Phân tích 3 khổ đầu Ánh trăng - Nguyễn Duy

Xuất bản: 18/05/2019 - Cập nhật: 25/06/2020 - Tác giả: Giangdh

[Văn mẫu 9] Phân tích 3 khổ đầu bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy để thấy ẩn sâu trong những vần thơ như lời trách móc của tác giả. Rõ ràng khi thay đổi hoàn cảnh, môi trường con người có thể dễ dàng quên đi quá khứ

Phân tích ba khổ thơ đầu bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy để thấy được hình ảnh vầng trăng trong quá khứ và của hiện tại dường như đã có sự khác nhau. Tất cả như một lời trách móc, khi thay đổi môi trường, hoàn cảnh, con người hoàn toàn có thể quên đi quá khứ, có thể thay đổi về tình cảm. Qua đó nhà thơ đã phản ánh một thực trạng đang diễn ra tại xã hội thời hiện đại.

Nội dung khái quát của 3 khổ thơ đầu Ánh trăng

1. Vầng trăng trong quá khứ: đã gắn bó thân thiết với con người từ lúc nhỏ đến lúc trưởng thành, cả trong hạnh phúc lẫn gian lao. Vầng trăng không những trở thành người bạn tri kỷ mà còn là vầng trăng tình nghĩa biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình.

Hồi nhỏ sống với đồng

........

cái vầng trăng tình nghĩa

2. Vầng trăng trong hiện tại: đã không còn là bạn, như một ẩn ý trách móc sự thay đổi khi không còn sống trong môi trường, hoàn cảnh cũ nữa.

Từ hồi về thành phố

quen ánh điện cửa gương

vầng trăng đi qua ngõ

như người dưng qua đường

Ở bài viết này Đọc tài liệu sẽ gửi đến các bạn một số bài văn mẫu cảm nhận và phân tích 3 khổ đầu bài thơ Ánh trăng để các bạn tham khảo. Cùng nhau tìm hiểu nhé.

--------

Bài của học sinh giỏi văn phân tích 3 khổ đầu Ánh trăng của Nguyễn Duy

Nguyễn Duy là nhà thơ trường thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Những sáng tác của ông đi vào lòng người đọc bởi sự nhẹ nhàng, gần gũi, mộc mạc của ngôn ngữ qua bài thơ “Hơi ấm ổ rơm”, “Tre Việt Nam”. Bài thơ “Ánh trăng” được rút ra từ tập thơ cùng tên, sáng tác năm 1978 tại thành phố Hồ Chí Minh đã khiến người đọc có cách nhìn nhận chân thực và sâu sắc hơn về cuộc sống, về quá khứ qua hình ảnh trung tâm “ánh trăng”.

Ánh trăng là hình ảnh xuyên suốt 4 khổ thơ, xâu chuỗi các dòng hoài niệm và suy nghĩ của một đời người về hiện tại và quá khứ. Có thể nói Nguyễn Duy đã rất tinh tế để xây dựng thành công hình tượng “vô tri vô giác” nhưng có sức mạnh đánh thức và lay động trái tim.

Bài thơ được mở đầu bằng hình ảnh ánh trăng thân thuộc, gần gũi, gắn với những kỉ niệm đẹp gắn bó với tuổi thơ, với năm tháng chiến tranh ác liệt:

Hồi nhỏ sống với đồng

với sông rồi với bể

hồi chiến tranh ở rừng

vầng trăng thành tri kỉ.

Có thể nói hình ảnh “ánh trăng” đã thành biểu tượng xuyên suốt tuổi thơ của tác giả, gắn bó với những kỉ niệm khó quên. Ánh trăng tinh khiết, dịu nhẹ lan tỏa từ cánh đồng mênh mông, từ dòng sông bến nước – nơi nuôi dưỡng tâm hồn của mỗi chúng ta.

Đến những năm tháng “hồi chiến tranh ở rừng” gian khổ, vất vả, ánh trăng từ kí ức tuổi thơ ấy đã thành “tri kỉ”, thành người bạn đồng hành, người bạn tâm tình đáng mến, thủy chung, son sắt. Có thể nói Nguyễn Duy đã rất khéo, rất tinh tế khi nhân hóa ánh trăng thành một người bạn tri kỉ của những anh bộ đội cụ hồ. Sự gắn bó quấn quýt, tình cảm chân thành và trong sáng giữa anh bộ đội và anh trăng thật đáng ngưỡng mộ.

Hai dấu mốc thời gian “hồi nhỏ” và “hồi chiến tranh” đã khiến cho ánh trăng trở nên gần gũi và nghĩa tình ở khổ thơ tiếp:

Trần trụi giữa thiên nhiên

Hồn nhiên như cây cỏ

Ngỡ không bao giờ quên

Cái vầng trăng tình nghĩa

Dù là ở đâu thì “ánh trăng” vẫn vẹn nguyên, gần gũi, phóng khoáng khiến cho tác giả có cảm giác “không bao giờ quên”, nhưng đó chỉ là “ngỡ” thôi. Vầng trăng tình nghĩa, chung thủy luôn là hình nhắc nhắc nhở tác giả không được phép quên đi.

Nhưng chính từ “ngỡ” ấy chính là dấu hiệu cho một sự rạn nứt, quên lãng ở khổ thơ tiếp theo

Từ hồi về thành phố

Quen đèn điện của gương

Vầng trăng đi qua ngõ

Như người dưng qua đường

Cuộc sống đô thị phồn hoa với đèn điện, cửa gương, với tiện nghi đầy đủ đã khiến cho tác giả quên mất đi người bạn tri kỉ ngày xưa đó. Ở hai câu thơ sau của khổ thơ này, giọng thơ chùng xuống khiến người đọc nghèn nghẹn. Và đặc biệt cách dùng từ “người dưng” đã gợi lên cảm giác xót xa đến tột độ. Từng là bạn tri kỉ, từng là “người” ngỡ như không quên, nhưng giờ đây tác giả vô tâm, vô tình, hờ hững xem như kẻ qua đường, không hơn không kém. Phép so sánh đấy đã khiến cho tứ thơ xoáy sâu vào lòng người nhiều nuối tiếc, day dứt, xót xa cho một sự thay đổi.

Có thể bạn quan tâm: Phân tích hai khổ đầu bài Ánh trăng

Văn mẫu 9 phân tích 3 khổ đầu Ánh trăng của nhà thơ Nguyễn Duy

Trăng là đề tài muôn thuở của thi ca. Với ánh sáng hiền dịu, với chu kì tròn khuyết lạ lùng, trăng đã gợi cho các thi nhân cổ kim nhiều ý tưởng sâu xa. Nguyễn Duy là nhà thơ lớn lên từ đồng quê, trăng như một ám ảnh. Rồi xê dịch với thời gian, và không gian, trăng vẫn theo đuổi nhà thơ và thế là thành thơ, thành triết lí…

Bài  thơ “Ánh trăng” được viết theo thể thơ năm chữ, nhịp điệu  linh hoạt  để thể hiện sự vận động  của không giạn, của thời gian. Nếu như trong bài thơ “Tre Việt Nam”, câu thơ lục bát có khi được tách ra thành 2 hoặc 3 dòng thơ để tạo nên hiệu quả nghệ thuật biểu đạt gây ấn tượng, thì bài thơ “Ánh trăng” này lại có một nét mới. Chữ đầu của dòng thơ, câu thơ không viết hoa. Phải chăng nhà thơ muốn cho cảm xúc được dào dạt trôi theo dòng chảy của thời gian kỉ niệm ?

Hai câu thơ đầu nhà thơ nói về vầng trăng của tuổi thơ và vầng trăng của thời chiến tranh.

Hồi nhỏ sống với đồng

với sông rồi với bể

Vầng trăng tuổi thơ trải rộng trên một không gian bao la. Hai câu thơ 10 tiếng, gieo vần lưng (đồng – sông), từ “với” được điệp lại 3 lần nhằm diễn tả một tuổi thơ đi nhiều, được hạnh phúc cảm nhận những vẻ đẹp kì thú của thiên nhiên, từng được ngắm trăng trên đồng quê, ngắm trăng trên dòng sông và ngắm trăng trên bãi bể. Ta thấy hồi ức được kể lại bằng hình ảnh. Hình ảnh chuyển rất nhanh, cái hay là bằng hình ảnh không gian đã diễn tả được sự vận động của thời gian.

Hai câu thơ tiếp theo nói về thời chiến tranh, vầng trăng của người lính, trăng đã thành tri kỉ.

Hồi chiến tranh ở rừng

Vầng trăng thành tri kỉ

Tri kỉ là biết người biết mình, bạn tri kỉ là người bạn rất thân, hiểu biết mình. Trăng với người lính, với nhà thơ trong những năm ở rừng thời chiến tranh đã trở thành đôi bạn tri kỉ. Người chiến sĩ nằm ngủ dưới trăng, giữa rừng khuya sương muối, người chiến sĩ đứng chờ giặc tới. Con đường hành quân của người lính nhiều đêm đã trở thành con đường dát vàng. Trăng đã chia sẻ ngọt bùi hân hoan trong niềm vui thắng trận với người lính tiền phương. Đất nước đã trải qua những năm dài máu lửa, trăng với anh bộ đội đã vượt lên mọi tàn phá hủy diệt của bom đạn quân thù. Thật thú vị khi đọc những vần thơ của Nguyễn Duy vì nó đã mở ra trong lòng nhiều người một trường liên tưởng.

Hồi chiến tranh ở rừng

Vầng trăng thành tri kỉ

Sang khổ thơ thứ 2 như một lời nhắc nhở của tác giả về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, với đất nước bình dị, hiền hậu. Bằng nghệ thuật ẩn dụ, so sánh nhà thơ làm nổi bật chất trần trụi, chất hồn nhiên của người lính những năm tháng ở rừng. Đó là cốt cách của các anh.

Trần trụi với thiên nhiên

hồn nhiên như cây cỏ

ngỡ không bao giờ quên

cái vầng trăng tình nghĩa

Vầng trăng là biểu tượng của những năm tháng ấy, đã trở thành vầng trăng tri kỉ, vầng trăng tình nghĩa, ngỡ như  không bao gì có thể quên. Một ý thơ làm động đến tâm hồn như một thức tỉnh lương tâm đối với những kẻ vô tình.

Sự thay đổi của lòng người thật đáng sợ. Hoàn cảnh sống thay đổi con người dễ thay đổi, có lúc trở nên vô tình, có kẻ dễ trở thành “ăn ở bạc”. Từ ở rừng, sau chiến tranh trở về thành phố được sống sung sướng ở buyn đinh cao ốc, quen ánh điện cửa gương, vầng trăng tri kỉ – vầng trăng tình nghĩa đã bị người lãng quên dửng dưng. Cách so sánh của tác giả làm chột dạ nhiều người.

Từ hồi về thành phố

quen ánh điện cửa gương

vầng trăng đi qua ngõ

như người dưng qua đường

Trăng được nhân hóa lặng lẽ đi qua đường, trăng như người dưng đi qua chẳng còn ai nhớ, chẳng còn ai hay. Những câu thơ rất bình dị, giọng thơ thầm thì như trò chuyện, giãi bày tâm sự cho nên chất trữ tình của thơ trở nên sâu lắng chân thành.

Xem thêm: Bài văn phân tích 2 khổ cuối Ánh trăng - Nguyễn Duy

Bài văn cảm nhận 3 khổ thơ đầu bài Ánh trăng hay nhất

Nguyễn Duy thuộc thể hệ nhà thơ quân đội, trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Thơ ông giàu chất triết lý, thiên về chiều sâu nội tâm với những trăn trở, day dứt, suy tư. Bài thơ Ánh trăng được sáng tác năm 1978, như một lời tâm sự chân thành, sâu lắng, như một lời nhắn nhủ thấm thía mà trước hết là tự nhắc nhở mình.

Bài thơ là một câu chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian, từ quá khứ đến hiện tại. Trong dòng tự sự ấy, nhà thơ kể về mối quan hệ giữa mình và vầng trăng. Đó là những kỉ niệm đẹp, tình cảm gắn bó giữa con người và vầng trăng trong quá khứ. Khi thay đổi môi trường sống, con người đã lãng quên vầng trăng. Điều đó được thể hiện qua ba khổ thơ đầu của bài thơ (Trích dẫn thơ).

Ánh trăng trước hết là tiếng lòng, là sự tự vấn lương tâm của riêng Nguyễn Duy. Nhà thơ đứng giữa hôm nay mà suy ngẫm về thời đã qua và từ tâm trạng riêng, tiếng thơ ông cất lên như một lời nhắc nhở. vầng trăng ở đây không chỉ là một hình ảnh cụ thể của đất trời mà còn là biểu tượng cho một quá khứ đẹp đẽ, là mối liên hệ giữa tâm tình riêng và ý nghĩa phổ biến rộng lớn, giữa nội dung cụ thể và tính khái quát của bài thơ. Khổ thơ đầu gợi nhắc về những kỉ niệm trong quá khứ:

Hồi nhỏ sống với đồng 

với sông rồi với bể 

hồi chiến tranh ở rừng

vầng trăng thành tri kỉ

Vầng trăng tuổi thơ của tác giả được trải rộng trên một không gian bao la, rộng lớn: cánh đồng, dòng sông, biển cả. Hai câu thơ mười tiếng gieo vần lưng đồng, sông. Từ với được lặp đi lặp lại ba lần để nói lên tuổi thơ được đi nhiều, được cảm nhận những vẻ đẹp của thiên nhiên thoáng đãng. Thật sung sướng khi được thả hồn trên đồng quê, ngắm trăng trên dòng sông, trải trên bể. Thiên nhiên bình dị, hiền hòa và đáng yêu, vầng trăng gắn bó với nhà thơ từ lúc nhỏ. Tuổi thơ của chúng ta có mấy ai được cái may mắn ấy. Đến khi lớn lên phải sống trong chiến tranh, ở trong rừng, ánh trăng đã trở thành tri kỉ:

hồi chiến tranh ở rừng

vầng trăng thành tri ki

Từ tri kỉ có nghĩa là biết người như biết mình. Bạn tri kỉ như người bạn rất thân, hiểu biết mình. Từ hồi nhỏ đến lúc chiến tranh là một thời gian dài để xây đắp một tình cảm vững bền. Không phải dễ gì mà người ta coi nhau như tri kỉ. Trăng với người bạn trong những năm ở rừng thời chiến tranh đã trở nên đôi bạn không thể rời xa.

Đất nước đã trải qua những năm dài máu lửa. Trăng với anh bộ đội đã vượt mọi sự tàn phá hủy diệt bom đạn của quân thù. Các tao nhân ngày xưa cũng thường lên lầu vọng nguyệt, còn các anh bộ đội cũng một thời xông pha mặt trận, cũng có những lúc đứng trên đồi cao hay đi hành quân vượt núi cũng say sưa ngắm trăng. Thời gian thật dài mà tác giả chỉ gói gọn trong bốn dòng thơ thật ngắn gọn. Ta cảm nhận như đang có một nỗi lòng rưng rưng xúc động ẩn hiện trong mỗi dòng thơ, chỉ chờ dâng trào lên. Và nét độc đáo ở từng chữ mỗi đầu dòng thơ không viết hoa, phải chăng Nguyễn Duy muốn cho cảm xúc được dào dạt trôi theo dòng chảy của thời gian, của kỉ niệm? Tác giả cũng nhắc cả những suy nghĩ của mình về vầng trăng và con người đối với sự việc trong quá khứ:

trần trụi với thiên nhiên

hồn nhiên như cây cỏ 

ngỡ không bao giờ quên 

cái vầng trăng tình nghĩa.

Lại một vần lưng nữa xuất hiện, âm điệu thơ đi liền mạch trần trụi – thiên nhiên – hồn nhiên. Hình ảnh ẩn dụ so sánh làm nổi bật chất trần trụi, chất hồn nhiên của người lính suốt những năm tháng ở núi rừng. Đó còn là cốt cách của người lính:

trần trụi với thiên nhiên

hồn nhiên như cây cỏ.

Con người đã sống hết lòng với thiên nhiên, con người cũng như cây cỏ là những người bạn hồn nhiên không thể tách rời. Vầng trăng là biểu tượng đẹp của những năm tháng ấy, đã trở thành vầng trăng tri kỉ, vầng trăng tình nghĩa ngỡ như không bao giờ quên. Một ý thơ làm lay động đến tâm hồn như một sự thức tỉnh lương tâm đối với những kẻ vô tình ngỡ không bao giờ quên. Cái vầng trăng tình nghĩa. Từ ngỡ như một điểm nhấn, một dấu hiệu đặc biệt. Nó gợi cho ta suy nghĩ về những điều còn chưa nói. Từ ngỡ như một lối rẽ đưa ý thơ theo hướng khác: đó là giá trị của ngôn từ, là nhãn tự trong bài, là tài năng thể hiện của nhà thơ mà ta không dễ gì nhận ra được.

Chiến tranh đã đi qua, hòa bình lập lại, cũng như bao người lính khác, tác giả trở về cuộc sống bình thường. Nhưng nhà thơ không phải trở về với sông, với biển mà trở về với thành phố tấp nập đông vui:

Từ hồi về thành phố 

quen ánh điện cửa gương 

vầng trăng đi qua ngõ 

như người dưng qua đường.

Từ cuộc sống ở núi rừng, trở về cuộc sống nơi thị thành, sống bình yên và đầy đủ với ánh điện, cửa gương và không biết tự bao giờ vầng trăng đã trở thành người dưng, vầng trăng tri kỉ, vầng trăng nghĩa tình đã bị lãng quên, hờ hững. Cách so sánh thật thấm thía. Ánh trăng đã bị lu mờ trước ánh đèn chiếu rọi. Mới ngày nào vầng trăng ấy gắn bó tuổi thơ rồi vẫn đồng hành cùng ta trên bước đường hành quân. Vậy mà giờ đây ta lại vô tình dửng dưng. Lẽ nào ta lại vô tình lãng quên quá khứ. Câu thơ không trực tiếp bộc lộ cảm xúc nhưng sức ám ảnh vô cùng mạnh mẽ. Tác giả đã tạo ra sự đối lập giữa vầng trăng tri kỉ, tình nghĩa trong quá khứ và vầng trăng như người dưng qua đường trong hiện tại để diễn tả những thay đổi trong tình cảm con người. Hôm nay con người sống trong sự sung túc, bỏ lại sau lưng quá khứ, gắn bó ân tình giữa thiên nhiên bình dị và con người. Tưởng như con người ở đây tự đánh mất chính mình, đánh mất miền kí ức thăm thẳm có đau thương mất mát nhưng vô cùng gắn bó.

Giữa con người với thiên nhiên, với vầng trăng là quan hệ chung sống, quan hệ thân tình khăng khít. Trăng là người bạn đồng hành trên mỗi bước đường gian lao nên trăng hiện diện như là hình ảnh của quá khứ, là hiện thân của kí ức chan chứa nghĩa tình. Thế mà khi hòa bình lập lại, con người về chốn đô thành đã vội bội bạc với vầng trăng. Trăng vẫn thủy chung khiến lương tri con người thức tỉnh.

Dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam luôn có truyền thống chung thủy, nghĩa tình. Gần gũi với chúng ta hơn đó là cha mẹ. Ai ai cũng lớn lên qua những câu hát chứa chan tình thương của mẹ. Rồi chính cha là người dẫn dắt ta đi khắp nẻo đường đời. Tình thương của cha mẹ luôn là trời bể. Các thầy cô giáo là những người dạy dỗ chúng ta nên người. Thầy cô trang bị cho chúng ta những hành trang vững chắc nhất để vào đời, đó là kiến thức. Do đó, ai cũng rất yêu mến cha mẹ, kính trọng thầy cô, không quên công lao to lớn của họ đã giúp chúng ta khôn lớn. Vì thế, lối sống ân nghĩa thủy chung là bổn phận tất yếu, là đạo lý làm người, là một tình cảm đẹp đẹp xuất phát từ trong chính mỗi con người chúng ta.

Đoạn thơ tái hiện thời quá khứ êm đềm của tác giả gắn liền với những không gian quen thuộc, đó là cánh đồng, dòng sông, biển cả. Lúc nhà thơ đi chiến đấu, trăng tiếp tục là người bạn tri kỉ. Khi đất nước thanh bình, nhà thơ chuyển không gian sinh sống đến chốn thành phố phồn hoa và vầng trăng đã bị mất dần theo kí ức.

Ba khổ thơ đầu là cái cớ khơi gợi cảm xúc, có ý nghĩa rất khái quát, sâu sắc bởi lời nhắn nhủ chân thành, là niềm tin về tình bạn, tình người bất diệt. Ánh trăng cũng chính là biểu tượng cho tình người để chúng ta điều chỉnh hành vi của mình, để sống tốt đẹp hơn.

Gợi ý tham khảo: Văn mẫu 9 cảm nhận bài thơ Ánh trăng - Nguyễn Duy

---------

Trên đây là bài văn cảm nhận và phân tích 3 khổ đầu Ánh trăng của nhà thơ Nguyễn Duy mà Đọc tài liệu đã biên soạn gửi đến các em tham khảo. Chúc các em học tốt môn văn mẫu 9.

Bạn còn vấn đề gì băn khoăn?
Vui lòng cung cấp thêm thông tin để chúng tôi giúp bạn
Hủy

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM