Cùng Đọc tài liệu tham khảo các bài văn mẫu 11 sau đây về đề tài nhân cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát (thuộc một trong các đề văn mẫu sẵn cho viết bài viết số 2 lớp 11.
Nhân cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát
Bài số 1
Cao Bá Quát - nhà nho chân chính với tài hoa bậc nhất
Ta vẫn thường nghe: "Tài cao phận thấp, chí khí uất". Dường như cái tài năng vẫn chưa đủ để con người ta tỏa sáng những còn bởi một chữ "phận". Đó cũng chính là bi kịch cuộc đời của một con người tài hoa bậc nhất Cao Bá Quát. Ông hiện ra là một nhà nho giỏi, đức độ với một tâm hồn văn chương và cốt cách thanh cao. Được nhân dân tôn lên hàng thánh – thánh Quát. Vậy nhưng đương thời Chu Thẩn lại phải trải qua biết bao khổ ải, gian truân của một chế độ phong kiến thối nát suy tàn. Những nỗi niềm xót xa, phẫn uất của một đấng nam nhi đã được ông gửi gắm kín đáo trong tác phẩm Sa hành đoản ca.
Là một nhà nho chân chính, Cao Bá Quát vốn chịu ảnh hưởng rất lớn của quan niệm "chí làm trai". Cũng như Nguyễn Công Trứ và bao bậc trượng phu đương thời, ông luôn tâm niệm va khao khát lập nên công danh sự nghiệp vẻ vang hiển hách cho đời, coi đó là lý tưởng sống, là trách nhiệm trọn đời và là món nợ phải trả - "nợ tang bồng". Ông vố đã sớm được coi như một tài năng xuất chúng khi mới chỉ ít tuổi và càng trưởng thành, ông lại càng chứng tỏ rõ khí phách hiên ngang và hoài bão lớn lao của mình. Tuy nhiên đứng trước một xã hội phong kiến bảo thủ, trì trệ và khủng hoảng, con người ấy đã không thể thỏa mãn khát vọng của mình.
Bãi cát dài lại bãi cát dài,
Đi một bước như lùi một bước.
"Bài ca ngắn đi trên bãi cát" là một khúc ca ngắn, vậy mà bản thân nó lại vẽ nên một con đường rất dài. Bức tranh sa mạc mênh mông cát trắng với bóng người nhỏ bé đang bước đi từng bước khó nhọc. Đi mà như lùi, vậy ra đi mà thực ra không đi. Đó là một hình ảnh rất thực và cũng bao hàm ý nghĩa ẩn dụ. Đây thực ra là con đường thi cử của chính tác giả, cái tủi nhục của bãi cát cũng là cái nhọc nhằn ông đang phải gánh chịu vì con đường ấy – khó nhọc mà xa vời. Đối với trí thức nho sĩ ngày xưa, con đường học – thi – làm quan ấy đầy gian nan vất vả, càng khó khăn hơn trong những buổi cuối của nho học và đây cũng là cách duy nhất để họ thực hiện chí làm trai lập công danh của mình. Suốt những năm từ lúc 14 tuổi cho đến khi 31 tuổi, Cao Bá Quát đã vào Huế đi thi không biết bao nhiêu lần nhưng lần nào ông cũng bị đánh hỏng. Không phải vì ông không có tài mà vì lẽ cái tính cách ngông nghênh của ông vốn đã quá nổi tiếng và không được lòng các vị quan triều thần. Đến đây lời thơ như những tiếng thở dài của chính tác giả, ta thấy được trướng nhất là sự chán ngán của Chu Thần trước thời cuộc. Bản thân ông ngày càng nhận thức được sự lạc hậu, thoái hóa của chế độ học hành thi cử truyền thống trong cái chuyển mình của thời thế.
Mặt trời đã lặn chưa dừng được,
Lữ khách trên đường nước mắt rơi.
