Chắc hẳn bạn đang cần tìm những kiến thức hoặc các đề và bài văn mẫu về câu thành ngữ "thi trung hữu họa"?!
Thật tuyệt!...
Ở bài viết này, Đọc Tài Liệu sẽ giải thích cho các bạn hiểu hơn về ý nghĩa của câu thành ngữ này, cùng với đó là các đề và bài làm văn hay nhất. Mời các bạn cùng đón xem...
Thi trung hữu họa là gì?
Thi trung hữu họa có nghĩa là trong thơ có tranh. Đây là câu nói lên sự dung hòa hai loại hình nghệ thuật thơ ca và hội họa trong cùng một tác phẩm mà tác phẩm đó bộc lộ rõ cảm quan về hội họa, tạo được sự hài hòa của các yếu tố tạo hình và cộng hưởng được với nhau.
Các đề văn và bài làm mẫu về thi trung hữu họa
Đề 1. Thi trung hữu họa qua Nhớ rừng
Đề bài: Người xưa có câu: "Thi trung hữu họa". Em hãy viết đoạn văn quy nạp làm sáng tỏ nhận định trên trong bức tranh tứ bình trong Nhớ rừng
Bài làm mẫu:
“Thi trung hữu họa” Các cụ xưa đã nói như thế. Thế Lữ bằng chất liệu ngôn ngữ đã vẽ nên bộ tranh tứ bình về “Chúa sơn lâm” khá hoàn hảo trong bài thơ “Nhớ rừng” của mình.
Bức tranh một vẽ chân dung tâm hồn hổ vào một đêm trăng đầy mơ mộng :
“Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan”
Cảnh có màu vàng óng ả của trăng, màu xanh trong vắt của nước suối đại ngàn, màu trắng đen mờ ảo của cỏ cây hoa lá. Hổ ta đang đứng trên bờ, say sưa ngắm nhìn cảnh vật đẹp đến say lòng ấy. Ta có cảm giác hổ say mồi thì ít mà say đắm vẻ đẹp huyền ảo của đêm trăng thì nhiều. Vũ trụ có trăng, lúc khuyết, lúc tròn, lúc lên, lúc lặn để rồi hổ ta không biết bao lần ngây ngẩt trước ánh trăng vàng tung tóe. Nhớ làm sao những đêm vàng đấy mộng mơ ấy! Và giờ đây nó càng quý vô ngần vì nó là đêm của tự do và ảo mộng.
Bức tranh hai, Thế Lữ cho chúa tể rừng xanh đối diện với sự gào thét của thiên nhiên hùng vĩ vào những ngày mưa:
“Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới”
Mưa rừng không phải là “mưa bay như khói qua chiều”, không phải là “mưa giăng mắc cữi”, càng không phải là “mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng” mà mịt mù, dữ dội rung chuyển cả núi rừng. Thế Lữ thật tài tình khi biết lấy sự gào thét dữ dội của thiên nhiên, sự ngã nghiêng của cây cối, cảnh tuôn rơi ồn ào của ngày mưa làm phông nền cho một hổ ta điềm nhiên lặng ngắm giang sơn đổi mới của mình. Quả là bức tranh của một nghệ sĩ kỳ tài.
Còn đây là một cảnh khác, tươi sáng, tưng bừng của buổi bình minh.Chúa tể rừng xanh lúc nầy đang ngon giấc:
“Đâu những bình minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng”
Một buổi bình minh tinh khôi rạng rỡ, chim chóc reo ca, cây cối gọi mời, mọi vật đã thức giấc đón bình minh lên. Riêng hổ ta lại ngủ, một giấc ngủ lạ đời : giấc ngủ “tưng bừng”. Hổ có giấc ngủ riêng của hổ, cảnh vật xung quanh có ồn ào, sôi động bao nhiêu càng làm cho giấc ngủ hổ thêm say, giấc mơ hổ thêm đẹp. Chỉ bằng vài nét chấm phá má cảnh có âm thanh, có màu sắc, đường nét hài hòa, sống động.
Bức tranh cuối cùng tuyệt đẹp, đẹp một cách lộng lẫy và bi tráng:
“Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt”
Bức tranh nầy khác hẳn với ba bức tranh trên, từ màu sắc, đường nét, đến ánh sáng. Màu vàng óng ả của trăng, màu đen mờ ảo của những trận mưa rừng, cả màu hồng tươi của nắng mới đều không còn nữa thay vào đó là màu đỏ rực của máu và của ánh mặt trời sắp tắt. Hổ ta lúc nầy cũng không còn say sưa, mơ mộng như đêm nào, ngày nào mà đã hiện nguyên hình là một mãnh thú. Bên hổ, dưới chân hổ là cảnh “lênh láng máu” của những con thú yếu hèn. Ngoài xa, trên bầu trời cao rộng mênh mông ấy mặt trời cũng chỉ là một mảnh. Ta có cảm giác mặt trời cũng bé đi qua cái nhìn của hổ. Trong bức tranh, mọi vật hình như nhỏ hơn, chìm hẳn chỉ có hổ ta đứng đấy uy nghi, chễm chệ với tư thế là chúa tể của muôn loài. Chúa sơn lâm đẹp thật, một vẻ đẹp dữ dằn ghê gớm của một mãnh thú đang say mồi.
Quả là một bộ tranh tứ bình hoàn hảo, với sự phối cảnh hài hòa, bố cục mỹ cảm, đường nét thanh tao, gam màu chuẩn xác. Thế Lữ đã để lại bộ tranh hổ bằng ngôn ngữ có một không hai trong lịch sử văn học.
Tham khảo thêm: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài Nhớ rừng của Thế Lữ
Đề 2. Thi trung hữu họa trong Tây Tiến
Đề bài: Phân tích thành ngữ “Thi trung hữu họa” qua bài thơ “Tây Tiến” (Quang Dũng)
Bài làm mẫu:
Trong văn chương, ta thường nghe nói: “Thi trung hữu họa” (trong thơ có họa). Đây là thành ngữ chỉ sự dung hòa trong trong cùng một tác phẩm thơ hai loại hình nghệ thuật: thơ và họa. Tuy nhiên, không phải tác giả nào cũng tiến tới được sự dung hòa đó. Phải là một người đa tài, có con mắt hội họa thiên bẩm. Quang Dũng là một trong số những người tài hoa đó. Chất họa của ông thể hiện rõ trong bài thơ “Tây tiến”. Bài thơ đã tả lại cảnh vật rừng núi Tây Bắc bằng cảm nhận của một họa sĩ.
Khi hai loại hình nghệ thuật: thơ và hoạ ra đời; người ta đã thấy ngay sự gần gũi, dung hợp với nhau của chúng. Hai loại hình này có thể đan xen nhau trong cùng một tác phẩm và trở thành hai loại hình nghệ thuật có quan hệ mật thiết với nhau như chị em. Đó là bởi vì thơ ca và hội họa đều có tính chất giàu hình ảnh, đường nét. Chất họa ấy đã len vào cách miêu tả và cảm nhận sự vật của nhà thơ, làm nên những bài thơ “thi trung hữu họa”. Khi một bài thơ bộc lộ rõ cảm quan về hội họa, tạo được sự hài hòa của các yếu tố tạo hình và cộng hưởng được với nhau thì ta đã gặp hội họa trong thơ.
“Tây Tiến” từ lâu đã được coi là một tác phẩm “thi trung hữu họa”. Bằng ngôn từ miêu tả cảnh núi rừng song tác giả làm khung cảnh ấy như hiện ra trước mắt, với từng đường nét, độ cao-dài-rộng, với màu sắc, cảm nhận tinh tế. Bài thơ đã được nhiều hoạ sĩ sau này chuyển thể thành các bức tranh đặc sắc.
Chất hội họa trong bài thơ thể hiện rõ nhất trong đoạn thơ sau:
“Dốc lên khúc khuỷu/dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.”
Những câu vần bằng xen lẫn với trắc cùng nhịp thơ và một loạt từ gợi cảm đã tái hiện cảnh hành quân giống như một bức tranh. Ở đó ta thấy sự vất vả, nguy hiểm của một chặng đường núi non cheo leo, trùng điệp liên tiếp nhau. Những người lính vừa leo lên đỉnh dốc cao đã phải đi xuống.
Trong câu thơ đầu“Dốc lên khúc khuỷu/dốc thăm thẳm”, tác giả đã dùng nhịp 4/3 và hai từ láy như bẻ gãy dòng thơ ra làm đôi gợi hình tượng về một con núi có hai sườn dốc vừa cao dựng đứng lại vừa sâu thăm thẳm. Câu thơ như bám sát chặng đường vượt núi đầy vất vả. Hình ảnh “dốc lên khúc khuỷu” là cái nhìn hướng lên cao trong lúc người lính phải leo lên đỉnh núi. Lên tới đỉnh, cái dốc khúc khuỷu ấy lại trở thành cái dốc thăm thẳm, sâu hun hút trong việc tiếp tục hành quân xuống núi. Nếu từ “khúc khuỷu” vẽ ra những nét zíc zắc của con đường vượt núi và cho thấy sự vất vả thì “thăm thẳm” lại tả được con dốc vừa sâu vừa dài, ẩn dấu sau đó là cảm giác rờn rợn với những ai yếu bóng vía.
Ở câu số 2, ta thấy tác giả lại tái hiện một nét vẽ khác. Lên tới đỉnh núi, cái cảm giác về nơi mình đang đặt chân không còn là đá núi nữa mà trở thành “cồn mây”. Ai từng đặt chân tới miền núi chắc sẽ hiểu cảm giác này. Tuy nhiên, nó không phải cái bồng bềnh sương khói lãng mạn mà là cái hoang vắng “heo hút”, lãnh lẽo. Từ láy “heo hút” được đảo lên trên để nhấn mạnh cảm xúc này. Tuy vậy, cái tài của QD là luôn biết cân đối hình ảnh, cảm xúc thơ: nguy hiểm ở những câu thơ trên bao nhiêu thì câu dưới lại bình yên bấy nhiêu. Đối lập với sự khó khăn, lạnh lẽo của chặng đường vượt núi, của cồn mây lại là hình ảnh hóm hỉnh “súng ngửi trời”Hình ảnh nhân hoá, ẩn dụ “súng ngửi trời” vừa thực vừa gợi ra chất lính. Trong cái mệt nhọc, ta vẫn thấy nét tinh nghịch, hồn nhiên của họ. Chỉ bằng cụm từ này, chân dung người lính không bị chìm lấp đi trong cảnh mà chan hòa, ung dung thậm chí oai phong lẫm liệt giữa rừng núi.
Trong câu 3, nhịp 4/3 như vẽ tiếp về hình ảnh một con dốc khác trên đường hành quân. Núi tiếp núi, đèo tiếp đèo. 2 vế tiểu đối trong câu thơ tạo nên sự cân đối hài hòa trong nét vẽ về cảnh dốc đèo. Chữ “ngàn thước” được điệp lại cụ thể hóa độ cao sâu thật hùng vĩ của đốc đèo. Các thanh trắc liên tiếp trong ba câu thơ diễn tả sự vất vả của người lính. Nó làm ta gợi nhớ tới những câu thơ trong “Chinh phụ ngâm”: “Hình khe thế núi gần xa. Đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao”. Phải là con người có con mắt hội họa thì tác giả mới chuyển tải điều này vào thơ!
Cảnh núi non nguy hiểm ấy như được kết thúc với nét vẽ bất ngờ ở câu số 4 “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Câu thơ là nét vẽ lãng mạn về y vẻ đẹp thơ mộng nơi núi rừng. Xa xa, giữa màn mưa giăng giăng như sương khói, nửa thực nửa mơ, ẩn hiện những căn nhà. Hiếm có cảnh nào trong mưa mà lại gợi được sự ấm áp bình yên như cảnh này! Câu thơ toàn thanh bằng, tương phản với ba câu trên như một tiếng thở phào nhẹ nhõm của người lính sau một chặng đường dài hành quân vất vả. Xuận Diệu ngày xưa cũng chỉ viết được ba câu thơ sử dụng thanh bằng mà ông thấy tâm đắc: “Sương nương theo trăng ngưng lưng trời. Tương tư nâng lòng lên chơi vơi”. Còn Quang Dũng thì viết được rất nhiều câu như vậy, hơn nữa nó đặt ngay trong thế đối lập với những câu vần trắc. Tài hoa của tác giả là ở đó.
Từ việc tìm hiểu chất họa trong bài “Tây Tiến”, ta thấy thơ Quang Dũng thật đậm chất “thi trung hữu họa”. Có được điều đó là do bản thân tác giả cũng là một họa sĩ. Con người ông thật xứng đáng với hai chữ : đa tài. Nó tạo nên trong thơ Quang Dung vẻ đẹp hào hoa, phóng khoáng, đậm chất lãng mạn mà không nhà thơ nào có được. Cũng từ đó, ta hiểu thêm về thủ pháp « thi trung hữu họa » trong thơ ca. Bằng thủ pháp này, các nhà thơ đã vẽ nên hình ảnh bằng ngôn từ để tạo thêm sức hấp dẫn, sức gợi cho thơ.Từ đó, gởi gắm tâm tình của mình qua đường nét và màu sắc của bức tranh.
Tham khảo: Giá trị nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm Tây tiến
Đề 3. Thi trung hữu họa trong cảnh ngày xuân
Bài làm mẫu:
Mùa xuân là đề tài bất tận của thi ca nói riêng và các lĩnh vực nghệ thuật khác nói chung. Cái đẹp của mùa xuân là sự khám phá và sáng tạo bất biệt của nghệ thuật. Thế nhưng cứ nhắc đến mùa xuân trong thơ, tôi không khỏi bồi hồi nhớ đến câu thơ của Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du :
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Thế giới quan của văn học phong kiến thường tuân theo quan niệm tứ bình . Điều đó có nghĩa là quan niệm vạn vật cái gì cũng có bốn như : một năm có bốn mùa : xuân - hạ - thu - đông.
Nguyễn Du khi viết truyện Kiều đã tả bức tranh bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Cả bốn bức tranh đều chỉ bằng những nét gợi tả nhưng cũng đủ vẽ ra cái thần thái của cảnh vật bốn mùa. Trong đó đáng chú ý là bức tranh mùa xuân trong đoạn trích Cảnh ngày xuân của Truyện Kiều.
Sau khi giới thiệu gia cảnh Vương viên ngoại, gợi tả bức chân dung nhận vật chị em Thuý Kiều, đoạn thơ Cảnh ngày xuân tả cảnh ngày xuân trong tiết Thanh minh, chị em Thuý Kiều đi chơi xuân.
Bức tranh khung cảnh ngày xuân được tác giả gợi tả với hình ảnh cánh chim én. Chim én là hình ảnh quen thuộc và gần gũi với thế giới quan của con người. Mùa xuân cánh chim én bay về từ phương Nam xa xôi, mang theo không khí ấm áp của phương Nam để xua đi cái giá lạnh của phương Bắc. Không biết từ lúc nào hình ảnh cánh chim én đã trở thành hình ảnh mang tính biểu tượng của mùa xuân.
Hình ảnh con én đưa thoi được tác giả sử dụng biện pháp ẩn dụ nhân hoá. Ngày xuân với hình ảnh chim én bay đi, bay lại trong bầu trời xuân, rất nhanh như chiếc thoi chạy trên khung cửi. Hình ảnh thơ vừa có tác dụng tả cảnh. Gợi ra sự liên tưởng mùa xuân hình ảnh con chim én đang dệt nên bầu trời mùa xuân. Không những thế biện pháp tư từ ẩn dụ còn gợi cảm giác ngày xuân trôi qua rất nhanh. Đó là một cảm giác nuối tiếc thời gian. Thời gian mùa xuân trôi quan rất nhanh.
Thiên tài Nguyễn Du không gợi tả bức tranh xuân vào thời khắc chớm xuân, thời khắc của sự tinh khiết, trong trẻo và mơn mởn nhất của mùa xuân. Ngược lại Nguyễn Du lựa chọn một khoảng thời gian đặc biệt: thời gian tháng ba
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Một mùa được tính gồm có chín mươi ngày, nhưng khi thời gian đã ngoài sáu mươi có nghĩa đó là khoảng thời gian tháng ba, tháng cuối cùng của mùa xuân. Không gian mùa xuân được gợi lên từ hình ảnh “thiều quang” là một thứ ánh sáng đẹp. Ánh sáng đó gợi sự mênh mông, thoáng đãng bởi ánh sáng đẹp của ngày xuân. Ở vào khoảng thời gian cuối của mùa xuân nhưng không gian xuân vẫn tràn trề sự trong trẻo của mùa xuân, giữ được sự tươi mát của mùa xuân.
Những yếu tố đó tạo ra bức tranh mùa xuân:
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Tác giả lấy thảm cỏ non trải rộng tới chân trời là gam màu nền cho bức tranh xuân. Một bức tranh xuân với gam màu xanh non - một màu xanh tràn đầy sức sống trải dài bất tận. Trên nền màu xanh non điểm xuyết một vài bông lê trắng
Xét về màu sắc, bức tranh xuân có sự hài hoà tuyệt diệu giữa màu xanh non và màu trắng. Hai gam màu tạo nên sự trong trẻo lạ thường cho bức tranh.
Xét về hình ảnh, tác giả sử dụng những chất liệu quen thuộc của thơ cổ để vẽ nên bức tranh. Đó là hình ảnh của cỏ non, cành lê và bầu trời. Đây là những hình ảnh rát gần gũi, quen thuộc và có tính biểu tượng cho mùa xuân.
Điều đặc biệt của bức tranh xuân, tác giả vẽ được đường nét sống động của bức trang xuân với các tính từ “tận” và động từ “điểm”. Một thảm cỏ non xanh trải dài và những bông hoa lê đang điểm xuyết vào bức tranh xuân.
Trong thi pháp văn học cổ thì “Thi trung hữu họa” (trong thơ có vẽ) và bức tranh xuân của Nguyễn Du thể hiện rất rõ điều đó. Nguyễn Du đã vẽ bức tranh xuân bằng màu sắc, bằng đường nét và bằng các chất liệu cổ. Tuy nhiên khi đọc câu thơ ta còn cảm giác đang bắt gặp họa sĩ Nguyễn Du đang đưa từng nét bút để vẽ. Ông đang sử dụng thủ pháp điểm xuyết mà ta thường gặp trong nghệ thuật vẽ tranh thủy mặc của người Trung Quốc - một trường phái nổi tiếng ngày xưa. Chỉ bằng những nét phác họa thôi nhưng cũng đủ vẽ được cái thần thái, cái hồn của bức tranh. Sự khác biệt của nhà họa sĩ Nguyễn Du và nhà thơ Nguyễn Du đó là ông vẽ bức tranh bằng ngôn từ. . Bằng ngôn ngữ ông vẽ nên bức tranh xuân với vẻ đẹp mùa xuân: mới mẻ, tinh khôi, giàu sức sống, khoáng đạt, trong trẻo, nhẹ nhàng và thanh khiết. Một bức tranh xuân tuyệt bích trong văn học. Đó chính là thiên tài của Nguyễn Du.
Vẽ bức tranh mùa xuân trên, Nguyễn Du đã tiếp thu và sáng tạo từ thơ cổ. Trong thơ cổ của Trung Quốc ta bắt gặp bức tranh:
Phương thảo liên thiên bích
Lê chi sổ điểm hoa
(Cỏ thơm liền với trời xanh
Trên cành lê có mấy bông hoa)
Cũng bằng những chất liệu quen thuộc như trên nhưng trong thơ cổ đó là “cỏ thơm”. “bầu trời xanh” và “bông lê trắng”. Thơ cổ tả cái hương vị thơm tinh khôi của cỏ, một bầu trời xanh và những bông hoa lê mang tính biểu tượng của mùa xuân.
Sự tài tình và khéo léo của Nguyễn Du là khi ông lấy cái màu xanh non của cỏ để vẽ cái màu xanh trong mát của bầu trời. Không cần tả trời xanh vậy mà bầu trời ấy vẫn hiện lên trong trẻo trong tâm hồn người đọc bởi sự trải dài bất tận, không có khoảng cách giữa sự vật và bầu trời. Bằng nghệ thuật đảo từ “trắng điểm” Nguyễn Du đã để cho những bông hoa lê trắng điểm xuyết vào bức tranh giống như một người họa sĩ đang vẽ từng đường nét cho bức tranh ấy. Sự sống động của bức tranh không chỉ là cái hồn của cảnh mà ở đó còn lột tả được cái hồn người say sưa, ngây ngất trước sự trong trẻo, tinh khiết của mùa xuân.
Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong truyện Kiều qua bức tranh xuân tuyệt bích cũng là một nét nghệ thuật độc đáo. Nguyễn Du miêu tả thiên nhiên bằng bút pháp trực tiếp nhưng lại sử dụng thủ pháp “thi trung hữu họa” điêu luyện kết hợp với những nét phác họa và việc sử dụng những từ ngữ đắt lột tả được cái hồn của cảnh vật.
Vì thế theo tôi trong văn học phong kiến nói chung và thơ ca dân tộc hiếm có một bức tranh xuân nào tuyệt bích hơn thế. Một bức tranh làm say lòng người đọc như đang chiêm ngưỡng người họa sĩ - thi sí Nguyễn Du đang vẽ đường nét sống động của bức tranh.
Không chỉ trong bức tranh này mà các bức tranh miêu tả thiên nhiên của Nguyễn Du cũng hết sức độc đáo. Ngọn bút tả cảnh của Nguyễn Du rất tài tình, trong truyện Kiều có vô số những bức tranh thiên nhiên mà bức tranh nào cũng được vẽ vừa thanh tao, vừa diễm lệ. Chỉ mấy nét bút và mấy câu thơ mà vẽ nên phong cảnh có khí sức, có hồn và tinh tế làm rung động lòng người suốt bao thế hệ khi chiêm ngưỡng những bức tranh tả cảnh thiên nhiên ấy.
Tham khảo: Cảm nhận của em về bức tranh thiên nhiên qua đoạn trích Cảnh ngày xuân
Đề 4. Thi trung hữu họa trong Tây tiến và Việt bắc
Đề bài: Cổ nhân từng nói: “Thi trung hữu họa”, “Thi trung hữu nhạc”. Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Bằng sự hiểu biết của mình về bài thơ Tây Tiến (Quang Dũng) và Việt Bắc (Tố Hữu), hãy làm sáng tỏ.
Hướng dẫn làm bài:
Mở bài: Dẫn dắt và giới thiệu vấn đề
+ Giới thiệu ý kiến của cổ nhân :“Thi trung hữu họa”, “Thi trung hữu nhạc”
+ Giới thiệu về bài thơ Tây Tiến (Quang Dũng) và Việt Bắc (Tố Hữu)
Thân bài
1. Giải thích
Cắt nghĩa ý kiến:
– Thi: thơ. Thơ là một hình thức sáng tác văn học nghiêng về thể hiện cảm xúc thông qua tổ chức ngôn từ đặc biệt, giàu nhạc tính, giàu hình ảnh và gợi cảm.
– Thi trung hữu họa: Trong thơ có hoạ (có tranh, có cảnh).
Thi trung hữu nhạc: Trong thơ có nhạc.
=> Ý kiến trên của người xưa nói đến đặc trưng của thơ trữ tình là giàu hình ảnh và nhạc điệu. Ý kiến của cổ nhân hoàn toàn đúng đắn và xác đáng.
Lí giải ý kiến:
– Thơ – nhạc – hoạ đều là các loại hình nghệ thuật, song có sự khác biệt, đặc biệt là về chất liệu xây dựng hình tượng nghệ thuật để phản ánh cuộc sống. Nếu hoạ dùng đường nét, màu sắc, nhạc dùng giai điệu, âm thanh thì thơ cũng như các tác phẩm văn chương lại sử dụng ngôn từ làm chất liệu. Ngôn từ có đặc điểm riêng: đó là chất liệu phi vật thể, vì vậy, tác động nhận thức không trực tiếp bằng các loại hình nghệ thuật khác song sức gợi mở của nó lại hết sức dồi dào, mạnh mẽ. Nó tác động vào liên tưởng của con người và khơi dậy những cảm nhận cụ thể về màu sắc, đường nét, hình khối, âm thanh, giai điệu.
– Thi trung hữu họa bởi vì: Văn học phản ánh hiện thực cuộc sống, thơ ca cũng không nằm ngoài quy luật đó. Thơ ca phản ánh cuộc sống qua hệ thống ngôn từ giàu hình ảnh. Không ở thể loại văn học nào ta bắt gặp nhiều hình ảnh, biểu tượng (hình ảnh có ngụ ý), hình tượng (hình ảnh có ngụ ý xuyên suốt tác phẩm) nổi bật như thơ ca. Hình ảnh trong thơ là sự khách thể hóa những rung cảm nội tâm bởi thế giới tinh thần vốn vô hình nên nhất thiết phải dựa vào những điểm tựa tạo hình cụ thể để hữu hình hóa. Hình ảnh trong thơ nổi bật vì còn mang màu sắc của cảm xúc mãnh liệt và trí tưởng tượng phong phú.
– Thi trung hữu nhạc bởi vì: Thơ ca là sự biểu hiện trực tiếp cảm xúc, tình cảm của con người. Cảm xúc biểu lộ mạnh mẽ ở thanh điệu, nhịp điệu của lời nói (ngôn từ). Tính nhạc là đặc thù cơ bản của việc phô diễn tình cảm của thơ ca. Âm thanh và nhịp điệu làm tăng hàm nghĩa cho từ ngữ, gợi ra những điều từ ngữ không thể nói hết. Nhạc điệu trong thơ thể hiện nhịp vận động của đời sống, của nhịp đập trái tim, bước đi của tình cảm con người.
2. Chứng minh qua hai bài thơ Tây Tiến và Việt Bắc
a. Thi trung hữu họa:
– Với trí tưởng tượng bay bổng, phong phú, kết hợp bút pháp miêu tả khái quát và cận cảnh, thủ pháp đối lập tương phản… Bài thơ Tây Tiến đã vẽ lên trước mắt người đọc:
+ Bức tranh chân thực về khung cảnh núi rừng miền Tây hiểm trở hùng vĩ nhưng vô cùng trữ tình thơ mộng.
+ Bức chân dung về người lính Tây Tiến hào hùng nhưng cũng rất đỗi hào hoa.
– Bằng lối nói giàu hình ảnh, các cách chuyển nghĩa truyền thống (so sánh, ẩn dụ, tượng trưng, ước lệ…) được sử dụng thích hợp… Bài thơ Việt Bắc đã tái hiện thành công:
+ Bức tranh thiên nhiên, núi rừng Việt Bắc.
+ Bức tranh về cuộc sống con người trong kháng chiến, bức tranh Việt Bắc ra quân hào hùng.
b. Thi trung hữu nhạc:
– Xuân Diệu nhận xét: Đọc bài thơ Tây Tiến như ngậm âm nhạc trong miệng. Tính nhạc trong Tây Tiến thể hiện ở:
+ Thể thơ thất ngôn mang âm hưởng trầm hùng phù hợp với việc biểu đạt nội dung.
+ Phối hợp nhịp nhàng giữa các thanh bằng trắc, sự hiệp vần: ơi, biện pháp điệp từ: nhớ, ngàn thước…
+ Sử dụng thành công hệ thống từ láy.
+ Nhạc điệu của bài thơ còn được tạo nên từ nỗi nhớ tha thiết, tình yêu sâu đậm của nhà thơ với mảnh đất Tây Bắc, với binh đoàn Tây Tiến, với quê hương, đất nước. Đó là nhạc điệu tâm hồn của thi nhân
– Tính nhạc trong Việt Bắc thể hiện ở:
+ Thể thơ lục bát: Nhịp nhàng, tha thiết, ngọt ngào, sâu lắng nhưng biến hóa sáng tạo không đơn điệu.
+ Sử dụng cặp đại từ: mình – ta.
+ Nghệ thuật đối: Được sử dụng với tần số cao, biểu đạt xúc động nỗi lòng sâu kín của kẻ đi
– người ở đồng thời tạo ra sự cân xứng về cấu trúc vẻ đẹp nhịp nhàng của ngôn từ. Tất cả tạo nên nhạc điệu đầy quyến luyến, trầm bổng, ngân nga. Việt Bắc ru người trong nhạc.
+ Biện pháp điệp: điệp từ: nhớ, có nhớ; điệp cấu trúc: mình đi – mình về; câu hỏi tu từ… tạo nên nhịp ru cho bài thơ, diễn tả thành công nỗi lòng kẻ đi – người ở.
+ Cách gieo vần và sử dụng từ láy cũng góp phần tạo nên nhạc điệu cho bài thơ.
+ Việt Bắc có giọng điệu tâm tình, tự nhiên, đằm thắm, là tiếng nói của tình thương mến ngọt ngào, là khúc tình ca và bản hùng ca về kháng chiến và con người kháng chiến… Thơ Tố Hữu phong phú nhạc điệu, một thứ nhạc giàu có tự bên trong của tâm hồn hoà với nhạc điệu lôi cuốn của đời sống.
3. Đánh giá, nâng cao vấn đề
– Khẳng định câu nói của cổ nhân là hoàn toàn đúng với thơ ca và được minh chứng rõ qua hai bài thơ Tây Tiến và Việt Bắc.
– Hai bài thơ giàu chất nhạc, chất họa, thể hiện tài năng của hai nhà thơ trong việc sử dụng ngôn từ nghệ thuật.
– Bài học cho người nghệ sĩ và người tiếp nhận.
Kết bài :
- Khẳng định lại ý nghĩa của câu nói : Giá trị nổi bật của thơ là chất họa và chất nhạc.
- Khẳng định giá trị của hai bài thơ
Tham khảo thêm: So sánh thiên nhiên hiện lên trong Tây Tiến và Việt Bắc
- Hết -
Trên đây là 4 đề văn về thành ngữ thi trung hữu họa đã được Đọc Tài Liệu tổng hợp và biên soạn để giới thiệu. Mong rằng tài liệu này sẽ giúp các em ôn tập, bổ sung thêm các kiến thức hữu ích để học tốt hơn môn ngữ văn.
Chúc các em luôn đạt được kết quả cao trong học tập.