Nghị luận về tác phẩm Chí Phèo

Xuất bản: 25/07/2024 - Tác giả:

Bài văn nghị luận về tác phẩm Chí Phèo dựa trên hệ thống luận điểm, giá trị hiện thực và nhân đạo, bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người, nỗi thống khổ của người nông dân bị áp bức, bị lưu manh hóa...

Nghị luận về tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao - một trong những tác phẩm văn học hiện thực xuất sắc của Việt Nam, khắc họa sâu sắc bi kịch của người nông dân bị tha hóa trong xã hội cũ. Tác phẩm không chỉ là một câu chuyện cảm động về số phận con người mà còn là một lời tố cáo mạnh mẽ những bất công và tàn ác của xã hội phong kiến đương thời. Với nhiều tầng ý nghĩa và giá trị nhân văn sâu sắc, "Chí Phèo" đã trở thành đề tài hấp dẫn cho các bài văn nghị luận. Trong bài viết này, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu cách viết một bài văn nghị luận về tác phẩm, từ việc phân tích tác phẩm đến việc xây dựng dàn ý chi tiết và hoàn thiện bài viết.

Khái quát về tác giả, tác phẩm

1. Nhà văn Nam Cao

- Nam Cao (1915/1917 - 1951), tên thật là Trần Hữu Tri, sinh ra trong một gia đình công giáo bậc trung ở Lý Nhân, Hà Nam.

- Thuở nhỏ ông học ở trường làng, được gửi xuống Nam Định học, nhưng do thể chất yếu nên sau đó ông về nhà chữa bệnh rồi cưới vợ.

- Năm 18 tuổi ông vào Sài Gòn nhận làm thư kí cho một hiệu may.

- Khi trở ra Bắc ông dạy học tại Hà Nội và gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc năm 1943.

- Năm 1945 ông tham gia cướp chính quyền ở Lý Nhân và được cử làm chủ tịch xã.

- Năm 1946 ông ra Hà Nội hoạt động Hội Văn hóa cứu quốc và gia nhập Đảng Cộng Sản Việt Nam năm 1948.

- Năm 1950 ông làm việc cho Hội Văn nghệ Việt Nam, tại Tạp chí Văn nghệ.

- Phong cách nghệ thuật: Sáng tác của Nam Cao mang phong cách triết lý trữ tình sắc lạnh, đề cao tư tưởng con người, quan tâm tới đời sống tinh thần của con người, khám phá "con người trong con người", đi sâu nội tâm nhân vật, thường viết về những cái nhỏ nhặt nhưng lại mang ý nghĩa triết lý sâu sắc.

- Các tác phẩm tiêu biểu: “Sống mòn”, “Lão Hạc”, “Chí Phèo”, “Giăng sáng”, “Lão Hạc”, “Chí Phèo”, “Đôi mắt”,...

2. Tác phẩm Chí Phèo

- Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác: Tác phẩm được viết vào tháng 2 năm 1941, ban đầu có tên là Cái lò gạch cũ; khi in sách lần đầu, nhà xuất bản đổi tên là Đôi lứa xứng đôi. Đến khi in lại trong tập Luống cày (Hội Văn hóa cứu quốc xuất bản, Hà Nội, 1946), Nam Cao đặt lại tên là Chí Phèo.

- Tóm tắt nội dung: Truyện kể về cuộc đời Chí Phèo, một đứa trẻ bị bỏ rơi, vô thừa nhận, được người làng đem về nuôi, đến năm hai mươi tuổi thì đi làm canh điền cho nhà bá Kiến. Vì ghen tuông, Bá Kiến đã đẩy Chí Phèo vào tù. Sau bảy tám năm ở tù trở về, từ một người hiền lành, lương thiện, Chí Phèo đã trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, trở thành tay sai cho Bá Kiến gây bao tội ác cho dân làng. Sau đó Chí Phèo gặp thị Nở, dần dần bản chất lương thiện trong Chí Phèo trỗi dậy. Chí Phèo mong muốn thị Nở giúp mình trở lại cuộc sống bình thường nhưng không được vì thị Nở cự tuyệt. Quá đau đớn và uất ức, Chí Phèo uống rượu và cầm dao đến nhà Bá Kiến đâm chết Bá Kiến và tự kết liễu đời mình.

- Ý nghĩa nhan đề:

+ Nhan đề “Chí Phèo” cũng là tên nhân vật chính của câu chuyện, vẽ nên một con người cụ thể, một số phận cụ thể, cô đơn, cô độc…

+ Nhan đề "Chí Phèo" thâu tóm được nội dung của tác phẩm: Chí Phèo là nạn nhân, là sản phẩm của xã hội phong kiến nửa thực dân. Chí là người nông dân lương thiện nhưng lại bị đẩy vào “bước đường cùng” trở thành kẻ lưu manh, côn đồ, mất hết cả nhân hình nhân tính. Nhan đề đã góp phần bộc lộ giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.