"Mặt trời lặn" là hình ảnh chuyển giao của thời gian, khi thiên nhiên đã chìm dần vào giấc nghỉ ngơi, thì đối lập với nó là hình ảnh người lữ khách "chưa dừng được". Vì sao chưa dừng được? Bởi lữ đường còn dài mà đích thì chẳng thấy đâu. Con đường cuộc đời ông đi mãi mà ông vẫn chưa tìm được cho mình chỗ đứng trong xã họi, chưa thỏa mãn ý chí lập nên công danh. Vậy nên bản thân ông không cho phép mình dừng lại. Nếu ở câu đầu mở ra là sự rộng lớn của không gian thì đến lúc này, Cao Bá Quát lại nói đến sự chảy trôi liên tục của thời gian, tất cả những yếu tố thiên nhiên vũ trụ ấy dường như đều là lực cản đường, cản trở những bước đi vốn đã đầy khó nhọc trên cát. Do đó, ông thấy mình trơ trọi cô đơn trước bãi cát hoang vu ấy và tự khóc cho số phận dai dẳng của mình. Có thể những giọt nước mắt ấy ban đầu chỉ đơn thuần do tác động của ngoại cảnh (gió, cát, bụi) nhưng chúng trở nên đắng hơn, mặn hơn và xót xa hơn bởi tâm sự của tác giả. Để rồi từ đây, những cung bậc cảm xúc của Chu Thần được đưa lên một vị trí mới:
Không học được tiên ông phép ngủ,
Trèo non, lội suối giận khôn vơi.
Chu Thần đang giận ai hay giận cái gì vậy? Ông đang giận chính bản thân ông bởi nhiều lẽ. Thứ nhất, ta có thể hiểu: trước những cảnh đời khổ cực của nhân dân và thời thế thay đổi, ông dù một lòng trung quân ái quốc, hết mực thương dân nhưng vẫn chưa thể làm để đem tài năng ra giúp dân giúp nước. Ngay cả Nguyễn Công Trứ "ngất ngưởng" là thế mà con luôn tâm niệm "nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chúng". Vậy nên ông tự trách bản thân vẫn chưa làm tròn nhiệm vụ với giang sơn xã tắc: "Không có lấy một sách lược gì làm cho đời được thái bình, thẹn mình là nhà nho mà lại tầm thường đến thế". Tâm sự này của ông khiến ta cảm thấy trân trọng một con người có tấm lòng đức độ và tâm hồn thanh cao trong thơ văn: "Nhất sinh đê thủ bái mao hoa".
Thứ hai, ông vô cùng hổ thẹn vì dù đã đeo đuổi con đường thi cử rất lâu mà vẫn chưa có được chức danh xứng đáng, vẫn chưa đạt được công danh để cho người đời thán phục. Thế nên lòng người càng trở nên bế tắc, oán hận và bi phẫn. Ông đã từng dùng hình ảnh tượng trưng để nói lên khí chất cao vời của mình"
"Ta ngẩng đầu lên nhìn tận ngoài trời
Những muốn vịn mây mà lên cao mãi."
Ông mong muốn có được phép thần tiên kì diệu để có tiếp tục đi trên con đường chông gai mặc cho đói khát, mệt mỏi hay buồn ngủ. Hy vọng có thể mau chóng tìm ra cho mình một cái đích rõ ràng.
Cách hiểu cuối cùng rất sâu sắc: đó chính là sự thoát li khỏi thực tại tầm thường. Đến như Nguyễn Công Trứ lỗi lạc là thế mà còn tìm kiếm lối thoát bằng cách cáo quan ở ẩn. Ở đây, Cao Bá Quát giá như bản thân có thể nhắm mắt làm ngơ, mặc cho sự đời biến đổi và mong muốn vất bỏ phiền muộn. Nhưng không! Với lý tưởng cao cả, chí khí ngoan cường, Chu Thần không thể thực hiện điều trái với đạo lý của bản thân. Do đó, cái "giận khôn vơi" ở đây, càng chiếu soi, làm tỏ hiện cho ta thấy được một Chu Thần với nhân cách cao cả, quý giá biết bao. Ông không muốn trốn tránh khó khăn nhưng luôn biết đối đầu và khắc phục khó khăn. Thật là nhân cách đáng ngưỡng mộ.
Những câu thơ tiếp theo lại đem đến cho người đọc về cái nhìn của Cao Bá Quát trước cảnh xã hội mưu cầu danh lợi:
Xưa nay, phường danh lợi,
Tất cả trên đường đời.
Đầu gió hơi men thơm quán rượu,
Người say vô số, tỉnh bao người?
Con đường danh lợi cũng là một thứ rất đường đời thật gập ghềnh, trắc trở. Công danh được ví như một thứ rượu cám dỗ đời người, khiến con người phải bon chen, phải gạt đi mọi giá trị đạo đức luân lí đểm thảm hại chạy theo vật chất. Học hành, độ đạt rồi vào chốn quan trường để phú quý vinh hoa, con đường lập thân, sự nghiêp ấy sao quá đỗi tầm thường. Lòng nhủ phải làm cái gì đó lớn lao hơn, cao cả hơn. Nhưng tiếc thay, chẳng mấy kẻ thắng được cái sức lôi cuốn của tiền tài. Họ chẳng khác nào những con thiêu thân, lao đầu vào nơi có ánh sáng và đông không kể. Qua đây, Cao Bá Quát cho thấy được điểm nhìn tuyệt vời của mình. Đó là cái nhìn bao quát thực tại bình thường, vượt ra cả không gian và vượt lên trên thời gian. Những suy nghĩ ấy đã đi trước thời cuộc của ông và minh chứng cho trí tuệ uyên bác vượt bậc của danh sĩ họ Cao. Cũng có thể thấy được thái độ khinh miệt, chán ghét của ông với lối quan niệm của các sĩ tử bấy giờ và ông tự hào là kẻ tỉnh hiếm hoi giữa rừng người say ấy. Song đáng buồn thay, ông vẫn đang đi theo con đường này. Trong tâm trí đang tự hỏi mình "tỉnh" hay "say"? Để rồi lại trút tiếng thở dài vô vọng:
Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!
Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt,
Đường ghê sợ còn nhiều đâu ít.
Hãy nghe ta hát khúc "đường cùng",
Phía Bắc núi Bắc, núi muôn trùng,
Phía Nam núi Nam, sóng dào dạt.
Tiếng thở dài chán ngán, mệt mỏi của Cao Bá Quát khi gặp phải sự bế tắc, lòng luôn thao thức câu hỏi: "tính sao đây?". Khó khăn tiếp nối khó khăn, nhìn bốn bể, đâu đâu cũng chỉ thấy những trắc trở, gian lao muôn trùng. Lúc này, Chu Thần đã bị đẩy vào "đường cùng". Dường như, trongong đang có sự đấu tranh quyết liệt, ông dậm chân tại chỗ. Cao Bá Quát không muốn đi tiếp vì biết đường gian khổ mà vô định. Nhưng có một tiếng gọi vang lên từ tấm lòng thương dân sâu sắc, đó là cái nợ nước nhà chưa thể trả, nợ công danh cuộc đời. Vì không còn một con đường nào khác cho bất cứ một ai, kể ra những người có chí lớn vượt ra ngoài sự nghiêp công danh. Bi kịch của Chu Thần không chỉ là của riêng Chu Thần, nhưng còn là bi kịch của thời đại, một thời đại sắp đi đến phút cáo chung.
Anh đứng làm chi trên bãi cát?
Câu hỏi vang lên vô vọng giữa bãi cát mênh mông. Nhưng có vẻ kín đáo trả lời cho mâu thuân nội tâm của Cao Bá Quát. Một lần nữa, ông khẳng định tính chất vô nghĩa của con đường "bãi cát" ấy để làm tiền đề cho cái nhìn của mình: cái nhìn sáng suốt và đầy đạo đức: từ bỏ cái cũ lỗi thời để đến với cái mới. Đến đây, ta chợt nhớ đến triết lí của Lỗ Tấn: "Trên thế gian làm gì có đường, người ta đi mãi thì thành đường thôi." Quả thật vậy, câu hỏi tu từ: "Anh đứng làm chi trên bãi cát?" như là lời thúc giục, là tiếng gọi lên đường, khai phá lối đi mới tiến bộ. Đó cũng là nguyên nhân chính và động cơ thúc đẩy Chu Thần đứng ra lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa Mỹ Lương, chống lại triều đình nhà Nguyễn – việc làm để lại tiếng danh muôn đời và khiến thế hệ sau nể phục khôn nguôi.
"Bài ca ngắn đi trên bãi cát" là bài thơ ngắn mà dài, hiện thực mà đầy tượng trưng, trữ tình mà đầy bi phẫn với ý thơ hàm súc, đa nghĩa. Ẩn chứ trong tác phẩm là những suy nghĩ kín đáo của tác giả, là tâm tình da diết với đất nước, là khí phách hiên ngang của chí làm trai, là trí tuệ thông thái, là cái nhìn vượt thời gian, là ước muốn cải cách xã hội và cũng là nhân cách cao đẹp của nhà nho chân chính Cao Bá Quát.
Xem thêm: Phân tích bài thơ Bài ca ngắn đi trên bãi cát
Bài số 2
Tâm hồn thanh cao của nhà thơ Cao Bá Quát
Cao Bá Quát là một nhà thơ tài năng và bản lĩnh, nổi tiếng văn hay chữ tốt, được tôn vinh như một bậc thánh “thần Siêu thánh Quát”. Là người học rộng tài cao nhưng ông lại sống trong một xã hội đầy bất công ngang trái. Chính vì điều này, ông đã lấy cảm hứng sáng tác bài thơ “Bãi ca ngắn đi trên bãi cát” để thể hiện tâm thế khinh thường những kẻ hám danh vọng và niềm khát khao được thay đổi cuộc sống. Đồng thời qua bài thơ, chúng ta thấy được bức chân dung Cao Bá Quát hiện lên là một nhà nho tài giỏi, đức độ với tâm hồn văn chương và cốt cách thanh cao.
Cũng giống như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát cũng có quan niệm về chí làm trai. Ông luôn khao khát lập nên công danh sự nghiệp vẻ vang hiển hách cho đời, coi đó là lí tưởng sống, là trách nhiệm cả đời. Mở đầu bài thơ, tác giả đã thể hiện sự coi thường danh lợi, công danh trong xã hội phong kiến thối nát. Ông nhận ra những tư tưởng hà khắc, lạc hậu của Nho giáo, làm con người ta không thể thỏa mãn được cái khát vọng của mình:
Bãi cát lại bãi cát dài
Đi một bước như lùi một bước
Mặt trời đã lặn, chưa dừng được
Lữ khách trên đường nước mắt rơi
Điệp từ “bãi cát” được lặp lại hai lần càng khiến không gian trong bài thơ trở nên dài rộng bao la. Việc đi trên bãi cát thường rất khó khăn, không thể giúp con người ta tiến nhanh về phía trước được mà chỉ thấy những bước chân bị kìm nén, bị lùi tụt lại về phía sau. Trên bãi cát mênh mông ấy chẳng biết đâu là điểm dừng, đâu là con đường mà người cần đi. Trên bãi cát ấy còn có hình ảnh của một con người cô độc đang độc hành trên bãi cát. Dáng dấp nhỏ bé tưởng chừng như bị nuốt chửng bởi bãi cát bao la ấy, càng khiến cho ta cảm thấy dễ chơi vơi, chán nản. Những giọt nước mắt của sự khó khăn vất vả hay là nỗi bất mãn trước thời đại khi phải hành hạ thân xác để theo đuổi danh vọng hư vô !
Đối với tri thức Nho sĩ ngày xưa, con đường học hành thi cử làm quan đầy vất vả, càng khó khăn hơn trong những buổi cuối của Nho học và đây cũng là cách duy nhất để họ thực hiện chí làm trai lập công danh của mình. “Mặt trời lặn” là hình ảnh chuyển giao của thời gian, khi thiên nhiên đã chìm dần vào giấc nghỉ ngơi, thì đối lập với nó là hình ảnh người lữ khách “chưa dừng được” . Điều đó cho ta thấy nhà thơ không muốn trốn tránh khó khăn nhưng ông luôn biết đối đầu và khắc phục nó.
Xưa nay, phường danh lợi,
Tất cả trên đường đời
Đầu gió hơi men thơm quán rượu,
Người say vô số, người tỉnh bao người?
Trên đường đời, chẳng có mấy ai thoát khỏi được sự ham muốn về vật chất, công danh phú quý. Dù buồn hay vui, người ta đều tìm đến quán rượu thơm nồng để đắm say, có mấy ai tỉnh táo để thoát khỏi ma lực ấy. Qua đây tác giả muốn đánh thức người đọc về những “phường danh lợi” khiến nhiều người lầm đường lạc lối. Ông phê phán những danh vọng tầm thường nhưng cũng nhận ra sự cô độc của mình trên đời. Con đường danh lợi được ví như một thứ rượu cám dỗ đời người. Thứ công danh ấy khiến con người phải bon chen, phải gạt đi mọi giá trị đạo đức luân lí. Những suy nghĩ của Cao Bá Quát đã đi trước thời đại và đã minh chứng cho trí tuệ uyên bác của ông. Người đọc thấy được thái độ chán ghét, khinh miệt của ông với lối quan niệm của các sĩ tử lúc bấy giờ và tự hào mình là kẻ tỉnh hiếm hoi giữa rừng sai ấy. Nhưng đáng buồn nhà thơ vẫn đang đi theo con đường này. Ông tự hỏi lại mình đang “tỉnh” hay đang “say” để rồi trút tiếng thở dài. Dường như ông đang có sự đấu tranh quyết liệt: Một mặt ông không muốn đi tiếp vì biết con đường này là vô ích, mặt khác lại có một tiếng gọi đang vang lên từ tận đáy lòng yêu nước thương dân của ông. Đó là cái nợ nước chưa trả, nợ công danh cuộc đời:
“Người đi trên bãi cát bỗng nhiên dừng lại
Bãi cát dài, bãi cát dài ơi !
Tính sao đây đường bằng mờ mịt
Đường ghê sợ còn nhiều đâu ít?
Hãy nghe ta hát khúc đường cùng,
Phía bắc núi Bắc muôn trùng
Phía nam núi Nam sóng dào dạt
Anh đứng làm chi trên bãi cát?”
Một lần nữa, tác giả lại thốt lên tiếng gọi về “bãi cát dài” như sự cam chịu, chấp thuận. Đã biết bao lần muốn từ bỏ con đường đi về phía trước, những câu hỏi băn khoăn chất chứa trong lòng. “Đường bằng mờ mịt” là con đường đi theo tiếng gọi danh vọng, chẳng biết đến bao giờ mới được chạm tay vào công danh ấy. “Đường ghê sợ thì nhiều” ám chỉ còn rất nhiều con đường khác để tác giả có thể lựa chọn nhưng cũng chẳng có sự lựa chọn nào tốt, sáng sủa và hạnh phúc. Nỗi bế tắc bao trùm cả một cuộc đời, cả những bãi cát dài thênh thang. Những cặp hình ảnh núi và sóng vừa là hình ảnh thực, lại vừa mang ý nghĩa tượng trưng cho đường đời đầy gian lao, thử thách. Câu hỏi cuối bài thơ vang lên như một lời thúc giục, là tiếng gọi lên đường theo lý trí của tác giả. Đó cũng chính là động cơ thúc đẩy Cao Bá Quát đứng ra lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa chống lại triều đình nhà Nguyễn, để lại danh tiếng muôn đời sau này.
Cao Bá Quát xứng danh là một nhà nho có nhân cách chân chính, cao cả với những suy nghĩ độc đáo tuy sống trong một xã hội đã bị thấm nhuần tư tưởng hà khắc, lạc hậu của Nho giáo. Bài thơ “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” tuy ngắn mà dài, hiện thực mà tượng trưng, thể hiện tâm tư chân thành của một người có tài nhưng bị xã hội quay lưng. Tác giả đã gửi gắm trọn vẹn những cảm giác thất vọng, bế tắc của một bậc tri thức trước một thời đại đen tối. Đồng thời bài thơ cũng cho ta thấy một khí phách hiên ngang của chí làm trai, một trí tuệ thông thái của nhà Nho chân chính Cao Bá Quát.
-/-
Trên đây là 2 bài văn mẫu nhân cách nhà nho chân chính của Cao Bá Quát trong Bài ca ngắn đi trên bãi cát mà Đọc tài liệu tổng hợp và sưu tầm được, đừng quên tham khảo thêm thật nhiều bài văn mẫu 11 khác nữa bạn nhé!