Nghị luận về tác phẩm Nhớ đồng

Xuất bản: 09/08/2024 - Tác giả:

Viết bài văn nghị luận về tác phẩm Nhớ đồng, phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ Nhớ đồng của Tố Hữu để thấy được niềm khao khát tự do cháy bỏng, tình yêu quê hương sâu sắc của người thanh niên yêu nước

Bài thơ Nhớ đồng không chỉ đơn thuần là một tác phẩm văn học mà còn là tiếng lòng của một người con yêu nước. Tác phẩm đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc. Bài viết này sẽ hướng dẫn các em cách làm một bài văn nghị luận về tác phẩm Nhớ đồng để tìm hiểu, phân tích và làm nổi bật những giá trị của bài thơ.

Trước hết, chúng ta hãy cùng điểm lại những thông tin cơ bản về tác giả Tố Hữu và bài thơ Nhớ đồng.

Khái quát về Tố Hữu và tác phẩm Nhớ đồng

1. Tác giả Tố Hữu

- Tố Hữu (1920 - 2002) tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành, quê làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế.

- Ông là con út trong một gia đình nho học ở Huế và rất yêu văn chương.

- Ông sớm giác ngộ cách mạng và hăng say hoạt động cách mạng, kiên cường đấu tranh trong các nhà tù thực dân.

- Ông từng đảm nhiệm nhiều cương vị trọng yếu trên mặt trận văn hóa và trong bộ máy lãnh đạo của Đảng và Nhà nước: Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa Thừa Thiên - Huế, Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa, Phó Tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam, Giám đốc Nha Tuyên truyền và Văn nghệ thuộc Thủ tướng phủ, Thứ trưởng Bộ Tuyên truyền, Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Bí thư Ban chấp hành Trung ương...

- Ông qua đời ngày 9/12/2002 tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, an táng tại Nghĩa trang Mai Dịch.

- Phong cách thơ: Thơ Tố Hữu là thơ trữ tình – chính trị, thiên về khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, có giọng tâm tình, ngọt ngào và mang tính dân tộc đậm đà.

- Con đường thơ và con đường hoạt động cách mạng có sự thống nhất, không thể tách rời, mỗi tập thơ là một chặng đường cách mạng:

- Các tác phẩm chính: các tập thơ Từ ấy (1937 – 1946), Việt Bắc (1947 – 1954), Gió lộng (1955 – 1961), Ra trận (1962 – 1971), Máu và Hoa (1972 – 1977), Một tiếng đờn (1978 – 1992), tiểu luận Xây dựng một nền văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân ta, thời đại ta (1973),...

2. Tác phẩm Nhớ đồng

- Xuất xứ: Bài thơ nằm trong phần Xiềng xích của tập thơ Từ ấy, viết chính thức vào tháng 7 - 1939.

- Hoàn cảnh sáng tác: Nhớ đồng được viết trong thời gian tác giả bị thực dân Pháp bắt giam ở nhà lao Thừa Phủ (thuộc Thừa Thiên Huế) từ ngày 29 - 4 - 1939. Tố Hữu mới được kết nạp vào Đảng năm 1938, đang say sưa hoạt động phong trào thì bị bắt, thế giới nhà tù cô đơn ngăn cản cuộc sống bên ngoài nhà tù.

- Nội dung chính: Bài thơ là tiếng lòng da diết với cuộc đời, cuộc sống tự do và say mê cách mạng của nhân vật trữ tình, thể hiện khát vọng tự do, tình yêu nhân dân, đất nước, yêu cuộc sống của tác giả.

- Đặc sắc nghệ thuật:

+ Sử dụng rất thành công biện pháp tu từ điệp ngữ, điệp cấu trúc.

+ Giọng thơ da diết, khắc khoải, sâu lắng.

+ Hình ảnh thơ gần gũi, giản dị mộc mạc, đời thường.

+ Câu từ đầy chân thực và mộc mạc

Dàn ý bài văn nghị luận về tác phẩm Nhớ đồng

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm và vấn đề cần nghị luận.

+ Tố Hữu là một nhà thơ lớn xuất sắc trong nền văn học hiện đại Việt Nam.

+ Bài thơ Nhớ đồng sáng tác trong hoàn cảnh tác giả bị thực dân Pháp bắt giam ở nhà lâu thường vụ thuế năm 1939 vì tội tuyên truyền thanh niên học sinh chống Pháp.

+ Nêu vấn đề nghị luận: tìm hiểu về giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ, tìm hiểu cấu tứ và hình ảnh, nỗi nhớ quê hương da diết của người tù cách mạng, vẻ đẹp bình dị của làng quê Việt Nam,...

2. Thân bài

a) Tóm tắt nội dung bài thơ

* Nỗi nhớ của người tù cộng sản với cuộc sống bên ngoài nhà tù

- Cảm hứng của bài thơ được gợi lên từ tiếng hò.

+ Tiếng hò được lặp lại nhiều lần. Tiếng hò lẻ loi đơn độc giữa trời trưa → nhân vật trữ tình cảm nhận được sự hiu quạnh

Không gian đồng vắng

Thời gian trưa vắng

Hiu quạnh của đời buồn tủi nhọc nhằn

- Lòng người đang bị giam cầm trong tù ngục cách biệt với cuộc sống bên ngoài.

- Tiếng hò đã đồng cảm, hòa điệu của nhiều nỗi hiu quạnh → Người chiến sĩ cách mạng thấy nhớ nhung da diết đồng quê, cuộc sống bên ngoài nhà tù.

+ Tiếng than khắc khoải, da diết → diễn tả cõi lòng hoang vắng vì bị cách biệt với thế giới bên ngoài → nỗi hiu quạnh của người tha thiết yêu đời.

+ Sự lặp lại → nhấn mạnh liền ý liên kết nhiều nội dung khác nhau, tô đậm cảm xúc, khắc sâu ý tưởng → triền miên vì nỗi nhớ da diết.

- Đồng quê thể hiện lên đậm đà nỗi nhớ của tác giả:

   Cồn thơm, ruồng tre mát, ô mạ xanh mơn mởn, nương khoai ngọt sắn bùi, chiều sương phủ bãi đồng, xóm làng và con đường thân thuộc, xóm nhà tranh thấp, con đường quen

. → Tất cả đều đơn sơ gần gũi quen thuộc, thân thương → bị ngăn cách.

- Con người gần gũi thân thuộc thân thương:

Những lưng cong xuống luống cày

Những bàn tay vãi giống

+ Một giọng hò đưa bố mẹ già xa đơn chiếc → linh hồn đã khuất.

- Nỗi nhớ chân thật đậm tình thương mến

- Nhớ đến bản thân mình:

+ Nhớ tới những ngày tháng tự do hoạt động cách mạng.

+ “Rồi một …ngát trời”

→ Say mê lý tưởng, khao khát tự do sôi nổi ⇒ càng cảm thấy cô đơn với thực tại cuộc sống bị giam cầm.

* Diễn biến tâm trạng của Tố Hữu

- Nỗi nhớ biểu hiện tâm trạng nhà thơ:

+ Từ tiếng hò gợi nỗi nhớ đồng quê tha thiết: Hình ảnh đồng quê hiện lên đậm đà với: cồn thơm, ruộng tre mát, mạ xanh mơn mởn, khoai ngọt sắn bùi, chiều sương phủ bãi đồng, xóm làng, con đường thân thuộc → những hình ảnh gần gũi, quen thuộc, thân thương nay đã trở nên xa cách.

+ Nỗi nhớ bao con người thân thuộc: từ cảnh sắc bóng dáng con người → người mẹ già nua → nhớ chính mình

+ Nỗi nhớ trải dài từ hiện tại trở về quá khứ → hiện tại

=> Nhớ, tràn ngập xót thương; không chỉ buồn mà đằng sau còn là nỗi phẫn uất, bất bình với thực tại, niềm da diết nhớ thương, yêu cuộc sống, khao khát tự do.

b) Phân tích vấn đề cần nghị luận

Có thể lựa chọn các vấn đề nghị luận chính sau đây:

- Tình yêu quê hương đất nước, khát vọng tự do của Tố Hữu

- Giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ

- Ảnh hưởng của hoàn cảnh sáng tác đến tâm trạng và cảm xúc của nhà thơ.

- Bài thơ có ý nghĩa gì đối với thế hệ trẻ ngày nay?

- Tìm hiểu cấu tứ và hình ảnh trong bài thơ

....

Lựa chọn một trong các vấn đề trên để làm trọng tâm, sau đó tìm kiếm thêm các tài liệu tham khảo để bổ sung kiến thức. Sử dụng các dẫn chứng cụ thể từ bài thơ để minh họa cho ý kiến của mình, biểu đạt quan điểm cá nhân một cách rõ ràng, mạch lạc.

3. Kết bài

- Khẳng định lại vấn đề nghị luận.

- Đánh giá chung về giá trị của bài thơ.

TOP 5 bài văn mẫu nghị luận về tác phẩm Nhớ đồng

Nghị luận về tác phẩm Nhớ đồng bài số 1

“Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi

Sao mà cách biệt, quá xa xôi

Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ

Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi!

Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!…”

Tiếng thơ cất lên trong ngục tù, vọng nỗi niềm khắc khoải thiết tha của chàng thanh niên 19 tuổi Tố Hữu hướng về cuộc sống tự do, tất cả những hình ảnh, cảm xúc hòa quyện làm thành một nỗi nhớ gắn kết nhà thơ với thế giới bên ngoài. Nhớ đồng viết trong phần “Xiềng xích” của tập thơ “Từ ấy”, trong cái im ắng không gian trưa để tác giả nghe tiếng vọng lòng mình rõ nhất.

Dấn thân vào chốn lao tù khi tuổi đời còn quá trẻ, Tố Hữu mở đầu phần “Xiềng xích” với Tâm tư trong tù, cảm nhận rõ hoàn cảnh mất tự do, xác định ý chí sắt đá của người chiến sĩ, tự động viên mình vượt lên nghịch cảnh, tách biệt lí trí và tình cảm có phần cực đoan và bồng bột. Nhưng đến Nhớ đồng, ta bắt gặp một Tố Hữu hoàn toàn khác, có sự chín chắn hơn sau những thử thách đầu tiên. Nếu không hiểu hoàn cảnh này, ta cứ ngỡ bài thơ mang tâm trạng của một khách tha phương vọng về cố xứ! Cũng dễ hiểu thôi, khi Tố Hữu làm thơ cũng là lúc Thơ Mới đang chiếm ưu thế tuyệt đối trên văn đàn, là một người trẻ tuổi yêu thơ, chắc chắn nhà thơ dễ cảm được nỗi lòng của những bạn trẻ đồng trang lứa. Có ngẫu nhiên chăng khi bị lâm vào cảnh tù hãm, Tố Hữu lại viết một loạt những “Nhớ người”, “Nhớ đồng” như một cách cắt nghĩa khác với “Nhớ rừng” của Thế Lữ – thác lời con hổ trong cảnh sa cơ nhớ thời oanh liệt! Cũng là nhớ, nhưng nhà thơ lãng mạn để cho nỗi nhớ khơi dậy niềm kiêu hãnh và nỗi ngậm ngùi thân phận cá nhân, đề cao và khẳng định vị thế của cái Tôi. Còn Tố Hữu thông qua nỗi nhớ, xác lập các mối liên hệ với thế giới bên ngoài, thấm thía cả vẻ đẹp và nỗi buồn cuộc đời, gửi gắm tình yêu cuộc sống và cũng là nhận thức của người chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi, vừa da diết bâng khuâng vừa hăm hở sôi nổi. Có một cái Tôi - chiến sĩ và thi sĩ - càng lúc càng đằm thắm, đầy tinh thần lạc quan tin tưởng vào lý tưởng, trên tinh thần “dâng tất cả để tôn thờ chủ nghĩa”!

Sau khoảnh khắc cảm nhận “gì sâu bằng” như một cách cắt nghĩa lòng mình, ùa về trên những dòng thơ của Nhớ đồng là bao hình ảnh ngồn ngộn sức sống của đồng quê quen thuộc:

“Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi

Đâu ruồng tre mát thở yên vui

Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn

Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi?”

Không gian sau nỗi nhớ thật bình dị thân thuộc, khắc khoải một tâm trạng kiếm tìm, nuối tiếc, trân trọng những vẻ đẹp của nhà thơ. Làng quê hiện về trong kí ức với hương của đất, bóng mát lũy tre làng, sắc xanh nao lòng của mạ và vị ngọt bùi khoai sắn gợi một cảm giác thật bình yên, đáng yêu đáng quí. Cái nhìn từ tâm trạng của một người bị mất tự do thật thấm thía khi “một tiếng hò” vọng vào làm hiện lên bao hình ảnh cuộc sống bên ngoài càng gợi nhớ gợi thương. Và nhà thơ còn cảm nhận được cái “hiu quạnh” của những cuộc đời quẩn quanh tù túng, lặng lẽ trôi đi trong nhịp đời day dứt buồn thương:

“Đâu những đường con bước vạn đời

Xóm nhà tranh thấp ngủ im hơi

Giữa dòng ngày tháng âm u đó

Không đổi nhưng mà trôi cứ trôi…”

Có đáng buồn không những thân phận lầm lũi sau lũy tre làng, những cuộc đời chìm trong bóng tối mang theo cả cái ngột ngạt của cuộc sống “âm u”, gợi tình cảnh đất nước chìm đắm trong kiếp nô lệ! Cái “hiu quạnh” không phải do tác động từ không gian ngoại cảnh mà bắt nguồn từ nhận thức của người chiến sĩ đã dấn thân trên con đường cách mạng, nhận ra bi kịch của dân tộc mình, đồng bào mình! Niềm thương cảm cho những cuộc đời “không đổi nhưng mà trôi cứ trôi” như quặn thắt trong lòng nhà thơ, như một sự chia sẻ ngậm ngùi. Bức tranh cuộc sống trong “nhớ đồng” đâu chỉ là vẻ đẹp mà còn là ám ảnh nỗi niềm tâm sự của người dân mất nước, man mác như một khúc Nam ai xứ Huế.

Nỗi buồn thương vẳng vào từ câu hò, làm thành tiếng vọng từ trong lòng nhà thơ hướng ra bên ngoài tha thiết: “Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh – Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!”. Phải chăng nhà thơ đang cất lên “tiếng gọi đàn”, đánh thức những hồn đồng điệu? Trân trọng biết bao những vần thơ cảm nhận về vẻ đẹp con người làm nên cuộc sống:

“Đâu những lưng cong xuống luống cày

Mà bùn hy vọng nức hương ngây

Và đâu hết những bàn tay ấy

Vãi giống tung trời những sớm mai?”

Tình cảm gắn bó con người xuất phát từ nhận thức về mối liên hệ giữa người chiến sĩ với quần chúng cách mạng. Khổ thơ bộc bạch vẻ lạc quan, thi hứng gợi nhắc vần thơ trong “Mùa gieo hạt, buổi chiều” của nhà thơ lãng mạn Pháp V. Hugo:

“Một ông lão đang tung

Gieo mùa sau xuống đất.

Bóng ông già cao thẫm

Giẫm trên rãnh cày sâu.

Chắc ông tin tưởng lắm.

Vào ngày tháng ruổi mau.”

(Xuân Diệu dịch)

Khổ thơ của Tố Hữu không đơn độc một bóng hình ông lão, mà khái quát hình ảnh “những lưng cong xuống luống cày” – hình ảnh con người nhân dân giản dị mà vĩ đại với cuộc đời cần lao thắp lên niềm hy vọng tương lai, “vãi giống tung trời những sớm mai”! Có ngẫu nhiên chăng sự gặp gỡ trong hình ảnh biểu tượng “bàn tay” gieo hạt của nhà thơ lãng mạn Pháp và người chiến sĩ trẻ Tố Hữu? Phải mở lòng ra với cuộc sống, mới nói lên hết được tình yêu và niềm tin ở con người tha thiết vậy. Giữa những nông dân trên cánh đồng cần mẫn và người chiến sĩ đấu tranh vì cái đẹp cuộc đời, đã có sự đồng cảm của người gieo mầm cho một tương lai tốt đẹp!

Điệp khúc “Gì sâu bằng những trưa thương nhớ…” lại cất lên, sau những hình ảnh đầy xao xuyến về cuộc sống: chiều sương phủ bãi đồng, lúa mềm xao xác, những nhịp điệu những âm vang “tiếng xe lùa nước” hòa với “một tiếng hò” như miết vào tâm khảm, làm nỗi nhớ như sâu hơn, lắng đọng hơn! Có lẽ đến lúc này nhà thơ mới thật thấm thía cảm giác của một người bị giam hãm trong bốn bức tường xà lim để hiểu rõ giá trị cuộc sống tự do lớn lao biết chừng nào! Những khổ thơ tiếp nối có sự chuyển mạch cảm xúc, vọng về nỗi niềm riêng tư. Nhà thơ lưu luyến tiếc nhớ, khắc ghi những bóng hình cuộc sống vào trái tim nhạy cảm của mình, khi thực tại chỉ có một mình đối diện không gian quạnh quẽ của nhà lao:

“Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi

Sao mà cách biệt, quá xa xôi

Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ

Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi!”

Ta chợt phát hiện ra giây phút yếu lòng nhất của chàng trai Tố Hữu! Nhưng đó là tâm trạng hoàn toàn hợp lý, khi con người bị bủa vây bởi nỗi cô đơn, sự vắng lặng thì càng khắc khoải nhớ về người thân yêu, đặc biệt là người mẹ như muốn tìm một chốn chở che, để được vỗ về yêu thương. Thú vị hơn là trong khổ thơ này, ta gặp nỗi niềm từng cất lên trong Thơ Mới “Chao ôi mong nhớ, ôi mong nhớ – Một cánh chim thu lạc cuối ngàn” (Chế Lan Viên). Quả thật, thơ Tố Hữu “thoát thai từ Thơ Mới” nhưng tinh thần thì hoàn toàn khác. Nỗi nhớ sau tiếng than “chao ôi…” của nhà thơ là “mẹ già xa đơn chiếc” rất cụ thể, rất đời thường và tạo cảm giác gần gũi thân thiết chứ không phải là một bóng hình tan biến vụt bay vào hư vô như câu thơ của họ Chế! Mẹ ở đây còn là quê hương, là những gì thiêng liêng nhất, sâu thẳm nhất bền chặt nhất của đời người. Câu thơ còn làm ta hiểu sâu sắc về tâm hồn người cộng sản. Để rồi từ mẹ quê, nhà thơ lại nhớ về những người “chất phác”, “thật thà” mang theo hồn quê, tình quê hương đất nước. Những hình ảnh thật cảm động ấy không còn thuộc về thế giới ngoại cảnh mà đã thật sự thành máu thịt, tâm hồn nhà thơ, Để rồi, chính những tình cảm ấy những con người ấy đem lại cho nhà thơ nguồn sức mạnh, sự tỉnh táo nhìn lại chính mình, khẳng định một sự chọn lựa dứt khoát và đúng đắn. Hai khổ thơ nói về bản thân là sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại, tràn đầy niềm hạnh phúc được hòa nhập với những quần chúng lao khổ:

“Rồi một hôm nào tôi thấy tôi

Nhẹ nhàng như con chim cà lơi

Say đồng hương nắng vui ca hát

Trên chín tầng cao bát ngát trời…”

Đó cũng là lúc nhà thơ bộc bạch trọn vẹn nhất cái tôi của mình. Không phải là một cái tôi buồn, cô đơn và yếu đuối như các thi sĩ lãng mạn đồng trang lứa mà là cái tôi tràn đầy tình yêu và niềm tin với cuộc đời. Hình ảnh thơ tái hiện lại khoảnh khắc xúc động và thiêng liêng khi nhà thơ đứng vào đội ngũ chiến đấu: “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ – Mặt trời chân lí chói qua tim…”. Không còn những do dự, “vẩn vơ”, “quanh quẩn” của thuở “Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời” mà thực sự nhà thơ đã trưởng thành, vững vàng một niềm tin, sẵn sàng chiến đấu cho lí tưởng. Dẫu cho thực tại, nhà thơ phải chịu cảnh tù đày, nhưng vẫn “mơ qua cửa khám bao ngày”, hướng lòng mình về cuộc sống tự do, dẫu có chút ngậm ngùi “như cánh chim buồn nhớ gió mây” nhưng vẫn ánh lên một khát vọng được tung cánh, được bay nhảy trong vùng trời tự do.

Bài thơ Nhớ đồng mang theo âm hưởng của một điệp khúc tâm trạng da diết nhớ thương con người và cuộc sống, làm nên những cung bậc trạng thái tình cảm của nhân vật trữ tình phong phú đa dạng. Thực chất của “nhớ đồng” là nhớ những mối dây liên hệ với cuộc đời, là lời tự nhắc nhở động viên mình của nhà thơ, trong hoàn cảnh lao tù. Giọng thơ khắc khoải, thấm đượm những ân tình sâu nặng của con người hiểu rõ và yêu mến đất nước, nhân dân, khao khát tự do. Chính cuộc sống giản dị, con người chất phác đã đem lại cho nhà thơ sức mạnh tinh thần, lạc quan trước hoàn cảnh, vững vàng trong thử thách đầu đời. Cái đáng quý nhất là chất trẻ trung, tươi mới của hồn thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn cách mạng, lí trí và tình cảm hòa quyện giúp ta hiểu thêm vẻ đẹp tâm hồn nhà thơ, tiêu biểu cho tinh thần của những chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi.

Những vần thơ như vậy trong Nhớ đồng nói riêng và tập thơ Từ ấy nói chung giúp ta thêm hiểu và trân trọng thế hệ cha anh, sẽ mãi còn vang ngân trong lòng các thế hệ tương lai.

Nghị luận về tác phẩm Nhớ đồng bài số 2

Tố Hữu - một nhà thơ cách mạng nổi tiếng, ông được kết nạp Đảng năm 1938 thì đến năm 1939 trong quá trình hoạt động đã bị bắt giam tại nhà lao Thừa Phủ, hoạt động cách mạng hăng say và nhiệt huyết là thế nhưng lại bị bắt giam nên trong quá trình bị giam cầm ông đã sáng tác một tập thơ mang tên "Từ ấy", bài thơ "Nhớ đồng" nằm trong phần "Xiềng xích" của tập thơ nói về tâm trạng nhớ quê hương, cách mạng của ông những ngày tháng sống trong trại giam.

Trong hoàn cảnh bị giam cầm tù hãm, người chiến sĩ cộng sản không tránh khỏi những u buồn, nhớ thương, chính tiếng hò vang vọng đâu đó đã đánh thức và khơi dậy nỗi niềm nhớ thương của người tù. Giữa không gian đồng không mông quạnh trưa nắng, một con người lẻ loi, cô độc đang bị giam cầm tách biệt với cuộc sống bên ngoài.

"Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

Hiu quạnh bên trong một tiếng hò"

"Gì sâu bằng" ấy là nói về nỗi nhớ sâu thẳm trong cõi lòng tác giả, điệp từ "đâu" ở đầu suốt năm câu thơ như là nỗi day dứt tìm kiếm trở về với cuộc sống khi xưa, tìm kiếm sự yên bình nơi quê hương trong sự ngậm ngùi:

"Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi...

Đâu những đường con bước vạn đời"

Bức tranh cuộc sống sinh hoạt làng quê thân thương và rất đỗi bình dị hiện ra trước mắt người tù cộng sản, chỉ là tưởng tượng thôi nhưng nó sống động và tuyệt đẹp, giàu xúc cảm biết bao. Không chỉ là cảnh đồng lúa, khóm tre, nương rẫy hay những mái nhà tranh, ở trong tâm tưởng của nhà thơ còn có con người, những người nông dân cơ cực vất vả nhưng ấm áp tình người.

"Đâu những lưng cong xuống luống cày...

Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi...

Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi"

Đâu đó còn là bóng dáng của người mẹ thương nhớ càng siết chặt thêm nỗi khắc khoải khôn nguôi của nhà thơ, tác giả như chìm đắm, say trong những cơn nhớ nhung không dứt "Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ..." từng lời như đang than thở vì sự bất khả kháng với hoàn cảnh của chính mình, không thể thoát ra để giải tỏa nỗi lòng. Người chiến sĩ trẻ nhớ về những ngày đầu đến với lý tưởng cách mạng và thời hoạt động cách mạng tự do của mình:

"Đâu những ngày xưa, tôi nhớ tôi...

Trên chín tầng cao bát ngát trời"

Trước là nhớ về quá khứ tối tăm ngột ngạt của mình để như khẳng định hơn sự sáng suốt và đúng đắn, niềm hạnh phúc khi tìm được lý tưởng cách mạng, và rồi tác giả tự cho mình những giây phút say trong niềm khao khát hoạt động cách mạng ấy, tâm trạng u buồn bỗng nhiên được tưới mát trở nên vui vẻ và phấn chấn hơn, "Nhẹ nhàng như con chim cà lơi", cánh chim tượng trưng cho sự tự do tự tại và tác giả đang ví mình là những con chim đó, say trong đồng hương nắng như chính người chiến sĩ say trong hoạt động cách mạng. Nhưng dù có cố gắng cách mấy nhà thơ cũng không tránh khỏi sự đối mặt với thực tại bị giam hãm trong lao tù, hai câu thơ kết lặp lại y nguyên hai câu thơ đầu, nhấn mạnh sự bất lực, bế tắc không có lối thoát. Mặc dù vậy tư tưởng hướng về quê hương và cách mạng vẫn còn đó, khát vọng về một ngày được tự do được hoạt động cách mạng vẫn luôn cháy bỏng trong trái tim người tù cộng sản.

Qua bài thơ "Nhớ đồng" người đọc không chỉ cảm nhận được một tình yêu quê hương tha thiết của Tố Hữu mà còn thấy hiện lên một người chiến sĩ cộng sản yêu lý tưởng cách mạng, yêu đất nước và khát vọng tự do hành động, hy sinh vì Tổ quốc.

Nghị luận về tác phẩm Nhớ đồng bài số 3

Tố Hữu là một nhà thơ lớn, xuất sắc trong nền văn thơ hiện đại Việt Nam. Với bảy tập thơ đồ sộ, thơ ông được coi là biên niên sử bằng thơ. Đối với Tố Hữu, ông quan niệm con đường thơ ca cũng giống với con đường cách mạng. Vậy nên thơ ông thường song hành cùng con đường cách mạng qua đó đã phản ánh những sự kiện lịch sử quan trọng của dân tộc ta. Qua bài thơ Nhớ đồng, người cộng sản trẻ tuổi bày tỏ nỗi niềm thương nhớ đồng quê, thương nhớ cảnh vật con người, đồng đội đồng bào của mình trong những tháng ngày bị giam giữa ở nhà lao Thừa Thiên Huế.

Tháng 7 năm 1939 trong khi hoạt động cách mạng, Tố Hữu đã bị thực dân Pháp bắt và nhốt giam tại nhà tù ở Thừa Thiên Huế. Tuy bị giam cầm lẻ loi trong tù ngục tối tăm nhưng chính hoàn cảnh sống ấy đã gợi cho ông nguồn cảm hứng dạt dào để làm thơ. Bài thơ Nhớ đồng được tác giả sáng tác trong hoàn cảnh ấy và được rút từ tập thơ “Từ ấy” trong phần xiềng xích của tác phẩm. Đây là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của tập thơ Từ ấy.

“Cô đơn thay là cảnh thân tù

Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực..” 

Đó chính là cái cảm giác cô đơn, lẻ loi, đơn độc khi Tố Hữu bị bắt giảm, sống cách biệt với thế giớ bên ngoài. Vì vậy chỉ là một âm thanh hay một tiếng động nhỏ nào từ bên ngoài dội vào thôi cũng đủ để gợi cho nhà thơ một nỗi nhớ tha thiết, khôn nguôi. Chẳng phải là tiếng tu hú kêu trên những cánh đồng bao la khắc khoải gọi hè về như trong tác phẩm “Khi con tu hú”, mà đây chỉ là tiếng hò quen thuộc của nơi đồng quê:

“Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!”

Bài thơ được gợi cảm hứng từ tiếng hò thân quen đã trở thành điệp khúc lặp đi lặp lại về nỗi thương nhớ, nỗi cô đơn, hiu quạnh, lạnh lẽo của người tù.

Tiếng hò đã gợi ra biết bao nỗi nhớ, kí ức về hình ảnh quen thuộc nơi đồng quê hiện về trong tâm trí tác giả:

“Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi

Đâu ruồng che mát thở yên vui

Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn

Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi?”

Âm thanh tiếng hò - một âm thanh gần gũi, quen thuộc nơi quê nhà của tác giả. Trong sự xa cách ấy, nỗi nhớ của nhà thơ dường như càng mãnh liệt và da diết hơn biết bao. Giờ đây, hình ảnh, mùi vị, màu săc, âm thanh của quê hương càng trở nên thật thân thương, gần gũi đến lạ thường.

Không chỉ nhớ về đồng quê, Tố Hữu còn nhớ tới hình ảnh con người lao động - những người dân nơi thôn quê cần cù, giản dị mà chất phác, họ đã quen với việc “dãi gió dầm mưa”,”hiền như đất”, “rất thật thà”:

“Đâu những lưng cong xuống luống cày

Mà bùn hy vọng nức hương ngây

Và đâu hết những bàn tay ấy

Vãi giống tung trời những sớm mai?”

Đó là những người nông dân, chăm chỉ, chịu khó quanh năm lao động cật lực, họ bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Người nông dân cùng luống cày gian nan, vất vả, theo thời gian, theo năm tháng lưng của họ càn còng dần. Thế nhưng dù cho có phải ở trong bùn đen lấm lem bụi bẩn, ở họ vẫn toát lên một vẻ đẹp nhân hậu, sáng ngời của phẩm chất trong sáng. Chính những người lao động giản gị, mộc mạc, chân chất thôn quê ấy lại là những người sẽ gieo thêm những tia hi vọng vào một tương lai sáng ngời.

Nhà thơ tiếp tục bày tỏ nỗi nhớ thương da diết của mình qua các chi tiết, hình ảnh: giọng hò, sương, lúa, tiếng xe lùa nước,…. Tất cả đều là mang một sự thân quen của nơi quê hương xa xôi, cách trở. Và nhà thơ nhớ da diết tới những âm thanh, hình ảnh ấy. Từ đó, theo dòng hồi tửng, Tố Hữu lại nghĩ bản thân về cảnh tù đày, đến đây tác giả như có chút chạnh lòng chợt len lỏi vào trong tâm khảm của người chiến sĩ cách mạng:

“Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi

Sao mà cách biệt, quá xa xôi

Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ

Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi!”

Tất cả những điều là quen thuộc và thân thương nhất, nhưng vào khoảnh khắc này, nhà thơ lại chẳng thấy gì “đâu cả rồi“. Câu hỏi ấy vang lên nhưng chẳn có một lời đáp, điều đó như là một nhát dao đâm sâu vào trong lòng người tù, khiến cho người thi sĩ trở nên đau đớn, xót xa, tủi nhục hơn bao giờ hết. Giờ đây, khi ở trong nhà lao tăm tối này, mọi thứ trở nên cách biệt và xa xôi biết nhường nào. Và trong nỗi nhớ thương da diết ấy, hình ảnh người mẹ già yêu dấu đã hiện lên trong tâm trí tác giả. Mẹ - chính là người mà tác giả nhớ nhất, thương nhất trong nỗi nhớ của mình.

Và sau những thoáng tủi hổ, buồn thương ấy, người chiến sĩ lại thiết tha với tình yêu cuộc sống, anh ấy lại dũng cảm kiên trì, đấu tranh với những phút giây yếu mềm để vượt qua nó. Và thế là khát khao được tự do, được giả thoát lại sôi sục trong trái tim cháy bỏng của người chiến sĩ cách mạng:

“Rồi một hôm nào, tôi thấy tôi

Nhẹ nhàng như con chim cà lơi

Say hương đồng vui ca hát

Trên chín tầng cao bát ngát trời”

Hình ảnh chú chim sơn ca như là một biểu tượng đại diện cho khát khao được tự do sải rộng cánh bay trên bầu trời trong xanh và rộng lớn kia. Đây có lẽ là tâm trạng vui tươi nhất của người chiến sĩ khi bị giam cầm trong tù.

Nỗi nhớ thương của tác giả được đánh thức bởi “tiếng hò đưa hố não nùng“. Tiếng hò ấy đã gợi dậy về một thế giới khác bên ngoài nhà giam cùng những cảnh sắc và những hình dáng quen thuộc. Để rồi nhớ về quá khứ, những ngày còn được tự cống hiến bản thân cho cách mạng, và cuối cùng khi trở về với thực tại đau thương, một lần nữa khao khát được tự do, được dâng hiến mình cho đảng lại sôi sục trong lòng người chiến sĩ.

Nghị luận về tác phẩm Nhớ đồng bài số 4

Bài thơ Nhớ đồng của Tố Hữu được lấy cảm hứng từ một tiếng hò thân thuộc của quê hương và tiếng hò ấy trở thành mạch cảm xúc của bài thơ.

- Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

Hiu quạnh bên sông một tiếng hò!

- Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh

Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!

- Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

Hiu quạnh bên sông một tiếng hò!

- Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh

Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!

Về mặt hoàn cảnh trữ tình, khi nghe một tiếng hò vọng lên lẻ loi, đơn độc giữa trời trưa, thi sĩ cảm nhận tất cả sự hiu quạnh, và bỗng thấy nhớ thương đồng quê, con người nhọc nhằn trên đồng quê ấy. Đó là sự đồng cảm, hòa điệu của nhiều nỗi hiu quạnh: hiu quạnh của không gian đồng vắng, của thời gian trưa vắng, của cuộc đời buồn tủi nhọc nhằn và hiu quạnh ngay trong lòng người đang bị giam cầm giữa bốn bức tường đá, cách biệt với cuộc sống bên ngoài.

Về mặt nội dung, hai câu thơ vang lên một tiếng than. Tiếng kêu xác nhận về nỗi quạnh hiu thăm thẳm mà mình đang trải nghiệm. Cũng là tiếng kêu của một triết lí về nỗi quạnh hiu cùng cực, không gì có thể sánh nổi này! Qua đó, người ta thấy được một cõi lòng hoang vắng vì cách biệt và thiếu vắng cảnh sắc cuộc sống bên ngoài. Cho nên nổ là nỗi quạnh hiu của một người tha thiết yêu đời mà bị cách li khỏi cuộc đời.

Hiệu quả nghệ thuật của việc lặp lại trước hết có tác dụng liên kết. Lặp và điệp từ là một cách liên kết các mảng nội dung khác nhau, thậm chí xa nhau trở nên liền mạch ý. Nhưng quan trọng hơn là tác dụng biểu cảm. Việc lặp lại này bao giờ cũng có tác dụng như một điệp khúc, nó nhấn mạnh, tô đậm cảm xúc, khắc sâu ý tưởng. Lặp lại, điệp từ tạo ra một nhịp điệu luân hồi, triền miên khiến cho một nỗi niềm trở nên da diết khôn nguôi, thậm chí càng lúc càng nặng trĩu.

Đồng quê hiện lên rất đậm nét qua nỗi nhớ của tác giả. Đó là những cảnh sắc như đồng ruộng với những cồn thơm, ô mạ xanh mơn mởn, nương khoai sắn ngọt bùi; xóm nhà chìm lặng, con đường mòn mỏi theo năm tháng. Tất cả đều là những cảnh sắc đơn sơ quen thuộc mà rất đỗi thân thương. Là những bóng dáng người lao động lam lũ, nhọc nhằn, và nhất là bóng dáng người mẹ già đơn chiếc - những kiếp người muôn đời gắn bó với đất đai. Họ chất phác và bền bỉ như đất đai.

Tóm lại, Nhớ đồng là nhớ toàn bộ cuộc sống bên ngoài mà giờ đây đã trở nên cách biệt đối với người chiến sĩ bị tù đày.

Nhớ đồng là một tâm trạng khá chân thực và trọn vẹn với những diễn biến tự nhiên, liền mạch. Nỗi nhớ bắt đầu dâng lên khi nghe thấy tiếng hò. Tiếng hò gợi dậy tất cả những gì của thế giới đồng quê bên ngoài. Đầu tiên là nhớ những cảnh sắc, rồi nhớ đến những bóng dáng con người: từ những người lao khổ trên đồng đến hình bóng thân yêu nhất là người mẹ già nua đơn chiếc. Rồi nhớ về chính mình những ngày chưa bị giam cầm, tóc đang được tung hoành trong bầu trời tự do bát ngát. Cuối cùng khi trở lại với thực tại bị giam cầm, trong lòng tác giả trĩu nặng một nỗi nhớ triền miên.

Nỗi nhớ bắt đầu từ hiện tại đi ngược về quá khứ rồi cuối cùng lại trở về hiện tại; từ thực tại giam cầm ngược về thuở tự do rồi lại trở về với thực tế giam cầm. Nó không chỉ có nhớ nhung mà còn tràn ngập xót thương, không chỉ có buồn rầu thương nhớ cuộc đời mà còn cháy bỏng niềm khao khát tự do. Và quan trọng hơn, bên dưới tâm trạng ây là một nỗi bất bình, phẫn uất với thực tại.

Bài thơ mang tên Nhớ đồng nhưng cảm xúc và hình ảnh không dừng lại ở nỗi nhớ đồng, mà đó còn là sự nhớ thương cuộc sống, nỗi lòng khao khát tự do và bất bình với thực tại.

Nghị luận về tác phẩm Nhớ đồng bài số 5

Tố Hữu, tượng đài của văn thơ cách mạng, đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp cách mạng của Việt Nam. Khi gia nhập Đảng vào năm 1938, Tố Hữu không ngừng hăng say và nhiệt huyết với hoạt động cách mạng. Tuy nhiên, năm 1939, ông bất ngờ bị bắt giam tại nhà lao Thừa Thiên Huế, nơi mà tâm hồn của ông bùng cháy và sáng tác nên tập thơ "Từ ấy", trong đó có bài thơ "Nhớ đồng" đặc biệt nổi bật trong phần "Xiềng xích".

Những ngày trong tù, ông trải qua những cảm xúc u buồn và nhớ thương, nhưng tiếng hò vang vọng xa xôi đã trở thành bảo bối góp phần đánh thức và khơi dậy nỗi niềm nhớ thương của người chiến sĩ bị giam cầm. Trong không gian đồng cỏ trải rộng, nơi mặt trời trưa rực rỡ, một con người lẻ loi, cô độc đang phải đối diện với sự tách biệt và cô đơn từ thế giới bên ngoài.

Nỗi nhớ quê hương và những người đồng đội cách mạng đã trở thành nguồn cảm hứng dồi dào cho Tố Hữu, giúp ông vượt qua những khó khăn và thách thức của cuộc sống tù đầy gian khổ. Bài thơ "Nhớ đồng" thực sự là một tác phẩm nghệ thuật đặc sắc, ghi lại những chấn thương và tình cảm sâu sắc trong thời kỳ giam cầm, đồng thời tôn vinh tinh thần kiên trì và chí hướng cách mạng của người tác giả.

"Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

Hiu quạnh bên trong một tiếng hò"

"Gì sâu bằng" - những từ này truyền tải một nghệ thuật chân thật và tâm huyết, nói về sự nhớ mãi đậm sâu trong cõi tâm hồn của tác giả. Câu thơ mở đầu với điệp từ "đâu" như là một tiếng gọi của trái tim, làm nổi bật một niềm khao khát, một lòng tìm kiếm và quay về với quê hương, với bản nguyên của cuộc sống.

Từ "đâu" không chỉ là một từ ngữ, mà còn là khát vọng, là một hành trình tìm kiếm nguồn cội, là hình ảnh của sự hiểu biết và sự trải nghiệm. Suốt năm câu thơ, điệp từ này luôn hồi sinh và bao bọc cả tâm trạng của tác giả. Nó không chỉ là lời thốt ra mà còn là giọng hát của trái tim, là tiếng gọi mãnh liệt để khám phá và hiểu rõ hơn về mình, về quê hương yêu dấu.

Sự ngậm ngùi, day dứt trong những dòng thơ này khiến cho tâm hồn độc giả được chạm vào những cảm xúc sâu sắc nhất của tác giả. Niềm nhớ không chỉ là một khối lượng tâm trạng, mà còn là một chuyến hành trình tinh thần, tìm kiếm sự bình yên, yên bình, và tìm thấy sự hoàn hảo trong kí ức về quê nhà. "Gì sâu bằng" không chỉ là một câu hỏi, mà còn là một câu trả lời tự nhiên, là đường dẫn dẫn dắt độc giả đến với một thế giới đầy những cảm xúc sâu sắc và thiêng liêng.

"Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi...

Đâu những đường con bước vạn đời"

Bức tranh về cuộc sống thôn quê mộc mạc và đậm chất thân thương như một mảng tranh sống động, tươi sáng bắt đầu hiện lên trước mắt người tù cộng sản. Tưởng tượng của tác giả không chỉ dừng lại ở hình ảnh đồng lúa, khóm tre, hay những nương rẫy, mà còn mở rộng đến con người, những người nông dân chân chất, mang trên vai gánh nặng cơ cực nhưng trái tim ấm áp và tình người.

Tác giả không chỉ vẽ nên cảnh quê hương bình dị mà còn là những cây cỏ, mái nhà tranh, hòn non bộ, và mọi đường nét cuộc sống nơi đây. Bức tranh sống động đầy ánh sáng và màu sắc, đã chứng minh tình yêu thương và tình người của người làm thơ. Cảm giác ấm áp, như bức tranh hiện hữu trong tâm tư của nhà thơ, khiến cho người đọc không chỉ nhìn thấy mà còn cảm nhận được hương thơm, âm thanh và màu sắc đặc trưng của cuộc sống thôn quê.

"Đâu những lưng cong xuống luống cày...

Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi...

Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi"

Bóng dáng của người mẹ trong thơ như một bức tranh tình cảm, một dấu ấn đậm nét của tình thương và sự hi sinh. Mỗi chi tiết, từng giai điệu của từng từ trong "Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ..." như là những hòn đá gieo rắc trên đường đi của tâm hồn, làm tăng thêm vị chua ngọt của những trải nghiệm và ký ức. Người mẹ trở thành nguồn cảm hứng, là điểm nối vững chắc giữa tâm hồn bất an và những giọt nước mắt u buồn. Tình cảm chảy tràn trong từng lời thơ, đưa độc giả về quãng thời gian đẹp đẽ và tuyệt vời, khi người chiến sĩ trẻ còn đầy ắp niềm tin và đam mê, khi họ chập chững bước vào con đường cách mạng.

"Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ..." như là lời kể của chính người chiến sĩ, làm nổi bật nỗi lòng như một khúc hát lưu luyến, giữa những tháng ngày giam giữ. Mỗi từ ngữ, mỗi giai điệu là một nốt nhạc, là một bản tình ca ngắn ngủi về quê hương, về mẹ hiền, và về những ngày tháng yên bình trước khi cuộc sống biến đổi. Như một đám mây điệp khúc, "Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ..." mở cánh cửa cho độc giả thâm nhập sâu vào tâm trạng, làm rõ nét hình ảnh của người mẹ thương yêu và tình yêu bất tận của người con chiến sĩ. Câu thơ này không chỉ là nỗi niềm và tâm sự, mà còn là sự tri ân và biểu tượng của lòng trung thành với quê hương và người thân yêu.

"Đâu những ngày xưa, tôi nhớ tôi...

Trên chín tầng cao bát ngát trời"

Bài thơ "Nhớ đồng" không chỉ là một tâm sự về quê hương mà còn là bức tranh tinh tế về tâm hồn của một người chiến sĩ cộng sản. Tác giả không chỉ nhớ về quá khứ u ám mà từ đó, ông mạnh mẽ khẳng định sự sáng suốt và đúng đắn của niềm tin cách mạng. Niềm hạnh phúc khi chấp nhận lý tưởng cách mạng hiện hóa trong tâm hồn, như một cơn say đắm niềm tin và khao khát hoạt động cách mạng, không chỉ giúp ông thoát khỏi tâm trạng u buồn mà còn trở nên vui vẻ và phấn chấn hơn, "Nhẹ nhàng như con chim cà lơi". Tác giả tự so sánh mình với những con chim tự do, tự tại, bay bổng trong không gian rộng lớn của đồng quê, cảm nhận sự say mê trong đồng hương nắng, giống như chính người chiến sĩ say trong hoạt động cách mạng. Mặc dù, ngay cả khi đối mặt với thực tại khắc nghiệt của lao tù, những dòng thơ cuối cùng không khỏi nổi lên tâm trạng bất lực, bế tắc không có lối thoát. Tuy nhiên, tư tưởng và khát vọng về quê hương và cách mạng vẫn mãnh liệt, cháy bỏng trong trái tim người tù cộng sản. Bài thơ là một diễn đàn tinh tế, nơi hiện lên hình ảnh của một chiến sĩ yêu lý tưởng cách mạng, một con người hy sinh vì Tổ quốc, để lại dấu ấn khó phai trong lòng người đọc.

-/-

Trên đây là một số bài văn mẫu hay với nội dung nghị luận về tác phẩm Nhớ đồng của Tố Hữu mà Đọc tài liệu đã biên soạn. Hy vọng với những chia sẻ ở trên phần nào đã giúp các em hiểu và làm bài tốt hơn trong quá trình theo học tác phẩm. Ngoài ra, để cải thiện và nâng cao kĩ năng viết văn các em có thể tìm đọc thêm các bài Văn mẫu lớp 11 khác do Đọc tài liệu biên soạn.

Bạn còn vấn đề gì băn khoăn?
Vui lòng cung cấp thêm thông tin để chúng tôi giúp bạn
Hủy

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM