Bạn đang tìm tài liệu nghị luận về nhà thơ Xuân Quỳnh - nhà thơ nữ hàng đầu của nửa cuối thế kỷ 20 với những bài thơ ở nhiều đề tài, chủ đề khác nhau nhưng nổi trội hơn cả vẫn là mảng thơ tình. “Sóng”, “Thuyền và biển’, “Tự hát”... là những bài thơ tiêu biểu nhất của bà.
Đọc Tài Liệu giới thiệu bộ tài liệu những bài văn nghị luận hay nhất về nhà thơ Xuân Quỳnh giúp các bạn hiểu thêm về nữ thi sĩ nổi tiếng và thơ của bà, cùng tham khảo ngay nhé!
Tuyển tập những bài nghị luận về nhà thơ Xuân Quỳnh hay nhất
Nghị luận về nhà thơ Xuân Quỳnh - Bài số 1
Trước mặt tôi lúc này là những cuốn sách của Xuân Quỳnh, hàng chục tập thơ và văn xuôi, mỏng mảnh, gọn nhẹ. Mắt lướt trên các trang chữ mà sao khó định thần vào một điều gì. Tôi tự hiểu thời điểm này, trong trí nhớ vẫn còn nguyên cái tai hoạ dữ dội vừa cắt ngang cuộc đời tác giả, cùng một lúc với cả người chồng và đứa con yêu. Làm sao có thể chế ngự cảm giác xót xa bàng hoàng để huy động tư duy phân tích? Lại nhớ lời trách của Xuân Quỳnh dạo nào: “Các ông là những nhà phê bình mà tôi tin, thế mà sao các ông chả viết gì về thơ tôi? Dở hay gì cứ nói thẳng, tôi nghe hết!”. Không thật nhớ là khi ấy tôi đã chống chế ra sao, hình như đại khái là: Thì bà là hiện tượng quan trọng, nên chúng tôi mới phải dè chừng khi động bút chứ sao!
Lời đối đáp thoảng qua ấy, vào thời điểm hôm nay, tôi xin nhắc lại. Đúng thế, Xuân Quỳnh là hiện tượng rất quan trọng của nền thơ chúng ta. Có lẽ là từ thời Hồ Xuân Hương, qua các chặng phát triển, phải đến Xuân Quỳnh, nền thơ ấy mới thấy lại một nữ thi sĩ đầy tài năng và sự đa dạng của một tâm hồn được thể hiện ở một tầm cỡ đáng kể như vậy, dồi dào phong phú như vậy.
Nhưng Xuân Quỳnh không chỉ là xuất chúng trong giới “thơ phụ nữ” (chữ dùng này quả là rất ước lệ, chỉ thuần tuý căn cứ vào giới tính tác giả!). Đây còn là một gương mặt thơ tiêu biểu của nền thơ Việt Nam hiện đại. Hai chục năm nay, thơ Xuân Quỳnh đã đi vào người đọc, trở thành tiếng nói tâm tình về những ngọt bùi cay đắng ở đời, tiếng nói của tình yêu và tình mẫu tử, tiếng nói hồn hậu, dung dị, chứa đựng sự sống đương thời mà cũng in dấu nếp nghĩ nếp cảm của tâm hồn người Việt tự xa xưa. Những thiếu nữ bước vào tuổi yêu đương đã tìm đến thơ Xuân Quỳnh. Những người mẹ trẻ phập phồng ngày tháng theo dõi mỗi hơi thở mỗi bước đi của đứa con mình, có thể tìm được ở thơ Xuân Quỳnh một người bạn sẻ chia tâm sự… Đối với người làm thơ, được như thế đã là hạnh phúc.
Nói đến “xuất xứ” của Xuân Quỳnh giữa làng thơ, lại phải nói đến sự xuất hiện đông đảo, ào ạt của một lớp người viết mới, đem vào văn học những giọng nói mới, vào những năm sáu mươi. Nếu lấy mốc sự xuất hiện ấy là những năm 1964-65 thì Xuân Quỳnh quả là có “ra trước” chút ít, giống như một người chị. Nhưng chị đã nhập bọn như một người bạn cùng lứa. Lớp nhà thơ này, trên chặng tiếp theo, cuộc đời và nghệ thuật của họ vừa tách biệt, phân hóa, lại vừa xen cài, giằng chéo vào nhau. Xét về nhiều mặt, chính ngay mối tình Xuân Quỳnh – Lưu Quang Vũ và sự nghiệp văn học của cặp vợ chồng này cũng là nằm trọn vẹn trong phong trào “văn học trẻ” ấy. Cho đến tận gần đây, những thành viên của thế hệ này đã là lực lượng chính của “sản xuất văn học”, nhưng hầu như chưa ai nghĩ đến một sự tổng kết, dù sơ bộ, về họ. Chính việc Xuân Quỳnh và Lưu Quang Vũ đột ngột ra đi đã khiến chúng ta phải nghĩ đến công việc ấy, một công việc hẳn là sẽ có ích cho văn học sử, hơn nữa, cho thái độ đón nhận của chúng ta đối với những thế hệ mới, đã và sẽ bước vào văn học.
Về thế hệ này, đương thời người ta thường nói rằng họ không có gì để từ bỏ, lựa chọn, không có việc “nhận đường”, tìm đường trong nghệ thuật. Cho đến hôm nay, điều đó có vẻ không phù hợp với thực tế. Văn học là quá trình, cuộc đời sáng tác cũng là quá trình. Ở thế hệ nhà văn này, không thể hoàn toàn nói rằng con đường nghệ thuật của họ đã không phải vượt qua những trở lực, đã không phải trải qua những lầm lẫn, bị lừa dối và tự lừa dối, bị mê hoặc và tự mê hoặc, rồi tỉnh ngộ, tự tìm đường đi trong nghệ thuật, tới những đích khác nhau. Những điều này, thời gian sẽ cho thấy rõ dần, qua từng trường hợp cụ thể.
Ai quen biết Xuân Quỳnh, hẳn sẽ để ý đến nét khác lạ nơi tay chị: một đôi bàn tay như già hơn nhiều so với gương mặt. Một gương mặt xinh đẹp, trẻ hơn tuổi, với cặp mắt tinh anh, duyên dáng, như rất dễ mỉm cười, che hết mọi phiền lo. Gương mặt phụ nữ đẹp đến nỗi khó tin đấy lại là người làm thơ. Mà người phụ nữ đẹp và làm thơ ấy lại có đôi bàn tay giống như gương mặt Trương Chi! Chính Xuân Quỳnh đã không ít lần viết về bàn tay mình, ví dụ mấy câu này, trong giọng giãi bày với người yêu:
Bàn tay em ngón chẳng thon dài
Vệt chai cũ, đường gân xanh vất vả
Em đánh chắt chơi chuyền thuở nhỏ
Hái rau dền rau dệu nấu canh
Tập vá may, tết tóc cho mình
Rồi úp mặt trên bàn tay khóc mẹ
Đôi bàn tay tiết lộ số phận. Một số phận đã từng không may mắn, dường như luôn luôn phải “đánh đu” với cuộc sống, với hạnh phúc. Cũng là trớ trêu chăng, con người có số phận như thế lại mang trong mình nhiều khao khát. Trong một bài thơ viết năm 1962, Xuân Quỳnh viết rằng ngày bé mình chỉ mơ đến rằm tháng Tám để được vui chơi với bạn bè dưới trăng thu:
khi lớn khôn ước mơ càng cháy bỏng:
mơ ước thành nhà thơ ca ngợi cuộc đời,
đưa thơ cùng du hành vũ trụ, sưởi ấm vừng trăng lạnh, đưa thơ đi cập bến các vì sao…
Như lòng ta chẳng bao giờ nguôi khát vọng
Biết bay rồi ta lại muốn bay cao.
Hình như gốc gác tấn kịch của mỗi người sáng tạo là như thế. Ít ai làm “nghề” này lại không luôn luôn tự cảm thấy trạng thái quá sức của mình. Như luôn luôn chới với vươn về cái đích rất khó tới. Phải đánh cuộc với số phận, với sự sống, với hạnh phúc. Vả chăng, chính năng lượng của thơ, của nghệ thuật sẽ nảy sinh từ đó. Quá sức vì khát vọng, có lẽ, đó cũng là trạng thái của Xuân Quỳnh.
Trong một bản tiểu sử văn học viết ngày 29-8-1982, trả lời cho đề mục Nguyên nhân bắt đầu hoạt động văn học, Xuân Quỳnh ghi hai điểm:
"− Vì thích thú. Làm văn học cảm thấy như mình được sống thêm một cuộc đời khác nữa.
− Vì uất ức. Khi mới vào nghề bị xô đẩy, bị khinh rẻ nên tôi quyết phải sống. Mà sống tức là phải viết“.
Chặng đường Xuân Quỳnh từ một “cô văn công” trở thành một biên tập viên văn học quả là có gian nan hơn so với một số người khác. Nhưng đây không phải chỗ để trách cứ các nhà quản lý: chị chủ yếu là tự học chứ không được đào tạo. Vả lại, chặng đường ấy chị đã khắc phục được chỉ sau dăm năm. Và điều cốt yếu đối với chị là trở thành nhà thơ chứ không phải chỉ là một biên tập viên văn học.
Tấn kịch của chị là ở một phía khác, ở đấy những định kiến và can thiệp từ bên ngoài chỉ có thể gia giảm cho những đau khổ hay niềm vui, chứ không thay đổi căn bản được điều gì. Và cái đáng nói không phải là ở chỗ chị đã may hay không may lâm vào tấn kịch của mình (Mấy ai không có tấn kịch của riêng mình!). Cái đáng nói là trong khi sống trọn vẹn cái tấn kịch của chính mình, chị đã nói được về nó bằng thơ. Để người ngoài có thể soi vào, có thể ướm những trải nghiệm khổ đau, vui sướng, giận hờn của chị vào trạng thái tình cảm của họ. Để người ngoài có thể mượn những tiếng lòng mà chị đã thốt lên kia làm tiếng lòng của họ. Phải chăng làm nhà thơ chính là như thế?
Diễn đạt tấn kịch của Xuân Quỳnh là không dễ. Sa vào các chi tiết tỉ mỉ thì dễ thành tọc mạch vô ích mà cũng chưa chắc đã tỏ rõ được điều gì. Tôi thử men theo một đường viền.
Ở ta và có lẽ không chỉ ở ta, đã nhiều thời từng có những nam thanh nữ tú từ các làng quê tìm vào thành thị. Họ vừa ca hát trước phố xá về tình yêu làng quê, nếp sống làng quê, vừa tìm cách “làm tổ” tại thị thành, thích nghi với đời sống thị thành. Dẫu họ có trở thành người kẻ chợ từ trang phục đến lối ứng xử thì trong đáy sâu tâm hồn họ, nếp sống làng quê, tính cách làng quê vẫn còn lại đó. Vả chăng, quá trình thích ứng cũng là quá trình vấp váp. Cái dại khờ, cả tin, nông nổi của họ cứ mỗi bận lại phơi ra trước những gì là tinh ranh, biến báo nơi thành thị. Vấp váp có thể gây bươu đầu, sứt trán, sái chân, nhưng quan trọng hơn, nó nhói lên trong đáy hồn những day dứt, giận hờn, nó đánh thức những mặc cảm sâu kín, nói khơi dòng cho những bài hát mới, trong đó làng quê là nỗi nhớ nhạt nhoà mà lại khôn khuây, hóa thân vào nỗi nhớ cỏ xanh, rau dại, hoa dại, bến bãi, đất cát, còn thành thị thì vừa như thêm vẻ bí hiểm, đáng sợ, vừa như thêm quyến rũ, mời gọi. Nhưng dẫn bước vào đó thì thế nào cũng phải tự cảnh giác với tính khờ khạo, cả tin, với những định kiến giản đơn một chiều, − điều mà những con người từng để lại nhúm rau sau luỹ tre xanh khó lòng mà dứt ra được.
Phải chăng ở Xuân Quỳnh cũng có tấn kịch tương tự? Cái tấn kịch đã hóa thân trong tình yêu − lĩnh vực hình như là đam mê hết sức cốt yếu đối với cuộc đời chị, và đã được bộc lộ ở rất nhiều cung bậc, rất nhiều sắc thái: tha thiết đến mức như tuyệt vọng, như van vỉ, như thề bồi, hồn nhiên trong thỏa mãn chốc lát, lo âu cho hạnh phúc không tròn, ngờ vực lòng ai tàn phai lời ước hẹn… Có thể trả giá đắt cho ảo tưởng về hạnh phúc, nhưng từ bỏ thì chị không thể. Giả như trong cuộc đời người phụ nữ ấy đã không có những trắc trở của tình yêu, đã không từng hơn một lần qua đò sang bến, thì cũng khó hình dung mảng thơ tình của chị sẽ mang diện mạo ra sao. Bởi “chuẩn mực” tình yêu ở nhà thơ khao khát yêu đương ấy vẫn có vẻ gì rất đồng nội, quê kiểng, nó gắn với sự duy nhất, sự chung tình, với tổ ấm, với mái nhà, với hạnh phúc của hôn nhân, nó đòi tuyệt đối, nó dứt khoát không chấp nhận mọi ngập ngừng trù trừ, láu cá, nó không chịu bị xẻ chia, bị vay mượn, dẫu là tạm thời, là thường tình, nó xoè tất cả lông cánh, móng vuốt ra để giữ gìn tình yêu trước mọi sự xâm phạm tự phía ngoài.
Chính cái chuẩn mực hằng đeo đuổi ấy lại trái hẳn với thực tế đã trải. Hóa ra, người đeo đuổi một ý niệm tình yêu chuyên nhất lại bị mang tiếng trước người đời như là kẻ có lắm sự yêu đương “phức tạp”, phá phách (Luôn tiện, xin nêu nhận xét thú vị của một người bạn tôi: các nhà thơ thường không đứng ngoài đạo đức, chính họ thường hướng tới tạo dựng một đạo đức cho tương lai. Nhưng không ít hành vi của họ lại thường bị người đương thời coi là vi phạm đạo đức!). Dẫu sao, đấy là chuyện bề ngoài. Điều nên nói là bề trong, là “lợi ích” của văn học do tất cả các chuyện này: chính tấn kịch ấy đã biến Xuân Quỳnh từ con người có nhu cầu tự ca hát về tình yêu và cuộc săn đuổi hạnh phúc của mình thành một nhà thơ viết về tình yêu và loại phong phú nhất trong số các nhà thơ cùng thế hệ.
Những người làm thơ cùng thế hệ Xuân Quỳnh đã được nghe không ít những lời khuyên: hãy viết về những cái rộng hơn ngoài cái “tôi” của mình. Xuân Quỳnh đã nỗ lực không ít để đáp ứng điều này. Và nhờ vậy chăng, thế giới sự vật trong thơ chị được mở rộng ra không ít. Song, cái mà chị viết nhiều nhất, thành công nhất lại vẫn là về chính cuộc đời mình, những chuyện của mình, những gì liên quan đến mình. Có lẽ, ai viết tiểu sử chi tiết của Xuân Quỳnh sẽ có thể dựa khá sát vào thơ của chị. Tính chất tự truyện là nét đậm, quán xuyến hàng loạt bài thơ, tập thơ, và cũng là nét khác biệt rõ rệt so với thơ của nhiều người cùng thế hệ. Gần như chị trở thành nhân vật văn học của chính thơ chị. Chị đam mê sống, đam mê yêu, đam mê trong thiên chức làm vợ làm mẹ − những điều ấy, nhân vật kia nói lên giúp. Mọi sự vẫn như thế thôi, nhưng đã là sang một thế giới khác, dịu nhẹ hơn, có thể dệt thêm màu vẻ cho cả khổ đau lẫn hạnh phúc. Vẫn chỉ là mình và người mình yêu đấy thôi, nhưng đó đã như mơ ước của mình về mình và cho mình. Phải chăng đấy là cái “cuộc đời khác nữa” mà Xuân Quỳnh tìm thấy trong văn học, nơi thăng hoa và giải thoát độc đáo cho tấn kịch của chị? Nói một cách giản dị, chính là sống trọn vẹn tấn kịch của chính mình, ghi lại bằng thơ những động thái tâm hồn mình, chị trở thành nhà thơ được công chúng thừa nhận. Có thể là chị không lưu ý lắm đến cái được gọi là “hằng số nhân bản” mà các nhà khoa học thường xuyên nêu lên, nhưng hẳn là chị tin rằng không có chuyện gì của cuộc đời một con người lại là quá ư dị biệt, xa lạ với cuộc đời những người khác.
Ai xúc tiếp nhiều với Xuân Quỳnh, hẳn sẽ thấy chị rất không ưa những gì nghiêm nghị, trịnh trọng. Chị sẵn sàng phá vỡ cái không khí nghi thức đạo mạo bằng những câu đùa hoặc hóm hỉnh, ngộ nghĩnh, nghịch ngợm, hoặc đôi khi khá chanh chua, nhưng thường là hết sức dân dã, hết sức phố xá. Đằng sau cái tác phong mà không phải ai cũng dễ ưa ấy, phải chăng có thể nghĩ rằng ở con người này đang dần dần hội lại những nét gì tương tự như là sự thông tuệ dân gian, trí khôn và cách ứng xử dân gian? Tôi vẫn ngờ rằng con người Xuân Quỳnh thuộc về văn hóa dân gian và cổ truyền nhiều hơn là thuộc về văn hóa hiện đại. Nếu vậy, hẳn đây lại là chỉ dẫn về một khía cạnh nữa trong tấn kịch của chị, bởi hình như cũng ở mức nhiều hơn ai, chị cố gắng làm người của hiện đại, của đương thời, cả trong đời sống lẫn trong văn học.
Chỉ học hết lớp 6, chị đã đi làm, và từ đó, sự tự học của chị thật bền bỉ. Chị có mặt ở hầu hết các loại lớp văn hóa, chính trị, chuyên môn, ngoại ngữ do Hội tổ chức. Vài năm gần đây, chị vẫn gắng học thêm để nâng cao trình độ tiếng Pháp, tập dịch thơ rồi nhờ thầy sửa giúp, để rút kinh nghiệm hơn là để đưa đăng. Và chị đọc rất chăm. Phải thức khuya mà đọc, chị bảo thế. Nhất là sách dịch, từ nhiều nền văn học khác nhau. Tôi còn nhớ, khi đọc xong Trăm năm cô đơn, chị còn mượn đọc các tài liệu phân tích, để hiểu tác phẩm của một nền văn hóa khác, với chúng ta còn là xa cách, lạ lẫm. Cũng có thể thấy dấu vết sự học hỏi của Xuân Quỳnh ở ngay thơ chị. Từ bài mở đầu tập Chồi biếc in rõ dấu ca dao, sang những tập thơ sau này, chị đã trở nên lành nghề, thậm chí đã biết tận dụng cả sự khéo tay, tận dụng những cách cấu tứ của cả nhà thơ cùng lứa lẫn nhà thơ lớp trước. Và chị đã văn chương hóa không ít, hơn nữa, đã cùng các nhà thơ cùng lứa tạo ra một kiểu “văn chương hóa” mới, một kiểu trang sức mới. Nhưng cốt cách thơ Xuân Quỳnh, qua mọi biến thái vẫn gắn nhiều hơn với những gì đã có nơi chị từ điểm xuất phát. Ấy là một giọng thơ dù biến hóa đến mức văn hoa kiểu sức vẫn còn lại cái phần gắn bó với lối nói, lối nghĩ, lối cảm thông thường, có thể là xa xưa nữa, của người Việt, của tiếng Việt.
Thơ Xuân Quỳnh bao giờ cũng dễ hiểu đối với công chúng đông đảo. Sáng rõ, nhã nhặn, giản dị − là những đặc tính được chị ưa thích, cả cho thơ lẫn cho văn xuôi. Không phải chị không biết đến luật thay đổi của thời gian đối với các thị hiếu nghệ thuật. Đã có lúc chị thẳng thắn chế giễu cái chất mà chị goi là “âm lịch”, tức là cái cổ lỗ, cũ kỹ trong thơ văn của những cây bút nào đó. Và chị cũng không tự coi mình là “tân thời”. Không phải là không có dụng ý khi tập thơ tuyển Sân ga chiều em đi được kết thúc bằng hai câu nhắn gửi người đọc
“Anh hãy nghĩ khác xa điều tôi nghĩ.
Thơ tôi làm không phải để anh theo”.
Nhưng dẫu sao, Xuân Quỳnh, với tư cách một con người và một nhà thơ, vẫn gắn bó, vẫn hướng nhiều hơn về phía những chuẩn mực, những nền nếp đã hình thành từ xưa của đời sống và của nghệ thuật. Ở con người Xuân Quỳnh vẫn tiềm tàng nét đơn giản, thậm chí trẻ thơ, “đã yêu củ ấu cũng tròn”, đối với mọi người, mọi sự. Xuân Quỳnh không thích, thậm chí không đồng tình với một số tìm tòi khác lạ của một số bạn viết mới gần đây − đó âu cũng là một sự thường. Vả chăng cũng là một nét thuộc nhân cách nghệ sĩ: mọi phản ứng của một nhân cách như vậy đều nhằm bảo vệ thị hiếu nghệ thuật của mình, tín niệm nghệ thuật của mình. Một đội ngũ nghệ sĩ cùng thời cùng lứa chỉ có yêu văn chương của nhau, tâng bốc nghệ thuật của nhau, không có xung đột về thị hiếu, về xu hướng nghệ thuật − thì chưa hẳn đã là đội ngũ có thể làm nên một nền nghệ thuật thật sự đặc sắc, đa dạng.
Xuân Quỳnh đã từng tự bảo vệ thị hiếu và quan niệm nghệ thuật của chị, bằng chính sáng tác của chị. Công chúng nhận ra ở chị một hồn thơ gần gũi, như đã thân quen từ lâu. Đến lượt những bạn viết mới, họ cũng phải tự tìm ra và tự bảo vệ lấy quan niệm nghệ thuật của họ, bằng sáng tác của họ, và họ cũng sẽ tạo ra được công chúng của mình.
Mươi năm trước đây, Xuân Quỳnh viết trong một bài thơ:
Sẽ có ngày tóc tôi trắng như bông
Đi giữa dòng người, đi giữa tháng năm…
Hôm nay, thật đau đớn, cái điều chị mong sẽ có đó − sẽ không thể có nữa. Những người cùng thời cùng lứa với chị phải bắt đầu tập nghĩ rằng chị đã là người thiên cổ. Nhưng những bài hát của chị, những bài hát tình yêu có hương vị cổ truyền, có cả cay đắng, ngọt ngào, hờn giận, xót xa, nông nổi, những điệu ru đằm thắm tình mẫu tử ấp iu, những tiếng lòng tâm sự nhỏ nhẹ hồn hậu về cuộc sống thường nhật của con người từng sống trong thời đạn bom hôm qua và thời gây dựng lại xiết bao nhọc nhằn mà không thiếu niềm vui hôm nay, những bài hát ấy của Xuân Quỳnh sẽ không dễ lìa xa cuộc sống chúng ta, con người chúng ta, văn học chúng ta.
Tham khảo:
Nghị luận về nhà thơ Xuân Quỳnh - Bài số 2
Xuân Quỳnh, một cô gái mồ côi nghèo khổ: lớn lên giữa một thời kì đất nước phài đương đầu với vô vàn khó khăn về kinh tế, về chiến tranh… Nhưng Xuân Quỳnh, khác nào một cây xương rồng kiên cường và kì diệu trên sa mạc, đã vắt kiệt sức mình để nở những bông hoa quý cho cuộc đời.
Xuân Quỳnh (1942-1988) là nhà thơ nữ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ sinh ra ở thập kỉ 40 và “ra ràng” với những tác phẩm thơ trẻ ở thập kỉ 60. Thế hệ các nhà thơ này hoàn toàn thuộc về thời kì “lịch sử dân tộc vừa lật sang trang mới” (cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi). Sau lưng họ, thời đại phong kiến thuộc địa đã bị đẩy lùi vào dĩ vãng. Trước mắt họ là cả một chân trời vô cùng xán lạn của đất nước đang bắt đầu bước vào thời kì phục hưng. Họ là những “con người mới” của thời đại phục hưng ấy.
Đối với họ, các thi nhân thời tiền chiến và thời kì kháng chiến chống Pháp là những bậc thầy, những người anh, người chị. Nhưng có lẽ không một ai trong số họ có ý tưởng “giẫm vào vết chân” của các bậc tiền bối đáng kính ấy. Mặt khác, do đầu óc họ còn quá trong trẻo, trí tuệ của họ còn được mở mang tương đối toàn diện, họ không trở thành những nhà thơ minh họa. Trái lại, một số lớn nhà thơ, họ viết về cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, ra đời trong cảnh đạn bom khốc liệt, lại đầy ắp rung cảm chân thực, đầy ắp tính nhân bản mà rất ít tính chất giáo điều.
Tựa như “những mạch nước ngầm sôi sục”, họ thầm lặng dồn sức lực cho một cuộc cách tân thơ trong giai đoạn mới. Trên thực tế, những sáng tạo và cống hiến của các nhà thơ thuộc thế hệ những năm 60 này là không thể phủ nhận. Đã xuất hiện những tài năng thơ thực thụ mà Xuân Quỳnh không phải là gương mặt duy nhất. Đã có những dịch giả thơ cự phách. Đã có những tác phẩm thơ ưu tú. Có thể nói thế hệ các nhà thơ nhà văn trẻ này là lực lượng sáng tác quan trọng của văn học Việt Nam suốt bốn thập kỉ qua.
Một vài người trong số họ đã là nguyên nhân gây nên “những cơn sóng gió” trên diễn đàn văn học, làm tốn khá nhiều giấy mực và hơi sức của các nhà phê bình văn học. Chúng ta tin rằng tất cả những điều đó sẽ được lịch sử văn học tổng kết đánh giá một cách thỏa đáng trong một tương lai không xa.
Tuy nhiên thế hệ các nhà thơ này cũng đã phải trải qua những bước đi dò dẫm, cũng mang trong mình không ít nhược điểm, cũng đã từng nếm mùi thất bại. Một số người, trên thực tế chỉ được vài ba bước đầu tiên rồi chững lại, hụt hững và mất hướng. Tại sao vậy? Bởi vì họ chưa biết khơi một dòng thông giữa ao chuôm thơ của họ với bể nguồn vô tận thi ca: đó là số phận hàm chứa cái đẹp của con người thời đại, của dân tộc và của nhân loại. Một số nhà thơ nhiếp ảnh thường chỉ phù du trên bề mặt của một cuộc sống nhỏ hẹp, đến một lúc nào đó bỗng cảm thấy bị cạn kiệt cả về đề tài và lẫn hồn thơ. Một số khá đông khác không hiểu thấu rằng một bài thơ hay được quyết định bởi cái linh hồn chất đọng trong đó. Thiếu hụt cả ý lẫn tình, họ sa vào bệnh hình thức chủ nghĩa, thích gây cảm giác lạ bằng cách dùng nhiều câu chữ kì cục. một số người bất cập với sự sáng tạo, quay về mô phỏng thơ xưa, nhiều nhất là mô phỏng thơ Nguyễn Bính. Thơ lục bát nở rộ ở giai đoạn mới, tuy nhiên nội dung chưa được phong phú. Những bài thơ lục bát diễn tả những nỗi buồn chán và nỗi thất tình chiếm tỉ lệ hơi nhiều.
Nhìn tổng quát, chúng ta có thể thấy một căn bệnh nặng của thơ giai đoạn này là: rất nhiều bài thơ không hề được xây dựng trên một hình tượng văn học mang chất thơ, một dòng ý tưởng đậm đặc hoặc một luồng cảm xúc tập trung nào. Trái lại cả bài thơ chỉ là một cuộc kể lể dài dòng những suy nghĩ tản mạn, đôi khi ngoắt ngoéo khiến người đọc dù kiên nhẫn đến mấy cũng phải mệt mỏi.
Chính vì vậy một yêu cầu búc xúc “nâng cao thơ” đang được đặt ra, và các nhà thơ trẻ cũng đang không ngừng tu dưỡng, tự điều chỉnh, để có những bài thơ thực sự giá trị. Thế hệ các nhà thơ “đăng đàn” trong những năm 60 chỉ là những thế hệ mở đầu của “phong trào thơ trẻ”. Đỉnh cao của thi ca Việt Nam thời đại mới hãy còn phía trước.
Phải trải qua nhiều thập kỉ thai nghén, lịch sử và đất nước mới sản sinh ra được những con người tài hoa và xuất chúng như cặp Xuân Quỳnh - Lưu Quang Vũ. Nói như Nguyễn Công Trứ, họ chính là “khí đẹp của con sông chung đúc lại” (Dã thị giang sơn chung tú khí). Cuộc hôn nhân của Xuân Quỳnh và Lưu Quang Vũ là cái duyên tất yếu của hai tài năng. Chị đã có những giây phút thăng hoa trong tình yêu nhưng cũng có những lúc phải đóng vai của một người hạnh phúc. Phải chăng đó là một tình yêu, mà người tạo hóa, không ai tạo ra nổi.
Xuân Quỳnh, một cô gái mồ côi nghèo khổ: lớn lên giữa một thời kì đất nước phài đương đầu với vô vàn khó khăn về kinh tế, về chiến tranh… Nhưng Xuân Quỳnh, khác nào một cây xương rồng kiên cường và kì diệu trên sa mạc, đã vắt kiệt sức mình để nở những bông hoa quý cho cuộc đời.
Cũng giống như hầu hết nữ sĩ Đông Tây Kim Cổ, Xuân Quỳnh làm thơ cốt để diễn tả cuộc sống của chính mình về tất cả mọi phương diện: những khát khao, những tình cảm, những suy nghĩ, và “sự sống” của một người phụ nữ. Vì lẽ đó hầu hết thơ của chị đều là thơ trữ tình. Đất nước, thiên nhiên, thời đại đều được phản ánh vào thơ chị thông qua cái lăng kính trữ tình đó. Thơ Xuân Quỳnh khác nào một cuốn nhật kí bỏ ngỏ và ai ngờ, chính vì vậy mà thơ chị được đông đảo quần chúng- nam, nữ, phụ lão và cả ấu, cả lính nữa nâng niu và nồng nhiệt đón nhận. Họ bị thu hút bởi những gì rất “Hồ Xuân Hương” nơi chị: Một người phụ nữ xinh đẹp, chân chất, đôn hậu, rất mực yêu đời và vui tính nhưng cung rất mực sắc sảo và “đáo để”, còn thơ chị thật là “cực kì”!
Léc- môn- tốp, văn hào Nga thế kỉ XIX, đã hóm hỉnh chia đàn bà ra làm hai loại. thứ nhất là hạng đàn bà “man rợ”, tức là những đàn bà “hồn nhiên, chỉ có tình cảm mà thiếu hụt về trí tuệ”. Thứ hai là hạng đàn bà “trí tuệ”, tức là những đàn bà khôn ngoan, trí xảo, nhưng lại thiếu hụt về tình cảm. nhà văn hào Nga đã vô cùng thất vọng vì không kiếm đâu ra một người đàn bà nào có đủ cả hai phẩm chất tình cảm và trí tuệ. Xuân Quỳnh của chúng ta, đáng quý thay, là mẫu phụ nữ viên mãn cả về tình cảm lẫn trí tuệ. Và không chỉ thế, chị còn là mẫu mực của người phụ nữ đức hạnh, điều mà văn hào Nga hình như “không dám” đòi hỏi ở phụ nữ quý tộc Nga thời đại ông.
Với bản chất thông minh, với trí tuệ phát triển Xuân Quỳnh đã ứng xử và giải quyết mọi vấn đề phức tạp mà cuộc sống đặt ra. Chị đã định hướng dứt khoát cho con đường sự nghiệp của mình: đó là nghiệp thơ. Chị quyết định chấm dứt cuộc hôn nhân mà chị biết là mình đã lầm. Chị quyết định xây dựng tình yêu và hôn nhân với “chú đại bàng non trẻ” Lưu Quang Vũ mà chị biết chắc trong đó có tình yêu và hạnh phúc đích thực.
Chúng ta hãy xem chất trí tuệ của Xuân Quỳnh thể hiện như thế nào:
“Chẳng dại gì em ước nó bằng vàng
Trái tim em, anh đã từng biết đấy
Anh là người coi thường của cải
Nên nếu cần anh bán nó đi ngay”
(Tự hát)
Với những dòng thơ sau đây, Xuân Quỳnh thổ lộ tâm tư nhưng chính là để tự khẳng định mình trước một người chồng mà chị biết anh ta vốn không phải là hạng “gà mờ”:
“Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Biết khao khát những điều anh mơ ước
Biết xúc động qua nhiều nhận thức
Biết yêu anh và biết được anh yêu”
(Tự hát)
Cổ nhân nói “Nhất cố khuynh nhân thành, tái cổ khuynh nhân quốc” (Ngó một lần nghiêng thành người, ngó lần nữa đổ nước người), để khẳng định cái mãnh lực bất khả kháng của sắc đẹp. Riêng Xuân Quỳnh thể hiện cái mãnh lực của mình bằng những lời nói sâu sắc, những lời nói ấy theo cách ví von của Vôn- te, có thể làm cho những trái tim bằng đồng cũng phải mềm nhũn ra!
Giàu trí tuệ, nên cũng như Hồ Xuân Hương xưa kia, Xuân Quỳnh đã đóng vai trò tham mưu đắc lực, đã san sẻ “cái khôn” cho chị em cùng giới, để đối đáp và xử sự với phái mày râu:
“Những cái chính chúng ta thường chả nói
Mà bọn con gái mình hay nói xấu nhau
Bọn con trai nghe lỏm đôi câu.
Họ khinh chúng ta và lời cửa miệng: “Chuyện đàn bà”
Ta yêu người con trai không phải vì mình
Mà họ yêu ta vì họ yêu chính họ
Được yêu hai lần, họ cao lên một bậc
Ta không được yêu cảm thấy thấp dần đi
Vì chính ta cũng chẳng yêu ta…”
(Thơ viết cho mình và những người con gái khác)
Xuân Quỳnh nhận thức được tính bi kịch vĩnh cửu của cuộc sống: đó là sự ngắn ngủi của đời người. Hình như chị còn liên tưởng được số phận của mình: rất có thể Xuân Quỳnh - đóa hoa quỳnh mùa xuân - sẽ chỉ nở và tỏa hương được vài giờ trong đêm tối rồi tàn lụi. Bởi thế, chị đã sống hối hả, nồng cháy, sống hết mình với cuộc đời, với thơ và tình yêu, với hạnh phúc và gia đình, như sợ tất cả những điều quá ư tốt đẹp ấy sẽ vụt qua như ánh chớp:
“Chi chút thời gian từng phút từng giờ
Như kẻ khó tính từng hào keo kiệt
Tôi biết chắc mùa xuân rồi cũng hết
Hôm nay non mai có sẽ già…”
(Có một thời như thế)
Ngoài đạo đức cao quý và tình cảm sâu sắc, chính trí tuệ sáng suốt, lành mạnh là sức mạnh thần kì đã nâng đỡ Xuân Quỳnh trong những bước khó khăn, giúp chị tồn tại, chịu đựng được cả những chà xát của cuộc sống trần gian, làm cho tài năng của chị thăng hoa. Xuân Quỳnh là người chiến thắng tất cả, vượt qua tất cả để hướng về phía hạnh phúc chói lọi và tuyệt vời của tình yêu và sự nghiệp. Chị cũng là người biết giữ gìn và biết tận hưởng hạnh phúc cuộc sống ở mức tối đa có thể được hưởng. Xuân Quỳnh chính là đỉnh cao của những con người “nhân bản chủ nghĩa” thời hiện đại.
“Thơ tình tôi viết cho tôi
Qua cay đắng với buồn vui đã nhiều
Vẫn còn nguyên vẹn niềm yêu
Như cây tứ quý đất nghèo nở hoa”
(Thơ tình tôi viết)
Mảng thơ đặc sắc nhất của Xuân Quỳnh chính là mảng thơ về tình yêu. Điều gì đã làm nên sự đặc sắc ấy? Trước hết vì Xuân Quỳnh có một “nhân bản yêu đương” cực kì mãnh liệt, là một người con gái có thể “sống chết vì tình”. Dạng phụ nữ như Xuân Quỳnh, đã từng được như thi hào Nguyễn Du mô tả:
“Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan
Vô duyên là phận hồng nhan đã đành,
Lại mang lấy một trữ tình
Khư khư mình buộc lấy mình vào trong.
Vậy nên những chốn thong dong
ở không yên ổn, ngồi không vững vàng,
ma dẫn lối, quỷ đưa đường
lại tìm những chốn đoạn trường mà đi…”
(Truyện Kiều)
Xuân Quỳnh không giấu giếm bản chất ấy của mình:
“…Nếu tôi yêu được một người
Tôi yêu anh ta hơn anh ta yêu tôi nhiều lắm
Tôi yêu anh dẫu ngàn lần cay đắng…”
(Thơ viết cho mình và những người con gái khác)
Xuân Quỳnh là người hành động nên chị nhất định không chấp nhận kiểu sống “đói lòng ngồi gốc cây sung”. Trái lại chị đã “đi khắp chốn tìm người tôi yêu”, đồng thời gạt bỏ những gì là “mạo danh tình yêu”. Và khi đã đạt được tình yêu rồi thì chị sống với tất cả chiều sâu thăm thẳm của trái tim:
“Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
(Sóng)
“Khi anh nói yêu em, trái tim em đập chừng mạnh quá
Mạnh đến nỗi em tưởng là nghe rõ
Tiếng tim anh đang đập vì em
Em yêu anh, yêu anh như điên…"
Khác hẳn với những người đàn bà “sống trong vương quốc của tình yêu mà không biết được biên giới của vương quốc ấy”, Xuân Quỳnh là một phụ nữ không những có khát vọng mà còn có đủ khả năng đi đến tận cùng biên giới và tận cùng đáy sâu của vương quốc tình yêu. Phải chăng ở những điểm tận cùng đó mà những câu thơ tuyệt tác đã ra đời:
“Chỉ có thuyền mới hiểu
Biển mênh mông nhường nào
Chỉ có biển mới biết
Thuyền đi đâu về đâu
Ngày nào không gặp nhau
Biển dạt dào thương nhớ
Những ngày không gặp nhau
Lòng thuyền đau rạn vỡ”
(Thuyền và biển)
Một điều nổi bật trong thơ Xuân Quỳnh là chị không chỉ yêu say đắm mà còn đặt tình yêu lên ngai vàng của sự tôn thờ tuyệt đối. Xuân Quỳnh rất có lí: ở cõi đời này tình yêu chẳng phải điều thực sự đáng tôn thờ hay sao? Vả chăng Xuân Quỳnh, bằng tất cả những phẩm chất hội tụ trong con người mình, chị đã đạt được một mối tình yêu đáng tôn thờ. Người chồng, trong mắt Xuân Quỳnh, lúc nào cũng như một người tình mà chị yêu đắm đuối, cũng cảm thấy như chàng có thể vuột khỏi tay:
“Tới thăm anh rồi em lại ra đi
Đôi mắt lo âu, lời âu yếm chia sẻ
Lúc anh đến, anh đi thành quá khứ
Anh thuộc về những người ngoài cánh cửa.”
(Thời gian trắng)
“Anh, con đường xa ngái
Anh, bức vẽ không màu
Anh, nghìn nỗi lo âu
Anh, dòng thơ nổi gió
Mà em người đời thường
Biết là anh có ở!”
(Anh)
Ai cũng nói thơ Xuân Quỳnh ngày một hay hơn. Có một nghịch lí trong thơ chị. Đó là càng hạnh phúc thì lại càng lo âu khắc khoải. Và càng lo âu khắc khoải thì lại càng đắm say, da diết. Cũng vì tôn thờ tình yêu thái quá, có lúc Xuân Quỳnh đã có linh cảm chẳng lành về hạnh phúc của mình. Thơ của chị ngày càng ám ảnh, nung đốt lòng người.
“Em lo âu trước xa tắp đường mình
Trái tim đập những điều không thể nói
Trái tim đập cồn cào trong cơn đói
Ngọn lửa nào le lói giữa cô đơn…”
(Tự hát)
Thơ tình của chị đã đẩy tình yêu lên đến tầm bi kịch: tình yêu tuyệt đích có thể sẽ kết thúc cách nào đó thật bất ngờ, trước khi tuổi già sộc đến:
"Đọc bài thơ yêu em thấy sự chia xa
Và bỗng nhiên em lại bơ vơ
Tay vẫn vụng, trán dô ra như trước…"
(Thơ viết cho mình)
"Nếu từ giã thuyền rồi
Biển chỉ còn sóng gió
Nếu phải cách xa anh
Em chỉ còn bão tố"
(Thuyền và biển)
Tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh thật là nồng nàn, sâu sắc và đượm nỗi thoảng thốt lo âu, tất cả được diễn đạt bằng một ngôn ngữ giản dị, trong sáng, hầu như không cách điệu. Đó là thứ thơ đạt tới tầm cao của nghệ thuật nhưng vẫn dễ hiểu với đông đảo quần chúng, vẫn có thể gây được những niềm xúc động khác thường:
“Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt đời thường ai chẳng có
Vẫn ngừng đập lúc cuôc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh ngay cả khi chết đi rồi”
(Tự hát)
Và rồi cái bất ngờ nhất xảy ra với Xuân Quỳnh. Chị đã đột ngột từ giã chúng ta ra đi vĩnh viễn cùng với chồng và con trong một tai nạn thảm thương, để lại biết bao thương tiếc cho tất cả những ai yêu thơ chị, yêu kịch Lưu Quang Vũ.
Thế nhưng chính cái sự kết thúc ấy đã khiến cho tình yêu mà chị tôn thờ trở thành bất tử, đã làm Xuân Quỳnh và thơ Xuân Quỳnh dường như càng đẹp ngời thêm lên bởi một vừng sáng kì diệu của huyền thoại.
Bài thơ cuối cùng của Lưu Quang Vũ tặng chị được viết trong cuốn sổ công tác ghi chép dày đặc những công việc. Bài thơ có đầu đề rất giản dị: “Thư viết cho Quỳnh trên máy bay”. Anh đã gửi vào đây biết bao nỗi niềm, sự cảm thông chia sẻ, tình yêu thương, ân nghĩa sâu nặng và cả những lời “tự thú” chân thành:
“Có phải vì mười lăm năm yêu anh
Trái tim em đã mệt?
Cô gái bướng bỉnh
Cô gái hay cười ngày xưa
Mẹ của các con anh
Một tháng nay nằm viện.
Chiếc giường trắng, vách tường cũng trắng
Một mình em với giấc ngủ chập chờn
Thương trái tim nhiều vất vả lo buồn
Trái tim lỡ yêu người trai phiêu bạt
Luôn mắc nợ những chuyến đi, những giấc mơ điên rồ, những ngọn lửa không có thật
Vẫn là gã trai nông nổi của em
Người chồng đoảng của em
15 mùa hè chói lọi, 15 mùa đông dài
Người yêu ơi
Có nhịp tim nào buồn khổ vì anh?
Thôi đừng buồn nữa, đừng lo phiền
Rồi em sẽ khoẻ lên
Em phải khoẻ lên
Bởi ta còn rất nhiều dặm đường phải đi
Nhiều việc phải làm nhiều biển xa phải tới
Mùa hè náo động dưới kia
Tiếng ve trong vườn nắng
Và sau đê sông Hồng nước lớn
Đỏ phập phồng như một trái tim đau
Từ nơi xa anh vội về với em
Chiếc máy bay bay dọc sông Hồng
Hà Nội sau những đám mây
Anh dõi tìm: đâu, giữa chấm xanh nào
Có căn phòng bệnh viện nơi em ở?
Trái tim anh trong ngực em rồi đó
Hãy giữ gìn cho anh
Đêm hãy mơ những giấc mơ lành
Ngày yên tĩnh như anh luôn ở cạnh
Ta chỉ mới bắt đầu những ngày đẹp nhất
Vở kịch lớn, bài thơ hay nhất
Dành cho em, chưa kịp viết tặng em
Tấm màn nhung đỏ thắm
Mới bắt đầu kéo lên
Những ngọn nến lung linh quanh giá nhạc
Bao nỗi khổ niềm yêu thành tiếng hát
Trái tim hãy vì anh mà khoẻ mạnh
Trái tim của mùa hè, tổ ấm chở che anh…”
Cùng với nó là bài thơ “Và anh tồn tại”:
“Giữa bao la đường xá của con người
Thành phố rộng, hồ xa, chiều nổi gió
Ngày chóng tắt, cây vườn mau đổ lá
Khi tàu đông anh lỡ chuyến đi dài
Chỉ một người ở lại với anh thôi
Lúc anh vắng người ấy thường thức đợi
Khi anh khổ chỉ riêng người ấy tới
Anh yên lòng bên lửa ấm yêu thương
Người ấy chỉ vui khi anh hết lo buồn
Anh lạc bước, em đưa anh trở lại
Khi cằn cỗi thấy tháng ngày mệt mỏi
Em là sớm mai là tuổi trẻ của anh
Khi những điều giả dối vây quanh
Bàn tay ấy chở che và gìn giữ
Biết ơn em, em từ miền cát gió
Về với anh, bông cúc nhỏ hoa vàng
Anh thành người có ích cũng nhờ em
Anh biế sống vững vàng không sợ hãi
Như người làm vườn, như người dệt vải
Ngày của đời thường thành ngày ở bên em
Anh biết tình yêu không phải vô biên
Như tia nắng chúng mình không sống mãi
Như câu thơ, chắc gì ai đọc lại
Ai biết ngày mai sẽ có những gì
Người đổi thay, năm tháng cũng qua đi
Giữa thế giới mong manh nhiều biến đổi
"Anh yêu em và anh tồn tại"
Em của anh ơi, đôi vai ấm dịu dàng
Người nhóm bếp mỗi chiều, người thức dậy lúc tinh sương
Em ở đấy, đời chẳng còn đáng ngại
Em ở đấy, bàn tay tin cậy
Bàn tay luôn đỏ lên vì giặt giũ mỗi ngày
Đôi mắt buồn của một xứ sở có nhiều mưa
Ngọn đèn sáng rụt rè bên cửa sổ
Đã quen lắm, anh vẫn còn bỡ ngỡ
Gọi tên em, môi vẫn lạ lùng sao.
Xuân Quỳnh là người được yêu tha thiết và chị cũng yêu không kém phần mãnh liệt. Ở chị - một người luôn khao khát tình yêu thì cách bộc lộ tình yêu cũng mang một nét mãnh liệt riêng. Tình yêu khi dành cho con (chùm thơ xuân cho ba đứa con nhỏ), khi là tình yêu dành cho chồng (hát ru chồng những đêm khó ngủ…). Lẽ tự nhiên, một người sinh ra đã chịu đựng nỗi chơ vơ, côi cút, thiếu thốn một phần tình cảm của người thân thì giờ đây Xuân Quỳnh như đang muốn bù đắp lại ít nhiều, muốn những người thân luôn được yêu thương. Chị đã chịu đựng những mặc cảm côi cút. Vì thế, có thể thấy rằng: cuộc đời và thơ Xuân Quỳnh là một nỗ lực vượt thoát nỗi chơ vơ định mệnh đó. Chính vì thế mà chị suốt đời yêu thương, luôn thường trực ở hồn thơ này một khát khao đến khắc khoải: khát khao được gắn bó và che chở. Dĩ nhiên ở một người bản tính nhân hậu, chuyện ấy là song phương: vừa được gắn bó với đời vừa được đời gắn bó, vừa che chở người và được người chở che. Đó là nội dung hệ trọng của hạnh phúc theo quan niệm của Xuân Quỳnh. Và đời chị là hành trình tìm kiếm hạnh phúc như thế. Chị phải trở thành thi sĩ của tình yêu, phải đặt kì vọng vào tình yêu, điều ấy dường như là tất yếu. Bởi vì tình yêu vừa là cứu tinh vừa là cứu tinh vừa là cứu cánh của thi sĩ. Chị gửi tình yêu vào thơ như một nỗi niềm, một tâm sự sâu lắng. Đó là những bài thơ giản dị, chân xác, đôi khi chỉ bằng một câu hỏi tưởng như bâng quơ cũng đã mở ra một thế giới tình yêu đầy biến động. Trước Xuân Quỳnh chưa có một người phụ nữ nào làm thơ bằng những lời cháy bỏng, tha thiết và nồng nàn đến vậy. Tình yêu trong thơ chị đẹp và trong sáng quá. Dù có những gian truân cách trở, nhưng bao giờ cũng trọn vẹn, cũng đến được những tận cùng hạnh phúc như con sóng nhỏ đến với bờ xa. Tình yêu với Xuân Quỳnh, trước nhất, cao nhất và sâu xa nhất không thể là gì khác hơn một “sự gắn bó giữa hai người xa lạ”, “bằng tình yêu không thể tách rời, khi đó em là máu thịt của anh rồi - nếu cắt đi em sẽ ngàn lần đau đớn”. Chị nghiệm ra bản chất máu thịt ấy ở cả sóng và bờ, đồi đá ong và cây bạch đàn, con đường và bàn chân, đường ray và con tàu, tình yêu và thi ca… mà đậm chất nhất là thuyền và biển. Thế là, còn thiêng liêng hơn cả những thủy chung, những duy nhất, tình yêu với Xuân Quỳnh là niềm khát khao được gắn bó với con người và cõi sống này.
Tuy không sinh ra và lớn lên từ quê biển, nhưng cảm xúc về “biển”, về “sóng”, về “thuyền” của Xuân Quỳnh thấm đẫm chất triết lí nhân gian của người xứ biển, quyện lẫn chất trữ tình đậm chất nhân văn của thời đại. Chất thơ trữ tình của Xuân Quỳnh đan quyện cái đắm đuối của cảm xúc trẻ trung vừa đồng thời là niềm lo âu hạnh phúc của người đã qua trải nghiệm, đem đến cho người đọc niềm cảm chân thành, sự lôi cuốn lãng mạn, nóng hổi tình đời, tình người.
Xuân Quỳnh đã từng nói: “Vì thích thú nên làm văn học và cảm thấy như mình được sống thêm một cuộc đời khác nữa. Khi mới vào nghề bị xô đẩy, khinh rẻ nên tôi quyết phải sống mà sống tức là phải viết. nói được niềm vui nỗi khổ của chính mình, tôi cảm thấy cái sung sướng không mấy ai có! Như người khác không yêu mà mình được yêu. Như người khác chỉ biết im lặng mà mình biết nói, và nói lên được thành tiếng.”
Xuân Quỳnh là một tài năng thơ có giọng điệu, gương mặt riêng. Trong cuộc sống đời thường, Xuân Quỳnh rất biết trân trọng hiện tại, biết cách tận hưởng hạnh phúc, sống say mê với thời của mình. Hãy xem cách thể hiện trong bài thơ “Sóng”:
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể.
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ.
Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?
- Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Những con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương.
Ở ngoài kia đại dương
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dẫu muôn vời cách trở
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ.
Bài thơ nói về tâm trạng, tình yêu mãnh liệt của người con gái khi yêu. Hãy đến với bài thơ bằng nhạc điệu, bài thơ là âm điệu của một cõi lòng bị sóng khuấy động, đang rung lên đồng điệu cùng với nhịp sóng biển, rực rạo đến xôn xao, khát khao đến khắc khoải. Có một hình tượng sóng được vẽ lên bằng âm điệu, một âm điệu dập dồn, chìm nổi, miên man như hơi thở chạy suốt cả bài.
Sắc điệu trữ tình của bài thơ được gợi lên từ hình tượng sóng. Cả bài thơ là những con sóng tâm tình xôn xao trong lòng người con gái đang yêu khi đứng trước biển ngắm nhìn những con sóng vô hồi, bất tận. Sóng là một hình tượng ẩn dụ, đó là sự hóa thân của cái tôi trữ tình của nữ sĩ, lúc thì hòa nhập, lúc có sự phân thân của “em” - người con gái đang yêu một cách say đắm. Sóng đã khơi gợi một hồn thơ phong phú, hồn nhiên, sôi nổi.
Thật tự nhiên và thơ mộng. sóng luôn hướng vào bến bờ. Em là sóng nhỏ cũng luôn hướng về phía anh. Tình yêu của người con gái như là một quy luật cuộc sống mãi không thay đổi. Và tình yêu ấy sẽ mãi trường tồn, trở nên bất biến sao mà khát khao đến mãnh liệt.
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ”
Đó là bản chất của sóng. Hay đó là tâm trạng của sóng? Khi hiền hòa, khi dữ dội, khi thì ồn ào xô bờ, có khi lại lặng lẽ. Sóng có đủ những cung bậc tâm trạng, cảm xúc. Sóng biểu hiện tình yêu với bờ:
“Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
Thì ra chỉ có tìm đến bể sóng mới thật là mình, mới hiểu được chính mình. Và quan trọng nhất sóng có được tình yêu. Sóng và bờ ở đây đã trở thành cặp hình ảnh đi liền với nhau. Có sóng thì có bờ, mà đã có bờ là nhất định có sóng. Cái này không có nếu cái kia không tồn tại. Vì lẽ đó nó được coi là hình ảnh tiêu biểu của sự gắn kết. Anh và em giống như sóng với bờ kia! Và không hiểu nổi mình em sẽ tìm đến anh. Lẽ dĩ nhiên là vậy…
Cả bài thơ là một tình yêu vô bờ bến. Sóng yêu và tận hưởng tình yêu. Như thi sĩ Xuân Quỳnh hết đời yêu chân thành. Tình yêu là không bao giờ thay đổi. Trước sau vẫn thế. Tình yêu là vĩnh cửu, là bất biến với thời gian. Con sóng dù có ở đâu, dưới lòng sâu, trên mặt nước, sóng vẫn nhớ bờ, khát khao, cháy bỏng. Đến nỗi thi sĩ phải trải lòng chân thực:
“Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Thử hỏi có tình yêu nào mãnh liệt hơn thế? Nồng nàn hơn thế? Trong mơ người ta không thể kiểm soát được chính mình, vậy mà em vẫn luôn nghĩ về anh, như một nhu cầu không thể thiếu. Tìềm thức của em luôn hướng về anh chẳng khác nào người đi giữa biển đêm hướng tìm ngọn hải đăng tìm phương hướng. “Còn thức” tức là cả trong mơ hay khi thức em vẫn luôn trước sau như một. Anh quả đúng là bến bờ, bến đậu, là đích đến. Sóng xa vời cách trở vẫn tìm được tới bờ, cũng như anh và em sẽ vượt qua mọi khó khăn để đến với nhau, để sống trong hạnh phúc trọn vẹn của lứa đôi:
“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng vỗ
Con nào cũng tới bờ
Dù muôn vàn cách trở”
Cuối cùng sóng đã nói hộ nhà thơ nỗi khát vọng được sống trọn vẹn trong tình yêu. Tình yêu lứa đôi đẹp đẽ, nồng nàn như trăm ngàn con sóng nhỏ giữa đại dương mênh mông, muốn được hòa nhịp vào biển lớn của tình yêu cộng đồng:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”
Cả bài thơ, nếu kể đến nhan đề, thì tác giả đã mười một lần nhắc đến từ “sóng”. Sóng vỗ như tâm tình xôn xao. Sóng như tâm trạng người con gái, tâm trạng của một người nhiều yêu thương, luôn khát khao và lo âu trăn trở. Hạnh phúc nhưng không hề bình yên thỏa mãn. Sóng vỗ trên đại dương mênh mông cũng chính là sóng vỗ trong lòng người con gái.
Hình như Xuân Quỳnh ít phải bận tâm việc đi tìm hạnh phúc biểu hiện, chị cũng không mất công nhiều lắm trong việc lựa chọn hình ảnh, chải chuốt ngôn ngữ, nhà thơ đã từng phát biểu: “Đừng lo đi tìm ngôn ngữ, cảm xúc sẽ tự chọn được ngôn ngữ của mình”. Trong khi các thể loại văn học đang có xu thế tìm tòi sự đổi mới, Xuân Quỳnh có một quan điểm rất đơn giản “cái hay bao giờ cũng mới”. Xuân Quỳnh không có ý định trau chuốt nghệ thuật thơ mình. Chị đến với bài thơ một cách hồn nhiên nhưng liền mạch về cảm xúc, trong sáng trong cách diễn đạt, chính điều đó đã tạo nên nét riêng trong thơ Xuân Quỳnh. Đặc sắc trong thơ chị có lẽ nổi bật là giọng điệu thơ. Thơ chị có một giọng điệu riêng rất dễ nhận ra. Giọng điệu ở đây không phải là cách nói mà là cảm xúc, là giọng điệu của tâm hồn. một giọng điệu không kiểu cách, khiên cưỡng mà luôn tự nhiên, phóng khoáng. Ở trong bài thơ “Sóng”, Xuân Quỳnh đã để cho mạch cảm xúc dẫn dắt, tạo nên mạch thơ nhẹ nhàng, thấm đượm tâm hồn người đọc nhất là những tâm hồn đã và đang yêu.
Xuân Quỳnh đã để lại cho bạn đọc không ít những bài thơ giá trị như bài thơ “Sóng”. Đó là một phần hành trang của các bạn trẻ từ xưa đến nay. Cuộc đời có lẽ là quá ngắn ngủi với một người tài năng như chị. Để hôm nay có những vần thơ đầy tiếc thương:
“Những năm đáng sống nhất
Chị đả trải qua rồi
Sống hết mình để sống
Yêu hết mình để yêu
Còn lại gì nuối tiếc.
Hoa cúc vàng thu chiều
Sóng đã nằm trong sóng
Mây trắng vẫn còn bay
Ngẩn ngơ trời cao rộng
Ai biết mùa thu này
Căn phòng nhỏ còn đây
Câu thơ dang dở chữ
Nước mắt dẫu đong đầy
Cũng chỉ là nỗi nhớ
Đã lẫn vào cỏ cây
Đã về cùng cát bụi
Để lại dương gian này
Mọi buồn vui trần thế
Sóng đã ra tận bể
Trái tim yêu còn yêu
Trái tim yêu còn khổ
Trái tim yêu còn đau
Cùng tình yêu muôn thuở
Nước mắt rơi lặng lẽ
Thầm thương người tài hoa
Thôi cũng đừng tiếc nữa
Biết đâu… hơn sống già.”
(“Về một nhà thơ chết trẻ” - Hà Phương)
Nghị luận về nhà thơ Xuân Quỳnh - Bài số 3
Xuân quỳnh là hiện tượng rất quan trọng của nền thơ chúng ta. Có lẽ là từ thời Hồ Xuân Hương, qua các chặng phát triển, phải đến Xuân quỳnh, nền thơ ấy mới thấy lại một nữ thi sĩ mà tài năng và sự đa dạng của tâm hồn được thể hiện ở một tầm cỡ đáng kế như vậy, dồi dào phong phú như vậy.
Nhưng Xuân quỳnh không chỉ là xuất chúng trong giới “thơ phụ nữ” (chữ dùng này quả là rất ước lệ) chỉ một gương mặt nhà thơ tiêu biểu của nền thơ Việt Nam hiện đại. Hai chục năm nay, thơ Xuân quỳnh đã đi vào người đọc, trở thành tiếng nói tâm tình về những ngọt bùi, cay đắng ở đời, tiếng nói của tình yêu và tình mẫu tử, tiếng nói hồn hậu, dung dị, chứa đựng sự sống đương thời mà cũng in dấu nếp nghĩ, nếp cảm của tâm hồn người Việt tự xa xưa. Những thiếu nữ bước vào tuổi yêu đương đã tìm đến nhà thơ Xuân quỳnh. Những người mẹ trẻ phập phồng ngày tháng dõi theo mỗi hơi thở mỗi bước đi của những đứa con mình, có thể tìm được ở Xuân quỳnh một người bạn sẻ chia tâm sự... Đối với người làm thơ, được như thế đã là hạnh phúc.
Nói đến “xuất xứ” của Xuân quỳnh giữa làng thơ lại phải nói đến sự xuất hiện đông đảo, ào ạt của một lớp người viết mới đem vào văn học những giọng nói mới, vào những năm sáu mươi. Nếu lấy mốc sự xuất hiện ấy là những năm 64-65 thì Xuân Quỳnh quả là có “ra trước” chút ít, giống như một người chị. Nhưng chị đã nhập bọn như một người bạn cùng lứa. Lớp nhà thơ này, trên chặng tiếp theo, cuộc đời và nghệ thuật của họ vừa tách biệt, phân hóa, lại vừa xen cài giằng chéo vào nhau. Xét về nhiều mặt, chính ngay mối tình Xuân Quỳnh - Lưu Quang Vũ và sự nghiệp văn học của cặp vợ chồng này đã là lực lượng chính của “sản xuất” văn học, nhưng hầu như chưa ai nghĩ đến một sự tổng kết, dù sơ bộ, về họ. Chính việc Xuân Quỳnh và Lưu Quang Vũ đột ngột ra đi đã khiến chúng ta phải nghĩ đến công việc ấy, hơn nữa, cho thái độ đón nhận của chúng ta đối với những thế hệ mới, đã và sẽ bước vào văn học.
Về thế hệ này, đương thời người ta thường nói rằng họ không có gì để từ bỏ, lựa chọn không có việc “nhận đường” tìm đường trong nghệ thuật. Cho đến hôm nay điều đó có vẻ không phù hợp với thực tế. Văn học là quá trình, cuộc đời sáng tác cũng là quá trình. Ở thế hệ nhà văn này, không thể hoàn toàn nói rằng con đường nghệ thuật của họ đã không phải vượt qua những trở lực, đã không phải trải qua những lầm lẫn, bị lừa dối và tự lừa dối, bị mê hoặc và tự mê hoặc rồi tỉnh ngộ, tự tìm đường đi trong nghệ thuật với những mục đích khác nhau, theo những đường lối khác nhau. Những điều này, thời gian sẽ cho thấy rõ dần, qua từng trường hợp cụ thể.
Ai quen biết Xuân Quỳnh, hẳn sẽ để ý đến nét khác lạ nơi tay chị: Một đôi bàn tay như già hơn khá nhiều so với gương mặt. Một gương mặt xinh đẹp, trẻ hơn tuổi, với cặp mắt tinh anh, duyên dáng, như rất dễ mỉm cười, che hết mọi phiền lo. Gương mặt phụ nữ đẹp và làm thơ ấy lại có đôi bàn tay giống như gương mặt Trương Chi! Chính Xuân Quỳnh đã không ít lần viết về bàn tay mình, ví dụ mấy câu này trong giọng dãi bày với người yêu:
Bàn tay em ngón chẳng thon thả
Vệt chai cũ, đường gân xanh vất vả
Em đánh chắt chơi chuyền thuở nhỏ
Hái rau dền rau dệu nấu canh
Tập vá may, tết tóc cho mình
Rồi úp mặt trên bàn tay khóc mẹ
Đôi bàn tay tiết lộ số phận. Một số phận đã từng không may mắn, dường như luôn luôn phải “đánh đu” với cuộc sống, với hạnh phúc. Cũng là trớ trêu chăng, con người có số phận như thế lại mang trong mình nhiều khao khát. Trong một bài thơ viết năm 1962, Xuân Quỳnh viết rằng ngày bé mình chỉ mơ đến rằm tháng tám để được vui chơi với bạn bè dưới trăng thu. “Khi lớn khôn ước mơ cháy bỏng” mơ ước “thành nhà thơ ca ngợi cuộc đời”, đưa thơ cùng du hành vũ trụ, sưởi ấm vùng trăng lạnh, đưa thơ đi cập bến các vì sao... “Như lòng ta chẳng bao giờ nguôi khát vọng - Biết bay rồi ta lại muốn bay cao”.
Hình như gốc gác tấn kịch của mỗi người sáng tạo là như thế. Ít ai làm “nghề” này lại không luôn luôn tự cảm thấy trạng thái quá sức mình. Như luôn luôn chới với vươn về cái đích rất khó tới. Phải đánh cuộc với số phận, với sự sống, với hạnh phúc. Vả chăng chính năng lượng của thơ, của nghệ thuật nảy sinh từ đó.
Quá sức vì khát vọng, có lẽ, đó cũng là trạng thái của Xuân Quỳnh.
Trong một bản tiểu sử văn học viết ngày 29/8/1982, trả lời cho đề mục: Nguyên nhân bắt đầu hoạt động văn học, Xuân Quỳnh ghi hai điểm: “Vì thích thú. Làm văn học cảm thấy như mình được sống thêm một cuộc đời khác nữa. Vì uất ức. Khi mới vào nghề bị xô đẩy, bị khinh rẻ nên tôi quyết phải sống. Mà sống tức là phải viết”.
Giá như trong cuộc đời người phụ nữ ấy đã không có những trắc trở trong tình yêu đã không từng hơn một lần qua đò sang bến thì cũng khó hình dung mảng thơ tình của chị sẽ mang diện mạo ra sao. Bởi “chuẩn mực” tình yêu ở nhà thơ khao khát yêu đương ấy vẫn có vẻ gì rất đồng nội, quê kiểng, nó gắn với sự duy nhất, sự chung tình, với tổ ấm, với mái nhà, với hạnh phúc của hôn nhân, nó đòi tuyệt đối, nó dứt khoát không nhận mọi ngập ngừng, trù trừ, láu cá, nó không chịu bị xẻ chia, bị vay mượn dẫu là tạm thời là thường tình, nó xòe tất cả lông cánh, móng vuốt ra để gìn giữ tình yêu trước mọi sự xâm phạm từ phía ngoài. Chính cái chuẩn mực thường đeo đẳng ấy lại trái hẳn với thực tế đã trải. Hóa ra, người đeo đuổi một ý niệm tình yêu chuyên nhất lại bị mang tiếng trước người đời như là kẻ có lắm sự yêu đương “phức tạp”, phá phách (luôn tiện, xin nêu nhận xét thú vị của một người bạn tôi: Các nhà thơ thường không đứng ngoài đạo đức, chính họ thường hướng tới tạo dựng một đạo đức, cho tương lai. Nhưng họ lại thường bị người đương thời coi vô đạo đức!). Dẫu sao, đấy chuyện bề ngoài. Điều nên nói là bề trong, là “lợi ích” của văn học do tất cả các chuyện này chính tấn kịch ấy đã biến Xuân Quỳnh từ con người có nhu cầu tự ca hát về tình yêu và cuộc săn đuổi hạnh phúc của mình thành một nhà thơ viết về tình yêu vào loại phong phú nhất trong số các nhà thơ cùng thế hệ.
Những nhà thơ cùng thế hệ Xuân Quỳnh đã được nghe không ít những lời khuyên: Hãy viết về những cái rộng hơn ngoài cái “tôi” của mình. Xuân Quỳnh đã nỗ lực không ít để đáp ứng điều này. Và nhờ vậy chăng, thế giới sự vật trong thơ chị được mở rộng ra không ít. Song, cái mà chị viết nhiều nhất, thành công nhất lại vẫn là về chính cuộc đời mình, những chuyện của mình, những gì liên quan đến mình. Có lẽ ai viết tiểu sử chi tiết của Xuân Quỳnh sẽ có thể dựa khá sát vào thơ của chị. Tính chất tự truyện là nét đậm, quán xuyến hàng loạt bài thơ, tập thơ và cũng là nét khác biệt rõ rệt so với thơ của nhiều người cùng thế hệ. Gần như chị trở thành nhân vật văn học của chính thơ chị. Chị đam mê sống, đam mê yêu, đam mê trong thiên chức làm vợ làm mẹ- những điều ấy nhân vật kia nói lên giúp. Mọi sự vẫn như thế thôi nhưng đã là sang một thế giới khác, dịu nhẹ hơn, có thể thêu dệt thêm màu vẻ cho cả khổ đau lẫn hạnh phúc. Vẫn chỉ là mình và người yêu đấy thôi, nhưng đó đã là ước mơ của mình về mình và cho mình. Phải chăng đấy là cái “cuộc đời khác nữa” mà Xuân Quỳnh tìm thấy trong văn học, nơi thăng hoa và giải quyết độc đáo cho tấn kịch của chị? Nói một cách giản dị, chính là sống chọn vẹn tấn kịch của chính mình, ghi lại bằng thơ những động thái tâm hồn mình, chị trở thành nhà thơ được công chúng thừa nhận. Có thể là chị không lưu ý lắm đến cái được gọi là “hằng số nhân bản” mà các nhà khoa học thường nêu lên, nhưng hẳn là chị tin rằng không có chuyện gì của cuộc đời một con người lại là quá ư dị biệt, xa lạ với cuộc đời những người khác.
Ai tiếp xúc nhiều với Xuân Quỳnh, hẳn sẽ thấy chị rất không ưa những gì nghiêm nghị, trịnh trọng. Chị sẵn sàng phá vỡ cái không khí nghi thức đạo mạo bằng những câu đùa hoặc hóm hỉnh, ngộ nghĩnh, nghịch ngợm, hoặc đôi khi khá chanh chua, nhưng thường là hết sức dân dã, hết sức phố xá. Đằng sau cái tác phong mà không phải ai cũng dễ ưa ấy, phải chăng có thể nghĩ rằng ở con người này đang dần dần hội lại những nét gì tương tự như là sự thông tuệ dân gian, trí khôn và cách ứng xử dân gian? Tôi vẫn ngờ rằng con người Xuân Quỳnh thuộc về văn hóa dân gian và cổ truyền nhiều hơn là thuộc về văn hóa hiện đại. Nếu vậy, hẳn đây lại là chỉ dẫn về một khía cạnh nữa trong tấn kịch của chị, bởi hình như cũng ở mức nhiều hơn ai, chị cố gắng làm người của hiện đại, của đương thời, cả trong đời sống lẫn trong văn học.
Chỉ học hết lớp 6, chị đã đi làm và từ đó, sự tự học của chị thật bền bỉ. Chị có mặt hầu hết các loại văn hóa, chính trị, chuyên môn, ngoại ngữ do Hội tổ chức. Vài năm gần đây chị vẫn gắng học thêm để nâng cao trình độ tiếng Pháp, tập dịch thơ rồi nhờ thầy sửa giúp, để rút kinh nghiệm hơn là để đưa đăng. Và chị đọc rất chăm. Phải thức thật khuya mà đọc, chị bảo thế. Nhất là sách dịch, từ nhiều nền văn học khác nhau. Tôi còn nhớ, khi đọc xong Trăm năm cô đơn, chị còn mượn các tài liệu phân tích, để hiểu tác phẩm của một nền văn hóa khác, với chúng ta còn là xa cách, lạ lẫm. Cũng có thể thấy dấu vết sự học hỏi của Xuân Quỳnh ở ngay thơ chị. Từ bài mở đầu tập Chồi biếc in rõ dấu ca dao, sang những tập thơ sau này, chị đã trở lên lành nghề, thậm chí đã biết tận dụng cả sự khéo tay, tận dụng những cách cấu tứ của cả nhà thơ cùng lứa lẫn nhà thơ lớp trước. Và chị đã văn chương hóa không ít, hơn nữa đã cùng các nhà thơ cùng lứa tạo ra một kiểu “văn chương hóa” mới, một kiểu trang sức mới. Nhưng cốt cách thơ Xuân Quỳnh, qua mọi biến thái vẫn gắn liền hơn với những gì đã có nơi chị từ điểm xuất phát. Ấy là một giọng thơ ưng phô bày, kể lể, nhắn nhe, tự tình, ví von, một giọng thơ dù biến hóa đến mức văn hoa kiểu sức vẫn còn lại cái phần gắn bó với lối mòn, lối nghĩ, lối cảm thông thường có thể là xa xưa nữa của người Việt, của tiếng Việt. Thơ Xuân Quỳnh bao giờ cũng dễ hiểu đối với công chúng đông đảo. Sáng rõ, nhã nhặn, giản dị- là những đặc tính được chị ưa thích, cả cho thơ lẫn cho văn xuôi. Không phải chị không biết đến các màu sắc khác. Không phải chỉ không biết đến luật thay đổi của thời gian đối với các thị hiếu nghệ thuật. Đã có lúc chị thẳng thắn chế diễu cái chất mà chị gọi là “âm lịch”, nhất là cái cổ lỗ, cũ kỹ trong thơ văn của những cây bút nào đó. Và chị cũng không tự coi mình là “tân thời”. Không phải là không có dụng ý khi tập thơ tuyển Sân ga chiều em đi được kết thúc bằng hai câu nhắn gửi người đọc: Anh hãy nghĩ khác xa điều tôi nghĩ - Thơ tôi làm không phải để anh theo. Nhưng dẫu sao Xuân Quỳnh, với tư cách một con người và một nhà thơ, vẫn gắn bó, vẫn hướng nhiều hơn về phía những chuẩn mực, những nề nếp đã hình thành từ xưa của đời sống và của nghệ thuật. Ở con người Xuân Quỳnh vẫn tiềm tàng nét đơn giản, thậm chí trẻ thơ “đã yêu củ ấu cũng tròn”, đối với mọi người, mọi sự. Xuân Quỳnh không thích, thậm chí không đồng tình với một số tìm tòi khác lạ của một số bàn viết mới gần đây- đó âu cũng là một sự thường. Vả chăng đây cũng là một nét thuộc nhân cách nghệ sĩ: Mọi phản ứng của một nhân cách như vậy đều nhằm bảo vệ thị hiếu nghệ thuật của mình, tín niệm nghệ thuật của mình. Một đội ngũ nghệ sĩ cùng thời cùng lứa chỉ có yêu văn chương của nhau, tâng bốc nghệ thuật của nhau, không có xung đột về thị hiếu, về xu hướng nghệ thuật- thì chưa hẳn đã là đội ngũ có thể làm nên một nền nghệ thuật thật sự đa sắc, đa dạng.
Xuân Quỳnh đã từng bảo vệ thị hiếu và quan niệm nghệ thuật của chị, bằng chính sáng tác của chị. Công chúng nhận ra ở chị một hồn thơ gần gũi, như đã thân quen từ lâu. Đến lượt những bạn viết mới, họ cũng phải tự tìm ra và tự bảo vệ lấy quan niệm nghệ thuật của họ, bằng sáng tạo của họ và họ cũng sẽ tạo ra được công chúng của mình.
Nghị luận về nhà thơ Xuân Quỳnh - Bài số 4
Trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, Xuân Quỳnh đã đi một cách trọn vẹn trên con đường lớn của thơ ca, thơ của chị đi vào trái tim nhiều thế hệ bạn đọc và sẽ đi cùng thế hệ mai sau.
Trong nền văn học Việt Nam, Xuân Quỳnh được đánh giá là một trong những nhà thơ tình hàng đầu của thời kỳ hiện đại. Từ chặng đường đầu tiên bước vào làng thơ cho đến những ngày tháng cuối cùng của cuộc đời, trái tim Xuân Quỳnh luôn cồn lên với những khát vọng yêu thương không ngừng nghỉ.
Xuân Quỳnh là một nhà thơ bẩm sinh, một nhà thơ vút lên từ số phận, từ tình yêu không bao giờ vơi cạn.
Trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, Xuân Quỳnh đã đi một cách trọn vẹn trên con đường lớn của thơ ca. Con đường đi từ trái tim và ở lại giữa những trái tim người đời. Thơ Xuân Quỳnh đã đi vào trái tim của nhiều thế hệ bạn đọc và nó sẽ còn song hành cùng với những thế hệ mai sau.
Xuân Quỳnh tên thật là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, sinh ngày 6/10/1942, tại làng La Khê, xã Văn Khê, Hà Đông - ngôi làng nhỏ bên bờ sông Nhuệ hiền hòa.
Mồ côi mẹ từ sớm, lớn lên giữa thời kỳ đất nước phải đương đầu với vô vàn khó khăn, mới 13 tuổi Xuân Quỳnh đã trở thành một diễn viên múa trong Đoàn ca múa trung ương ở khu văn công Mai Dịch.
Nhưng gần như một định mệnh có tính nghiệp dĩ: Cô gái ấy cứ nặng lòng với văn chương! Thế rồi sau đó giã từ ánh đèn màu rực rỡ nơi sân khấu, Xuân Quỳnh bước hẳn sang lãnh địa thi ca.
Trên mảnh đất thi ca mầu mỡ ấy, Xuân Quỳnh đã gieo ngót chục tập thơ. Và chính trên những trang thơ ấy ta cảm nhận một nét rất chung đó là tiếng thơ luôn da diết cháy bỏng trĩu nặng và khắc khoải với mọi nỗi buồn vui lớn lao của dân tộc với số phận mỗi con người trong những năm đánh Mỹ cũng như trong khát vọng hạnh phúc đời thường.
Với Xuân Quỳnh, thơ đích thực là một hạnh phúc. Xuân Quỳnh bắt đầu đời thơ của mình thật dung dị, hồn nhiên như một con sông vận hành ra biển với những con sóng nhỏ nồng nàn, khao khát vị mặn trùng khơi.
Mở đầu là tập thơ “Chồi biếc,” ra đời năm 1963, gồm 18 bài thơ ngắn lấy chất liệu chủ yếu ở cuộc sống tâm tình của người diễn viên là chính tác giả.
Ngay trong tập thơ đầu tay này, người đọc đã “bị” những bài thơ tình của Xuân Quỳnh hoàn toàn chinh phục.
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sóng không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày nay vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ"
(Sóng)
Sau “Chồi biếc”, Xuân Quỳnh liên tục có những tập thơ được giới phê bình đánh giá cao và để lại dấu ấn khó phai trong lòng bạn đọc yêu thơ như “Gió Lào cát trắng,” “Lời ru trên mặt đất”, “Sân ga chiều em đi”, “Tự hát”, “Hoa cỏ may”, “Bầu trời trong quả trứng”,... Nhiều trong số các tác phẩm đó đã đạt được giải thưởng cao của Hội Nhà văn Việt Nam.
Thơ của Xuân Quỳnh không phải là thứ thơ tình thuận bằng trắc dễ thuộc, nhưng một khi đã đi vào hồn người, nó sẽ “mắc” lại ở đó và trở thành cái mà người ta vẫn gọi là “những câu thơ thuộc nằm lòng.”
Những câu thơ ấy giống hệt như những giọt nước sau cơn mưa, còn đọng lại trên lá cây. Chỉ cần một làn xúc cảm chợt đến, khẽ chạm vào lá là những câu thơ ấy sẽ rơi rụng ngay xuống vùng tâm thức và mồn một hiện lên giữa lòng ta.
Và bao giờ cũng khiến cho người ta phấp phỏng bồn chồn khi đọc, hoặc lắng lòng nhớ lại chúng. Có lẽ cái “khát vọng tình yêu” từng thiêu đốt thơ Xuân Quỳnh cũng thiêu đốt luôn cả người đọc.
Mùa thu nay sao bão mưa nhiều
Những cửa sổ con tàu chẳng đóng
Dải đồng hoang và đại ngàn tối sẫm
Em lạc loài giữa sâu thẳm rừng anh
Em lo âu trước xa tắp đường mình
Trái tim đập những điều không thể nói
Trái tim đập cồn cào cơn đói
Ngọn lửa nào le lói giữa cô đơn...
(Tự hát)
Xuân Quỳnh là một người thông minh, đó là điều mà bất cứ ai từng biết đến chị đều khẳng định. Và với tố chất thông minh đó, Xuân Quỳnh đã ứng xử mọi vấn đề phức tạp mà cuộc sống đã đặt ra. Đó là việc chị đã định hướng dứt khoát cho con đường sự nghiệp của mình. Đó là nghiệp thơ.
Tiếp theo là quyết định xây dựng tình yêu và hôn nhân với nhà viết kịch nổi tiếng Lưu Quang Vũ. Xuân Quỳnh đã nhận ra tài năng của Lưu Quang Vũ không phải lúc anh đang chói sáng mà là lúc anh khó khăn nhất. Chị đã nhận ra vẻ đẹp của tâm hồn anh vào lúc anh đang có nhiều đổ vỡ nhất.
Chỉ có sự thông minh, sắc sảo và một tâm hồn rộng lớn mới có thể nhận ra và chấp nhận hy sinh cho nhau như thế. Cuộc sống chung với Lưu Quang Vũ đã cho chị một nguồn năng lượng mới.
Chị vừa có trong tay một tình yêu lý tưởng, lại vừa có một hạnh phúc đời thường. Và với sự thăng hoa của tình yêu đẹp ấy chị đã cho ra đời những vần thơ tình tuyệt tác.
Chỉ có thuyền mới hiểu
Biển mênh mông nhường nào
Chỉ có biển mới biết
Thuyền đi đâu, về đâu,
Những ngày không gặp nhau
Biển bạc đầu thương nhớ
Những ngày không gặp nhau
Lòng thuyền đau - rạn vỡ.
(Thuyền và biển)
Thơ Xuân Quỳnh có một điểm đặc biệt, đó là sự yêu đời và tình yêu nhiều khi đã bị đẩy tới bên bờ của bi kịch. Với Xuân Quỳnh, cuộc sống và tình yêu tuyệt đích có thể rất ngắn ngủi, có thể sẽ kết thúc một cách bất ngờ trước khi tuổi già ập đến.
Chính dự cảm ấy đã thôi thúc Xuân Quỳnh luôn sống hối hả, nồng cháy, hết mình với đời, với tình yêu, với hạnh phúc gia đình và với thơ, như sợ rằng tất cả những điều quá ư tốt đẹp ấy sẽ vụt qua đi như ánh chớp.
Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt đời thường ai chẳng có
Cũng ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi.
(Tự hát)
Và những dự cảm chẳng lành ấy của Xuân Quỳnh đã xảy ra, khi ngày 29/8/1988, Xuân Quỳnh, cùng chồng (Lưu Quang Vũ) và con (Lưu Quỳnh Thơ) đã đột ngột ra đi vĩnh viễn bởi một tai nạn giao thông, để lại biết bao thương tiếc cho tất cả những ai đã yêu thơ của chị, yêu kịch và thơ của Lưu Quang Vũ.
Xuân Quỳnh đã ra đi như “Con ong xanh” bay về miền thanh thản của cõi hư vô, “Bông cúc nhỏ” cánh đã rũ rụng, thôi không còn “màu hoa vàng” cháy rực trong đêm..., nhưng Xuân Quỳnh đã kịp để lại giữa đời những “cành” thơ tươi xanh của mình.
Và cành thơ ấy sẽ mãi mãi tươi nguyên qua nhiều năm tháng vì nó được bắt rễ và mọc lên từ một tâm hồn nhân hậu, vị tha và đau đáu với đời.
>> Tham khảo thêm: Các đề nghị luận văn học về bài thơ Sóng (Xuân Quỳnh)
**********
Hy vọng những bài văn mẫu nghị luận về nhà thơ Xuân Quỳnh trên đây của Đọc tài liệu sẽ giúp các em hiểu hơn về nhà thơ Xuân Quỳnh, qua đó tiếp thu kiến thức và áp dụng vào việc học văn của mình. Chúc các em luôn học tốt và đạt kết quả cao!