- Giá trị nội dung và nghệ thuật:

+ Nội dung: Tác phẩm là lời tố cáo đanh thép của Nam Cao về xã hội đương thời tàn bạo, thối nát đã đẩy người dân lương thiện vào con đường tha hóa, lưu manh hóa; đồng thời ca ngợi vẻ đẹp của con người ngay cả khi bị vùi dập mất hết cả nhân hình, nhân tính. Tác phẩm mang giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc.

+ Đặc sắc nghệ thuật: Nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình bất hủ, phân tích tâm lý nhân vật khiến nhân vật của ông thật hơn con người thật, nghệ thuật trần thuật hết sức linh hoạt, phóng túng nhưng nhất quán và chặt chẽ, ngôn ngữ giàu có đậm hơi thở cuộc sống, giọng văn biến hóa đa dạng.

Gợi ý một số vấn đề cần nghị luận về tác phẩm Chí Phèo

- Bi kịch của người nông dân trong xã hội cũ qua hình tượng Chí Phèo: Phân tích quá trình tha hóa và bi kịch của Chí Phèo, từ đó làm rõ sự tàn ác của xã hội thực dân phong kiến.

- Giá trị nhân đạo của tác phẩm "Chí Phèo": Phân tích cách tác phẩm thể hiện sự cảm thông, trân trọng và khát vọng thay đổi số phận của người nông dân.

- Sức mạnh của tình yêu thương trong "Chí Phèo": Phân tích vai trò của tình yêu thương trong việc thức tỉnh bản chất lương thiện của Chí Phèo và khơi dậy khát vọng sống tốt đẹp.

- Ý nghĩa của hình ảnh bát cháo hành trong "Chí Phèo": Phân tích ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh này, làm rõ sức mạnh của tình người và sự thức tỉnh lương tri.

- Giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm "Chí Phèo": Phân tích cách tác phẩm phản ánh hiện thực xã hội và thể hiện tấm lòng nhân đạo của nhà văn Nam Cao đối với những người nông dân bị tha hóa.

- ...

Dàn ý bài văn nghị luận về tác phẩm Chí Phèo

Các em có thể lựa chọn một trong những vấn đề nghị luận đã gợi ý ở trên để triển khai phân tích, bàn luận.

* Nghị luận về bi kịch của người nông dân bị tha hóa trong xã hội cũ

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả Nam Cao và tác phẩm "Chí Phèo".

- Nêu luận điểm: Chí Phèo là hình tượng điển hình cho bi kịch của người nông dân lương thiện bị tha hóa trong xã hội thực dân phong kiến.

2. Thân bài

a) Nguồn gốc xuất thân lương thiện

- Xuất thân là một đứa trẻ bị bỏ rơi, lớn lên trong sự thiếu thốn tình thương.

- Từng là một nông dân hiền lành, chất phác, có ước mơ giản dị về hạnh phúc gia đình.

b) Quá trình tha hóa của Chí Phèo

- Bị Bá Kiến hãm hại, đẩy vào tù, chịu sự tàn phá về thể xác và tinh thần.

- Chí Phèo trở thành kẻ lưu manh, con quỷ dữ của làng Vũ Đại, bị dân làng ruồng bỏ, căm ghét.

c) Bi kịch của Chí Phèo

- Mất hết nhân hình, nhân tính, sống trong sự cô độc, tuyệt vọng, chỉ biết đến rượu và bạo lực.

- Không thể quay về cuộc sống lương thiện, dù khao khát được làm người.

- Cái chết là kết cục tất yếu của một kiếp người bị tha hóa.

3. Kết bài

- Khẳng định bi kịch của Chí Phèo là bi kịch của người nông dân bị tha hóa trong xã hội cũ.

- Tác phẩm là lời tố cáo mạnh mẽ xã hội thực dân nửa phong kiến đã đẩy người nông dân vào bước đường cùng.

- Gửi gắm thông điệp về tình yêu thương và sự cảm thông đối với những người lầm đường lạc lối.

* Nghị luận về giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm Chí Phèo

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả Nam Cao và tác phẩm "Chí Phèo".

- Nêu vấn đề cần nghị luận: Giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm được thể hiện qua việc phản ánh chân thực xã hội đương thời và số phận con người.

2. Thân bài

a) Giá trị hiện thực

- Phản ánh chân thực xã hội thực dân nửa phong kiến đầy bất công và tàn ác.

+ Mối quan hệ của nội bộ giai cấp thống trị, những bè cánh địa chủ cường hào

+ Mâu thuẫn giai cấp đối kháng, gay gắt giữa bọn địa chủ cường hào thống trị với những người nông dân bị áp bức, bóc lột.

- Khắc họa thành công hình ảnh người nông dân, người lao động lương thiện bị bần cùng hóa, tha hóa về nhân cách, đời sống tăm tối, đau khổ.

- Lột tả bộ mặt xấu xa của giai cấp thống trị.

b) Giá trị nhân đạo

- Thể hiện sự cảm thông sâu sắc với số phận bi thảm, khổ đau, bất hạnh của người nông dân nghèo.

- Lên án mạnh mẽ xã hội đã đẩy người nông dân vào bước đường cùng.

- Khẳng định, đề cao nhân tính, đề cao con người, phê phán những thế lực bạo tàn chà đạp con người

- Khẳng định giá trị của tình yêu thương và khát vọng sống lương thiện của con người.

3. Kết bài

- Khẳng định "Chí Phèo" là một tác phẩm có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc.

- Tác phẩm đã đóng góp quan trọng vào sự phát triển của văn học Việt Nam hiện đại.

* Nghị luận về sức mạnh cảm hóa của tình yêu thương trong Chí Phèo

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả Nam Cao và tác phẩm "Chí Phèo".

- Nêu vấn đề cần nghị luận: Sức mạnh cảm hóa của tình yêu thương được thể hiện qua mối quan hệ giữa Chí Phèo và Thị Nở.

2. Thân bài

a) Thị Nở - tia sáng le lói trong cuộc đời Chí Phèo

- Thị Nở là người phụ nữ xấu xí, nhưng có tấm lòng nhân hậu.

- Thị Nở đã dành cho Chí Phèo tình yêu thương chân thành, không vụ lợi.

b) Tình yêu thương của Thị Nở đã đánh thức bản chất lương thiện trong Chí Phèo

- Tình yêu thương chân thành của Thị Nở đã giúp Chí Phèo nhận ra bản chất lương thiện của mình.

- Thị Nở khơi dậy trong Chí Phèo những ước mơ, khát vọng tốt đẹp.

- Chí Phèo cảm nhận được sự ấm áp của tình người, khao khát được sống lương thiện, thoát khỏi kiếp sống lưu manh, được mọi người thừa nhận, tôn trọng.

- Chí Phèo nhận ra mình vẫn còn có thể yêu thương và được yêu thương, khao khát hạnh phúc gia đình.

c) Bi kịch khi Chí Phèo không thể đến được với hạnh phúc

- Xã hội tàn ác đã ngăn cản Chí Phèo đến với Thị Nở.

- Chí Phèo tuyệt vọng và tìm đến cái chết.

3. Kết bài

- Khẳng định sức mạnh cảm hóa của tình yêu thương trong việc thức tỉnh bản chất lương thiện của con người.

5 mẫu bài văn nghị luận về tác phẩm Chí Phèo

Nghị luận về tác phẩm Chí Phèo bài số 1

"Chí Phèo" của Nam Cao là một kiệt tác văn học hiện thực phê phán, vạch trần bộ mặt tàn ác của xã hội thực dân phong kiến đương thời và đồng thời là một tác phẩm giàu giá trị nhân đạo. Thông qua tấn bi kịch của nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã phơi bày những góc tối của xã hội cũng như khẳng định giá trị của con người.

Về giá trị hiện thực, "Chí Phèo" đã thành công trong việc phản ánh chân thực và sâu sắc hiện thực xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Tác phẩm khắc họa một làng quê nghèo đói, lạc hậu, nơi người nông dân bị bóc lột và áp bức đến cùng cực. Bằng ngòi bút sắc sảo, Nam Cao đã lột tả bộ mặt tàn ác của xã hội thực dân phong kiến, nơi mà những giá trị đạo đức bị đảo lộn, đồng tiền chi phối tất cả. Chí Phèo, một đứa trẻ bị bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng, lớn lên trong sự ghẻ lạnh của xã hội, không được giáo dục, không có tình thương, bị đẩy vào con đường lưu manh, trở thành "con quỷ dữ" của làng Vũ Đại. Cuộc đời Chí Phèo là minh chứng rõ nét cho sự tha hóa của con người dưới ách thống trị của xã hội thực dân nửa phong kiến.

Không chỉ dừng lại ở giá trị hiện thực, "Chí Phèo" còn là một tác phẩm giàu giá trị nhân đạo. Dù Chí Phèo bị tha hóa, trở thành kẻ lưu manh, nhưng sâu thẳm trong con người anh vẫn còn những tia sáng lương thiện. Điều này được thể hiện rõ nét qua những giọt nước mắt ân hận khi nghe bà cô kể về quá khứ, qua những khát khao giản dị về một mái ấm gia đình và đặc biệt là qua tình yêu với Thị Nở. Chính tình yêu thương chân thành của Thị Nở đã đánh thức phần người còn sót lại trong Chí, khiến anh khao khát được làm người lương thiện. Tuy nhiên, bi kịch của Chí Phèo là không thể hoàn lương, bởi xã hội không cho anh cơ hội. Cái chết của Chí là kết cục tất yếu của một xã hội mục ruỗng, đầy bất công.

Thông qua hình tượng nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã thể hiện sự đồng cảm sâu sắc với những người nông dân nghèo khổ, bị áp bức. Ông cũng gửi gắm niềm tin mãnh liệt vào bản chất tốt đẹp của con người, dù cho hoàn cảnh có khắc nghiệt đến đâu. Giá trị nhân đạo của tác phẩm còn được thể hiện qua việc lên án mạnh mẽ xã hội cũ, đồng thời khẳng định quyền được sống, quyền được hưởng hạnh phúc của con người.

Tóm lại, "Chí Phèo" của Nam Cao là một tác phẩm văn học xuất sắc, có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm không chỉ là một bức tranh chân thực về xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám mà còn là một lời kêu gọi thức tỉnh lương tri, lòng nhân ái và sự cảm thông đối với những số phận bất hạnh. Thông qua tác phẩm, Nam Cao đã khẳng định tài năng xuất chúng của mình và để lại một dấu ấn không thể phai mờ trong lịch sử văn học Việt Nam.

Nghị luận về tác phẩm Chí Phèo bài số 2

Nam Cao là một nhà văn luôn thành công ở hai phương diện của sáng tác đó là khám phá về nội dung và phát minh sáng tạo về hình thức. Chính điều đó đã nâng tầm vóc nhà văn Nam Cao thành một nhà văn lớn, một tác gia lớn của nền văn xuôi hiện đại. Truyện ngắn Chí Phèo (1941) đã được xếp vào hàng kiệt tác bởi Nam Cao đã “khơi những nguồn chưa ai khơi, sáng tạo những gì chưa có” cả về nội dung và nghệ thuật. Ở tác phẩm này nhà văn Nam Cao đã thể hiện được một trình độ bậc thầy về nghệ thuật xây dựng nhân vật sống động, khám phá miêu tả sâu sắc tâm lí nhân vật, kết cấu tác phẩm một cách độc đáo và có một vốn ngôn ngữ phong phú sinh động cho mọi loại hinh nhân vật. Theo dõi từng trang truyện ngắn đặc sắc này chúng ta sẽ thấy rất rõ tài nghệ đó của Nam Cao.

Nói đến văn xuôi là nói đến nghệ thuật xây dựng nhân vật, mỗi nhà văn có một cách thể hiện khác nhau và thành công ở những mức độ khác nhau. Đối với nhà văn Nam Cao ở tác phẩm này thì ông đã xây dựng được thành công cả tuyến nhân vật chính diện và phản diện và không những thành công mà thành công ở cấp điển hình.

Về các nhân vật phản diện nhà văn tập trung vào ba nhân vật đó là Bá Kiến, Lí Cường và Đội Tảo. Trong đó tác giả tập trung khắc họa bản chất của nhân vật Bá Kiến, Bá Kiến thức sự là một con hổ biết cười. Đối với một con mồi như Chí Phèo khi thì Bá Kiến nhỏ nhẹ để làm mềm nhũn Chí Phèo, có khi thì Bá Kiến dọa nạt bằng những lời lẽ có gang có thép. Ngoài cái thủ đoạn đó thì Bá Kiến được tác giả liệt kê ra nhiều thủ đoạn thâm độc xảo quyệt. Với những nét khắc họa đó nhà văn đã dựng lên được một Bá Kiến rất sống động, rất điển hình cho bọn cường hào ác bá ở nông thôn trước cách mạng tháng Tám.

Về nhân vật chính diện, nhà văn tập trung vào hai nhân vật và mối quan hệ của hai nhân vật đó là Chí Phèo và Thị Nở. Hai nhân vật này có số phận khác nhau nhưng lại làm sáng tỏ cho nhau. Trong đó Thị Nở thực chất là nhân vật để làm nổi bật con người Chí Phèo, bi kịch Chí Phèo. Chí Phèo hiện hình dưới ngòi bút của Nam Cao có số phận rất duyên từ xuất thân đến đời sống, nhưng Chí Phèo là nhân vật điển hình vì bên cạnh Chí Phèo còn có Năm Thọ, Binh Chức là những hình đồng dạng với Chí Phèo. Có thể khẳng định thành công nhất về mặt nghệ thuật của tác phẩm Chí Phèo là xây dựng được hai điển hình văn học, trong đó điển hình nổi bật nhất là nhân vật Chí Phèo.

Nói đến văn xuôi là nói đến nhân vật, nói đến nhân vật là nói đến tâm lí tính cách nhân vật, nói đến tác phẩm Chí Phèo là người ta nghĩ ngay đến cái tinh tế của nhà văn trong việc phát hiện ra được những nét tâm lí rất thật rất đúng của những con người tưởng là không có những nét tâm lí đó. Mỗi nhân vật sở dĩ thành công bởi những nét tâm lí tính cách khác nhau. Tâm lí của Bá Kiến là biết tâm lí của người đời, biết mềm nắn rắn buông, tâm lí của vợ Bá Kiến là hiếu kì lẳng lơ, tâm lí của người nông dân là sợ tai họa.

Khả năng miêu tả tâm lí sâu sắc nhất của Nam Cao trong tác phẩm này là đã khám phá được diễn tả được tâm lí của nhân vật chính đó là Chí Phèo và Thị Nở. Người đọc rất tâm đắc với nhà văn rất cảm phục nhà văn khi Nam Cao phát hiện được tâm lí của Chí Phèo khi gặp Thị Nở. Khi Chí Phèo nhận được bát cháo hành từ tay Thị Nở, Chí Phèo từ ngạc nhiên rồi sau đó là mắt ươn ướt cảm động và tiếp đến là có cái gì đó như là ăn năn muốn làm hòa với mọi người rồi làm nũng với Thị như với mẹ đó là những nét tâm lí rất thật của những con người muốn được tái sinh. Cái sâu sắc của Nam Cao chính là chỗ đó.

Một biểu hiện nghệ thuật độc đáo của tác phẩm đó là cách tổ chức kết cấu tác phẩm. Đó là một cách kết cấu vừa linh hoạt vừa độc đáo vừa đa dạng. Cái độc đáo đầu tiên của kết cấu tác phẩm là tác giả đã đảo ngược thời gian đi từ hiện tại rồi đến quá khứ rồi đến hiện tại. Một biểu hiện của kết cấu không mới nhưng lại rất hợp lí ở tác phẩm này đó là kết cấu theo lối khép kín. Nhà văn mở đầu tác phẩm bằng một lò gạch cũ nơi Chí Phèo ra đời rồi kết thúc tác phẩm cũng mọt lò gạch cũ với một sự liên tưởng một Chí Phèo con sắp ra đời. Cái vòng luẩn quẩn của cuộc đời Chí Phèo vẫn cứ tiếp diễn đó là vòng luân hồi nhưng lại bế tắc. Ý nghĩa của tác phẩm toát ra rất sâu sắc từ kết cấu này.

Ngoài hai kiểu kết cấu trên nhà văn đã tổ chức được một sự đa dạng của hành văn khi thì độc thoại khi thì đối thoại, khi thì kể, khi thì tả, khi thì tường thuật. Một phương diện nghệ thuật mà nhà văn rất thành công ở truyện ngắn Chí Phèo, đó là cách sử dụng ngôn ngữ rất phù hợp với từng đối tượng nhân vật. Ngôn ngữ của bọn Bá Kiến, Lí Cường là ngôn ngữ của bọn bề trên khi mềm mỏng khi đanh rắn rất biến hóa. Ngôn ngữ của các nhân vật như Chí Phèo, Thị Nở thì rất quê mùa có khi là tục tằn thô lỗ đó là loại ngôn ngữ phù hợp với tính cách nhân vật. Nhìn chung tác phẩm viết về đề tài người nông dân nên ngôn ngữ mà tác giả sử dụng trong tacs phẩm là loại ngôn ngữ bình dân chân quê, rất phù hợp với cảnh và tình của tác phẩm.

Truyện ngắn Chí Phèo là một trong những truyên ngắn xuất sắc tiêu biểu của văn học hiện thực trước cách mạng tháng tám nói chung của nhà văn Nam Cao nói riêng. Tác phẩm này thành công trên nhiều phương diện cả nội dung và hình thức, nhưng đặc biệt nhất vẫn là nghệ thuật xây dựng kết cấu tác phẩm. Cùng một vấn đề rất phổ biến của xã hội lúc bấy giờ nhưng với tài nghệ của mình Nam Cao dẫn điển hình hoá được cả hai loại nhân vật chính diện và phản diện. Đọc tác phẩm này chúng ta vừa cảm phục được cái tâm của tác giả lại vừa cảm phục cái tài của tác giả. Cái tâm và cái tài đó là tiền đề để nhà văn thành công ở tác phẩm này.

Nghị luận về tác phẩm Chí Phèo bài số 3

Trong dòng chảy văn học Việt Nam hiện thực phê phán trước Cách mạng tháng Tám, "Chí Phèo" của Nam Cao nổi lên như một kiệt tác, khắc họa sâu sắc tấn bi kịch của người nông dân bị tha hóa trong xã hội cũ. Tác phẩm không chỉ phản ánh chân thực hiện thực xã hội đương thời mà còn thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc thông qua số phận nhân vật Chí Phèo.

"Chí Phèo" là bức tranh hiện thực xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, một xã hội đầy rẫy những bất công, oan trái. Nam Cao đã phơi bày bộ mặt tàn ác của xã hội thực dân phong kiến, nơi mà người nông dân bị bóc lột, áp bức đến cùng cực. Bằng ngòi bút sắc sảo, ông đã vạch trần những thế lực đen tối như Bá Kiến, đại diện cho giai cấp thống trị, là kẻ đã đẩy Chí Phèo vào con đường tha hóa. Tác phẩm cũng phản ánh sự tha hóa của người nông dân lương thiện thành kẻ lưu manh, mất hết nhân tính do sự vùi dập của xã hội. Chí Phèo từ một anh canh điền hiền lành, chất phác đã trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, gây ra biết bao nhiêu tội ác.

Không chỉ dừng lại ở giá trị hiện thực, "Chí Phèo" còn là một tác phẩm giàu giá trị nhân đạo. Nam Cao đã dành sự đồng cảm sâu sắc cho nhân vật Chí Phèo, một con người bị xã hội vùi dập, tha hóa. Ông đã khám phá những góc khuất trong tâm hồn Chí Phèo, cho thấy dù đã bị tha hóa đến mức nào, trong Chí vẫn còn sót lại bản chất lương thiện. Tình yêu thương của Thị Nở đã đánh thức phần người còn lại trong Chí, khiến Chí khao khát được làm người lương thiện. Tuy nhiên, bi kịch của Chí Phèo là không thể cứu vãn. Xã hội tàn ác đã không cho Chí cơ hội làm lại cuộc đời. Cái chết của Chí Phèo là một kết cục tất yếu, nhưng cũng là một sự giải thoát cho nhân vật khỏi những đau khổ, dằn vặt.

Thông qua bi kịch của Chí Phèo, Nam Cao đã gửi gắm những thông điệp nhân văn sâu sắc. Ông tố cáo xã hội thực dân phong kiến đã chà đạp lên nhân phẩm và quyền sống của con người. Ông cũng khẳng định và đề cao những phẩm chất tốt đẹp của con người như tình yêu thương, khát vọng hạnh phúc, bản chất lương thiện. Đồng thời, tác giả cũng thể hiện niềm tin vào khả năng hoàn lương của con người nếu được sống trong một môi trường xã hội công bằng, nhân ái.

"Chí Phèo" là một tác phẩm có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Nó không chỉ là một câu chuyện về số phận bi thảm của một con người mà còn là một bản cáo trạng đanh thép về xã hội cũ. Tác phẩm đã thức tỉnh lương tri của con người, khơi dậy khát vọng về một xã hội công bằng, tốt đẹp hơn. "Chí Phèo" xứng đáng là một trong những tác phẩm kinh điển của văn học Việt Nam hiện đại.

Chí Phèo là một tác phẩm có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc

Nghị luận về tác phẩm Chí Phèo bài số 4

Năm 1941, truyện ngắn "Đôi lứa xứng đôi" của Nam Cao ra mắt độc giả. Đầu năm 1946, truyện được tái bản, ông đổi tên truyện thành "Chí Phèo". Nó là một tác phẩm viết về đề tài nông dân trước Cách mạng được xếp vào loại kiệt tác trong nền văn học Việt Nam hiện đại, làm cho tên tuổi Nam Cao trở thành bất tử. Qua nhân vật Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã phản ánh một cách chân thực khách quan trong từng chi tiết về nỗi thống khổ của người nông dân bị áp bức, bị lưu manh hóa trước Cách mạng.

Chí Phèo bốn mươi hay ngoài bốn mươi, lúc hắn chết? Hai mươi năm đầu, đời hắn đầy nước mắt. Tám năm đi tù trong oan uổng và uất hận. Hơn mười năm cuối đời, hắn trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, chỉ biết rượu và chửi, chỉ có máu và nước mắt. Chỉ có ba người quan hệ với hắn là Bá Kiến, vợ ba Bá Kiến và Thị Nở. Đó là lí lịch Chí Phèo.

Chí Phèo là một đứa không cha không mẹ, tứ cố vô thân. Kiếp người của hắn khổ từ khi nằm trong bụng một người đàn bà chửa hoang, cất tiếng khóc oe oe, mẹ hắn đùm hắn vào cái váy đụp vứt ở lò gạch cũ. Khi hắn xám ngắt, anh thả ống lưới rước hắn về đem cho mụ đàn bà góa mù; sau đó mụ ta bán hắn cho bác phó cối. Và khi bác phó cối chết thì hắn bơ vơ, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ. Một hoang thai, một vật vứt đi, một vật cho không, một vật đem bán, một kẻ bơ vơ làm thuê kiếm sống. Đó là trang đời cô đơn, đầy nước mắt của Chí Phèo. Một tuổi thơ đầy bất hạnh, đáng thương!

Năm 20 tuổi, Chí Phèo làm canh điền cho Bá Kiến. Chí Phèo bị vợ ba Bá Kiến lợi dụng "bắt hắn bóp chân, hay xoa bụng, đấm lưng” mà hắn bị đi tù bảy, tám năm. Một anh cố nông hiền lành đã bị người ta lợi dụng, bị tù oan uổng. Chính Bá Kiến là chủ mưu làm hại Chí Phèo. Nhà tù thực dân đã lưu manh hóa anh cố nông hiền lành này. Sau tám năm đi tù về, Chí hoàn toàn thay đổi. Cái đầu trọc lốc, cái mặt cơng cơng, cái răng cạo trắng hớn, hai mắt gườm gườm trông gớm chết. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy! Phải chàng Chí ngạo đời, thách thức với thiên hạ cho bõ uất ức căm hờn? Hay anh cố nông này bị nhà tù thực dân tha hóa, làm biến chất?

Nỗi thống khổ của Chí Phèo đến mức cùng cực là sau khi hắn đi tù về. Hắn đã gây ra bao "sự kiện", bao chuyện động trời. Chửi Bá Kiến, đến nỗi "mồ mả tổ tiên đến lộn lên mất!". Xô xát với Lí Cường rồi rạch mặt, kêu làng ăn vạ. Cụ Bá phải xử nhũn với hắn, giết gà thết rượu, đãi thêm đồng bạc để hắn về uống thuốc! Chí Phèo đốt quán mụ bán rượu. Ngồi uống rượu với chuối xanh chấm muối ở ngôi miếu con cạnh bờ sông, cầm dao nhọn đến nhà Bá Kiến lần thứ hai xin đi ở tù: "Bẩm cụ, con lại đến kêu cụ, cụ lại cho con đi ở tù"..., "con phải đâm chết dăm ba thằng, rồi cụ bất con giải huyện". Một sự thật cay đắng phũ phàng, như Chí Phèo nói: "... bẩm quả đi ở tù sướng quá. Đi ở tù còn có cơm mà ăn, bây giở về làng về nước, một thước cắm dùi không có, chủ làm gì nên ăn". Bá Kiến là một tên cường hào xảo quyệt "trị không lợi thì cụ dùng". Chỉ một câu mơn trớn, cụ cho Chí Phèo biết là anh ta với Lí Cường, con trai cụ “ còn có họ kia đấy". Chỉ một câu nói khích, Bá Kiến sai anh đầu bò này cầm dao đi thẳng đến nhà đội Tảo đòi nợ. Vô học, ngu dốt và lưu manh (sản phẩm của chế độ thực dân), Chí Phèo đã bị Bá Kiến "chinh phục". Năm đồng bạc, năm sào vườn ở bãi sông, Chí được cụ Bá "thưởng" cho. Năm đó Chí Phèo hăm bảy hăm tám, hắn "bỗng thành ra có nhà", hắn trở thành "anh chân tay mới" của Bá Kiến.

Đoạn đời hơn mười năm còn lại của Chí Phèo đầy máu và nước mắt. Hắn bị đầu độc bằng rượu và các món lợi khác. Hắn trở thành kẻ đâm thuê chém mướn. Hắn "đập phá bao nhiêu cơ nghiệp... làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện". Hai bàn tay hắn vấy đầy máu và tội ác. Cuộc đời hắn là những cơn say dài bất tận, mênh mông: "hắn đập đầu, rạch mặt, chửi bới, dọa nạt trong lúc say nóng rượu trong lúc say để rồi say nữa, say vô tận". Chí Phèo đã bị cướp mất cả hình người lẫn linh hồn. Người ta biến hắn thành một con quỷ dữ. Cái mắt hắn "vàng vàng", "sạm màu lại", "vằn dọc vằn ngang... biết bao nhiêu là sẹo . Hắn bị đẩy xuống hố thẳm tội ác. Cái thẻ biên tên tuổi hắn cũng không có. Hắn không biết tuổi hắn, "hắn không còn ngày tháng nữa", cả làng Vũ Đại "đều sự hấn thù tránh mặt hẳn mỗi lần hắn qua".

Chí Phèo đâu phải là kẻ mạnh! Hắn là một tên điên khùng, là một kẻ mất trí, là một con quỷ dữ. Cuộc uống rượu giữa hắn với Tự Lãng, một kẻ làm nghề thầy cúng kiêm hoạn lợn cho thấy nỗi cô đơn bơ vơ của những kiếp người đau khổ. Cuộc "làm tình" năm ngày đêm của hắn với Thị Nở, một người đàn bà ngoài ba mươi tuổi, dở hơi xấu ma chê quỷ hờn là một bước ngoặt trong cuộc đời Chí? Bát cháo hành và bàn tay săn sóc của Thị Nở đã đánh thức chút ít lương tri còn sót lại trong con người Chí Phèo. Hắn buồn nhớ lại mơ ước bình dị thời trai trẻ. Hắn "thèm lương thiện". Hắn muốn tùng với Thị Nở ở chung "một nhà cho vui” "làm thành một cặp rất xứng đôi".

Muốn thoát khỏi lốt quỷ dữ, muốn trở lại làm người, nhưng ai cho Chí làm người nữa? Bà cô Thị Nở không cho thị lấy "một thằng không cha", chỉ có một nghề là "rạch mặt ăn vạ”. Thị Nở đã phải chối bỏ cuộc tình. Thị đã dúi cho hắn một cái làm cho "hắn lăn khoèo xuống sân". Ai cho Chí Phèo làm người lương thiện? Làm thế nào để mất đi những vết sẹo mảnh chai trên mặt hắn? Đó là nỗi thống khổ của Chí Phèo. Chí Phèo đã bị xô đẩy vào con đường cùng bế tắc, không có lối thoát! Hắn đã uống rượu cho thật say! Hắn đến gặp Bá Kiến để "đòi lương thiện". Hắn đà đâm chết Bá Kiến rồi hắn tự sát! Đó là quy luật khốc liệt ở đời: "ác giả ác báo!". Từ một cố nông lương thiện, Chí Phèo bị biến thành quỷ dữ, bị cướp mất cả hình người lẫn linh hồn, rồi từ quỷ dữ mà "thèm lương thiện", mà muốn được trở lại làm người nhưng không thể được, không ai cho Chí được làm người!. Đó là một kiếp người đầy máu và nước mắt. Đó là nỗi thống khổ của Chí Phèo, nỗi thống khổ của người nông dân bị lưu manh hóa trước cách mạng.

Nam Cao đã khắc họa và xây dựng nhân vật Chí Phèo thành một nhân vật điển hình cho sự thống khổ và lưu manh hóa của tầng lớp nông dân nghèo trong xã hội thực dân phong kiến. Chí Phèo lại có những nét riêng, tính cách riêng. Chí Phèo, Năm Thọ, Binh Chức... đều là đầu bò, lưu manh, nhưng mỗi đứa lại có một cách riêng, một cuộc đời riêng, một số phận riêng. Chí Phèo, Lão Hạc, Lang Rận,... đều chết bi thảm, nhưng mỗi người lại tự tử, tự sát một cách khác nhau.

Nam Cao có tài kể chuyện, sử dụng ngôn ngữ nhân vật trong đối thoại, độc thoại rất sinh động, nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật Chí Phèo một cách sâu sắc. Ông đã phản ánh một cách chân thực, cụ thể nỗi thống khổ của người nông dân nghèo trước cách mạng. Qua cuộc đời thống khổ và cái chết bi thảm của Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã gióng lên một liếng chuông cảnh tỉnh: Hãy cứu lấy con người, hãy cứu lấy những người nông dân nghèo khổ, đau khổ, dốt nát... Hãy xóa bỏ xã hội thực dân, phong kiến nguồn gốc của sự áp bức bóc lột, của cái ác và đau thương. Qua đó, ta càng thấy rõ, truyện Chí Phèo là một kiệt tác văn chương chứa chan tinh thần nhân đạo thống thiết!

Nghị luận về tác phẩm Chí Phèo bài số 5

Trong kho tàng văn học Việt Nam, "Chí Phèo" của Nam Cao không chỉ là một kiệt tác hiện thực phê phán, mà còn là bản tình ca về sức mạnh cảm hóa của tình yêu thương. Thông qua câu chuyện đầy bi kịch của Chí Phèo, Nam Cao đã khẳng định tình yêu thương có sức mạnh to lớn, có thể thức tỉnh bản chất lương thiện và khơi dậy khát vọng sống trong mỗi con người, dù họ đã lầm đường lạc lối đến đâu.

Chí Phèo, từ một đứa trẻ bị bỏ rơi, lớn lên trong sự ghẻ lạnh của xã hội, đã bị tha hóa thành một con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Hắn sống trong sự cô độc, thù hận, ngày ngày chìm đắm trong rượu và những cơn say triền miên. Chí Phèo đã đánh mất nhân tính, trở thành nỗi ám ảnh của cả làng. Hắn không còn cảm nhận được niềm vui, nỗi buồn, không còn biết yêu thương hay ghét bỏ. Cuộc đời Chí Phèo tưởng chừng như đã chìm vào bóng tối vĩnh viễn.

Thế nhưng, tình yêu thương của Thị Nở đã như một tia sáng le lói soi rọi vào tâm hồn tăm tối của Chí Phèo. Thị Nở, một người đàn bà xấu xí, thô kệch nhưng có tấm lòng nhân hậu, đã đem đến cho Chí Phèo bát cháo hành giản dị nhưng chan chứa tình người. Chính bát cháo hành ấy đã đánh thức bản chất lương thiện còn sót lại trong Chí Phèo. Lần đầu tiên sau bao năm tháng đắm chìm trong tội lỗi, Chí Phèo cảm nhận được hơi ấm của tình người, cảm nhận được sự quan tâm, chăm sóc. Hắn khao khát được yêu thương, được sống một cuộc sống lương thiện.

Tình yêu thương của Thị Nở đã làm thay đổi hoàn toàn con người Chí Phèo. Hắn không còn là con quỷ dữ của làng Vũ Đại, mà trở thành một người đàn ông biết yêu thương, biết rung động trước cái đẹp. Chí Phèo khao khát được làm người lương thiện, được sống một cuộc sống bình thường như bao người khác. Hắn muốn có một mái ấm gia đình, có vợ, có con, có những bữa cơm đầm ấm. Tuy nhiên, xã hội tàn nhẫn đã không cho Chí Phèo cơ hội làm lại cuộc đời. Hắn bị Bá Kiến và những người trong làng xua đuổi, khinh miệt. Thị Nở cũng quay lưng lại với Chí Phèo vì những lời đồn đại ác ý. Trong nỗi tuyệt vọng cùng cực, Chí Phèo đã tìm đến cái chết như một sự giải thoát. Cái chết của Chí Phèo là một kết cục bi thảm, nhưng nó cũng là một minh chứng cho sức mạnh cảm hóa của tình yêu thương. Dù chỉ trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, tình yêu thương của Thị Nở đã đánh thức bản chất lương thiện trong Chí Phèo, giúp hắn nhận ra giá trị của cuộc sống và khao khát được làm người.

Thông qua câu chuyện về Chí Phèo, Nam Cao đã gửi gắm thông điệp về sức mạnh của tình yêu thương trong việc cảm hóa con người. Tình yêu thương có thể làm thay đổi một con người, có thể thức tỉnh những giá trị tốt đẹp trong tâm hồn họ. Dù trong hoàn cảnh nào, tình yêu thương vẫn luôn là liều thuốc quý giá nhất để chữa lành những vết thương lòng và mang lại niềm tin, hy vọng cho con người.

-/-

Các em vừa tham khảo những gợi ý của Đọc tài liệu cho bài văn nghị luận về tác phẩm Chí Phèo có kèm theo một số bài văn mẫu hay. Ngoài ra, để cải thiện và nâng cao kĩ năng viết văn các em có thể tìm đọc thêm các bài Văn mẫu lớp 11 khác do Đọc tài liệu biên soạn.

Bạn còn vấn đề gì băn khoăn?
Vui lòng cung cấp thêm thông tin để chúng tôi giúp bạn
Hủy

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM