và tâm trạng của tác giả trong tác phẩm Câu cá mùa thu của nhà thơ Nguyễn Khuyến.

Phân tích 4 câu đầu bài Câu cá mùa thu - Mẫu 1

Nhắc tới văn học Trung đại Việt Nam, chúng ta không thể không nhắc tới nhà thơ Nguyễn Khuyến với chùm ba bài thơ thu. Trong đó bài thơ "Cảm xúc mùa thu" đã vẽ nên một bức tranh thu tuyệt đẹp và cũng nói lên tâm trạng của chính tác giả.

Mùa thu là đề tài quen thuộc của thi ca, và thơ về mùa thu trong văn học Trung đại Việt Nam thường mô tả cảnh đẹp lặng lẽ, úa tàn và buồn bã. "Cảm xúc mùa thu" của Nguyễn Khuyến cũng mang đậm nét u buồn trong tâm trạng của người thi nhân vào cảnh đẹp của mùa thu. Bài thơ "Cảm xúc mùa thu" mang đến một bức tranh thu đặc trưng của vùng chiêm trũng Bắc Bộ, quê hương của thi sĩ. Điều này đại diện cho sự đổi mới trong truyền thống văn học Trung đại Việt Nam.

Trong bài thơ, hai câu đề đã mở ra một không gian rộng lớn với những cảnh sắc đặc trưng của vùng chiêm trũng Bắc Bộ.

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo

Hình ảnh đầu tiên mô tả "ao thu" với từ "lạnh lẽo" tạo nên sự lạnh giá của ao nước mùa thu, sự lạnh thấu xương đến tận tâm hồn con người. Tính từ "trong veo" tạo ra sự trong suốt của nước, đồng thời gợi lên sự thanh sạch, yên bình của mặt ao. Điều này mang đến không khí se lạnh và tĩnh lặng, hai đặc điểm đặc trưng của mùa thu ở Bắc Bộ.

Tiếp theo, mùa thu tiếp tục hiện lên với hình ảnh "sóng biếc" và "lá vàng". Cảnh vật trong bài thơ được thể hiện một cách khẽ khàng, tinh tế, lấy cảm hứng từ sự biến động tinh xảo của các yếu tố tự nhiên. Sự chuyển động nhẹ nhàng của sóng, chiếc lá vàng bay nhẹ, cùng với sự mờ ảo và uốn lượn của hơi nước trên mặt ao, tạo nên một khung cảnh tươi đẹp và sống động.

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo

Tác giả sử dụng các tính từ và trạng từ như "biếc", "tí", "vàng", "khẽ", "vèo" một cách sáng tạo, giàu chất tạo hình, tạo ra một bức tranh màu sắc thanh nhã, pha trộn giữa sắc xanh và vàng, đồng thời gợi lên sự mềm mại, sinh động của tạo vật.

Từ cảnh ao thu lạnh lẽo, trong veo đến sóng biếc và lá vàng nhẹ nhàng, bức tranh thu được tạo nên một không gian tĩnh lặng và đầy sức sống. Điều đặc biệt trong bài thơ là sự đổi mới trong việc tả cảnh thu, mang đến một góc nhìn mới mẻ, giản dị và chân thực. Bằng cách sử dụng ngôn ngữ tinh tế và nhạy bén, tác giả đã tạo ra một bức tranh thu đậm chất thi ca, khắc họa được sự thanh nhã và sắc nét của mùa thu Bắc Bộ.Bài thơ mang đến cho người đọc sự hòa mình vào không gian mùa thu yên bình, khiến chúng ta cảm nhận được hơi thở của thiên nhiên và tâm hồn của người viết. Chỉ qua bốn câu thơ đầu, Nguyễn Khuyến đã khéo léo diễn tả sự phối hợp hài hòa giữa sắc thái màu sắc và cảm xúc, từ đó gợi lên trong lòng người đọc những tưởng tượng và trạng thái tinh thần riêng.

Phân tích 4 câu đầu bài Câu cá mùa thu - Mẫu 2

“Câu cá mùa thu” cũng như hai bài thơ thu đều được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật bằng tiếng nói dân tộc chữ Nôm. Cảnh thu, tình thu được mô tả hiện lên rõ nét trong bốn câu thơ.

Mở đầu là ko gian, thời kì của mùa thu ở làng quê Bắc Bộ:

“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu nhỏ tẻo teo”

Ko gian ở đây là ao thu. Ao là đặc trưng của vùng quê chiêm trũng quê hương của tác giả. Thời kì ko phải là đầu thu có chút oi ả xen lẫn của mùa hạ nhưng mà có nhẽ là lúc phân thu nên mới có hơi lạnh của sự “lạnh lẽo”. Tính từ “Trong veo” đặc tả độ trong của nước dường như có thể nhìn xuyên thấu xuống bên dưới, nó gợi ra sự thanh sạch và yên ắng trên bề mặt ao. Tính từ “lạnh lẽo” như càng làm cho sự vắng lặng tăng thêm. Ko chỉ vậy “một chiếc thuyền câu” số từ chỉ số ít “một chiếc” cùng với tính từ “nhỏ tẻo teo” gợi sự nhỏ nhỏ tới vô cùng. Chiếc thuyền câu như co lại là một chấm trên nền của ao thu. Tác giả sử dụng nghệ thuật chấm phá điểm nhãn. Trên cái nền yên tĩnh của mặt ao xuất hiện một chiếc thuyền câu nhỏ tẻo teo. Hai câu thơ đầu đã mở ra một ko gian thu với cảnh sắc rất mộc mạc, giản dị mang nét đặc trưng chất thu, khí thu của làng quê Bắc Bộ.

Nếu như ở hai câu đề nổi trội lên là sự yên ắng thì hai câu thực đã mang những nét vận động nhưng nó lại động để tĩnh. Lấy cái động của cảnh vật nhưng mà tả cái tĩnh của mùa thu chốn thôn quê.

“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”

Hai hình ảnh “sóng biếc”, “lá vàng” tưởng dường như ko có mối liên hệ nhưng mà có một sự logic, chặt chẽ với nhau. Vì gió thổi làm cho sóng gợn, lá rơi. Cảnh vật chuyển động chẳng phải ồ ạt của lá mùa thu như trong thơ Đỗ Phủ nhưng mà nó thật khẽ khàng, nhẹ nhõm sóng chỉ hơi gợn tí, lá chỉ khẽ đưa vèo. Các tính từ, trạng từ “biếc”, “tí”, “vàng”, “khẽ” được sử dụng thật tài tình, liên kết với nhau tạo nên màu sắc, hình ảnh làm cho cảnh thu trở thành sống động có hồn. Chữ “vèo”làm cho Tản Đà khâm phục, tâm đắc vô cùng. Ông thổ lộ một đời thơ, ông mới có được một câu thơ vừa ý “Vèo trông lá rụng đầy sân”. Nguyễn Khuyến phải là một con người có một tâm hồn tinh tế, nhạy cảm mới có thể cảm thu được sự chuyển động nhưng mà như tĩnh tại. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh đã được sử dụng thành công đem lại hiệu quả cao.

Cảnh vật êm đềm, thoáng một nỗi buồn . Người câu cá như đang chìm trong giấc mộng thu. Tất cả cảnh vật đều hiện lên với đường nét, màu sắc, âm thanh thoáng chút bâng khuâng, man mác, rất thân thiện, thân thiết với mọi người Việt Nam.

Phân tích 4 câu đầu bài Câu cá mùa thu - Mẫu 3

Nguyễn Khuyến được mệnh danh là "Nhà thơ của làng cảnh Việt Nam", qua ngòi bút tài hoa và tấm lòng yêu thương, gắn bó của ông, hình ảnh làng quê Bắc Bộ yên bình mà thơ mộng hiện lên sống động trong từng trang văn. Nổi tiếng nhất trong sự nghiệp sáng tác của ông có thể kể đến chùm 3 bài thơ thu. Trong đó, bài thơ Câu cá mùa thu được đánh giá là bài thơ "điển hình hơn cả cho thơ ca mùa thu của làng cảnh Việt Nam", bức tranh mùa thu được thể hiện rõ nét qua bốn câu thơ đầu của bài.

Mở đầu bài thơ, nhà thơ Nguyễn Khuyến đã mở ra không gian cao rộng với những cảnh sắc đặc trưng của vùng chiêm trũng Bắc Bộ:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo

Cảnh thu được người thi nhân cảm nhận từ nhiều góc nhìn khác nhau, từ xa đến gần, từ thấp đến cao làm cho bức tranh mùa thu trở nên ấn tượng, sống động. Giữa không gian rộng lớn mang theo hơi lạnh của "ao thu", sự xuất hiện của chiếc thuyền câu "bé tẻo teo" như một nét điểm xuyết cho bức tranh thơ. Tính từ "lạnh lẽo" đã đặc tả cái lạnh giá của ao nước mùa thu, "trong veo" lại tạo ấn tượng về độ trong của dòng nước. Câu thơ "Ao thu lạnh lẽo nước trong veo" đã gợi ra không khí se lạnh, không gian tĩnh lặng điển hình của mùa thu Bắc Bộ.

Giữa nền thiên nhiên trong trẻo nhưng tĩnh lặng, sự xuất hiện của một chiếc thuyền câu nhỏ bé càng làm nổi bật sự thanh tĩnh của không gian. Số từ "một chiếc" được kết hợp với từ láy "tẻo tẹo" mang đến ấn tượng nhỏ bé đến tột cùng.

Như vậy, chỉ với vài nét vẽ, nhà thơ Nguyễn Khuyến đã mở ra bức tranh mùa thu Bắc Bộ với những cảnh sắc thật riêng biệt, vừa có cái mộc mạc, gần gũi vừa có cái mới mẻ, độc đáo. Nổi bật hơn cả trong hai câu đề là đặc trưng về tiết trời và không khí mùa thu, đó là cái se lạnh của thời tiết và sự tĩnh lặng của không gian.

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo

Đến hai câu thơ thực, nhà thơ tập trung khắc họa những đường nét gợi cảm, sinh động của mùa thu qua những làn sóng biếc và những chiếc lá vàng. "Hơi gợn tí", "khẽ đưa vèo" là những chuyển động rất khẽ, rất nhẹ của sóng, của lá mà nếu không đủ nhạy cảm, tinh tế thì sẽ không thể phát hiện ra. Có thể thấy nhà thơ Nguyễn Khuyến đã rất tinh tế khi đã cảm nhận được những biến chuyển tinh vi của tạo vật, đó là làn sóng khẽ gợn trên mặt nước, là sự lay động khẽ khàng của những chiếc lá.

Với những hình ảnh tự nhiên, gần gũi kết hợp với nghệ thuật đối rất chỉnh, Nguyễn Khuyến đã tạo ra một sự liên kết chặt chẽ mà hài hòa giữa những sự vật: gió thổi theo sóng khẽ gợn, làm chiếc lá nhẹ nhàng Mặt khác, các tính từ, trạng từ "biếc", "vàng", "tí", "khẽ", "vèo" được nhà thơ sử dụng rất hiệu quả trong hai câu thực, sự kết hợp giữa chúng không chỉ làm cho bức tranh thu trở nên rõ nét về màu sắc và âm thanh mà còn làm cho những sự vật trở nên sống động, gợi cảm hơn với những chuyển động nhẹ nhàng, tinh tế.

Chỉ với những nét vẽ đơn giản, bốn câu thơ đầu tiên đã mở ra bức tranh mùa thu đẹp nhưng tĩnh lặng. Bức tranh không chỉ đơn thuần tả cảnh mà còn trở nên sống động, đặc biệt bởi nó chứa đựng cái "tình" của người thi nhân. Đó là sự gắn bó thiết tha, là tình yêu bình dị mà sâu sắc của nhà thơ với thiên nhiên, làng quê của mình. Đọc Câu cá mùa thu, đặc biệt là bốn câu thơ đầu, ta như trở được đắm mình trong không gian quen thuộc mà độc đáo của mùa thu vùng đồng bằng Bắc Bộ.

Phân tích 4 câu đầu bài Câu cá mùa thu - Mẫu 4

Nguyễn Khuyến được mệnh danh là “Thi sĩ của làng cảnh Việt Nam”, qua ngòi bút tài hoa và tấm lòng mến thương, gắn bó của ông, hình ảnh làng quê Bắc Bộ yên bình nhưng mà thơ mộng hiện lên sống động trong từng trang văn. Nổi tiếng nhất trong sự nghiệp sáng tác của ông có thể kể tới chùm 3 bài thơ thu: Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh. Trong đó, bài thơ Câu cá mùa thu (Thu điếu) được nhận định là bài thơ “tiêu biểu hơn cả cho thơ ca mùa thu của làng cảnh Việt Nam”, bức tranh mùa thu được trình bày rõ nét qua bốn câu thơ đầu của bài.

Mở đầu bài thơ, thi sĩ Nguyễn Khuyến đã mở ra ko gian cao rộng với những cảnh sắc đặc trưng của vùng chiêm trũng Bắc Bộ:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu nhỏ tẻo teo

Cảnh thu được người thi nhân cảm nhận từ nhiều góc nhìn không giống nhau, từ xa tới gần, từ thấp tới cao làm cho bức tranh mùa thu trở thành ấn tượng, sống động. Giữa ko gian rộng lớn mang theo hơi lạnh của “ao thu”, sự xuất hiện của chiếc thuyền câu “nhỏ tẻo teo” như một nét điểm xuyết cho bức tranh thơ. Tính từ “lạnh lẽo” đã đặc tả cái lạnh giá của ao nước mùa thu, “trong veo” lại tạo ấn tượng về độ trong của dòng nước. Câu thơ “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo” đã gợi ra ko khí se lạnh, ko gian yên ắng tiêu biểu của mùa thu Bắc Bộ.

Giữa nền tự nhiên trong trẻo nhưng yên ắng, sự xuất hiện của một chiếc thuyền câu nhỏ nhỏ càng làm nổi trội sự thanh u của ko gian. Số từ “một chiếc” được liên kết với từ láy “tẻo tẹo” mang tới ấn tượng nhỏ nhỏ tới tột cùng.

Tương tự, chỉ với vài nét vẽ, thi sĩ Nguyễn Khuyến đã mở ra bức tranh mùa thu Bắc Bộ với những cảnh sắc thật riêng lẻ, vừa có cái mộc mạc, thân thiện vừa có cái mới mẻ, lạ mắt. Nổi trội hơn cả trong hai câu đề là đặc trưng về tiết trời và ko khí mùa thu, đó là cái se lạnh của thời tiết và sự yên ắng của ko gian.

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo

Tới hai câu thơ thực, thi sĩ tập trung khắc họa những đường nét gợi cảm, sinh động của mùa thu qua những làn sóng biếc và những chiếc lá vàng. “Hơi gợn tí”, “khẽ đưa vèo” là những chuyển động rất khẽ, rất nhẹ của sóng, của lá nhưng mà nếu ko đủ nhạy cảm, tinh tế thì sẽ ko thể phát xuất hiện. Có thể thấy thi sĩ Nguyễn Khuyến đã rất tinh tế lúc đã cảm thu được những lay động tinh xảo của tạo vật, đó là làn sóng khẽ gợn trên mặt nước, là sự lay động khẽ khàng của những chiếc lá.

Với những hình ảnh tự nhiên, thân thiện liên kết với nghệ thuật đối rất chỉnh, Nguyễn Khuyến đã tạo ra một sự liên kết chặt chẽ nhưng mà hài hòa giữa những sự vật: gió thổi theo sóng khẽ gợn, làm chiếc lá nhẹ nhõm Mặt khác, các tính từ, trạng từ “biếc”, “vàng”, “tí”, “khẽ”, “vèo” được thi sĩ sử dụng rất hiệu quả trong hai câu thực, sự liên kết giữa chúng ko chỉ làm cho bức tranh thu trở thành rõ nét về màu sắc và âm thanh nhưng mà còn làm cho những sự vật trở thành sống động, gợi cảm hơn với những chuyển động nhẹ nhõm, tinh tế.

Chỉ với những nét vẽ đơn giản, bốn câu thơ trước nhất đã mở ra bức tranh mùa thu đẹp nhưng yên ắng. Bức tranh ko chỉ thuần tuý tả cảnh nhưng mà còn trở thành sống động, đặc thù bởi nó chứa đựng cái “tình” của người thi nhân. Đó là sự gắn bó thiết tha, là tình yêu bình dị nhưng mà thâm thúy của thi sĩ với tự nhiên, làng quê của mình. Đọc Câu cá mùa thu, đặc thù là bốn câu thơ đầu, ta như trở được đắm mình trong ko gian thân thuộc nhưng mà lạ mắt của mùa thu vùng đồng bằng Bắc Bộ.

Phân tích 4 câu đầu bài Câu cá mùa thu - Mẫu 5

Mùa thu là một trong những đề tài lớn của thơ ca nhân loại. Nói tới đề tài này trong thơ ca Việt Nam chúng ta có thể kể tới rất nhiều tác giả với những sáng tác xếp vào hàng kiệt tác, trong số đó có Nguyễn Khuyến với chùm ba bài thơ thu. Mỗi bài trong chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến là một bức tranh thu đặc sắc, và Câu cá mùa thu được đánh giá là "điển hình hình cho thơ ca mùa thu của làng cảnh Việt Nam" (Xuân Diệu).

Mùa thu là đề tài quen thuộc của thi ca. Thơ viết về mùa thu của văn học Trung đại Việt Nam thường miêu tả cảnh đẹp vắng vẻ, úa tàn và u buồn. Cảnh thu được ghi lại một cách ước lệ tượng trưng với những nét chấm phá, chớp lấy cái hồn của tạo vật. Thu điếu của Nguyễn Khuyến cũng mang nét thi pháp ấy.

Nhưng với cụ Tam nguyên - Nguyễn Khuyến được mệnh danh là nhà thơ của làng quê Việt Nam. Gần suốt đời mình, ông gắn bó với thôn quê, hòa hợp và thấu hiểu mảnh đất quê nhà. Thế nên, cảnh vật làng quê trong thơ ông hiện lên rất chân thực, giản dị, tinh tế. Đọc Thu điếu, ta bắt gặp một bức tranh thu đặc trưng của vùng chiêm trũng Bắc bộ, quê hương của nhà thơ. Đấy chính là nét mới mẻ của tác phẩm so với thi pháp truyền thống của văn học Trung đại Việt Nam.

"Thu điếu" được tác giả viết bằng chữ Nôm, làm theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Cảnh thu được miêu tả trong hầu hết 8 câu thơ, hình ảnh con người chỉ xuất hiện trực tiếp ở hai câu cuối bài. Cảnh trong bài vẫn là trời nước, gió, trúc – những thi liệu quen thuộc nhưng hồn thơ thì đã vượt ra khỏi khuôn sáo thi tứ cổ điển.

Cảnh thu trong bài được đón nhận từ nhiều góc độ khác nhau: từ gần đến xa, từ thấp lên caọ, từ hẹp đến rộng... Dưới nhiều góc độ như vậy, cảnh sắc mùa thu được mở ra nhiều hướng thật sinh động và gợi cảm. Từ ao thu đến trời thu rồi đến đường thôn xóm... tất cả đều toát lên cái hồn thu, cảnh thu xiết bao thân thuộc của làng quê đồng bằng Bắc Bộ. Cái hồn ấy được gợi lên từ những khung cảnh, những cảnh vật hết sức thanh so: ao nhỏ trong veo, thuyền câu bé tí, sóng biếc gợn, lá vàng khẽ đưa, tảng mây lơ lửng, ngõ trúc quanh co... sắc xanh của trời hoà lẫn cùng sắc xanh của nước tạo nên một không gian xanh trong, dịu nhẹ, một chút sắc vàng của lá rụng trên cái nền xanh ấy khiến cảnh thu, hồn thu càng thêm phần sống động.

Những đường nét, màu sắc... gợi lên trong tưởng tượng của người đọc khung cảnh của một buổi sớm thu yên bình trên một làng quê miền Bắc với bầu trời thu cao rộng, khoáng đạt, những ao chuôm trong vắt phản chiếu màu trời, màu lá, thôn xóm với những con đường nhỏ quanh co hun hút xanh màu tre trúc, gió thu dịu mát khẽ làm xao động mặt nước, thỉnh thoảng một vài chiếc lá rụng cắt ngang không gian... Trong bức tranh thu này mọi cảnh vật hiện ra đều rất đỗi bình dị, dân dã.

Khung cảnh ấy vẫn thường hiển hiện vào mỗi độ thu về trên những làng quê và đi vào tâm thức của bao người, nhưng lần đầu tiên được Nguyễn Khuyến vẽ ra với nguyên cái thần thái tự nhiên của nó và khiến ta không khỏi ngỡ ngàng xúc động. Đó là một mùa thu trong trẻo, thuần khiết, mát lành đã bao lần đến trên quê hương của mỗi chúng ta.

Phải gắn bó tha thiết với quê hương, phải có một tâm hồn nhạy cảm đến độ nào thì Nguyễn Khuyến mới có thể tái hiện một cách tài tình tất cả vẻ đẹp xiết bao bình dị mà nên thơ của mùa thu làng quê Bắc Bộ vào trong những vần thơ tự nhiên, giản dị đến thế. Thơ thu Việt Nam giàu có, đặc sắc hơn bởi những vần thơ như thế của Nguyễn Khuyến.

Phân tích 4 câu đầu bài Câu cá mùa thu - Mẫu 6

Mùa thu vốn là một đề tài thân thuộc trong thơ ca Việt Nam. Thu thường mang tới cho thi sĩ một nỗi buồn man mác, gợi nhớ hay nuối tiếc về một cái gì đó xa xôi, đầy bí mật. Hình như ko người nào vô tình nhưng mà ko nói tới cảnh thu, tình thu lúc đã là thi sĩ! Tới với Nguyễn Khuyến, chúng ta sẽ thấy được điều đó. Cảnh mùa thu trong thơ ông ko phải là mùa thu ở bất kỳ miền nào, thời nào, nhưng mà là mùa thu ở quê ông, vùng đồng chiêm Bắc Bộ lúc bấy giờ. Chỉ với bầu trời “xanh ngắt” (Thu vịnh), với cái nước “trong veo” của ao cá (Thu điếu), và cái “lưng giậu phơ phất màu khói nhạt, làn ao óng ánh bóng trăng loe” (Thu ẩm). Nguyễn Khuyến đã làm say đắm lòng bao thế hệ! Lúc nhận xét về bài thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu có viết: “Bài thơ Thu vịnh là có thần hơn hết, nhưng ta vẫn phải nhận bài Thu điếu là tiêu biểu hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”. Vậy ta thử tìm hiểu xem thế nào nhưng mà “Thu điếu là tiêu biểu hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”?

Nếu như ở Thu vịnh, mùa thu được Nguyễn Khuyến đón nhận từ cái ko gian thoáng đãng, mênh mông, mênh mông, với cặp mắt hướng thượng, khám phá dần các tầng cao của mùa thu để thấy được: “Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao”, thì ở Thu điếu, thi sĩ ko tả mùa thu ở một quang cảnh tự nhiên rộng rãi, ko phải là trời thu, rừng thu hay hồ thu, nhưng mà lại chỉ gói gọn trong một ao thu: ao chuôm là đặc điểm của vùng đồng chiêm trũng, vùng quê của Nguyễn Khuyến. Bốn câu đầu bài thơ thật hay và thật đẹp.

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu nhỏ tẻo teo

Câu thơ đầu tồn tại hai vần “eo”, câu thơ trình bày sự co lại, đọng lại ko nhúc nhích, cho ta một cảm giác lạnh lẽo, yên tĩnh một cách lạ thường. Ko có từ “lẽo” và từ “veo” cũng đủ cho ta thấy cảnh tĩnh, nhưng thêm hai từ này lại càng thấy cảnh tĩnh hơn nữa. Khung ao tuy nhỏ nhưng tác giả lại ko bị giới hạn nhưng mà mở rộng ra nhiều chiều, trong cái ko khí se lạnh đó dường như làm cho làn nước ao ở độ giữa thu, cuối thu như trong trẻo hơn. Những tưởng trong “ao thu lạnh lẽo” đó, mọi vật sẽ ko xuất hiện, thế nhưng mà thật bất thần: Khung ao ko trống vắng nhưng mà có “một chiếc thuyền câu nhỏ tẻo teo”. Có quang cảnh tự nhiên và có dấu vết của cuộc sống con người, khiến cảnh thu thêm được phần nào ấm êm. Chiếc thuyền “tẻo teo” trông thật xinh xẻo. Câu thơ đọc lên, làm cho nhân vật mô tả trở thành thân thiện và thân tình biết bao! Với hai câu mở đầu, thi sĩ sử dụng những từ ngữ gợi hình ảnh, tạo độ gợi cao: “lẽo”, “veo”, “tẻo teo” mang tới cho người đọc một nỗi buồn man mác, cảnh vắng vẻ, ít người qua lại. Và rồi hình ảnh:

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo

Càng làm cho ko khí trở thành yên ắng hơn, thi sĩ đã dùng cái động của “lá vàng trước gió” để mô tả cái tĩnh của cảnh thu làng quê Việt Nam. Những cơn gió mùa thu đã xuất hiện và mang theo cái lạnh trở về, khiến ao thu ko còn “lạnh lẽo”, ko còn yên ắng nữa vì mặt hồ đã “gợn tí”, “lá vàng khẽ đưa vèo”, cảnh vật dường như đã mở đầu thay đổi hẳn đi! Cơn “sóng biếc” nhỏ “hơi gợn tí” và chiếc lá “trước gió khẽ đưa vèo” tưởng như tranh chấp với nhau, nhưng thật ra ở đây Nguyễn Khuyến đã quan sát kĩ theo chiếc lá bay trong gió, chiếc lá rất nhẹ và thon thon hình thuyền, ngả nghiêng liệng đi trong ko gian, rơi xuống mặt hồ yên tĩnh. Quả là phải có một tâm hồn yêu tự nhiên, yêu cuộc sống thật thâm thúy thì Nguyễn Khuyến mới có thể cảm thu được những âm thanh tinh tế, tưởng dường như chẳng người nào quan tâm tới như thế!

Qua bốn câu đầu bài thơ,tác giả đã cho thấy tài năng của mình trong việc dùng từ và một tâm hồn gắn bó tha thiết với tự nhiên, tổ quốc, tấm lòng yêu nước thầm lặng nhưng ko kém phần sâu nặng.

Phân tích 4 câu đầu bài Câu cá mùa thu - Mẫu 7

Mùa thu là một trong những đề tài lớn của thơ ca nhân loại. Nói tới đề tài này trong thơ ca Việt Nam chúng ta có thể kể tới rất nhiều tác giả với những sáng tác xếp vào hàng kiệt tác, trong số đó có Nguyễn Khuyến với chùm ba bài thơ thu. Mỗi bài trong chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến là một bức tranh thu đặc sắc, và Câu cá mùa thu được đánh giá là "điển hình hình cho thơ ca mùa thu của làng cảnh Việt Nam" (Xuân Diệu).

Mùa thu là đề tài quen thuộc của thi ca. Thơ viết về mùa thu của văn học Trung đại Việt Nam thường miêu tả cảnh đẹp vắng vẻ, úa tàn và u buồn. Cảnh thu được ghi lại một cách ước lệ tượng trưng với những nét chấm phá, chớp lấy cái hồn của tạo vật. Cảm xúc mùa thu của Nguyễn Khuyến cũng mang nét thi pháp ấy. Nhưng với cụ Tam nguyên - Nguyễn Khuyến được mệnh danh là nhà thơ của làng quê Việt Nam. Gần suốt đời mình, ông gắn bó với thôn quê, hòa hợp và thấu hiểu mảnh đất quê nhà. Thế nên, cảnh vật làng quê trong thơ ông hiện lên rất chân thực, giản dị, tinh tế. Đọc Thu điếu, ta bắt gặp một bức tranh thu đặc trưng của vùng chiêm trũng Bắc bộ, quê hương của nhà thơ. Đấy chính là nét mới mẻ của tác phẩm so với thi pháp truyền thống của văn học Trung đại Việt Nam. "Thu điếu" được tác giả viết bằng chữ Nôm, làm theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Cảnh thu được miêu tả trong hầu hết 8 câu thơ, hình ảnh con người chỉ xuất hiện trực tiếp ở hai câu cuối bài. Cảnh trong bài vẫn là trời nước, gió, trúc – những thi liệu quen thuộc nhưng hồn thơ thì đã vượt ra khỏi khuôn sáo thi tứ cổ điển. Cảnh thu trong bài được đón nhận từ nhiều góc độ khác nhau: từ gần đến xa, từ thấp lên caọ, từ hẹp đến rộng... Dưới nhiều góc độ như vậy, cảnh sắc mùa thu được mở ra nhiều hướng thật sinh động và gợi cảm. Từ ao thu đến trời thu rồi đến đường thôn xóm... tất cả đều toát lên cái hồn thu, cảnh thu xiết bao thân thuộc của làng quê đồng bằng Bắc Bộ. Cái hồn ấy được gợi lên từ những khung cảnh, những cảnh vật hết sức thanh so: ao nhỏ trong veo, thuyền câu bé tí, sóng biếc gợn, lá vàng khẽ đưa, tảng mây lơ lửng, ngõ trúc quanh co... sắc xanh của trời hoà lẫn cùng sắc xanh của nước tạo nên một không gian xanh trong, dịu nhẹ, một chút sắc vàng của lá rụng trên cái nền xanh ấy khiến cảnh thu, hồn thu càng thêm phần sống động. Những đường nét, màu sắc... gợi lên trong tưởng tượng của người đọc khung cảnh của một buổi sớm thu yên bình trên một làng quê miền Bắc với bầu trời thu cao rộng, khoáng đạt, những ao chuôm trong vắt phản chiếu màu trời, màu lá, thôn xóm với những con đường nhỏ quanh co hun hút xanh màu tre trúc, gió thu dịu mát khẽ làm xao động mặt nước, thỉnh thoảng một vài chiếc lá rụng cắt ngang không gian... Trong bức tranh thu này mọi cảnh vật hiện ra đều rất đỗi bình dị, dân dã. Khung cảnh ấy vẫn thường hiển hiện vào mỗi độ thu về trên những làng quê và đi vào tâm thức của bao người, nhưng lần đầu tiên được Nguyễn Khuyến vẽ ra với nguyên cái thần thái tự nhiên của nó và khiến ta không khỏi ngỡ ngàng xúc động. Đó là một mùa thu trong trẻo, thuần khiết, mát lành đã bao lần đến trên quê hương của mỗi chúng ta.

Phải gắn bó tha thiết với quê hương, phải có một tâm hồn nhạy cảm đến độ nào thì Nguyễn Khuyến mới có thể tái hiện một cách tài tình tất cả vẻ đẹp xiết bao bình dị mà nên thơ của mùa thu làng quê Bắc Bộ vào trong những vần thơ tự nhiên, giản dị đến thế. Thơ thu Việt Nam giàu có, đặc sắc hơn bởi những vần thơ như thế của Nguyễn Khuyến.

-/-

Trên đây là hướng dẫn chi tiết và những bài văn mẫu "Phân tích 4 câu đầu bài Câu cá mùa thu" mà Đọc tài liệu tổng hợp giúp các em nắm được nội dung chính của tác phẩm. Cùng với trọn bộ văn mẫu lớp 10 là những tài liệu hữu ích giúp các em học tốt Ngữ Văn 10!

Bạn còn vấn đề gì băn khoăn?
Vui lòng cung cấp thêm thông tin để chúng tôi giúp bạn
Hủy

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM